Trình Độ Ngoại Ngữ Của Tổng Thống Ngô Đình Diệm Vỹ Nhân Của
Thế Giới
|
Cái Chết Của TT Ngô Đình Diệm: Một món nợ lịch sử -
Chu Mỹ Dung
Cố
Tổng Thống Ngô Đình Diệm
Vị sáng lập nền Cộng Hòa Việt Nam
Vị sáng lập nền Cộng Hòa Việt Nam
I- Công Lao của Tổng Thống Ngô Đình Diệm đối với Quốc Gia
Việt Nam
Vì sao cái chết của TT Ngô Đình Diệm lại là một món nợ của
lịch sử?
Vì
đó là món nợ “quốc gia hưng vong” mà những kẻ giết người, những kẻ đã và còn
đang thỏa mãn với hành động phi pháp này, cũng như những kẻ đã phỉ báng ông
bằng những tội ác mà ông chưa từng bao giờ làm, phải nợ dân tộc Việt Nam một
trang sử oan nghiệt: đó là vì mất ông mà quốc gia Việt Nam đã bị cộng sản thôn
tính, dẫn đến con đường Bắc Thuộc Hán hóa như ngày hôm nay.
<!>
<!>
Một
cách đơn giản những kẻ giết người họ phải nợ quốc gia dân tộc vì họ đã giết
nguyên thủ quốc gia trong tình trạng đất nước đang dầu sôi lửa bỏng cần sự dìu
dắt của ông.
Nói
một cách khác những kẻ giết ông và những kẻ đã hả hê về cái tội ác này đã “chặt
đầu Việt Nam”, theo như cách nói của bà Ngô Đình Nhu. Còn nói theo Bộ Quốc
Phòng Hoa Kỳ thì “Thus, as the nine-year rule of Diem came to a bloody end, our
complicity in his overthrow heightened our responsibilities and our commitment
in an essentially leaderless Vietnam” . (Pentagon Papers viii). . Chín năm cầm
quyền của Diệm chấm dứt trong máu, sự đồng lõa của chúng ta trong việc lật đổ
ông ta đã làm tăng thêm trách nhiệm cũng như sự trói buộc của chúng ta vào
trong một đất nước Việt Nam hoàn toàn không có lãnh đạo.
Hồi
tưởng lại giai đoạn bi thảm đó, toà án nhân dân Phật Giáo Tranh Đấu gồm những
nhà sư và các đội “Phật Tử Quyết Tử” đã đi khắp nơi và đã cuồng nhiệt gào thét
các khẩu hiệu “Phật Giáo bị bách hại” “Đàn áp quý thầy” “Độc tài gia đình trị”
“Mật vụ Nhu Diệm” “Diệm mà không Diệm”mà không cần phải đưa ra một bằng cớ nào
cả. Chỉ cần nói có tội là đủ có tội!
Cụ
thể người ta đã đấu tố chính quyền VNCH như sau: Hòa
Thượng Hội Chủ Phật Giáo Thích Tịnh Khiết đã bị giết, hằng trăm Phật tử đã bị
chính quyền dìm chết dưới sông Sài gòn, nhiều ni cô đã bị mổ bụng, và chùa Xá Lợi
đã bị đốt cháy,các nhà sư đã bị ném từ trên các tầng lầu cao xuống vào đêm
Thiết quân luật 20/8/1963 khi lực lượng quân đội của chính quyền Tổng Thống
Diệm mở cuộc hành quân lục soát chùa Xá Lợi.
Thậm
chí “Phái
Đoàn cũng đã tìm gặp được một số nhà sư lãnh đạo Phật Giáo và thanh niên phật
tử mà theo những báo cáo trước đây mà phái đoàn đã nhận được rằng những người
nầy đã bị chính quyền của Tổng Thống Diệm giết chết, nay hóa ra đó chỉ là những
báo cáo khống, không đúng sự thật.” (Báo
cáo của Đại Sứ Volio phái đoàn điều tra LiênHiệp Quốc)
Tóm
lại, ông hoàn toàn vô tội, nhưng người ta đã giết ông và vu cho ông cái tội đó.
Vì vậy nếu nói rằng chỉ có ở Miền Bắc mới có đấu tố mà Miền Nam không có, điều
này xem ra không đúng.
Miền
Nam cũng có đấu tố. Nguyên thủ quốc gia và Cố Vấn bị thảm sát ngày 2/11/1963,
hai nạn nhân nữa đã bị hành quyết vào cùng một ngày 9/5/1964, các ông Phan
Quang Đông và Ngô Đình Cẩn, một nạn nhân nữa cũng đang chờ đợi đem ra pháp
trường xử bắn, ông Đặng Sĩ, và hàng ngàn những mảnh đời đã bị đào tận gốc trốc
tận rễ nơi chốn lao tù vì can tội “tay sai” của cái chính quyền “Nhu Diệm dàn
áp Phật Giáo” đó
Tuy
nhiên, không bàn tay nào có thể che nổi mặt trời. Năm mươi năm đã trôi qua Tổng
Thống Ngô Đình Diệm vẫn là Tổng Thống Ngô Đình Diệm mà câu nói của TT Tưởng
Giới Thạch “Một
trăm năm nữa thì Việt Nam cũng không thể tìm được một người như Tổng Thống Ngô
Đình Diệm” và
câu nói của Tổng Thống Eisenhower “He’s a miracle man” là một hằng số không gì
thay đổi được.
Nhân
50 năm ngày thác oan của Tổng Thống, xin được nhắc lại đôi dòng về ông
I- Thân thế, tiểu sử và nhân sinh quan của TT Ngô Đình Diệm:
Khi
nói về TT Ngô Đình Diệm, nét điển hình mà người ta thấy được ở ông đó là một
nhà nho trí thức nhưng lại theo tây học, dòng dõi quan quyền khoa bảng và một
nhân cách liêm chính quân tử, một nhân vật chính trị thông minh kiệt xuất với
tư tưởng chống cộng triệt để. Một cây trúc của quan niệm Á Đông
Cá
nhân TT Ngô Đình Diệm là sự thể hiện đồng thời của cả ba triết lý Nho Giáo,
Thiên Chúa Giáo và triết lý Đông Phương. Nền tảng Nho Giáo đã tạo cho cá nhân
ông cách hành xử khắc kỹ, quân tử, Thiên Chúa Giáo đã đem đến cho ông đức bác
ái, bao dung công chính, và triết lý văn minh phương tây đã đem đến cho ông
kiến thức cấp tiến và cởi mở về tự do dân chủ. Và bao trùm lên tất cả các nền
giáo dục Đông Tây mà ông đã được may mắn lãnh hội, đó là thượng đế đã ban cho
ông tư chất thông minh và tấm lòng ái quốc yêu dân mãnh liệt
Nói
về Tổng Thống Ngô Đình Diệm, có thể tóm tắt bằng câu nói của Đức Hồng Y Nguyễn
Văn Thuận, cháu ngài, khi nói với cậu mình với đức khâm sứ Tòa Thánh như sau
như sau: Cậu
Diệm của con là một người hoàn hảo
Những
tài liệu của chính thức của VNCH ghi rằng ông sinh ngày 3 tháng 1năm 1901 tại
Phước Quả, Thừa Thiên. Nguồn tuyên truyền nói rằng ông sinh tại Quảng Bình năm
1897 vì là con của vợ thứ cụ Ngô Đình Khả, nhưng không cho biết vợ thứ là ai,
và sinh trước ĐGM Ngô Đình Thục. Nguồn tuyên truyền này có quá nhiều điểm vô
lý. Trên thực tế Đức Giám Mục Ngô Đình Thục trông già dặn hơn TT Ngô Đình Diệm
rất nhiều. Tóm lại qua sự việc về ngày sinh của ông, cho thấy người ta đã không
từ nan bất cứ những gì để bôi nhọ ông
Là
con trai thứ 4 trong một gia đình có truyền thống chính trị, nổi tiếng về lòng
yêu nước và chống cộng triệt: ông anh cả Ngô Đình Khôi tổng đốc Quảng Nam và
con là Ngô Đình Huân cả hai đã bị cộng sản giết, Ngô Đình Luyện đại sứ VNCH tại
Anh, Ngô Đình Cẩn linh hồn thực sự của lực lượng tình báo Đoàn Đặc Nhiệm Miền
Trung. Trong gia đình, Tổng thống Ngô Đình Diệm là người con tài ba đức độ nhất
của Đại Thần Ngô Đình Khả. Ngoài thân phụ ra, ông còn chịu ảnh hưởng bởi dưỡng
phụ Nguyễn Hữu Bài cũng là một nhà Nho ái quốc, đức độ uyên bác Đông Tây như cụ
Ngô Đình Khả
TT
Ngô Đình Diệm tư chất rất thông minh: 16 tuổi đổ nhì Thành Chung, 17 tuổi được
mời dạy Quốc Tử Giám và 18 tuổi vào học trường Hậu Bổ (
tương đương với Quốc Gia Hanh Chánh) năm
21 đổ thủ khoa. Ông đặc biệt xuất sắc trong các môn học về hành chánh, luật
pháp và chính trị . Ngay sau tốt nghiệp, ông được bổ nhiệm làm tri huyện Quảng
Điền Huế, Hải Lăng Quảng Trị. Bảy năm sau, 29 tuổi, ông được bổ làm Tuần Phủ
Ninh Thuận và Bình Thuận, tức là tỉnh trưởng. Dưới sự lãnh đạo của ông, Ninh
Thuận và Bình Thuận có đời sống kinh tế khả quan, có chiến lược cụ thể đối phó
với sự tuyên truyền của cộng sản và phá vỡ nhiều mạng lưới nằm vùng. Uy tín này
lan đến triều đình cho nên năm 31 tuổi ông được mời làm thượng thư Bộ Lại,
tương đương với chức Thủ Tướng Chính Phủ. Năm 33 tuổi ông được mời kiêm nhiệm
chức vụ Tổng Thư Ký hội đồng Hỗn Hợp Việt Pháp.
-Với
chức vụ quan trọng bậc nhất quốc gia này, ông đòi hỏi nhiều quyền lợi cho đất
nước. Ông yêu cầu người Pháp thực thi việc thống nhất đất nước bằng việc sát
nhập Trung Kỳ và Bắc Kỳ , thực hiện dân chủ bằng cách cho phép Viện Dân Biểu
được lo những vấn đề quốc sự giống như Quốc Hội. Nhưng đề nghị của ông không
được Toàn Quyền Pasquier chấp thuận. Thấy việc tham chính của mình không thể
đem lại lợi ích cho đất nước, ông xin từ chức Thượng Thư, chọn con đường làm
thường dân để phục vụ đất nước theo cách riêng của ông, năm đó ông chỉ 33 tuổi.
Hành
động từ quan này làm chấn động Triều Đình Huế và Chính Phủ Pháp. Điều
này chứng minh rằng ngay khi còn rất trẻ, ông đã là người không hề màng danh
lợi. Nó cũng bẽ gãy luận điệu của những kẻ bất tài không được ông sử dụng đem
lòng oán hận luôn rêu rao rằng ông độc
tài tham quyền cố vị. Với tiết tháo xem thường danh lợi như vậy, những
ai đến bây giờ còn cho rằng Tổng Thống là một người độc tài gia đình trị thì rõ
ràng họ chỉ là những kẻ vu khống và muốn sửa đổi lịch sử, nhưng tiếc rằng họ
chẳng bao giờ có khả năng làm điều đó.
Thâm
tâm ông, con đường phục vụ quốc gia qua chức vụ Thượng Thư Bộ Lại không thể
thực hiện được nên ông đã quyết định chọn con đường khác, đó là từ chức để có
thì giờ học hỏi về chính trị luật pháp xã hội và cũng để kín đáo hoạt động
chống Pháp. Trong 17 năm ở ẩn, ông đọc rất nhiều sách vở về chính trị phương
tây, về cộng sản chủ nghĩa về các phong trào đòi độc lập. Song song với việc
nghiên cứu chính trị, ông liên kết với các nhà cách mạng có uy tín khác như Kỳ
Ngoại Hầu Cường Để, cụ Phan Bội Châu trong phong trào Cường Để, ông cũng là đại
diện chính thức của Kỳ Ngoại Hầu tại Việt Nam.
Ông
đã từng nói “người
Pháp chỉ là giai đoạn và sớm muộn gì Pháp cũng phải trao trả độc lập cho Việt
Nam, mà cộng sản mới là nguy cơ trầm trọng và dài hạn. Tuy nhiên nếu giữ được
Nam Kỳ là giữ được nước”. Theo
ông, nếu Miền Nam lọt vào tay cộng sản thì cuối cùng sẽ lọt vào tay Trung Cộng.
Chúng ta cũng hiểu một cách đơn giản :
Nếu mất Nam Kỳ vào tay cộng sản là mất nước. Khi rời Dinh Độc Lập vì
bị bọn phản tướng làm lọan, ông đã nói câu cuối cùng” Như ri là mất nước rồi!”.
Điều này đã diễn ra đúng như lời nhận xét của ông 11 năm sau đó!
Có
quá nhiều điều ông phát biểu từ mấy chục năm trước đã trở thành hiện thực.
Người ta ca ngợi ông là người có viễn kiến chính trị, điều này theo chúng tôi
chưa chính xác lắm. Ông không phải là một nhà tiên tri chính trị mà thực sự ông
là một nhà toán học chính trị, tính toán chính xác đường bay quỹ đạo chính trị
thuộc về chiến lược. Ông có sở học sâu sắc và một năng khiếu đặc biệt về chính
trị cộng với tư chất thông minh đã làm ông trở thành người thấy xa trông rộng,
một yếu tố không thể thiếu của lãnh đạo quốc gia
Pháp
đánh giá được tiềm năng và tâm huyết của ông, vì vậy cuộc sống ẩn dật ngụy
trang cho các hoạt động bí mật của ông không làm sao qua được tầm theo dõi của
Pháp. Toàn Quyền Đông Dương Jean Decoux ra lệnh bắt ông đi đày ở Lào, ông được
mật báo và trốn vào Sài Gòn. Một thời gian sau, ông bị Hồ Chí Minh bắt sau đó
ông lại may mắn thoát khỏi bàn tay của y. Ông sang Nhật gặp Kỳ Ngoại Hầu Cường
Để, tại đây, Kỳ Ngoại Hầu khuyên ông sang Mỹ để tìm sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ, mà
không thể trông cậy vào Nhật hay chờ đợi gì từ Pháp.
Sang
Mỹ, qua sự giới thiệu của Hồng Y Spellnam, ông được sự tiếp xúc và đánh giá cao
của một số chính trị gia Hoa Kỳ, thẩm phán Tối Cao Pháp Viện William Douglas
dân biểu Kennedy, Mike Mansfield v,v Ông tham gia diễn thuyết về các vấn đề
Việt Nam, Châu Á và hiểm họa cộng sản tại một số các trường Đại Học. Một số
nhân vật trong quốc hội và chính quyền Hoa Kỳ đã chú ý đến ông, nhưng chưa bao
giờ chính quyền Hoa Kỳ quyết định chọn ông làm một con bài chính trị. Giả
thuyết cho rằng nhờ sự vận động của Hồng Y Spellman cho nên ông được chính giới
Hoa Kỳ đưa về làm Thủ Tướng là một giả thuyết không đứng vững. Theo luật pháp
Hoa Kỳ Hồng Y Spellman không có quyền và trên thực tế ông cũng không có khả
năng can thiệp vào chính quyền Hoa Kỳ. Và nếu như được chính quyền Hoa Kỳ ủng
hộ, thì những năm sau đó Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã không phải nản lòng rời
Hoa Kỳ bôn ba sang Châu Âu tìm kiếm sự hổ trợ khác
Tình
hình Miền Nam trước khi TT NĐD về nước rất tuyệt vọng. Cựu hoàng Bảo Đại trong
cuốn hồi ký đã xác nhận yêu cầu ông về lập chính quyền, ông từ chối và thưa
rằng sau bao năm bôn ba, giờ đây ông muốn trải cuộc đời còn lại trong một tu
viện dòng kín. Cựu Hoàng Bảo Đại lộ vẻ tức giận và dẫn ông vào một căn phòng
vắng, đưa cho ông một cây thánh giá và nói rằng “ Đây
Chúa của ông đây, ông hãy thề trước mặt chúa là gìn giữ đất nước Việt Nam, ông
phải bảo vệ nó để chống lại cộng sản, nếu cần phải chống cả người Pháp. Cầu
nguyện hồi lâu một mình trong phòng kín, ông trở ra nói với cựu hoàng là ông
nhận lời
Vì
không đành tâm đứng nhìn đất nước rơi vào tay cộng sản, TT Ngô Đình Diệm nhận
đã nhận lời. Để có thể chu toàn nhiệm vụ, ông đã yêu cầu cựu hoàng phải giao
cho ông toàn quyền về quân sự lẫn dân sự để lèo lái đất nước. Trên thực tế, lúc
đó Cựu Hoàng đã hoàn toàn không hề có binh quyền hay chính quyền gì cả để giao
cho ông. Có chăng cựu hoàng đã giao cho TT Ngô Đình Diệm một Miền Nam đầy tham
nhũng bài bạc đĩ điếm và thuốc phiện ma túy và những tay anh chị khét tiếng như
Bảy Viễn, Nguyễn Văn Hinh, và giao cho ông sứ mạng nặng nề và nguy hiểm nhất đó
chống lại bóng đen của khối cộng sản đang có sức mạnh khổng lồ về quân sự và
tiền bạc để nuốt chửng Miền Nam
Miền
Nam lúc đó, không có tổ chức quân sự cũng như kinh tế nào khả dĩ có thể đối đầu
với đảng cộng sản đã có trên 24 năm kinh nghiệm, sẳn sàng sử dụng những thủ
đoạn chính trị vô cùng tàn bạo nhất và sau lưng là nguồn viện trợ vũ khí tiền
bạc dồi dào từ khối cộng sản Đông Âu, Liên Xô và quan trọng nhất là Mao Trạch
Đông. Trong khi đó thì chí sĩ Ngô Đình Diệm chỉ có một mình ông và người em
đang sống tại Việt Nam là ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu, đang cố gắng hết sức lực của
mình để kiếm nguồn ủng hộ cho anh mình trong nước. Vì lý do đó cho nên chính
quyền Hoa Kỳ đã không muốn phiêu lưu uy tín của họ để ủng hộ Thượng Thư Ngô
Đình Diệm, mặc dù chính phủ Pháp lúc đó đang hết sức kiệt quệ, một điều kiện
tốt cho Hoa Kỳ đang muốn thay thế Pháp có mặt tại Đông Dương .
Tóm
lại, về thân thế sự nghiệp, tổng thống Ngô Đình Diệm trước khi về nước đã từng
là một vị thượng thư trẻ tuổi không màng danh lợi, quyết tâm chống Pháp và
chống cộng tới cùng. Và ông đã nhận lời cựu hoàng Bảo Đại để gìn giữ một quốc
gia đang đứng trên bờ vực thẳm chờ cộng sản thâu tóm. Binh quyền không có mà
chính quyền cũng không có, ông một thân một mình về nước đảm nhận sứ mệnh mà
chỉ có một người ái quốc mãnh liệt mới dám an bài số phận bấp bênh đó cho mình.
Do đó, lập luận cho rằng TT Ngô Đình Diệm về nước chấp chánh là do sự hậu thuẫn
của Hoa Kỳ qua bàn tay của Hồng Y Spellman chỉ là sự dèm pha để phủ nhận tài
năng của ông.
Người
đã cậy nhờ chí sĩ Ngô Đình Diệm nắm lấy chức vụ thủ tướng không ai khác ngoài
cựu hoàng Bảo Đại, như ông đã tự xác nhận trong cuốn sách “ Con rồng Việt Nam”.
Và chỉ có vậy!
Đó
là sự thật lịch sử mà không ai có thể chứng minh khác được!
II- Hoàn cảnh đất nước khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm về chấp
chính:
Muốn
đánh giá công hay tội của một vị lãnh đạo quốc gia, lịch sử phải xem xét gia
tài mà vị lãnh đạo đó tiếp nhận trước khi điều hành đất nước, và so sánh với
những đất nước có được sau khi họ rời chức vụ. Thế nhưng, đối với tổng thống
Ngô Đình Diệm, những kẻ chê bai hay kết tội ông đều không bao giờ dám đề cập
đến hoàn cảnh của Miền Nam vào thời điểm 1954.
Tại
sao họ không dám đề cập? Bởi vì khi về nước, binh quyền mà ông có được là 12
người cảnh sát thay phiên nhau canh giữ dinh Gia Long. Miền Nam lúc đó hoàn
toàn không có quan hệ lãnh đạo, mà chỉ có nạn thập nhị sứ quân. Đó là một con
rắn không đầu, mỗi người thống trị một lãnh vực và khu vực. Tất cả những khuôn
mặt nổi bật bấy giờ như Bảy Viễn, Ba Cụt, Lại Văn Sang, Nguyễn văn Hinh và các
giáo phái v.v mỗi người hùng cứ một phương và thủ đắc các phương tiện kiếm chác
tài chánh riêng cho mình, không ai chấp nhận từ bỏ quyền lực để phục vụ cho
quốc gia dưới sự điều động của một chính phủ trung ương. Quân sự, kinh tế,
ngoại giao, tài chánh, hối đoái, quan thuế đều thuộc quyền của Pháp và các tay
sai Pháp, trong lúc đó thì Việt Cộng nằm vùng được cài đặt tràn đìa. Tổng Thống
chỉ có quyền với 12 người cảnh sát gác dinh Gia Long và một ngân khố quốc gia
trống rỗng, bên cạnh đó là một Miền Nam mà hạ tầng cơ sở bị phá hủy vì chiến
tranh tàn phá nặng nề toàn bộ ruộng đồng bỏ hoang, thất học và thất nghiệp tràn
lan, tham nhũng cờ bạc đĩ điếm, thuốc phiện và nguy hiểm nhất là mạng lưới cộng
sản rất mạnh, đang được sự viện trợ của Tàu và Liên Xô từ lâu, đã và đang phát
triễn dày đặc khắp đất nước. Bên cạnh đó là gánh nặng ngàn cân về an ninh chính
trị và xã hội của một triệu người mới di cư từ Bắc vào Nam tháng 8 năm 1954.
Sự
giúp đỡ của Hoa Kỳ cho ông lúc bấy giờ là một nhân viên CIA Mỹ cố giúp ông để
chiêu dụ những người đang nằm trong các phe phái khác, Đại Tá Edward Lansdale
Một
cách ngắn gọn, Ông không có bất cứ một quốc gia đồng minh nào có thể nương nhờ
khi ông về nước, trong khi đó cộng sản Hà Nội có cả một nguồn viện trợ khổng lồ
từ Liên Xô, Đông Âu và đặc biệt là Trung Cộng và đã hoạt động từ năm 1930. Ông
ngay cả cũng không có được một đảng phái hay một tổ chức quốc gia quan trọng
nào làm hậu thuẫn, và tài chánh thì quá eo hẹp, trong khi đó thì ông lại có quá
nhiều kẻ thù: Pháp và tay sai, các Giáo Phái và Bình Xuyên, mà nguy hiểm nhất
là cộng sản. Một số các chính trị gia khác đồng ý hổ trợ cho ông vì lúc đó thật
sự mà nói chẳng ai dám dấn thân lãnh nhận một tài sản quốc gia thảm thương như
thế. Nhưng ông đã chấp thuận, vì chỉ một lẽ duy nhất: ông yêu nước!
III- Những thành tựu TT Ngô Đình Diệm đã đem lại cho đất nước
Sau
11 tháng cầm quyền trong sóng gió Thủ Tướng Ngô Đình Diệm đã ổn định tình hình
chính trị tuyệt vọng của Miền Nam nhờ vào uy tín và lòng can trường của ông.
Sau 11 tháng theo dõi khả năng và những thành tựu của ông, chính phủ Eisenhower
không còn thấy mình phiêu lưu khi hổ trợ cho Ngô Đình Diệm nữa, mới chính thức
quyết định hổ trợ cho ông
Một
số bài viết và dư luận cho rằng Mỹ đã hổ trợ và viện trợ rất nhiều cho TT Ngô
Đình Diệm ngay khi ông về nước, nhờ vậy ông mới làm nên cơm cháo. Điều này hoàn
toàn không đúng. Căn cứ vào các sự kiện lịch sử xảy ra lúc bấy giờ và căn cứ
vào các tài liệu được giải mã cách đây hơn 15 năm thì quả thật số viện trợ cho
TT Ngô Đình Diệm khi ông về nước trong 11 tháng đầu tiên hầu như chỉ là con số
không. Nổi bật chỉ có sự tiếp xúc và vận động kín đáo của Đại Tá Edward
Lansdale với các phe nhóm chính trị như Cao Đài Hòa Hảo để thuyết phục họ ủng
hộ TT Ngô Đình Diệm v.v.
Xin
dẫn chứng sự yểm trợ yếu ớt và đầy nghi ngờ của Hoa Kỳ cho chính phủ TT Ngô
Đình Diệm giai đoạn 1954-1955 như sau:
Cứ
hai lần mỗi tháng, Joe Lawton Collin, bạn thân tổng thống Eisenhower, và là đặc
sứ của ông tại Sài Gòn, đề nghị tổng thống Eisenhower phải loại bỏ Diệm và thay
thế bằng Phan Huy Quát hay Trần Văn Đỗ. Còn người Pháp thì khỏi nói, họ xem TT
Ngô Đình Diệm là kẻ thù của họ. Hãy nghe tướng Pháp Paul Ely đại diện tối cao
của Pháp phá đám với người Mỹ như sau:” Ông
ta chỉ là tên bù nhìn tệ hại nhất không được nhân dân ủng hộ. Cho nên vì lợi
ích của Việt Nam và lợi ích của thế giới, không nên cứu Diệm”.
Chính phủ Hoa Kỳ có lúc đã tin rằng chính phủ Ngô Đình Diêm sẽ không tồn tại
quá sáu tháng và vì vậy họ chỉ viện trợ rất cầm chừng với thái độ chờ xem, và
thậm chí đã có những chỉ dấu loại bỏ ông, như Collin đã ngày đêm thuyết phục
tổng thống Eisenhower và tổng thống Eisenhower đã sắp sửa nghe lời Collin. Bất
thần, trong tình huống tuyệt vọng đó, đầu tháng 5 năm 1955, tổng thống Ngô Đình
Diệm với lòng can đảm và sự sáng suốt, ông đã lật ngược thế cờ, triệt hạ những
tên trùm Bảy Viễn, Lại Văn Sang, Nguyễn Văn Hinh, thu phục được sự ủng hộ của
Cao Đài Hòa Hảo và các tướng như Trịnh Minh Thế. Với sự thành công tuyệt vời
này, Hoa Kỳ từ đó mới dám thở phào viện trợ cho chính phủ TT Ngô Đình Diệm, triệu
hồi Lawton Collin về nước.
Có
thể tóm tắt công lao của tổng thống Ngô Đình Diệm trong việc tái thiết và ổn
định Miền Nam qua lời nhận xét của một vĩ nhân thế giới, Tổng Thống Eisenhower
như sau: He
is a miracle man.
Không
thần kỳ sao được khi từ một quốc gia bị sáu
vấn nạn: một là là chiến tranh tàn phá từ 1945 đến 1954, hai là vấn nạn chia rẽ
ly tán thập nhị xứ quân, ba là vấn đề giáo dục cộng đồng quá thấp, bốn là tệ
nạn xã hội đen tràn lan đến độ lấn lướt cả chính quyền, năm là thực dân Pháp và
tay sai người Việt vẫn nắm quyền lực chính về kinh tế và quân sự, sáu là, và
nguy hiểm nhất là, phải đối đầu với khối cộng sản thế giới, ông đã làm cho Miền
Nam trở thành Hòn ngọc Viễn Đông!
Ai có thể phản bác lại lời của Tổng Thống Eisenhower rằng
Tổng Thống Ngô Đình Diệm không phải là một miracle man, một con người của huyền
thoại?
Vài
nét chính về những thành tựu trong việc tái thiết xứ sở dưới sự cầm quyền của
TT Ngô Đình Diệm:
1/Cuộc di cư vĩ đại trong lịch sử của dân tộc Việt Nam năm
1954
Đây
là một thành tích vĩ đại của Tổng Thống Ngô Đình Diệm mà không ai có thể phủ
nhận. Lịch sử Việt Nam sẽ ghi nhớ công ơn của TT Ngô Đình Diệm
Đáp
máy bay về nước ngày 26 tháng 6 năm 1954, ngày 30 tháng 6 ông bay ra Hà Nội để
xem xét dân tình, ngày 20 tháng 7 năm 1954 Pháp và Bắc Việt ký hiệp ước chia
đất nước Việt Nam, tổng thống Ngô Đình Diệm tuyệt vọng bay ra Hà Nội ngày 3
tháng 8, đọc một bài diễn văn kêu gọi dân chúng theo ông di cư vào Nam xây dựng
đất nước tự do, và khoảng một triệu người đã nghe ông theo ông vào Nam với sự
trợ giúp bằng không vận và đường hàng hải của Hoa Kỳ, Pháp, Thụy Sĩ v.v
Ngày
4 tháng 8 cuộc di cư chính thức bắt đầu. Trong lúc chính quyền đang còn rất
mong manh, bị sự chống đối và hoành hành của Bình Xuyên Bảy Viễn, Nguyễn Văn
Hinh, Tổng Thống đã lập Phủ Tổng Ủy Di Cư đảm nhận việc tiếp thu gần một triệu
đồng bào Miền Bắc vào Nam. Lo ổn định đời sống cho khoảng một triệu người ồ ạt
di cư vào Nam trong một thời gian chỉ hơn một tháng và gìn giữ cho đời sống vật
chất an ninh xã hội tại Miền Nam không bị rối loạn phải nói là một công việc
quá phi thường vượt quá sức của một chính phủ còn quá non trẻ, không tiền, trên
nền tảng của một quốc gia bị chiến tranh tàn phá, chia rẽ, tệ nạn xã hội và
cộng sản hoành hành.
Hãy
so sánh tất cả các cuộc di cư, nhập cư và tị nạn của tất cả các quốc gia trên
thế giới đê thấy rằng chưa có một vị nguyên thủy quốc gia nào có khả nặng làm
việc như Thủ Tướng Ngô Đình Diệm. Ông gìn giữ xã hội Miền Nam không bị rối loạn
vì số lượng di dân quá bất thần và quá lớn, cung cấp những dịch vụ cần thiết
như nhà ở thực phẩm y tế thuốc men, giáo dục cho một triệu người và nhanh chóng
ổn định đời sống họ trong vòng vài tháng. Ai có thể phủ nhận được nỗ lực kinh
khủng và khả năng tổ chức hiếm có, sử dụng, và theo dõi đồng tiền viện trợ một
cách hữu hiệu, và đặc biệt là sự cần kiệm của chính phủ Thủ Tướng Ngô Đình Diệm
trong vấn đề định cư một số quá lớn người như thế? Điều gì đã làm cho ông can
đảm đứng ra lãnh nhận gánh nặng to lớn này và đã hoàn thành tốt đẹp công tác
định cư cho cả triệu đồng bào trong tình thế bấp bênh của chính quyền và đất
nước như thế? Không gì khác hơnđó chính là lòng yêu nước thương dân vô hạn và
sự can đảm thông minh phi thường của ông!
2/Giáo dục và y tế:
Trong
khi ở Miền Bắc, giáo dục rất thiếu sót chương trình trung học chỉ có 10 năm, và
đội ngũ khoa học kỹ thuật của họ rất tồi tệ, thì ở Miền Nam Tổng Thống Ngô Đình
Diệm đã có những điểm sáng chói như sau: Chương trình trung học ở Miền Nam đúng
theo tiêu chuẩn quốc tế là 12 năm. Chương trình đại học cũng có chất lượng của
các nước phương tây. Xin được dẫn chứng vài vì dụ:
Chương
trình mở mang giáo dục dưới thời TT Ngô Đình Diệm đem lại số học sinh và số
trường trung học tiểu học tăng vọt hàng năm với tốc độ khoảng 60% 70%. Từ năm
1957 đến 1961, số học sinh và trường học tăng lên gấp 4. Ông cũng cho thành lập
rất nhiều các trường dạy nghề. Về giáo dục đại học, tổng số sinh viên tăng
trong vòng 3 năm là 60% vào năm 1957. Đại Học công lập Huế và đại học tư thục
Đà Lạt được mở ra dưới thời của TT Diệm theo sau là Viện
Đại học Sài Gòn The
University of Saigon, là một viện đại học công lập, được thành lập vào năm
1957 dưới chính quyền của Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Đây là viện đại học được
xem là có uy tín nhất ở Miền Nam Việt Nam, cung cấp các giáo sư đi thỉnh giảng
ở các viện đại học khác. Viện đại học này cấp bằng cử nhân, thạc sĩ, và tiến
sĩ. Năm 1961 ông cho thành lập Đại Học Y Khoa Huế. Số sinh viên chỉ trong vòng
3 năm sau khi ông về nước chấp chánh đã tăng lên gấp 4 lần đồng thời chính phủ
cũng có chương trình cấp học bổng cho sinh viên du học ở các nước tiên tiến
phục vụ mục tiêu Việt Nam hóa đội ngũ giáo sư đại học với tiêu chuẩn quốc tế.
Trường Đại Học Y Khoa là một dẫn chứng cụ thể rằng Tổng Thống coi trọng quốc
thể, vào năm 1961 trường này đã hoàn toàn không còn giảng viên người Pháp. Xin
được lập lại, chỉ sau 5 năm cầm quyền, ông đã xây dựng được một trường hệ thống
Đại Học mà các nước trong vùng phải kính nể. Ông đã chứng minh cho thế giới
thấy người Việt Nam hoàn toàn không thua bất cứ một dân tộc nào trên thế giới. Nhiều
bệnh viện nổi tiếng chẳng hạn bệnh viện Bình Dân cũng được thành lập để phục vụ
nhu cầu chữa bệnh cho dân chúng và giảng dạy y khoa.
3/Kinh Tế:
Nhờ
kiến thức sâu rộng về chính trị, bản chất thông minh, trọng của công, cần kiệm
và rất cẩn trọng trong việc sử dụng tiền viện trợ, ông đã lèo lái đất nước đưa
đến bến bờ của sự thanh bình thịnh vượng và nhân quyền. Qua chương trình CIP (
Comercial Import Program), mỗi năm ông nhận viện trợ kinh tế của Hoa Kỳ là 322
triệu năm 1955, và nhờ việc sử dụng hiệu quả và chính xác, viện trợ Mỹ đã tăng
lên 450 triệu Mỹ Kim sau đó. Với sự trợ giúp này, ông lại nhanh chóng biến Miền
Nam thành một hòn ngọc viễn đông trong một thời gian kỷ lục là ba năm, đến nỗi
tổng thống Eishenhower đã đón ông với 21 phát súng đại bác. Xin được cụ thể hóa
vài thành tựu nổi bật về kinh tế của ông như sau:
1.Toàn
bộ hệ thống giao thông thủy bộ và đường xe lửa xuyên Việt được tái thiết lại, phục
vụ nhu cầu thương mại và sản xuất và nông nghiệp. Chương trình cải cách ruộng
đất và khuyến nông đã biến những thửa ruộng và đồn điền bỏ hoang thành những
cánh đồng phì nhiêu và đồn điền trù phú, làm đem lại số gạo và cao su xuất cảng
tăng vọt. Đơn cử là chỉ mới năm 1957 mà số gạo sản xuất là 3 triệu tấn, chăn
nuôi heo gà vịt phát triễn mạnh và đã xuất cảng được một số lượng đáng kể hàng
năm.
2.Điều
quan trọng đáng nói là dù Miền Nam căn bản là một quốc gia nông nghiệp, ông vẫn
quyết tâm biến Miền Nam trở thành một quốc gia kỹ nghệ. Giai đoạn này chúng ta thấy Miền Nam đã có những nhà máy
ván ép, nhà máy giấy, nhà máy dệt, nhà máy xà bông, viện bào chế dược phẩm v.v.
TT thống Ngô Đình Diệm là con người thấy xa trông rộng và rất chu đáo trong tất
cả mọi kế hoạch phát triễn quốc gia. Chương trình mở mang và nâng cao chất
lượng giáo dục song song với phát triễn kinh tế là một dự án đồng bộ và hoàn
chỉnh nhằm chuẩn bị tài nguyên con người để thực hiện việc kỹ nghệ hóa Miền
Nam. Các trường đại học và các trường dạy nghề đào tạo công nhân và chuyên viên
kỹ thuật ở mọi mọi lãnh vực từ hành chánh đến khoa học đến kỹ thuật để có thể
đáp ứng nhu cầu kỹ nghệ hóa đất nước. Trung tâm nguyên tử Đà Lạt và đập Đa Nhim
cộng với 2 kế hoạch ngũ niên 1957 đến 1961, 1962-1967 và chương trình đẩy mạnh
mở mang giáo dục là một bằng chứng về một kế hoạch phát triễn rất hợp lý và
đồng bộ của tổng thống để có đủ tài nguyên vật chất và tài nguyên con người cho
một quốc gia kỹ nghệ. Nếu tổng thống còn sống, thì chắn chắn Miền Nam còn tiến
xa hơn Nam Hàn gấp bội, một Nhật Bản thứ hai cũng không phải là điều nói quá,
vì ông và Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, cụ Phan Bội Châu là người đã sống ở Nhật hiểu
biết về Nhật. Tuy không tin tưởng và cũng không hợp tác với chính phủ Nhật,
nhưng ông rất ngưỡng mộ thể chế chính trị, sự phát triễn kinh tế khoa học của
Nhật. Khuôn mẫu chính trị và sự tiến bộ của Nhật Bản là điều TT Ngô Đình Diệm
muốn Việt Nam đạt được.
4/ Quân sự và nội chính:
Ông
hết sức quan tâm đến vấn đề nội chính và quốc phòng. Để đối đầu với cộng sản,
ông phân chia Miền Nam thành 4 vùng chiến thuật, không ngừng canh tân quân đội
và Việt Nam hóa quân đội và đào tạo các chuyên viên hành chánh cao cấp của quốc
gia. Ông hết sức chú tâm đào tạo một thế hệ sĩ quan trẻ có tiêu chuẩn ngang với
quốc tế để thay thế hàng ngũ sĩ quan được Pháp đào tạo. Sự cải tổ sâu rộng và
đầu tư hai trường quân sự lớn hàng đầu Đông Nam Á và Học Viện Quốc Gia Hành
Chánh là những ví dụ cụ thể.
- Học Viện Quốc Gia Hành Chánh:
Xuất
thân là khôi nguyên trường Hậu Bổ, tức trường dạy về chính trị luật pháp và
hành chánh, Tổng Thống Ngô Đình Diệm khi chấp chánh, ông đã hết sức coi trọng
công việc nội chính quốc gia. Ông bắt tay cải tổ trường QGHC mà trước đây đặt ở
Đà Lạt và trực thuộc bộ Giáo Dục. 1954, ông cho dời trường về Sài Gòn và đặt
học viện này dưới sự đào tạo và giám sát của Phủ Thủ Tướng sau đó thuộc phủ
Tổng Thống, tức trực thuộc sư chăm sóc của ông
Chương
trình học của học viện này do Michigan State University (MSU) trợ
giúp trong việc soạn giáo trình. Kho sách của trường được coi là một trong
những thư viện lớn nhất của Việt Nam Cộng hòa. Sinh Viên cũng được huấn luyện
quân sự ở các trường quân sự chuyên nghiệp như trung tâm huấn luyện Quang
Trung, học chiến thuật ở rừng cao su Phú Thọ hay trung tâm Nhảy Dù Hoàng Hoa
Thám v.v Môn học chính của QGHC gồm những kiến thức như soạn thảo công văn, kế
toán thương mại, định chế chính trị, luật hành chánh và cả quân sự. Tùy theo
bằng cấp tốt nghiệp là tham sư, đốc sự hay giám sự, các chuyên viên hành chánh
cao cấp này sẽ về làm việc tại các bộ như Bộ Nội vụ hoặc cơ quan hành chánh địa
phương. Giám sự được bổ nhiệm ở các phủ bộ chuyên môn khác như Bộ Tài chánh,
Tổng Nha Kế Hoạch. Sau khi ra trường thì chuyên viên được bổ dụng từ Phủ Thủ tướng,
Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình báo hay Tổng Nha Ngân Sách và các Bộ cấp quốc gia
cho đến các ty, các sở ở địa phương như phó tỉnh trưởng hoặc phó quận trưởng.
- Trường Võ Bị QGVN:
Tuy
trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt được thành lập năm 1950 nhưng đên năm 1959 dưới
thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm mới thực sự có những cải tổ sâu rộng và huấn
luyện theo tiêu chuẩn quốc tế. Năm 1961, TT Ngô Đình Diệm cho xây dựng lại cơ
sở đào tạo mới tại đồi 1515, ông đưa ra chương trình đào tạo 4 năm thay vì 3
năm như trước đây, nhưng vì những rối ren chính trị và ông bị thảm sát, mãi đến
năm 1966 chính phủ tiếp theo mới thực hiện được chương trình này. Trường VBQGVN
đào tạo sĩ quan chuyên nghiệp cho Không Quân, Hải Quân và Lục Quân.
-Liên
Trường Võ Khoa Thủ Đức năm 1955 đến 1961 đã cung cấp 2/3 số sĩ quan cho QLVNCH
và khoảng trên 90% các binh chủng như Thiết Giáp, Công Binh Pháo Binh Quân Nhu
Quân Cụ truyền tin. Giữa tháng 10 năm 1961 ông lại tiếp tục cải tổ tách các
trường đào tạo chuyên môn thành các trường riêng chỉ còn giữ lại Bộ Binh và
Thiết Giáp là chính
-Phân
chia các vùng chiến thuật: 42 tỉnh Miền Nam được chia làm 4 vùng chiến thuật
với trách nhiệm bảo vệ các vùng chiến thuật này Quân Đoàn. Quân Đoàn 1 bản
doanh tại Đà Nẵng, QĐ II tại Pleiku, Quân Đoàn III tại Biên Hòa, QĐ IV tại Cẩn
Thơ.
Để
thấy được thành công trong lãnh vực quân sự, chống trả lại các cuộc tấn công
quân sự của khối cộng sản trong giai đoạn của tổng thống Ngô Đình Diệm, cần
đánh giá sức mạnh quân sự của đối phương. Giai đoạn này đặc biệt là bắt đầu vào
khoảng năm 1961, 1962 cộng sản gia tăng chiến tranh quân sự và gia tăng các
hoạt động khủng bố, để cố chiếm lấy nữa nước còn lại nhằm phục vụ cho ý thức hệ
cộng sản và gấp rút thỏa mãn ý đồ Hán Hóa Việt Nam của Trung Cộng. Dẫn chứng:
trong giai đoạn chiến tranh từ năm 1954 đến 1975, luôn luôn có mặt của cán bộ
Trung Cộng và ngay cả của tất cả các nước công sản khác như Tiệp Khắc, Cuba v.v
tại Hà Nội. Có lúc con số lính Trung Cộng lên đến 300 ngàn. Hồ Chí Minh và
những đảng viên trung ương đã đến tiếp kiến Chu Ân Lại ở Nam Ninh tháng 7 năm
1957 để cùng hợp tác soạn thảo kế hoạch cài cán bộ cộng sản nhằm phục vụ mưu đồ
thôn tính Miền Nam. Kế hoạch này gồm 2 chiến lược chính đó là làm suy yếu chính
quyền VNCH bằng các âm mưu gây bất ổn chính trị xã hội, hai là tấn công quân sự
và tấn công khủng bố. Tất cả các kế hoạch này lấy tinh thần ái quốc chống ngoại
xâm và bịa đặt vấn đề đàn áp Phật Giáo để lừa phỉnh lòng yêu nước và đánh lận
tín ngưỡng của người dân VN. Sự hiện diện trong chiến tranh của bọn cộng sản
Bắc Việt chỉ là bề ngoài, bên trong chính là Trung Cộng vẽ kế hoạch từng giai
đoạn và cung cấp vũ khí tiền bạc. Như vậy chính phủ Ngô Đình Diệm đang đối đầu
với cả một khối cộng sản lúc đó đang vô cùng mạnh, và nguy hiểm hơn nữa là khi
chính quyền Kennedy đồng ý trung lập Lào, tạo đường giao thông cho Hà Nội liên tiếp
đưa quân vào Miền Nam và làm gia tăng các trận tấn công quân sự của Hà Nội vào
Miền Nam.
Tuy
phải đương đầu với muôn vàn khó khăn như trên, nhưng Tổng Thống Ngô Đình Diệm
đã giữ cho hậu phương Miền Nam luôn thanh bình ấm no, người dân đi lại an toàn,
không có nạn đắp mô xe đò đánh du kích v.v
5/
Ngoại giao:
với
sự thành cộng vượt bực về chính trị kinh tế và khống chế được cộng sản, ổn định
Miền Nam một cách nhanh chóng, ông đã được rất nhiều các nguyên thủ quốc gia
cũng như các nhân vật chính trị nỗi tiếng trên thế giới ca ngợi, chẳng hạn tổng
thống Lyndon Johson vào năm 1955 và 1961 đã ca ngợi tổng thống Ngô Đình Diệm là
Churchill của Châu Á, Tổng Thống Tưởng Giới Thạch nói rằng 100 năm nữa Việt Nam
cũng chưa tìm được người tài đức như TT Ngô Đình Diệm. Tổng Thống Eisenhower
gọi ông là Miracle man, ông được giải thưởng Magsaysay và đã tặng số tiền này
cho Đức Đạt Lai Lạt Ma. Trước uy tín cá nhân và những thành tựu vượt bực về
kinh tế quân sự, Miền Nam đã được trên 80 quốc gia công nhận, rất nhiều nước
mời tổng thống Ngô Đình Diệm công du, và vinh dự nhất là chuyến viếng thăm Hoa
Kỳ và New York của ông đã được đích thân TT Eisenhower ra tận máy bay đón và
chào mừng bằng 21 phát súng đại bác.
Cho
đến bây giờ, thật hiếm hoi có một vị nguyên thủ quốc gia được Hoa Kỳ đón tiếp
với thủ tục cao quý nhất như vậy. Đó là niềm vinh dự cho cá nhân TT Ngô Đình
Diệm và cũng là niềm vinh dự cho chính thể VNCH và cho chính chúng ta hôm nay.
6/ Thành công về mặt an ninh tình báo:
Theo
cuốn hồi ký của Đại Tướng Việt Cộng Văn Tiến Dũng, số cán bộ cộng sản gài tại
Miền Nam là 60 ngàn tên, sau 3 năm dưới sự cầm quyền của chính phủ TT Ngô Đình
Diệm con số này chỉ còn lại 5 ngàn. Tức là trong ba năm chính phủ đã tận diệt
trên 90% số cán bộ nằm trong màng lưới gián điệp. Đây là sự tự thú mà chính
cộng sản sau 1975 đã đưa ra, như vậy thành công vô cùng to lớn này là do ai?
công lao này là do ai? Nếu không phải là của TT Ngô Đình Diệm và các ông như
Phan Quang Đông, Ngô Đình Cẩn, Dương Văn Hiếu và toàn bộ hệ thống tình báo công
an mật vụ của Đệ Nhất Cộng Hòa. Hế thống tình báo này đã bắt và loại trừ được
55 ngàn tên cán bộ cộng sản qua chiến dịch tình báo xâm nhập chiêu hồi và tố
cộng, bẽ gãy âm mưu thâm nhập vào hệ thống quân sự dân sự và chính quyền VNCH.
Hệ thống tình báo thời kỳ tổng thống Ngô Đình Diệm là một hệ thống vô cùng hữu
hiệu và có công lớn với đất nước, đã phá vỡ một hệ thống tình báo cộng sản tinh
vi và dày đặc, thế nhưng người ta vẫn lập đi lập lại như một thành ngữ: hệ
thống mật vụ Nhu Diệm đàn áp Phật Giáo trong lúc kết luận điều tra của Liên
Hiệp Quốc là hoàn toàn không tìm thấy bằng chứng đàn áp Phật Giáo của chính
quyền Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
Liệu
chúng ta có thể chấp nhận sự thật bị đánh tráo này không, hoặc để cho những kẻ
cuồng tín tiếp tục vu khống?
Để
đánh giá thành công này, chúng ta phải xem xét đến cách cài người vô cùng tinh
vi của khối cộng sản có tên gọi là Lucy. Xin được điểm qua kế hoạch Lucy của Xô
Viết để chúng ta thấy rằng loại trừ được hệ thống cộng sản nằm vùng không phải
là một công việc dễ dàng mà là một công việc muôn vàn khó khăn mà hệ thống công
an mật vụ của chính phủ Ngô Đình Diêm và ông Ngô Đình Cẩn đã đạt được.
Kế hoạch Lucy là gì?
Đó
là kế hoạch mà sau cách mạng Nga 1917, Nga đã chỉ thị cho các cán bộ cộng sản
trẻ của mình ở lại trong hệ thống quân đội và chính quyền Đức dù lúc đó chính
quyền Đức bị bại trận và số lính tình nguyện giải ngũ rất nhiều, chỉ còn lại
khoảng 100 ngàn. Các cán bộ trẻ này vẫn sống một đời bình thường hoàn toàn không
hoạt động tình báo gì cả. Nhóm này hiện diện trong các lãnh vực quân sự, dân sự
và trong các ngành quan trọng của chính quyền. Hai mươi năm sau, khi thế chiến
II bùng nổ 1939, các cán bộ cộng sản này trở thành những sĩ quan cao cấp trong
hàng ngũ quân đội Đức, tức là trở thành những tên cán bộ điệp viên cộng sản cho
Nga ngay trong chính quyền nổi tiếng sắt máu tàn bạo và tinh vi của Hitler. Những
tên sĩ quan cao cấp này của Đức đã cung cấp toàn bộ tin tức tình báo kế hoạch
hành quân cho Nga và đã góp phần tạo nên chiến thắng cho Liên Xô trong trận đệ
nhị thế chiến. Chính phủ Nhật Hoàng cũng bị bại trận trước Nga cũng trong môt
tình huống tương tự khi một điệp viên cộng sản Đức trở thành một chuyên viên
tín cẩn của chính quyền quốc xã Hitler làm việc cho tòa Đại sứ Đức tại Tokyo.
Điểm
qua kế hoạch cài người Lucy để chúng ta thấy rằng việc loại trừ khoảng 55 ngàn
điệp viên cộng sản tại Miền Nam mà Văn Tiến Dũng đã thừa nhận là một kỳ công
của hệ thống “ Mật vụ Nhu Diệm” của ông Phan Quang Đông, Ngô Đình Cẩn và Đoàn
Đặc Nhiệm Miền Trung. Trở lại vấn đề cán bộ tình báo nằm vùng tại Miền Nam Việt
Nam: Trong lúc chính quyền của TT Ngô Đình Diệm là một chính quyền mới khai
sinh sau ngày chia đôi đất nước, chỉ thật sự có quyền lực và được Hoa Kỳ viện
trợ đáng kể sau khi dẹp loạn Bình Xuyên Bảy Viễn và Nguyễn Văn Hinh, tức là 11
tháng sau khi về nước chấp chính, thì chính quyền CSVN lúc đó đã hoạt động được
24 năm, có ngân sách điều hành dồi dào và rất ổn định từ khối cộng sản quốc tế đặc
biệt là Trung Cộng, nên đã tạo được một màng lưới gián điệp nguy hiểm nằm sâu
và nằm sẳn trong tất cả các cơ quan dân sự, chính quyền, quân đội và tôn giáo
của Miền Nam. Ngoài ra còn có thêm số cán bộ cộng sản từ Bắc được gởi vào Miền
Nam qua làn sóng di cư 1954. Điều này giải thích lý do tại sao điệp viên cộng
sản đã trở thành các đảng viên cao cấp trong các đảng phái quốc gia, trở thành
các sĩ quan cao cấp, trở thành tướng lãnh, trở thành các nhà tu, nhà báo, các
chính trị gia đối lập và thậm chí len lõi vào cả Dinh Độc Lập. Đó cũng giải
thích lý do tại sao có quá nhiều tên cán bộ cộng sản giả dạng quốc gia mà chỉ
sau 1975 dân chúng mới biết, chẳng hạn như Phạm Xuân Ẩn, Huỳnh văn Trọng, Vũ Ngọc
Nhạ ni sư Huỳnh Liên, Thích Trí Quang v.v
Cuối
1956, khi thấy nền kinh tế và chính trị Miền Nam càng ngày càng vững mạnh, cộng
sản Hà Nội và Bắc Kinh cùng với Liên Xô đổi chiến lược tấn công, đó là bên cạnh
các cuộc tấn công quân sự, tổ chức chiến tranh khủng bố ám sát bắt cóc trên
toàn Miền Nam gây hoang mang lo sợ trong dân chúng, đồng thời năm 1960, chúng
đẻ ra tổ chức gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam được lãnh đạo bởi những tên
cộng sàn gộc pha trộn các trí thức thiên tả của Miền Nam, chẳng hạn Nguyễn Hữu
Thọ, Võ Chí Công, Nguyễn Thị Định, Huỳnh Tấn Phát, Dương Quỳnh Hoa, Trương Như
Tảng, rêu rao rằng đây là tổ chức do dân chúng Miền Nam nổi dậy chống chính
quyền. Thủ đoạn chính trị này đã lừa bịp một số trí thức Miền Nam như Trương Như
Tảng, Dương Quỳnh Hoa, Đoàn văn Toại v.v hăng say hoạt động cho chúng, đồng
thời đã lừa bịp được dư luận thế giới rằng MTGPMN không phải là tổ chức cộng
sản mà chỉ là do dân Miền Nam nổi dậy
Nói
chung, chính phủ VNCH không phải chỉ đối đầu với cộng sản Miền Bắc, mà chính là
đối đầu với Bắc Kinh và Nga, đòi hỏi chính phủ phải thấy xa trông rộng và bắt
buộc phải giới hạn một số quyền tự do bình thường để khống chế số Việt Cộng nằm
vùng ngụy trang trong các tổ chức báo chí, tôn giáo, học sinh sinh viên, tôn
giáo v.vTrong đó đòi hỏi chính quyền phải chọn người tài giỏi tâm đầu ý hợp
trong quan điểm và đường lối chống cộng. Số kết luận rằng chính phủ TT Ngô Đình
Diệm độc tài, thì họ là những người đã nhắm mắt bịt tai để không thấy rằng,
dưới thời chính phủ của Tổng Thống Ngô Đình Diệm người dân có được các quyền
căn bản về tự do dân chủ, đặc biệt là quyền tự do biểu tình tự thiêu chống đối
thóa mạ chính phủ, tuy vậy chính phủ vẫn thừa khả năng vô hiệu hóa mạng lưới tình
báo cộng sản. Đó là một điểm son khi điểm lại lịch sử
Hãy
nghe cộng sản ghi nhận về hệ thống an ninh tình báo mật vụ Nhu Diệm như sau:
“Từ 1957 đến 1958, tình thế dần dần đổi thay. Kẻ thù liên tục
phá hoại sự thi hành hiệp định Geneva, củng cố và tăng cường một cách tích cực
ngành an ninh quân sự và bộ máy hành chánh, từ trung ương xuống đến tận thôn xóm,
ám sất tàn bạo cán bộ và thật sự đã phá hủy đảng ta một cách hữu hiệu…”
Chúng
ta phải công bằng rằng tất cả những thành công về giáo dục, y tế, kinh tế, quân
sự, ngoại giao, nội chính, an ninh tình báo của TT Ngô Đình Diệm trong hoàn
cảnh đất nước phải đương đầu với cộng sản Việt Nam, chống Nga, chống Bắc Kinh,
là vượt quá sự mong đợi của người dân Việt Nam, vượt quá sự tiên liệu của Hoa
Kỳ và các quốc gia khác. Uy tín của Miền Nam và của cá nhân của Tổng Thống lên
cao đến mức TT Eisenhower, không những là vĩ nhân của Hoa Kỳ mà còn là vĩ nhân
của thế giới, đã thân chinh đón ông tận cửa máy bay với thảm đỏ trải dài từ
chân cầu thang và 21 phát súng đại bác chào mừng, là một chứng minh rõ ràng
nhất mà không ai có thể phản bác về uy tín và thành công quá lớn của Tổng Thống
Tóm
lại, những người cho rằng TT Ngô Đình Diệm độc tài đàn áp Phật Giáo gia đình
trị, hầu như họ đã tránh né việc mà họ phải làm để thuyết phục dư luận rằng họ
đúng, đó là họ phải so sánh tình trạng đất nước trước khi ông về, với một đất
nước sau đó với 9 năm đất nước dưới quyền lãnh đạo của ông, rồi sự suy yếu bệ
rạc xảy ra ngay sau khi đất nước không còn bóng dáng ông nữa. Những kẻ đánh giá
sự nghiệp của một vị lãnh đạo quốc gia mà chỉ đưa ra tình hình bất ổn chính trị
của đất nước do Phong Trào Phật Giáo Tranh Đấu gây ra vài tháng trước khi ông
mất là một việc làm gian trá đánh lận con đen, tự làm giảm giá trị của mình và
không ai có thể chấp nhận được. Vì vậy sự kết luận rằng Tổng Thống Ngô Đình
Diệm là người không có tài tham quyền cố vị là những lời nói vô giá trị mà
không lịch sử nào nhìn nhận.
__._,_.___