On Thursday, October 26, 2017 3:23 AM, "Lloyd Pham >
wrote:
[Attachment(s) from Lloyd Pham included below]
TRẢ LẠI DANH DỰ
CHO TỔNG THỐNG
NGÔ ĐÌNH DI ỆM
VÀ CỐ VẤN
NGÔ ĐÌNH NHU
Bỉnh bút độc lập Phạm Lễ,
Ghi nhận và Tổng hợp.
|
Sau hiệp định Genève
chia đôi đất nước, ngày 20 tháng 7 năm 1954, chính phủ của Thủ Tướng Ngô Đình
Diệm đã phải lo định cư cho gần một triệu người dân miền Bắc và miền Trung (bên
kia vĩ tuyến 17) có cuộc sống an cư lạc nghiệp tại miền Nam, tiến hành việc
lấy lại chủ quyền từ tay người Pháp qua việc rút ra khỏi khối đông dương,
đổi tiền do Ngân Hàng Quốc Gia Việt nam ấn hành theo kim bản vị và ngoại tệ bản
vị của đồng Mỹ Kim nhằm ngăn chặn sự phá hoại kinh tế do khối tiền của Pháp còn
tồn tại ở ngân hàng Hà Nội, ổn định tình hình chính trị, xây dựng văn hoá giáo
dục theo hệ thống hoá các trường dạy bằng tiếng Việt từ tiểu trung và đại học
củng cố và xây dựng vững chắc cho nền Cộng Hòa trên vùng đất đầy dấu tích của
chế độ thuộc địa và thực dân. Nhất là tiến hành quốc sách chống Cộng nhằm tiêu
diệt hết hạ tầng cơ sở của Cộng Sản cố gài lại tại Miền Nam sau khi Việt Minh
đã rút hết khoảng 80.000 cán binh CS ra miền Bắc theo các điều khoản quy định
của bản hiệp định này.
Những thành quả mà chính phủ của Tổng Thống Ngô Đình Diệm thu
hoạch được trong chín năm cầm quyền (1954-1963) cần phải được nghiên cứu lại
trong tinh thần đánh giá công bình, đúng đắn dưới ánh sáng của lịch sử
.
Trong cuộc chiến giữa hai miền nam và bắc Việt Nam, điểm quan trọng trong sự tranh chấp Quốc-Cộng đó là vai trò của một hệ thống tư tưởng mà chế độ Đệ Nhất Việt Nam Cộng hòa đã x
Trong cuộc chiến giữa hai miền nam và bắc Việt Nam, điểm quan trọng trong sự tranh chấp Quốc-Cộng đó là vai trò của một hệ thống tư tưởng mà chế độ Đệ Nhất Việt Nam Cộng hòa đã x
xử
dụng làm lợi khí đấu tranh để xây dựng các cơ chế dân chủ và xã hội. Chủ thuyết
của miền nam lúc bấy giờ là chủ thuyết Nhân Vị vốn được coi là nền tảng tư
tưởng hoạt động của Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng Đảng do ông Ngô Đình Nhu thành
lập tại Sài gòn năm 1950.
Về phương
diện tư tưởng, Cố vấn Ngô Đình Nhu đã tiên liệu và ý thức về sự cần thiết của
một chủ nghĩa trong công cuộc xây dựng đất nước. Ông đã đưa ra “chủ thuyết Nhân Vị”
hoàn chỉnh để phù hợp với tình hình của một quốc gia Á châu, nhằm đối đầu
với chủ nghĩa Cộng Sản ở miền Bắc.
Ngày 8-1-1963,
trong cuộc nói chuyện với cử tọa gồm các nhà trí thức, giáo sư đại học, giáo sư
trung học và cán bộ tại Trung Tâm Thị Nghè, ông Ngô Đình Nhu giải thích rằng:
"...mình đánh nhau với Cộng Sản, bây giờ Cộng Sản nó đánh
mình với một Ý Thức Hệ, mà chúng ta không có một Ý Thức Hệ cứng rắn, rõ ràng,
trong tâm trí chúng ta để đối lại, để có lẽ sống mà đánh Cộng Sản thì chúng ta
sẽ bị ý thức hệ Cộng Sản lan tràn lung lạc."
Cuộc chiến
tranh ý thức hệ giữa hai miền Nam và Bắc Việt Nam, một cuộc chiến mà ngay đến
cái tên gọi của nó vẫn còn là một vấn đề tranh cãi , sau Nghị quyết 15 năm 1959
của CSBV và đạo luật 10/59 của chế độ VNCH đã được đánh dấu bởi những biến cố
lịch sử quan trọng cần phải được nhìn đến trước khi đi sâu vào nghiên cứu lại
sự kiện. Ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu nhấn mạnh:
"
Muốn phục vụ con người trong xã hội thì con người đó phải tiến, xã hội đó phải tiến.
Nhưng xã hội chỉ tiến được với những con người có ý thức nhiệm vụ. Cho nên,
trên nguyên tắc, chúng ta phải nhìn nhận rằng cần phải có một ý thức hệ tiến
bộ. Ý Thức Hệ chúng tôi chủ trương là Ý Thức Hệ Nhân Vị. Về Tư Tưởng Nhân Vị có
nhiều thứ. Có thứ họ căn cứ vào một tín ngưỡng hữu hình, một tín ngưỡng chắc
chắn, căn bản. Có thứ lại nhuốm phần nào vô thức... Ý thức hệ Nhân Vị chúng tôi
chủ trương nó rất rộng rãi và không cần phải đi sâu vào các đạo giáo. Tất cả các
đạo giáo, tất cả các triết lý khác, có thể cùng đi với chúng ta được trong ý
thức hệ đó."
"Nhân là người. Vị là thứ bậc”. Nhân-Vị
là tính cách con người sống đầy đủ con người theo thứ bậc của mình, đối nội
cũng như đối ngoại. Theo nghĩa đó, hai chữ Nhân-Vị đầy đủ hơn chữ Personne
Humaine của Pháp ngữ, vì hai chữ Personne Humaine nhấn mạnh đến ý nghĩa của chữ
nhân mà ít chú trọng tới vị. Cần phải hiểu theo một
ý nghĩa đầy đủ của cả hai chữ.
“Nhân là sống đầy đủ con người. Vị là sống theo đúng thứ
bậc của mình trong những tương quan với người khác và vạn vật.”
Như vậy thì quan niệm về nhân-vị tùy thuộc quan niệm về con
người và quan niệm các tương quan.
"Chủ nghĩa Nhân Vị nhấn mạnh đến sự điều hòa những ước vọng vật
chất cũng như tinh thần của cá nhân với các nhu cầu xã hội của cộng đồng và các
nhu cầu chính trị của quốc gia. Nó nhằm tìm kiếm một con đường trung dung giữa
chủ nghĩa cá nhân tư bản và chủ nghĩa tập thể mác-xít."
Một nữ ký giả Hoa Kỳ, bà Suzanne Labin, vốn có rất nhiều mối liên hệ với các viên chức của chế độ VNCH dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm, trong cuốn sách Vietnam, an eye-witness account, có trích lại bài viết về chủ nghĩa Nhân Vị của bà Ngô Đình Nhu (đăng trên báo The Wanderer ngày 4.6.1964) lúc bấy giờ bà đang sống lưu vong ở hải ngoại sau biến cố đảo chính 1-11-1963.
"Đối với những người tị nạn đã trưởng thành, cần lao nhân vị là những tiếng quen biết. Cũng có lẽ vì quen biết quá nên không mấy ai lưu tâm đến ý nghĩa của nó. Sự thật, mấy tiếng đó xếp lại bên nhau có thể tạo nên một phương châm thiết thực nhất và cao cả nhất cho đời sống cá nhân và xã hội. Cần lao nhân vị gọn gàng là một triết lý của đạo làm người. Cần lao không có nghĩa là làm việc suông, vì chữ “Cần” nói lên rằng người làm việc đang tâm hướng về một mục tiêu nào đó. Và mục tiêu này được tức khắc bày tỏ bằng hai tiếng nhân vị. Cần lao là để phát huy và để bảo tồn nhân vị, chứ không phải để phục vụ tư lợi hay để làm mọi cho giai cấp đấu tranh. Nói cách khác, “Cần Lao Nhân Vị” là đặt giá trị con người trên việc làm, và con người lấy việc làm để củng cố chỗ đứng của mình giữa trời và đất."
Khi chúng tôi nói đến sự tương phản giữa lao động và tư bản, không
phải chúng tôi nói đến một quan niệm trừu tượng hay một mãnh lực phi vị
(impersonal) đang chuyển hành trong cuộc sản xuất kinh tế. Đàng sau cả hai quan
niệm đó (lao động và tư bản) vốn có con người sống động, con người như thấy
được trong thực tế của cuộc đời.
Vì
đó, vấn đề lao động trở thành vấn đề cần lao, nó không còn là nô lệ của lợi tức
như trong chủ thuyết tư bản, hay nô lệ của đảng phái, như trong chế độ Cộng
Sản, mà nó là của con người làm việc, của xã hội loài người. Thông điệp đề cập
đến một lối xã hội hóa gọi là xã hội hóa thỏa đáng (satisfactory socialization)
khác hẳn với lối xã hội hóa với nhà nước hay đảng làm chủ nhân ông của Cộng
sản. Xã hội hóa thỏa đáng là đem một số các phương tiện sản xuất làm của chung
nhưng dưới sự điều động của cần lao và tư bản. Như thế sẽ thực hiện được chủ
thuyết bảo toàn giá trị con người, mà thông điệp gọi là thuyết nhân vị
(personalism).
Với chính sách đặc thù của Cố Tổng thống Ngô Đình Diệm, “Cần Lao Nhân Vị” là một chính sách được trình bày với màu sắc của địa phương. Con người không được quan niệm như là tối thượng, mà là một loại đầu đội Trời chân đạp đất. Ở trong tam tài “Thiên Địa Nhân”, con người không thể nào hơn Ông Trời, nhưng lại không thể nào thua vật chất. Đất, và tất cả những gì thuộc về đất, là để phục vụ con người. Nói một cách khác, con người không thể hoàn tất phận sự của mình nếu không xử dụng vật chất. Cần lao, sự chăm chú làm việc, cốt là để thể hiện giá trị con người, cốt là để tô bồi chỗ đứng của con người.
Với chính sách đặc thù của Cố Tổng thống Ngô Đình Diệm, “Cần Lao Nhân Vị” là một chính sách được trình bày với màu sắc của địa phương. Con người không được quan niệm như là tối thượng, mà là một loại đầu đội Trời chân đạp đất. Ở trong tam tài “Thiên Địa Nhân”, con người không thể nào hơn Ông Trời, nhưng lại không thể nào thua vật chất. Đất, và tất cả những gì thuộc về đất, là để phục vụ con người. Nói một cách khác, con người không thể hoàn tất phận sự của mình nếu không xử dụng vật chất. Cần lao, sự chăm chú làm việc, cốt là để thể hiện giá trị con người, cốt là để tô bồi chỗ đứng của con người.
- NHÂN VỊ
- khoảng giữa trời cao và đất rộng.
Trong
xã hội “CẦN LAO NHÂN VỊ”,
cố nhiên không có cảnh con người làm nô lệ con người, huống hồ là làm nô lệ
phương tiện sản xuất. Nơi đây, chỉ có đồng lao cộng tác để thành tựu cuộc cách
mạng NHÂN VỊ,với hình thức không gian ba chiều.
Về
chiều sâu, con người cần lao luyện tập cho có thành tâm thiện ý. Phải tu thân
đã mới mong tề gia và bình thiên hạ. Việc cách mạng phải ăn cả về chiều rộng,
vì con người cần phải tri kỷ, tri nhân, cho nên phải sống trong cộng đồng và
phải cùng nhau đồng tiến. Chiều cao của cuộc cách mạng nhân vị là nhờ cần lao
mà vươn lên, vươn đến Chân, Thiện, Mỹ để thông cảm với người lãnh đạo đất nước. Trong chính sách cần
lao nhân vị, con người sẽ làm viên mãn điều mà "bổn phận và lương
tri" bảo phải làm trong bất cứ trường hợp nào (nên nhớ lại lời Cố
Tổng Thống Ngô Đình Diệm trả lời cho Đại sứ Hoa Kỳ Cabot Lodge chiều ngày 1
tháng 11 năm 1963, khi cụ Diệm hỏi đại sứ này về thái độ của Washington với
cuộc chính biến).
Tư liệu sau đây nói về chính sách, kế hoạch quốc gia của VNCH lúc bấy giờ:
"Thuyết Nhân Vị Á Đông do La Sơn Phu Tử Thời Đại Ngô Đình Nhu đề xướng được ông giản lược bằng phương trình sau đây:
Tư liệu sau đây nói về chính sách, kế hoạch quốc gia của VNCH lúc bấy giờ:
"Thuyết Nhân Vị Á Đông do La Sơn Phu Tử Thời Đại Ngô Đình Nhu đề xướng được ông giản lược bằng phương trình sau đây:
“TAM
TÚC + TAM GIÁC = TAM NHÂN”
A TAM TÚC
1.- Về Tư Tưởng là tự mình
suy luận, cân nhắc mà lựa chọn một chính nghĩa để phụng sự và một khi đã chọn
rồi thì không còn lay chuyển nữa. Chính nghĩa đó là cuộc cách mạng chính trị,
xã hội, quân sự mà ta đang cụ thể hóa trong các Ấp Chiến Lược. Sau đó ta tự
phát huy chính nghĩa trong tâm hồn, tự học tập và tự bồi dưỡng tinh thần của
ta, không cần ai thôi thúc. Tự túc về tinh thần, về tư tưởng, thì tất nhiên
trong mọi trường hợp khó khăn ta vẫn vững tâm, hoặc dù có nội loạn ở Thủ Đô Sài
Gòn chăng nữa, thì ta cũng không bị hoang mang hay bị lung lạc. Tự túc về tư
tưởng để phát huy và bành trướng chủ nghĩa. Muốn được vậy thì phải:
2.- Về Tổ chức và Tiếp Liệu, là tự ta tìm tòi, phát huy sáng kiến để có nhiều nhân vật lực để hoạt động, không ỷ lại vào sự giúp đỡ của người khác. Chính phủ chỉ cần giúp ta một số vốn căn bản, dựa vào đó ta tìm cách biến cải thêm để hành động và mở rộng phạm vi hoạt động. Chẳng hạn hiện giờ ta thiếu kẽm gai để làm Áp Chiến Lược, thì ta cố gắng tìm vật liệu khả dĩ làm tê liệt cơ thể bất cứ ai động đến (như đồng bào Thượng đã làm trên cao nguyên); hoặc dùng địa hình địa vật để lồng hệ thống bố phòng ACL vào trong đó, đỡ cần đào hào hay rào kẽm gai. Muốn thực hiện Tự túc về Tổ chức thì cần phải:
3.- Về Kỹ thuật, là tự phát huy khả năng chiến đấu, và khai thác, phát triển khả năng của nhân vật lực sẵn có đến tột mức 100 phần trăm.
Ba bộ phận của Tam Túc có liên hệ mật thiết với nhau: muốn Tự túc về Tổ chức mà không Tự túc về Kỹ thuật thì Tổ chức không thành; thiếu Tự Túc Tư Tưởng thì tất nhiên sẽ không có Tự Túc Tổ Chức và Tự Túc Kỹ Thuật. Từ quan niệm Tam Túc đó phát sinh ra quan niệm Tam Giác.
B. TAM GIÁC là:
1.- Cảnh giác về Sức Khỏe (thể xác) nghĩa là không được đau ốm. Do đó ta phải tránh tất cả những việc làm phương hại cho thân xác ta như đau ốm, tứ đổ tường. Bảo đảm sức khỏe thì mới bảo đảm được khả năng làm tròn nhiệm vụ.
2.- Cảnh giác về Đạo Đức và Tác Phong Đạo Đức, vì tác phong và đạo đức là điều kiện cốt yếu của cán bộ, thiếu tác phong đạo đức sẽ chi phối tư tưởng, sẽ biến khả năng làm việc thiện ra việc ác, chưa kể việc thất nhân tâm.
3.- Cảnh giác về Trí Tuệ là phát huy óc sáng tạo, sáng tác khả năng chiến đấu của nhân vật lực sẵn có đến tột độ.
Vậy, không có sức khỏe, đau ốm sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến óc sáng tạo và thu hẹp phạm vi hoạt động của đạo đức. Không có óc sáng tạo thì dù có sức khỏe, có đạo đức, cũng không có khả năng bồi bổ vào sự thiếu thốn nhân vật lực, là tình trạng của một nước chậm tiến. Có sức khỏe, có óc sáng tạo, nhưng không có đạo đức, thì sức khỏe ấy, óc sáng tạo ấy, sẽ phục vụ cho phi nghĩa, không phải cho chính nghĩa..." [8]
Thật sự nhà lãnh đạo về tư tưởng Ngô Đình Nhu một La Sơn Phu Tử thời đại của nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa đã thấy được sự cần thiết của một thứ vũ khí tư tưởng trong cuộc chiến tranh ý thức hệ đối diện với Miền Bắc theo chủ nghĩa Cộng Sản. Tiếc thay khi Việt Nam Cộng Hòa và người sáng lập đang mang hoài bão để huấn luyện và trang bị cho cán bộ và nhân dân Miền Nam thứ vũ khí cần thiết này, thì Hoa Kỳ, người bạn đồng minh của chúng ta, đã không chia sẻ cùng một tâm thức như vậy. Trái lại đối với cộng sản Bắc việt thì Lê Duẩn sau khi bị “Toán Đặc Vụ Miền Trung” của ông Cố Vấn Ngô Đình Cẩn gửi vào Sài Gòn bắt hụt ở Vườn Tao Đàn phiá sau Nhà Kiếng của Tổng Liên Đoàn Lao Công, sau khi thoát lưới tử thần của Toán Đặc Vụ Miền Trung do ông Dương Văn Hiếu chỉ huy thì chính Lê Duẩn đã báo cáo trước Bộ Chính Trị Cộng sản trong kỳ Đại Hội Đảng lần thứ hai tại Hà Nội vào cuối năm 1959 là:
“Chúng ta đã gập đối thủ miền nam. Chính quyền Ngô Đình Diệm đã
lê máy chém đi cả nước để tiêu diệt chúng ta.”
Cuộc chiến tranh ý thức hệ giữa hai miền Nam và Bắc Việt Nam, một cuộc chiến mà ngay đến cái tên gọi của nó vẫn còn là một vấn đề tranh cãi , sau Nghị quyết 15 năm 1959 của CSBV để đối đầu với Đạo Luật 10/59 của chế độ VNCH đã được đánh dấu bởi những biến cố lịch sử quan trọng cần phải được nhìn đến trước khi đi sâu vào nghiên cứu lại sự kiện
Cuộc chiến tranh ý thức hệ giữa hai miền Nam và Bắc Việt Nam, một cuộc chiến mà ngay đến cái tên gọi của nó vẫn còn là một vấn đề tranh cãi , sau Nghị quyết 15 năm 1959 của CSBV để đối đầu với Đạo Luật 10/59 của chế độ VNCH đã được đánh dấu bởi những biến cố lịch sử quan trọng cần phải được nhìn đến trước khi đi sâu vào nghiên cứu lại sự kiện
Khu trù mật và Ấp chiến lược.
Trước khi nói đến các cơ cấu trên đây, thiết tưởng cần nhắc đến chính sách Dinh Diền được tổ chức trước đó qua việc thiết lập Phủ Tổng Ủy Dinh Điền để thấy rằng các nhà lãnh đạo của nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa đã có một cái nhìn xuyên suốt trong chính sách an dân của mình.
Ngày 17.9.1954, Thủ tướng Ngô Đình Diệm ký nghị định số 928-NV thành lập Phủ Tổng Ủy Di Cư Tị Nạn, ngang hàng với một bộ trong Nội các, do ông Ngô Ngọc Đối làm Tổng Ủy Trưởng. Bên cạnh đó, vì số người Công Giáo di cư gần khoảng 70% trên tổng số tị nạn nên có một tổ chức cứu trợ tư nhân với tên Ủy Ban Hỗ Trợ Định Cư do Giám mục Phạm Ngọc Chi điều khiển. Tổng số dân rời bỏ miền Bắc để vào miền Nam là 875478 người và họ được đưa đến Sài Gòn, Vũng Tàu hay Nha Trang, sau đó đi định cư các nơi khác như Bình Tuy, Cái Sắn, Tân Mai…tùy ý họ lựa chọn.
Nói chung đối với hầu hết các cơ chế được tổ chức dưới thời Đệ nhất Việt Nam Cộng Hòa và một khi đã bị giải thể hay bị chính quyền kế tiếp coi như là một thứ con ghẻ không hề lưu tâm tới (trong thời Đệ nhị Việt Nam Cộng Hòa) tất nhiên sự kiện đó đã góp thêm rất nhiều yếu tố thuận lợi cho biến cố Tết Mậu Thân, mà rõ ràng nhất là “Hệ thống Khu Trù Mật và Ấp Chiến Lược” được tổ chức và nâng lên thành quốc sách dưới thời Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
Ngày nay ai cũng biết hệ thống tổ chức “Khu trù mật và Ấp chiến lược” là sáng kiến rất đỗi lợi hại của Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Cố Vấn Ngô Đình Nhu, nhờ đó mà bọn du kích Cộng Sản đã một thời khốn đốn không hoạt động được gì hữu hiệu. Thật ra việc gom dân lập ấp là một kinh nghiệm lịch sử quý báu của tiền nhân trong lúc đất nước có chiến tranh.
Người có sáng kiến tiên khởi về ấp chiến lược có
lẽ phải kể đến Tĩnh Man Tiễu Phủ Sứ Nguyễn Tấn (1820-1871), tỉnh Quảng Ngãi.
Năm 1863, Nguyễn Tấn đã áp dụng kế sách đó trong việc đánh dẹp người Mọi Đá
Vách, Quảng Ngãi.
Một sử liệu của Triều Nguyễn, Đại Nam Thực Lục, đã
ghi lại như sau:
"Mới đặt chức Tiễu phủ sứ ở cơ Tĩnh man tỉnh Quảng Ngãi. Phàm các việc quan hệ đến sự phòng giữ dẹp giặc, thăng cử, chọn thải, lấy lương, gọi lính sát hạch, thì cùng bàn với chánh phó lãnh binh chuyên coi một nha mà tâu hoặc tư. Lấy người hạt ấy là Nguyễn Tấn lãnh chức ấy. Tấn trước đây thự án sát Thái Nguyên, khi ấy quân thứ Thái Nguyên dần yên, nghe tin bọn ác man hung hăng, dâng sớ xin về bàn bạc để làm, trong 1, 2 năm có thể xong. Vua thấy giặc Man có phần cần cấp hơn, bèn y cho. Đến đây, chuẩn cho thăng hàm thị độc sung lãnh chức ấy, cấp cho ấn quan phòng bằng ngà. Tấn dâng bày phương lược: (nói: việc đánh giặc vỗ dân cần làm những việc khẩn cấp trước. Về 3 huyện mạn thượng du, phàm những dân ở linh tinh, tiếp gần với địa phận núi thì, tham chước theo lệ của Lạng Sơn đoàn kết các dân ở cõi ven một hay hai khu, đều đào hào đắp lũy, cổng ngõ cho bền vững. Nếu có lấn vào ruộng đất của ai thì trừ thiếu cho. Còn 1, 2 nhà nghèo, ở riêng một nơi hẻo lánh, thì khuyên người giàu quyên cấp cho dỡ nhà dời về trong khu; còn đất ở thì không cứ là đất công hay đất tư đều cho làm nhà để ở. Các viên phủ huyện phụ làm việc ấy, liệu nơi nào hơi đông người thì bắt đầu làm ngay, nơi nào điêu háo (ít dân), thì phái quân đến phòng giữ, ngăn chận, dần dần tiếp tục làm, để thư sức dân."
Cách đây hơn nửa thế kỷ, chế độ Việt Nam Cộng Hòa dưới sự lãnh đạo
anh minh của Ngô Tổng Thống và nhà chiến lược tài ba La Sơn Phu Tử Thời Đại Ngô
Đình Nhu đã khai sinh cùng với các quốc sách được ban hành như Khu trù
mật và Ấp chiến lược nhằm giải quyết cho công cuộc định cư của gần một
triệu đồng bào từ bắc di cư vào nam và sau đó để đối phó với chính sách khủng
bố của du kích Cộng sản tái hoạt động ở các vùng nông thôn miền nam.
Khu Trù Mật là một cộng đồng nông nghiệp được chính quyền thành lập và gom thôn dân vào đấy sinh sống trong những thôn xóm hẻo lánh, xa cách các trục giao thông, do đó, chính phủ không thể kiểm soát được. Trước sự đe dọa của chiến tranh xâm lược Miền Bắc, Tổng Thống Ngô Đình Diệm quyết định tập trung thôn dân sinh sống rải rác vào Khu Trù Mật, để tiện bề kiểm soát họ, đồng thời cô lập "Việt Cộng", tách địch ra khỏi dân giống như cá thiếu nước không thể sống tồn tại được. Mỗi Khu Trù Mật có khoảng 3.000 đến 3.500 dân, có hạ tằng cơ sở giống tựa như trường hợp của một thành phố:
* Một khu thương nghiệp (với một ngôi chợ xây cất bằng gạch và tiệm buôn bán).
* Một khu hành chánh (có một chi nhánh bưu điện), xã hội (một bảo sanh viện, một nhà trẻ) và văn hóa (các trường tiểu học và trung học cấp I, một phòng thông tin, nhà thờ và chùa chiền).
Các Khu Trù Mật được điện khí hóa. Vị trí của chúng được chọn lựa kỹ lưỡng, hội đủ các điều kiện thuận lợi để phát triển (đất đai trù phú, gần các trục giao thông).
* Khu Trù Mật có thể phát triển nông nghiệp, diện tích đất trồng có thể được nới rộng nhờ khẩn hoang thêm đất màu mỡ, để trong tương lai, các thế hệ trẻ tấn lên trở thành điền chủ.
* Khu Trù Mật có thể phát triển thương nghiệp và các lãnh vực dịch vụ khác, cùng phát triển các tiểu thủ công nghệ lên hệ với ngành nông nghiệp địa phương.
* Nhờ Khu Trù Mật, chính quyền có thể cải thiện điều kiện sinh sống của thôn dân: cư trú tập trung cho phép chính phủ thực hiện nhiều công trình phục vụ nhân dân, ít đòi hỏi nhiều đầu tư hơn hình thức cư trú lẻ tẻ, rải rác (chẳng hạn như công tác thủy nông, điện khí hóa, xây cất trường học, nhà bảo sanh v.v...)
Khu Trù Mật là nơi bảo vệ dân chúng chống lại chiến tranh xâm lược của Cộng Sản Bắc Việt. Ngoài việc kiểm soát dân chúng trong Khu Trù Mật, chính quyền địa phương còn trang bị vũ khí cần thiết, để nếu cần, có thể biến Khu Trù Mật thành một "tiền đồn", ngăn chặn đoàn quân Bắc Việt xâm nhập vào Nam.
Bởi vậy các Khu Trù Mật thường được thiết lập tại các địa điểm có tính cách chiến lược, dọc theo biên giới hoặc xung quanh một thành phố lớn, để tạo một vành đai an ninh. Đồng thời Khu Trù Mật cũng là thị trường tiêu thụ các nông sản và các chế phẩm tiểu thủ công nghiệp. Chính phủ cấp phát cho mỗi gia đình định cư một mảnh đất 3.000 m 2, để xây cất một ngôi nhà (với vật liệu do chính quyền địa phương cung cấp), một chuồng heo và một chuồng gà. Mỗi gia đình có một mảnh vườn cây ăn trái hoặc một mảnh vườn rau để tự túc mưu sinh."
Sử gia Robert Scigliano, thuộc viện đại học Michigan, cho biết Cộng Sản Hà Nội tuyên truyền phản đối chính sách Khu trù mật vì ngoài việc ngăn chặn Cộng Sản xâm nhập vào nông thôn, các Khu trù mật được xây dựng ở những vùng chiến lược chẳng hạn dọc theo một con đường chính hay một trục thủy lộ gây trở ngại rất nhiều cho việc chuyển quân của Cộng Sản. [11]
Trong tác phẩm “Ngo Dinh Diem en 1963: Une autre paix manqué”, tác giả Nguyễn Văn Châu, cựu Trung tá, nguyên Giám đốc Nha Chiến Tranh Tâm Lý, Bộ Quốc Phòng cho rằng sự chỉ trích chính quyền về Khu Trù Mật chỉ nhắm vào những chuyện xấu về nhân sự, và dư luận đối lập đi xa hơn nữa cho rằng chính quyền ép buộc dân bỏ làng mạc nhà cửa.
Đối với bài học lịch sử cũ về Ấp Chiến Lược, thiết tưởng cần đọc Suzanne Labin, một nhà văn kiêm phân tích gia vốn nhiều lần tới thăm Miền Nam Việt Nam trong thời gian Đệ nhất Việt Nam Cộng hòa, từng được Tổng Thống Ngô Đình Diệm tiếp kiến nhiều lần, đã có những buổi thuyết trình chính trị tại Sài Gòn và nói chuyện tại một số tỉnh. Trong cuốn sách Vietnam, an eye-witness account (bản tiếng Pháp nhan đềVietnam, révélation d'un témoin), Suzanne Labin từng viết:
"Khi nhà Ngô bị lật đổ, có tám ngàn(8,000) ấp chiến lược đã được
thành lập xong và đang vận hành, với dự trù khoảng bốn ngàn ấp nữa cần thiết để
bảo vệ cả nước. Nông dân sống rải rác dọc theo các con kênh, được yêu cầu dời
chuyển để qui tụ lại thành nhiều làng, tập trung theo kiểu Âu châu. Mỗi làng
được rào vững chắc bằng hàng rào kẽm gai hoặc hàng rào tre vót nhọn đằng sau có
tăng cường hệ thống hào rộng gài mìn để chận đứng Việt Cộng mò vào ban đêm.
Trong ấp, mỗi gia đình đều được khuyến khích đào một hầm trú ẩn ngay trước nhà
họ.
Tại sao vậy?
Khi Việt Cộng tấn công, trước đây người dân thường
quá sợ nên chạy tứ tung gây trở ngại cho lực lượng bảo vệ nhiều khi bắn cả vào
người nhà mình. Từ khi có hầm trú, người già và trẻ con cứ việc núp dưới hầm để
xạ trường quang đảng cho lực lượng chiến đấu hành sử”
Người dân làng được đoàn ngũ hóa theo tuổi tác, giới tính, và tùy theo khả năng mà được giao cho một phần vụ đặc biệt. Lực lượng tự vệ và thanh niên cộng hòa là những đơn vị chiến đấu; những dân làng khỏe mạnh khác thì tham gia công tác phòng vệ, thanh thiếu niên thì vót chông. Người có nhiệm vụ chiến đấu được cấp vũ khí cá nhân mang luôn bên mình ngay cả khi ở nhà. Nhiều làng mạc được trang bị thêm xe thiết giáp hoặc súng liên thanh. Máy truyền tin được cung cấp giúp cho các người bảo vệ ấp chiến lược có thể gọi ngay lực lượng chính quy đến một khi bị tấn công. Nhiệm vụ chính của làng là cầm chân kẻ thù, vô hiệu hóa chúng ngoài các vành đai của ấp, cố ngăn chúng không lủi mất vào rừng trong khi lực lượng chính quy kéo tới. Bấy giờ, Việt Cộng thấy quá khó khăn khi xâm nhập một vùng dân cư có phòng thủ và ngay cả rút lui cũng thấy nhiều trở ngại.
Bà Suzanne Labin còn nhắc lại câu nói có tính cách cô đọng của Tổng Thống Ngô Đình Diệm rằng:
"...để nghiền nát quân thù giữa CÁI BÚA của sức mạnh cơ động
và HÒN ĐE của các ấp chiến lược."
Bà cho rằng ấp
chiến lược chính là tâm điểm của một cuộc cách mạng chính trị và xã hội : đó là
lý do tồn tại của Ấp chiến lược vì đã đưa lại một nền tảng vững chắc cho sự
tiến bộ về kinh tế.
Chính sách Ấp chiến lược được thực hiện từ năm 1961 với sự cố vấn của Sir Robert Thompson, chuyên viên về chiến thuật phản nổi dậy người Anh cùng với hai người bạn là Desmond Palmer và Dennis Duncanson được kể là một kế hoạch táo bạo nhất của Tổng Thống Ngô Đình Diệm
Nhận định tổng quát về kết quả của chính sách Ấp chiến lược, tác giả Nguyễn Văn Châu đã khẳng định:
"Quốc sách Ấp chiến
lược sau hai năm đã thành công trong việc ngăn chặn làm cho Việt Cộng không còn
sống bám rút bòn nhân dân. Vấn đề an ninh làng ấp được vững vàng hơn, quân đội
chính quy quốc gia trở thành lực lượng hành quân chủ động gây cho du kích cộng
sản nhiều thất bại đáng kể, khiến cho các lực lượng du kích rơi vào thế bị động
và mất thăng bằng sau khi đã mất hạ tầng cơ sở. Tinh thần quân đội quốc gia lên
cao, dân chúng được bảo vệ an ninh và du kích Việt Cộng càng ngày càng hồi
chánh về đầu thú với chính quyền Việt Nam Cộng Hòa."
Trong cuộc phỏng vấn của Đài Phát Thanh Tự Do Úc Châu nhân ngày kỷ niệm 43 năm TỔng Thống Ngô Đình Diệm và Cố Vấn Ngô Đình Nhu bị Trần Thiện Khiêm và nhóm phản loạn hạ sát vào ngày 2 tháng 11 năm 1963 người viết đã xác nhận ưu thế của quốc sách ấp chiến lược gây cho lực lượng xâm lăng của Cộng Sản nhiều khó khăn và thất bại trước đây, đã thẳng thắn bày tỏ rằng: "Cùng với thời gian và sự tìm hiểu những tư liệu lịch sử, tôi thấy cần phải trả lại lẽ công bằng cho nhân vật lịch sử này... Tôi cho rằng Tổng Thống Ngô Đình Diệm là một nhân vật chính trị đặc sắc, có lòng yêu nước sâu sắc, có tính cương trực thanh liêm, nếp sống đạm bạc giản dị."
Một khi chính sách Ấp chiến lược đã bị nhóm tướng lãnh làm đảo chánh giải thể, an ninh nông thôn bị bỏ ngỏ trăm phần trăm thì việc lực lượng võ trang VC xâm nhập thành phố một cách rất dễ dàng như sẽ thấy qua vụ Tết Mậu Thân thiết tưởng cũng là điều dễ hiểu. Nhóm quân phiệt cầm quyền chỉ cần có chỗ dựa là Hoa Kỳ mà không cần chỗ dựa cốt yếu là nhân dân. Bởi thế cho nên khi Hoa Kỳ bàn giao một nửa đất nước Việt Nam vào tay Cộng Sản, bọn họ chỉ có việc im lặng thi hành và một vài lời phản đối chỉ là cử điệu chiếu lệ, giả dối mà thôi.
Công tác tình báo.
Nhắc lại các hoạt động tình báo thời Đệ nhất Việt Nam Cộng Hòa để thấy rằng qua biến cố Tết Mậu Thân như chúng ta sẽ bàn đến trong phần sau, dư luận đã lên án việc Hoa Kỳ và chính quyền của Đệ Nhị VN Cộng Hòa đã không coi trọng vấn đề tình báo trước các hoạt động của CS. Chính nhờ công tác tình báo được thực hiện rốt ráo và nghiêm minh dưới thời Đệ nhất Việt Nam Cộng Hòa đã bảo đảm cho sự vững mạnh của chế độ trong một thời gian dài.
Cơ quan tình báo trung ương cần nói tới dưới thời Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa là Sở Nghiên Cứu Chính Trị Xã Hội của bác sĩ Trần Kim Tuyến, trực thuộc Phủ Tổng Thống tức là CIA/VN do sự gợi ý của Hoa Kỳ. Tác giả Vĩnh Phúc trong cuốn Những huyền thoại & sự thật về chế độ Ngô Đình Diệm đã viết nhiều về Sở Nghiên Cứu Chính Trị Xã Hội, cho biết có sự bất đồng giữa người Mỹ và hai ông Nhu-Tuyến về hoạt động của sở này, thí dụ "phía VNCH muốn thả người ra ngoài Bắc để phá hoại, rải truyền đơn tuyên truyền về chính trị..., trái lại Mỹ chỉ muốn tung người ra, cho nằm yên, len lỏi vào các hàng ngũ quần chúng, chính quyền và nếu có thể thì cả tổ chức Đảng, để tìm hiểu. Tuyệt đối không được có hành động phá hoại. Chỉ cần nằm cho thật yên, ghi nhận, và nếu được thì tìm cách leo càng cao, lặn càng sâu, càng tốt. Để đến khi nào hữu sự, cần thiết, thì mới ra tay hành động. Nhưng vẫn không phải là các công tác phá hoại. Người Mỹ đã huấn luyện nhân viên Việt Nam cách sử dụng các loại máy truyền tin, cách đưa tin, cách chôn giấu tài liệu, vũ khí, cách sử dụng hóa chất trong ngành tình báo..."
Ông Trần Kim Tuyến điều khiển, là một người tương đối trong sạch, có đạo đức, nhiệt tâm làm việc. Sở Nghiên Cứu Chính Trị Xã Hội do ông điều khiển, có trên 500 nhân viên, mặc dù bị vài người trong bộ máy lãnh đạo chính quyền ghét nhưng cũng đã làm được nhiều việc trong lãnh vực an ninh, tình báo. Đó là chưa kể đến Tổng Đoàn Thanh Thiếu Niên Dân Vệ được điều động trực tiếp bởi ông cố vấn Ngô Đình Nhu.
Sau ngày chế độ Đệ nhất Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ bởi đám tướng lãnh đại việt tay sai ngoại bang hận thù với Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Cố Vấn Ngô Đình Nhu, họ đã xuyên tạc và bôi bẩn chế độ qua báo chí nói nhiều về tổ chức "Mật vụ Ngô Đình Cẩn" tại Miền Trung, nhưng thực chất họ hoàn toàn không biết một chút gì về tổ chức này, nên đã viết với giọng điệu vu khống, xuyên tạc đầy ác ý.
Trong tác phẩm “Dòng họ Ngô Đình, ước mơ chưa đạt” tác giả Nguyễn Văn Minh cho biết vào nửa năm đầu năm 1957, ông Ngô Đình Cẩn đã đề nghị lên Tổng Thống Diệm xin cho ông thực hiện một chính sách được ông gọi là "Chiêu Mời Và Sử Dụng Những Người Kháng Chiến Cũ", "Để giúp thành phần này dễ dàng thấu hiểu và chấp nhận chính sách, ông cho áp dụng kỹ thuật khai thác và chế độ giam giữ đặc biệt đối với những người bị bắt. Danh từ CHIÊU MỜI sau được đổi là CẢI TẠO theo đề nghị của các cán bộ Cựu Kháng Chiến."
Sau
khi đề nghị được chấp thuận, ông Ngô Đình Cẩn giao cho ông Dương Văn Hiếu thành
lập Đoàn Công Tác Đặc Biệt gồm có 10 nhân viên với chủ trương
cùng ăn chung, ở chung, chơi chung, ngủ chung với tù nhân Cộng Sản. Đoàn được
tổ chức thành 4 ban: nghiên cứu, tuyên huấn, cải tạo, quản trị. Sau đây là ghi
nhận của Dư Văn Chất, một cán bộ tình báo của CS trong cuốn “Người Chân
Chính”:
"Đây là một ngành an ninh đích thực, nhưng là một "siêu
tổ chức" với nhiều đặc thù mà không có bộ máy nào của Ngụy so sánh được.
Nó tập trung quyền lực cao độ: cực quyền, với các phương thức hoạt động hết sức
tinh vi, hiểm độc và tàn bạo. Trong cái nhà tù không song sắt, Công an Mật vụ
cùng với kháng chiến Việt Cộng, ăn chung, ngủ chung, chơi chung và công tác
chung. Chuyện khó tin mà có thật, và chỉ có được trong thời điểm lịch sử nhất
định. Bắt đầu từ cuộc đấu tranh chính trị đòi hiệp thương tổng tuyển cử cho tới
tiếng súng đồng khởi hạ màn kết thúc. Thành tích chống Cộng của Mật vụ Ngô Đình
Cẩn - Dương Văn Hiếu thật diệu kỳ. Chúng đánh phá thẳng vào các cơ quan đầu não
của các Đảng bộ miền Trung như Liên khu Ủy khu Năm, tỉnh ủy Thừa Thiên, thành
ủy Huế rồi Đà Nẵng. Tiến xuống phía Nam, chúng tấn công cơ sở đặc khu Sài Gòn
Chợ Lớn, Thủ Biên, Cần Thơ. Nổi bật nhất là mật vụ miền Trung đánh bắt gọn các
lưới tình báo chiến lược của cộng sản trải suốt từ Bến Hải tới Sài Gòn trong
vòng chỉ có một năm."
Theo tác giả Nguyễn Văn Minh, do phương pháp khai thác độc đáo, chế độ nhà tù đặc biệt chưa từng có, chính sách “Cải Tạo Và Sử Dụng Những Người Kháng Chiến Cũ” đã thâu đạt được kết quả gây ngạc nhiên cho mọi người. Năm 1985, tôi có ở chung trại tù Nam Hà (tỉnh Hà Nam Ninh) với ông Lê Phước Thưởng, một cán bộ phái khiển của VC về đầu thú chính quyền quốc gia thời ông Ngô Đình Cẩn. Trong câu chuyện, ông Lê Phước Thưởng luôn luôn tỏ ra kính phục ông Ngô Đình Cẩn, và đúng như tác giả Nguyễn Văn Minh viết, ông Thưởng sẵn sàng đánh lộn với những ai nói xấu ông Cẩn hoặc Đoàn Công Tác Đặc Biệt.
Một
cơ quan khác cũng chuyên lo về vấn đề an ninh, tình báo trong quân đội, đó là
Nha An Ninh Quân Đội đặt tại Thủ đô Sài Gòn, và tại mỗi tỉnh đều có một Ty An
Ninh Quân Đội phụ trách công tác này tại địa phương. Theo bài báo “Sớm đầu
tối đánh”, trong thời gian Đỗ Mậu làm Giám Đốc An Ninh Quân Đội, vì biết
khả năng kém cỏi của Đỗ Mậu nên "ông Ngô Đình Nhu đã giao cơ quan này
cho bộ ba Tống Đình Bắc (nguyên Trưởng Ty Đặc Cảnh Miền Bắc), Tống Tấn Sĩ và
Nguyễn Văn Minh phụ trách mọi công việc, vì Đỗ Mậu chẳng biết gì. Đỗ Mậu chỉ có
nhiệm vụ theo dõi và báo cáo. Thỉnh thoảng Đỗ Mậu cũng được giao cho một số
công tác đặc biệt, nhưng Đỗ Mậu thường làm hỏng hoặc làm không đến nơi đến
chốn."
Nói chung, các hoạt động tình báo dưới thời Cố Tổng Thống Ngô Đình
Diệm đã tỏ ra hữu hiệu, không như tình báo dưới thời của Tướng Nguyễn Văn
Thiệu, vì nhân viên về sau kém khả năng, làm việc chiếu lệ, không có tinh thần
nghề nghiệp và lòng nhiệt thành như thời gian Đệ nhất Việt Nam Cộng Hòa.
Về tác phong vị lãnh đạo của người đã khai sáng ra bốn chữ “Việt
Nam Cộng Hòa”, sử gia John M. Newman trong cuốn Tổng Thống John F. Kennedy
và cuộc chiến Việt Nam đã ghi:
"Khoảng đầu năm 1957 TổngThống Ngô Đình Diệm, bấy giờ là quốc
trưởng, đã dùng quyền hành của mình để chế ngự các giáo phái bất phục tùng và nghiền
nát các chi bộ Việt Minh ở đồng bằng sông Cửu Long; những thành tích này khiến
tổng thống Eisenhower ca tụng ông ta là CON NGƯỜI THẦN KỲ của Á Châu."
Minh Hùng, tác giả Đời Một Tổng Thống, in tại Sài Gòn năm 1971, đã có ghi lại lời phát biểu của cụ Phan Bội Châu về việc ông Diệm rũ áo từ quan năm 1933 như sau:
"Ông Ngô Đình Diệm, con người có tâm huyết, biết thương giống
nòi, biết nhục vong quốc, nên ông dám chống lại cường quyền, lui về ẩn tích,
đợi thời tuyết sỉ. Đó mới là đáng bậc CHÍ SĨ, VĨ NHÂN, tất sau này cuộc Phục
Hưng chỉ có hạng người ông Diệm mới làm nổi... Ta muốn tặng ông Diệm một bài
thơ để tỏ lòng kính trọng bậc thiếu niên hiền triết... Ông Diệm bây giờ mới là
ông lớn thật sự.”
Trong cuốn hồi ký Honorable Men/My life in the CIA, William E. Colby đã từng làm trưởng nhiệm CIA tại Sài Gòn từ tháng 6 năm 1960 đến 1962, đứng đầu ngành CIA từ năm 1973 đến 1975, đã viết về Tổng Thống Ngô Đình Diệm và chính sách của ông như sau: “...Sau khi trình bày cho giám đốc McCone nghe, tôi cùng ông tới tòa Bạch Ốc trong chiếc Limousine của ông và tôi đã thú nhận với ông ta rằng cái chết của hai ông (Diệm Nhu) làm cho riêng cá nhân tôi rất đau lòng; tôi đã từng quen biết họ và kính trọng cả hai người; tôi là một trong số rất ít người Mỹ đã có cảm tình đó, đặc biệt là về phần ông Nhu...”
“Ấp chiến lược tại Việt Nam” ở sách của Colby, cho biết Colby đã nói nhiều về tính cương nghị và cái uy của Tổng thống Ngô Đình Diệm biểu lộ trong những cuộc khủng hoảng chính trị và gọi ông Diệm là nhà ĐỘC TÀI NHÂN TỪ:
“Thực vậy, ông Diệm điều hành công việc như một ông quan cai trị.
MỘT NHÀ ĐỘC TÀI CÓ THIỆN TÂM (hay nhân từ, theo soạn giả), dùng quyền lực ép
dân phải bắt tay vào công cuộc phát triển (cộng đồng), vì lợi ích của chính họ,
bất chấp họ nghĩ gì về điều đó, độc đoán, thiếu dân chủ. Ông ta dùng - nhưng
lại than phiền về - hệ thống thư lại do Pháp đào tạo vào công việc đó, vì ông
tin rằng nó sẽ có thể được cải tiến dần dần và sẽ được thay thế bằng lớp người
sắp tốt nghiệp từ những trường huấn luyện về hành chánh, quản trị của Mỹ.”
Ở một
đoạn khác Colby viết: “Rõ
ràng đây là giai đoạn đầu của “chiến tranh nhân dân”, (Cộng sản đang) động viên
và tổ chức các lực lượng để dùng vào cuộc chiến. Và rõ ràng ở điểm này sự thách
thức có tính chính trị và khuynh đảo, chứ không phải là thứ cần đến các bộ tư
lệnh sư đoàn hay quân đoàn để đối phó. Mặt khác cuộc thách thức chính trị, tuy
vậy, cũng chẳng phải là loại mà giới thượng lưu trí thức có thiện ý nhưng không
có thực lực (cơ sở chính trị) ngồi trong khách sạn Caravelle để ra tuyên ngôn,
kêu gọi lập “chính phủ lương thiện, công chính”, “một quân đội anh dũng được
phấn chấn bởi một tinh thần duy nhất”, và một nền kinh tế “phồn vinh”, miễn là
chính phủ thay đổi đường lối. Và như vậy, theo ý tôi, những khuyến cáo có tính
mệnh lệnh của tòa Đại Sứ Mỹ ép ông Diệm phải bổ nhiệm những người chống ông vào
trong chính phủ, và cổ võ một cuộc điều tra của quốc hội theo kiểu Mỹ xem ra rất
không xác đáng. Theo thiển ý của tôi, cuộc đọ sức thực sự lúc ấy là ở thôn xã.
Những vấn đề căn bản hơn nằm ở đó.”
Nhận xét của Colby được ghi nhận như sau khi ông tới thăm các vùng
thôn quê Việt Nam:
“Đường xá được mở lại. Số trường học tăng nhanh ở thôn quê.
Chương
trình ngũ niên Diệt Trừ Sốt Rét xịt thuốc diệt muỗi được khởi sự để thanh
toán bệnh sốt rét rừng. Sức sản xuất lúa gạo bắt đầu tăng, xuất cảng gạo, lông vit... Những tiến bộ về kinh tế, xã hội lúc đó đã xuống đến nông
thôn... Đặc biệt kế hoạch “Khu trù mật” năm 1959, là kế hoạch được Tổng
Thống Diệm nâng niu nhất, bắt đầu với nhiều hứa hẹn. Những “đô thị” nông nghiệp
được xây dựng trên phần đất truất hữu của địa chủ theo chương trình cải cách
điền địa và được chia thành những khu trung tâm dân cư và vùng ruộng lúa...”
Nhưng chỉ một vài ngày sau biến cố 1-11-1963, Dương Văn Minh và nhóm tướng lãnh cầm đầu cuộc đảo chính như Lê Văn Kim, Trần Thiện Khiêm…đã cho lệnh phá bỏ 16.000 Ấp chiến lược, thả lỏng vòng rào kềm chế cho Việt Cộng mặc sức tung hoành ở nông thôn Miền Nam, bỏ tổ chức nghĩa quân, dân vệ, khiến Hoa Kỳ có cơ hội đổ quân ồ ạt vào Việt Nam, và chưa đầy 5 năm sau đã tạo một môi trường hết sức thuận lợi cho VC tiến hành cái gọi là cuộc Tổng Công Kích - Tổng Khởi Nghĩa với những hệ lụy rất trầm trọng.
Tướng
Tôn Thất Đính còn tuyên bố: "Ấp chiến lược đem lại ấm no nhưng không đem lại
hạnh phúc".(Sic!)
Với
cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và bào đệ Ngô Đình Nhu người mà chúng tôi
xin được phép được ví ông như một La Sơn Phu Tử Thời Đại, những nhà lãnh đạo
xuất sắc và tâm huyết của Việt Nam Cộng Hòa, Hoa Kỳ đã đạp đổ một mẫu người
thần tượng lãnh đạo của Miền Nam Việt Nam, những đối thủ đã từng gây lo sợ cho
chính quyền miền Bắc của Hồ Chí Minh, và đặt lên một nhóm tướng lãnh Đại Việt
cầm đầu đất nước mà chính Tổng Thống Hoa Kỳ Lindon B.Johnson mệnh danh là lũ
côn đồ ác ôn đáng nguyền rủa (a goddam bunch of thugs), số phận của Miền
Nam như vậy là đã được tính toán từ trước. Và biến cố Mậu Thân xảy ra cũng
không phải là điều đáng ngạc nhiên đối với ai có những chú tâm theo dõi thời
cuộc lúc bấy giờ.
Khi được
tin Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ và bị giết cùng với người bào đệ là cố
vấn Ngô Đình Nhu sau khi nhóm tướng lãnh đại Việt làm đảo chánh đã đưa hai ông vào
tra khảo đánh đập tại Tổng Nha Cảnh Sát tr6n đường Võ Tánh, Hồ Chí Minh
đã nói với ký giả Wilfred G. Burchett: "Tôi không ngờ rằng tụi
Mỹ ngu đến thế". Ellen J. Hammer trong cuốn A Death in November
cho biết: "Đài phát thanh Hà Nội đã
trích dẫn báo Nhân Dân nói rằng do sự lật đổ Ngô Đình Diệm và em ông là Ngô
Đình Nhu tụi đế quốc Mỹ đã tự mình hủy diệt những cơ sở chính trị mà họ đã mất
biết bao năm để xây dựng."
Gần nửa thế kỷ sau suốt
giòng lịch sử cận đại khi chúng tôi ngồi thu thập và viết lại những giòng chữ
này thì những nhân vật nhúng tay vào việc giết hại Tổng Thống Ngô Đình Điệm và
Cố Vấn Ngô Đình Nhu đang trình diện trước một “ĐẠI HỘI OAN HỒN” nơi
âm phủ là tòa án lương tâm, chắc chắn Mai Hữu Xuân, Trần Văn Đôn, Đương Văn
Minh…của nhóm phản loạn sẽ trình với ngài Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Cố Vấn
Ngô Đình Nhu về sự thật âm mưu đảo chánh và hạ sát vị sáng lập VNCH là do Trần
Thiện Khiêm và Lê Văn Kim chủ trương.
Chúng tôi sẽ có dịp viết ve cêái chết thật sự của Đại úy Nguyễn
văn Nhung trong trại giam Chí Hòa do cú đá của một trung sĩ giám thị (tôn thờ
Ngô Tổng Thống), trước khi được chở về trại Hoàng Hoa Thám để ngụy trang cái
chết tự tử. Nhân chứng sống là thiếu úy nhảy toán(1962-63) hiện có mặt tạo bắc
California bị nhốt chung tại phòng giam ở Khám Chí Hòa.
Cũng như chúng tôi sẽ viết về thiếu Úy Hồng thuộc Sư Đoàn 1 Bộ
Binh là người đã ném quả lựu đạn ám sát ông tỉnh trửơng Thừa Thiên Nguyễn Phước
Đảng khi xe ông ta tiến vào đài phát thanh Huế để kêu gọi sư sãi Huế ngưng làm
loạn, thì tiếp theo là vụ nổ của chất Plastic do trung úy James Scott(nhiều
sách viết lộn là Đại úy)… Sau đó thiếu Hồng đào ngũ về Sai gòn đăng lính vào
TĐ.6 nhảy dù và bị chết tại trận Cái lậy.
Nhân ngày kỷ niệm QUỐC KHÁNH 26 THÁNG 10 LẦN THỨ 53 CỦA VIỆT NAM
CỘNG HÒA DO TỔNG THỐNG NGÔ ĐÌNH ĐIỆM VÀ CÔ VẤN NGÔ ĐÌNH NHU SẮNG TẠO.
CM
Magazine xin thắp nén hương lòng tưởng niệm cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm và La
Sơn Phu Tử Thời Đại Cố Vấn Ngô Đinh Nhu.
Nguyên xin Thiên Chuá
Ba Ngôi phủ đầy hồng ân và thiên phước cũng như cất giữ linh hồn họ nơi nước
thiên đàng. Và giờ này linh hồn của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Cố Vấn Ngô Đinh
Nhu chỗ “Kẽ Đá Vững An” đang cất tiếng trong bài ca thánh
“Này Là Truyện Ký Tôi”. Amen.
Ngạn
ngữ Á Rập có câu: "Nếu anh bị chó
sủa, anh có cúi rạp mình xuống để cắn lại nó hay không?"
Chính
vì vậy tôi không mất thì giờ để ý đến tiếng sủa của chúng.
Chúng
thất vọng và nhục nhả vì bị tôi khinh rẻ nên chúng tự ái và mặc cảm mà quay qua
"cắn" lung tung cho đỡ tức tối.
Hãy
từ bi hỉ xả, lòng sẽ thanh thản.
Khẩu
nghiệp ! Khẩu nghiệp !
“Phượng
hoàng tắm nước ao tù.
Người
khôn nói với kẻ ngu cực lòng.”
Tôi
yêu bài thơ “NHỚ LỜI MẸ DẠY” của Phùng Quán, nên “yêu
ai cứ bảo là yêu, ghét ai cứ bảo là ghét, dù ai cầm dao dọa giết, không nói
ghét thành yêu, dù ai ngon ngọt nuông chiều, cũng không nói yêu thành ghét”.
Đường
đời có lắm mối sầu đau
Uất
hận sân si ngập nát đầu
Chụp
mũ người đời mình đại nạn
Vu
oan kẻ khác tự chôn sâu
Già thân chửa
chắc tâm bình trí
Kém
dạ hùa theo chuyện bể dâu
Tội
nghiệp thân tàn danh tơi tả
Ngàn
năm giử mãi mối u sầu
Lạy
Chúa xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa.
Để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm.
Để con đem tin kính vào nơi nghi nan, chiếu trông cậy vào nơi thất vọng, để con rọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui đến chốn u sầu.
Để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm.
Để con đem tin kính vào nơi nghi nan, chiếu trông cậy vào nơi thất vọng, để con rọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui đến chốn u sầu.
Nguồn:
Wilson Center Digital Archive :
“Chính
quyền Ngô Ðình Diệm trong những năm đầu (1954 - 60) đã gặt hái nhiều thành quả và
có hậu thuẫn quần chúng. Những chương trình kiến quốc đề ra như Dinh điền, Khu
trù mật, Ấp chiến lược... đều đi đúng đường mặc dầu cấp thừa hành không thực
hiện đến nơi đến chốn. Riêng năm 1960, những thành quả kinh tế đưa Nam VN lên
hàng thứ 3 tại Á châu, hơn Đại Hàn, Ấn, Thái… (1) Đây là một chính quyền quốc
gia vững mạnh nhất, có chủ đạo, có tổ chức, có nhân sự hậu thuẫn, có cốt lõi
trung ương chỉ đạo, có quốc tế ủng hộ (khối Thiên Chúa Giáo) kể từ sau chính
phủ Trần Trọng Kim 1945.”
VIỆT
NAM CỘNG HÒA MUÔN NĂM
NGÔ
TỔNG THỐNG MUÔN NĂM
*** Tổng Thống Ngô Đình
Diệm không phải của riêng nguời theo thiên chuá giáo.
***
Tổng Thống Ngô Đình Diệm không phải của riêng người di cư từ bắc vào nam.
***
Tổng thống Ngô Đình Diệm không phải là kẻ thù truyền kiếp của Phật Giáo.
***Tổng
Thống Ngô Đình Diệm chỉ là kẻ thù riêng của cộng sản VN mà thôi.
TOÀN
DÂN VIỆT NAM
NHỚ
ƠN NGÔ TỔNG THỐNG.
CỘNG
SẢN ĐANG BƯỚC VÀO CÁC NGÕ NGÁCH CỦA CÁC TỔ CHỨC CỘNG ĐỒNG , ĐANG DÙNG CHÍNH
NHỮNG NHÂN VẬT CỦA CỘNG ĐỒNG ĐỂ PHÂN HÓA , LÀM TÊ LIỆT Ý CHÍ , LÀM NGAO NGÁN SỰ
CHỐNG ĐỐI CHÚNG , XIN ĐỒNG BÀO CẨN THẬN , CHÚNG DÙNG TÔN GIÁO ĐỂ CHỬI BỚI LẪN
NHAU , PHÁ NÁT NIỀM TIN THIÊNG LIÊNG CỦA CHÚNG TA , BÔI NHỌ CÁC VỊ LÃNH ĐẠO CÁC
TÔN GIÁO
ĐÓ LÀ MỤC ĐÍCH CỦA CHÚNG. AI THEO VÀ TIN ĐẠO NÀO CỨ MỘT LÒNG VỚI NIỀM TIN ẤY , ĐỪNG MẮC MƯU CHÚNG
ĐÓ LÀ MỤC ĐÍCH CỦA CHÚNG. AI THEO VÀ TIN ĐẠO NÀO CỨ MỘT LÒNG VỚI NIỀM TIN ẤY , ĐỪNG MẮC MƯU CHÚNG
Tham khảo
- Dommen,
Arthur. The
Indochinese Experience of the French and the Americans, Nationalism and
Communism in Cambodia, Laos, and Vietnam. Bloomington, IN: Indiana
University Press, 2001.
- Goodman, Allan E. Politics
in War. Cambridge, MA: Harvard Univerity Press, 1973.
- Keesing's
Research Report. South Vietnam, A Political History 1954-1970. New
York: Charles Scribner's Sons, 1970.
- Lê
Xuân Khoa. Việt Nam 1945-1995, Tập I. Bethesda, MD: Tiên Rồng,
2004.
- Masur,
Matthew B. "Hearts and Minds: Cultural Nation-building in South
Vietnam, 1954-1963." Ohio State University, 2004.
- Nguyễn Văn Lục. Lịch sử còn
đó. Garden Grove, CA: Tân Văn, 2008.
- Penniman, Howard R. Elections
in South Vietnam. Stanford, CA: Hoover Institution on War, Revolution
and Peace, 1972.
- Phạm Thăng. Tiền tệ Việt Nam.:
Phạm Thăng, 1995.
- Press and Information Office.
Embassy of the Republic of Viet-Nam. News from Viet-Nam. Vol 10, No
10. Washington, DC: October, 1961.
- Press
and Information Office. Embassy of the Republic of Viet-Nam. News from
Viet-Nam. Vol 10, No 11. Washington, DC: December, 1961.
__._,_.___
Ô. LÊ CHÂU
LỘC
Ô. Lê Châu Lộc là một cựu Tùy-Viên của Tổng-Thống Ngô Đình
Diệm, gần-gũi nên thấy
và nghe nhiều điều về TT Diệm, do đó những lời kể lại của ông có một giá-trị
nhất-định.
Tuy nhiên, Ô. Lộc đã kể cho nhiều người nghe những chuyện,
mà qua các bài viết lại thì rõ-ràng là không đúng Sự Thật.
I
Giải Thưởng Magsaysay
I.1/ Về cuộc bầu-cử Tổng-Thống
Đệ-Nhất Việt-Nam Cộng-Hòa nhiệm-kỳ II, có nơi viết là vào năm 1959, có nơi viết là vào năm 1962,
trong khi Sự Thật
là vào năm 1961.
I.2/ Về số
tiền thưởng của Giải Magsaysay, có nơi viết là US$10,000.00,
có nơi viết là US$15,000.00.
I.3/ Về thời-điểm nhận được Giải, có nơi viết là năm 1959, có nơi viết
là năm 1962, thậm-chí có nơi viết là năm 1956,
trong lúc Giải ấy chỉ được thành-lập vào năm 1957
và qua năm 1958 mới phát lần đầu.
I.4/ Về chùa
và vị tu-sĩ Phật-Giáo nêu
vấn-đề này với Tổng-Thống Diệm, có nơi viết là
“tại một ngôi chùa nọ”, có nơi viết là “tại chùa Ấn Quang”;
và có nơi viết là “một vị Thượng Tọa”, có
nơi viết là “một Hòa Thượng khác”, có nơi
viết là “thượng tọa Thích
Thiện Hòa”.
I.5/ Về cách
gửi tiền đến Đức Đạt-Lai Lạt-Ma, có nơi viết là “nhờ Thủ-Tướng Nehru (của Ấn-Độ) chuyển
số tiền này cho ngài, nhưng ông khước từ, nên đã phải tìm đường khác”, có nơi viết
là “qua ngã Cơ Quan Tỵ Nạn”, có nơi viết
là “qua New Delhi [thủ-đô Ấn-Độ], bảo ông Đỗ Vạn Lý
đang làm Tổng Lãnh Sự ở đó” chuyển giùm. (tham-chiếu)
II
Cành Đào tại Dinh Độc-Lập
Về cành đào của Chủ-Tịch Việt-Nam Dân-Chủ Cộng Hòa Hồ Chí Minh gửi tặng
Tổng-Thống Việt-Nam Cộng-Hòa Ngô Đình Diệm, “Nghị sĩ Lê Châu Lộc, nguyên là
tùy viên của TT Diệm sau này cho biết, chính ông là
người đến nhận cành đào tại trụ sở Ủy Hội Quốc Tế để về trưng
bày tại Dinh Độc Lập.”
Nhưng Sự Thật
là: Việc ấy xảy ra
vào đầu năm 1963, mà Dinh Độc-Lập thì đã bị các phi-công Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc ném bom
vào ngày 27-2-1962, Tổng-Thống Ngô Đình Diệm và các
vị thuộc Phủ đã dời về Dinh Gia-Long cho đến ngày Cách-Mạng 1-11-1963. Dinh Độc-Lập mãi đến
năm 1966 mới được tái-thiết xong, thì làm sao mà cành đào được
đem về và trưng-bày ở Dinh Độc-Lập vào đầu năm
1963 được? (Tham-Chiếu)
III
Lời Trối-Trăng của TT Ngô Đình Diệm
Tổng-Thống Ngô Đình Diệm đã “thần khẩu
buộc xác phàm” nói lên, lần thứ nhất và cũng là lần cuối-cùng, trong
dịp lễ Quốc-Khánh 26-10-1963:
“Tôi tiến, hãy tiến theo tôi! Tôi lùi, hãy giết tôi
đi! Tôi chết, hãy trả thù cho tôi!”
Lời nói xui-xẻo ấy liền được
đưa vào sử sách, ngay từ giờ phút đó, 1963.
Các chính-khách, các sử-gia, các nhà-văn & nhà-báo Việt-Nam
và quốc-tế ghi-nhận rõ-ràng. Nó được liệt vào trong số danh-ngôn của các danh-nhân
thế-giới ― lời “trối-trăng”
của TT Ngô Đình Diệm.
Thế mà, 48 năm sau, năm 2011, Ô. Lê Châu Lộc nói
chuyện với B. Trần Lệ Tuyền, mỗi lần bà ấy “hầu chuyện”
ông, Ô. Lộc đều nhắc lại nhiều lần, để phải ghi nhớ những điều ông đã nói:
- Tôi tiến. Hãy tiến theo tôi!
- Tôi lui. Hãy giết tôi!
- Tôi chết, Hãy nối chí tôi!
Năm 1963, Ô. Lê Châu Lộc
là một tùy-viên. Trong
lúc quần-chúng, nhất là các nhà quan-tâm chính-trị, thời-cuộc, lắng nghe rán
nhìn, chú ý đến câu nói “Tôi
chết, hãy trả thù cho tôi!” như là một điềm xấu, và lẽ tự-nhiên quan-sát phản-ứng của cử-tọa trên nét mặt
của mọi người, thì tùy-viên chỉ nghe bằng nửa-lỗ-tai và thấy bằng nửa-con-mắt,
vì tùy-viên bắt-buộc phải chống mắt nhìn chừng Tổng-Thống xem người có ra hiệu
gì cho mình hay không, chổng tai xem người có ra lệnh gì cho mình hay
không.
Nhưng
sau 1963, nhất là sau 1975, Ô. Lê Châu Lộc
đã tiến rất xa trên đường học-vấn,
trở thành một nhà khoa-bảng, một vị hàn-lâm, mà năm 2011 ông phịa mấy tiếng “nối chí tôi”
(trong lúc Ô. Ngô Đình Quỳnh, thứ-nam của Ô.B. Cố-Vấn Ngô Đình Nhu, vào năm 2013
(tham-chiếu), và nhà khoa-học chính-trị Nguyễn Anh Tuấn, vào năm 2015 (tham-chiếu), vẫn còn xác-nhận là “trả thù cho tôi”,
thì không biết ông Lộc đã căn-cứ vào sách vở nào
mà dám “chỉnh” lời của Cụ Ngô? (tham-chiếu)
Hãy
Trả Thù Cho Tôi (có bổ túc)
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết