Những Thảm Cảnh Sau
Ngày 30-4-1975
Trọng Đạt
Ngày 30-4-1975, một ngày kinh hoàng nhất đối với đa số người dân
miền nam nước Việt, khi họ thấy xe tăng và bộ đội Cộng Sản tràn vào xâm chiếm
Sài Gòn, ai nấy mường tượng ra một tương lai đen tối mù mịt sẽ diễn ra tại mảnh
đất này: đói khổ, thóc cao gạo kém, mất tự do, sưu cao thuế nặng, bị trả thù,
lưu đầy…. Mặc dù cũng là người Việt Nam máu đỏ da vàng nhưng người Sài gòn chỉ
biết đây là những người ngọai lai, xâm lược, họ biết rằng đất nước của mình đã
bị đạo quân từ bên ngoài tới cướp.
Từ sau 1954, Việt Nam chia ra làm hai nước, một nước ở phía trên
vĩ tuyến 17, hay trên sông Bến Hải và một nước ở dưới vĩ tuyến và dòng sông nhỏ
này. Từ những năm đầu thập niên đã diễn ra cuộc chiến tranh giữa hai nước: miền
Bắc được Cộng sản quốc tế trợ giúp vũ khí đạn dược đã mở cuộc chiến tranh dưới
danh nghĩa “giải phóng” chiếm cho được vựa lúa miền Nam để cứu đói miền Bắc
đã và đang thiếu thốn thực phẩm, lúa gạo trầm trọng (vì bọn cướp chỉ biết đánh
nhau, không biết làm lụng, nên thiếu ăn không có gì lạ).
Cuộc chiến mở rộng bắt
đầu từ 1964, 1965 khi bọn cướp miền Bắc công khai đưa lâu la vào miền Nam để
chiếm cho được mảnh đất phì nhiêu béo bở này. Tình hình chiến sự trở nên tàn
khốc trong khoảng 10 năm từ 1965 cho tới 1975, đó là cuộc chiến giữa một nước
nghèo đói lạc hậu miền Bắc VN và một nước sung túc tiến bộ ở miền Nam VN. Miền
Bắc có ưu thế ở chỗ họ được CS quốc tế viện trợ vũ khí dồi dào, vô hạn định và
một bọn lâu la đói khát, chỉ biết có một nghề là ăn cướp, cho nên giặc Hồ có cơ
hội thuận tiện để đẩy hàng triệu lâu la vào cuộc chiến.
Mặc dù bị thiệt hại nặng nề nhiều trăm ngàn người trong những năm
giữa và cuối thập niên 60, nhưng giặc Hồ miền Bắc vẫn tiếp tục cuộc phiêu lưu,
họ có ưu thế của kẻ nghèo đói không sợ chết, dù tổn thất bao nhiêu cũng không
đáng kể miễn là chiếm được vựa lúa miền Nam VN. Sau khi nướng hơn một triệu
thanh niên họ đã đạt được mục tiêu, cướp được miền Nam sung túc.
Khi mới vào xâm chiếm Sài gòn họ ngụy biện “Đế quốc Mỹ bại
trận, dân tộc ta là kẻ chiến thắng”, miệng nói hòa giải dân tộc nhưng trên
thực tế sau khi thắng trận giặc Hồ đã thỏa thuê vơ vét, chiếm đoạt nhà cửa,
ruộng đất, quí kim, hàng hóa… Cựu lâu la giặc Hồ, Bùi Tín đã gọi đây là
một cuộc ăn cướp vĩ đại. Nhà cửa, tài sản của dân di tản đương nhiên thuộc về
quân cướp dù họ còn thân nhân ruột thịt, tất cả những nhà lớn đều thuộc về quân
cướp, chủ nhà phải dọn đi ở những căn nhà nhỏ lý do phó thường dân không được
quyền ở những nhà rộng lớn, cao tầng.
Có người nói đây là cuộc chiến tranh ý thức hệ giữa Tư bản và Cộng
Sản, người cho đây là cuộc chiến chống Đế Quốc xâm lược, người nói đây là cuộc
chiến tranh ủy nhiệm, hai miền Nam Bắc đã được các siêu cường uỷ nhiệm, nhưng
sự thực đã quá rõ ràng, nó chỉ là một cuộc “chiến tranh ăn cướp” giữa một nước
nghèo đói lạc hậu và một đất nước giầu có tân tiến. Nước nghèo ra sức đánh
thí mạng để cướp của cải vật chất bên kia, để chiếm cho được mảnh đất phì nhiêu
rồi tha hồ mà vơ vét, bóc lột… Nước nghèo đói chỉ biết lấy lưỡi lê và họng súng
để theo đuổi cuộc chiến tranh ăn cướp lâu dài, họ chủ trương bọn cướp đẻ ra từ
họng súng.
Khi cướp được miền Nam, bọn cướp giặc Hồ tươi cười với đồng bào
nói nào hoà bình thống nhất rồi, nào hai miền cùng xoá bỏ hận thù và cùng nhau
xây dựng đất nước, hàn gắn vết thương chiến tranh. Thế nhưng họ không bao giờ
bỏ được bản chất gian trá, lưu manh có từ mùa thu 1945. Chiếm xong Sài Gòn hoa
lệ, đạo quân chiến thắng vội vã chở hết vàng bạc, quí kim của ngân hàng, tháo
gỡ các máy móc trong các cơ xưởng, bệnh viện, vét hết các kho dụng cụ, hàng
hoá, máy móc hiện đại….chở ra Bắc.
Số vàng bạc quí kim vơ vét được vào túi các
quan lâu la gộc hết, họ vơ vét nhanh gọn y như đàn cào cào châu chấu phá hoại
mùa màng, sau cơn trấn lột tập thể vĩ đại ấy miền Nam chỉ còn là một mảnh đất
nghèo xơ xác.
Thực tế chứng tỏ tại Châu Âu, nước Đức sau khi thống nhất, Đông
Đức đã trở thành gánh nặng cho Tây Đức, họ gồm hàng tá khuyết điểm: lười biếng,
gian trá, lạc hậu, ngu xuẩn… và tình hình Việt Nam cũng y hệt như thế, miền Bắc
đã dựa hẳn vào miền Nam để sống
Đánh tư sản, đuổi dân đi kinh tế mới
Chuẩn bị đi vào các trại tù “cải tạo”
Một hai năm sau ngày 30-4-75 giặc Hồ đánh tư sản hai lần để lấy
nhà cho lâu la, đổi tiền ba lần, bọn cướp đã vét cạn sạch túi tiền người dân,
kế đó họ phát động chiến dịch đẩy dân đi kinh tế mới để đưa đồng bọn từ miền
Bắc vào. Kế hoạch chiếm nhà dân đã được bọn cướp hoạch định một cách tinh vi.
Những người đi vượt biên dù thoát hay không thoát đều bị lấy nhà, những nhà
lớn, nhà mặt đường của dân cải tạo liên hệ chế độ cũ hầu hết bị tịch thu, họ
lấy tất cả nhà cửa tài sản của những người đi chính thức.
Sau ngày 30-4-75 một
hai tháng, họ lùa các viên chức, sĩ quan chế độ cũ vào các trại cải tạo lâu dài
rồi đẩy miền Nam tới chỗ nghèo nàn cùng cực để không thể trỗi dậy chống lại
chúng. Người Sài Gòn mỗi ngày một nghèo, nhiều người phải bán nhà với giá rẻ
mạt cho kẻ cướp để lấy tiền đong gạo sống qua ngày. Lâu la cao cấp từ miền Bắc
kéo nhau vào Nam chiếm nhà của dân miền Nam, lâu la lớn chiếm nhà lớn, lâu la
nhỏ chiếm nhà nhỏ rồi tha hồ mà vơ vét cho đầy túi tham.
Thấm thoắt đã 39 năm trôi qua, đời sống kinh tế miền Nam ngày nay
cao hơn những năm thập niên 80, 90 rất nhiều nhờ Hoa Kỳ bãi bỏ cấm vận và nhờ
các nước giầu Đài Loan, Hoa Kỳ, Tây Âu, Đại Hàn, Nhật…vào đầu tư cộng với tiền
đô la của Việt kiều ở ngọai quốc gửi về dồi dào. Đời sống có khá hơn xưa nhưng cái
hố chênh lệch giầu nghèo lại sâu gấp bội lần tình trạng xã hội trước 1975.
Trong khi những bà mẹ nghèo khổ tay bế con, tay bán vé số thì những lâu la giặc
Hồ quyền thế có cơ ngơi, nhà mặt đường, trong nhà lúc nào cũng có cả triệu đô
la tiền mặt, mấy nghìn lượng vàng. Các quan to tỉnh ủy, ủy viên trung ương đảng
đã thành phú gia địch quốc có khách sạn, nhà hàng, đất đai, cơ sở thương mại,
sản xuất….tài sản của họ có thể lên tới hàng trăm triệu đô la hoặc hơn thế.
Nhiều người khi mới vào Nam chỉ mang theo có một manh chiếu rách nay đã trở
thành những triệu phú đô la, xe ngựa nghênh ngang.
Nay người nghèo tại các tỉnh đổ xô lên Sài gòn và các thành phố
lớn làm công nhân, họ chen chúc nhau thuê phòng trọ, hàng chục người một phòng
nhỏ xíu với mức lương thấp 100 đô la hàng tháng, sau khi trả tiền phòng, tiền
ăn họ chẳng còn dư đồng nào, những người cùng khổ này làm lụng vất vả nhưng cơm
đủ ăn. Đời sống thành thị tương đối còn khá, tại miền quê người dân lam lũ vật
lộn với cuộc sống đắt đỏ, một hiện tượng phổ thông tại các nước kém mở mang,
người dân ngày càng khốn khổ, bọn lâu la ngày càng giầu thêm.
Mặc dù mức sống đã được nâng cao nhưng gần đây Thủ tướng CSVN nhìn
nhận Việt Nam vẫn là một nước nghèo, thật vậy lợi tức đầu người VN nay vào
khoảng 1,000 đô la một năm, trên thực tế chỉ bằng một nửa, hoặc một phần ba của
các nước Phi châu như Ai cập, Lybia, Tunisie… nếu so với các nước láng giềng
tại Đông Nam Á thì XHCN VN còn thua xa hơn nữa.
Bắt học sinh xuống đường “bài trừ văn hóa phản động”
Một thanh niên bị bắt đeo bảng trước ngực và đi lòng vòng địa
phương nơi cư trú, dưới sự giám sát của bộ đội cụ Hồ. Tội danh : Nhảy đầm. Sau
đó còn phải thọ án 1 năm trong “trại cải tạo”.
“Tòa án nhân dân”
Nay người miền Bắc kéo vào Sài Gòn và các thành phố lớn tại miền
Nam rất đông, họ là những người giầu có và quyền thế nhất Sài Gòn hiện nay, làm
chủ hầu hết các nhà cửa to lớn của Sài Gòn và các nhà hàng lớn, các cơ sở
thương mại, các cơ quan nhà nước… Họ là những lâu la cao cấp và bà con thân
thuộc được đưa vào đây để cướp nhà cửa, đất đai, tiền bạc của dân miền Nam, để
tranh dành hết những chức vụ béo bở, những công việc hái ra tiền.
Tại các cửa
hàng lớn, các cơ quan chỗ nào cũng thấy toàn là Bắc Kỳ, đó là giai cấp giầu có
thống trị tại Sài Gòn hiện nay. Kẻ chiến thắng lấy đi tất cả, Winner takes it
all, họ hưởng đủ tất cả lạc thú trên đời, biệt thự, xe hơi, rượu ngon, gái đẹp…
không còn thiếu thứ gì.
Cho tới nay bộ mặt đổi đời của miền Nam càng lộ rõ hơn bao giờ hết
bộ, kẻ cướp ngày càng giầu có, vơ vét, tập trung tài sản của dân vào trong tay,
bà con của họ cũng được chia chác những chức vụ béo bở, cơ sở làm ăn lớn tha hồ
mà đớp hít… trong khi ấy người dân miền Nam, những kẻ bị làm nô lệ ngày càng
khốn khổ, trừ những người có thân nhân ở nước ngoài trợ giúp, đa số phải làm
lụng đầu tắt mặt tối vì miếng cơm manh áo.
Người miền Bắc nay đã trở thành giai
cấp thống trị người miền Nam, họ tước đoạt tài sản nhà cửa của người miền Nam,
đuổi người miền Nam đi các vùng kinh tế xa xôi khỉ ho cò gáy. Những kẻ bị áp
bức bóc lột đành ngậm đắng nuốt cay, chịu khuất phục trước lưỡi lê và họng súng
của đạo quân chiến thắng.
Đã một phần ba thế kỷ trôi qua, người miền Nam ngày nay dù là lớp
người cũ hay lớp trẻ em sinh sau đẻ muộn vẫn nhìn bọn cướp CS, nhìn người miền
Bắc như đạo quân cướp, như bọn xâm lăng đã tước đọat tài sản, quyền sống của
họ. Dù nói cùng một thứ tiếng, viết cùng một văn tự nhưng không hẳn phải là một
quốc gia, thời xa xưa, Xuân thu, Chiến Quốc, thời Tam Quốc nước Tầu đã chia làm
nhiều nước Tần, Sở, Yên, Ngô… và bây giờ Bắc Hàn, Nam Hàn cũng là hai quốc gia
riêng biệt, châu Mỹ La Tinh cùng nói tiếng Tây Ban Nha, Trung Đông cùng nói
tiêng Ả Rập nhưng đã chia làm mấy chục nước. Người miền Nam VN xa xưa không
muốn thống nhất với miền Bắc cũng như Nam Hàn hiện nay không muốn thống nhất
với Bắc Hàn lý do nước tân tiến sung túc không muốn mang cái gánh nặng lạc hậu
trên vai.
Nay CS đưa ra luận điệu ru ngủ dân miền nam như: “hãy để Việt
Nam Cộng Hòa lùi vào quá khứ, hãy quên đi lá cờ vàng, chúng ta hãy bắt tay nhau
cùng xây dựng lại những vết thương do chiến tranh để lại, cùng nhau xoá bỏ hận
thù”; nhưng người miền Nam lớp già cũng như lớp trẻ vẫn tiếc nhớ đất nước
của họ, tiếc những cái họ đã mất từ bao năm qua:
Tự do. Cái mất mát lớn nhất
của người miền Nam phía dưới vĩ tuyến 17 là mất tự do, trước hết là tự do ngôn
luận, thời xa xưa tại nước Việt Nam Cộng Hòa… báo chí được quyền chỉ trích sai
trái của chính phủ, người dân được nói cái mình muốn nói, được biểu lộ sự phản
kháng, biểu tình chống chính phủ, được thành lập đảng phái đối lập, được tự do
hội họp.
Người dân được quyền tự do tư tưởng, được đọc và viết điều mình muốn,
sách báo không bị kiểm duyệt hoặc chỉ bị kiểm duyệt hạn chế, người dân được đọc
sách báo nhập từ ngọai quốc trái với tình trạng ngày nay, sách báo hải ngọai
gửi về bị vất vào thùng rác. Người dân VNCH được tự do cư trú, muốn ở đâu thì
ở, muốn đi đâu thì đi nhưng nay họ phải chịu chỉ định cư trú, theo chế độ hộ
khẩu, bị bọn cướp địa phương giám sát, theo dõi nghiêm ngặt. Từ mấy chục năm
nay quân cướp đã tước đọat hết mọi quyền tự do của người dân miền nam nước
Việt.
Luật pháp.
Người dân VNCH đã được luật pháp bảo vệ tài sản tính mạng, có tòa án, có luật
sư bào chữa, người dân chỉ bị bắt giam tối đa 24 giờ đồng hồ nếu không có bằng
cớ phạm pháp, nay họ có thể bị công an nhà nước bắt giam vì bất cứ lý do gì
hoặc chỉ là tình nghi. Họ có thể bị giam giữ vô thời hạn mà không cần đưa ra
tòa xét xử, phải có án, người dân có thể bị bọn cướp, bị kẻ thống trị cướp đoạt
đất đai tài sản mà không thưa kiện ai được. Sau 30-4-1975, trại tập trung, nhà
giam mọc lên như nấm tại miền Nam, hàng trăm ngàn người bị lùa vào trai tù dưới
danh nghĩa cải tạo mà không hề được xét xử, họ bị giam giữ lâu dài có người lên
tới mười mấy năm trời. Sống trong xã hội áp dụng luật rừng hiện nay, người miền
Nam ai cũng nơm nớp lo sợ, họ có thể bị bắt bất cứ lúc nào không có lý do, chỉ
một sự tình nghi hoặc tư thù với lâu la có thể bị giam giữ lâu dài.
Đạo đức. Người dân miền Nam nay
tiếc nhớ xã hội có kỷ cương đạo lý của VNCH ngày xưa, trước 1975, miền nam là
một xã hội có tổ chức nghiêm chỉnh, chịu ảnh hưởng sâu xa của giáo lý Khổng Mạnh,
con người có nhân phẩm, gia đình và học đường giáo dục đạo đức luân lý cho con
em để trở thành con người tốt của xã hội. Nay thì khác hẳn, xã hội đương thời
sô bồ, băng hoại phản đạo đức luân lý, phim ảnh khiêu dâm đồi bại lan tràn, đĩ
điếm, bia ôm, đầy rẫy cả thôn quê thành thị, con gái bị bán đi làm đĩ khắp nơi.
Con người ngày nay chỉ biết có đồng tiền, lửa đảo, lưu manh trộm cướp, băng
đảng lộng hành, trẻ nít chửi thề tục tĩu ngay tại học đường, tham nhũng hối lộ
từ trên xuống dưới, có người nói giả thử chế độ CSVN sụp đổ, người ta phải mất
ít nhất là ba thế hệ mới xây dựng được xã hội lành mạnh như xưa.
Tài sản. Nhiều người mất cơ mất
nghiệp, nhiều người xưa là thương gia, đại phú bị quân cướp lấy nhà tịch thu
tài sản đuổi đi vùng kinh tế mới rồi trốn về Sàigòn với tấm thân tàn ma dại.
Nhiều người khá giả có nhà lớn hoặc nhà mặt đường đi vượt biên không thoát bị
quân cướp lấy nhà nay nghèo khốn nghèo khổ tiếc nhớ thời oanh liệt xa xưa.
Những người có tài sản làm việc cho chế độ cũ phải vào trại tập trung cũng bị
bọn cướp “mượn nhà” ở nay tiếc nhớ thủa vàng son của mình….
Giáo dục, Y tế
– Khoảng 1980, trong một phiên họp nhân viên tại bệnh viên Vũng Tầu, một chị
dược sĩ gốc ngoài Bắc vào đã phát biểu:
“Chế độ Ngụy mà chúng ta đánh đổ nó nhưng nó đào tạo các chuyên
viên như kỹ sư bác sĩ giỏi hơn chúng ta”
Thật vậy nền giáo dục Việt Nam Cộng Hòa trước 1975 đã đào tạo các
chuyên viên khoa học kỹ thuật tương đương với các nước tân tiến và đã được
chính phủ Pháp công nhận có giá trị ngang hàng. Văn bằng trung học VNCH đã theo
đúng chương trình của người Pháp, việc thi cử rất nghiêm chỉnh, văn bằng trung
học, đại học cũng đã được coi ngang hàng với văn bằng bên Pháp, việc thi cử
dưới trung học nhất là thời Đệ nhất cộng hòa thập niên 60 có phần còn khó khăn
hơn ở ngọai quốc.
Nay người gốc miền Nam vẫn tiếc nhớ một thời giáo dục vàng
son của họ vì nền giáo dục hiện nay của quân cướp đã sản xuất ra một lô những
văn bằng “lèo”, thạc sĩ, tiến sĩ nhiều như lá mùa thu, các quan to Thứ trưởng, Tỉnh
ủy, huyện ủy đều có thể mua bằng tiến sĩ “ma”, thạc sĩ “lèo”, nạn bằng giả bằng
ma tại VN ngày nay không còn gì xa lạ. Học sinh từ tiểu học lên trung học, đại
học VNCH hồi xưa đều được học miễn phí, chỉ riêng bậc trung học có thêm trường
tư thu học phí, ngày nay trẻ em thất học nhiều vì không có tiền đóng học phí.
Trước 1975, nhà giầu hoặc những người có tiền khi ốm đau nặng đi bệnh viện tư,
người nghèo đã có nhà thương thí của chính phủ lo. Nay lấy danh nghĩa xã hội
chủ nghĩa để mị dân, bọn cướp CS chỉ biết thu thuế, không mảy may để tâm tới
phúc lợi người dân, các bệnh viện ở Việt Nam hiện nay đòi hỏi bệnh nhân phải có
tiền, không có tiền thì chịu chết, đi học, chữa bệnh phải có tiền, cái gì cũng
phải mất tiền.
Bình đẳng.
Mặc dù có một số khuyết điểm nhưng VNCH trước đây tương đối là một xã hội công
bình, tuy có nạn bè phái nhưng người có tài đức dù thân cô thế cô vẫn có cơ hội
tiến thân điển hình là Giáo sư Nguyễn Văn Bông. Xuất thân từ người con thông
minh trong một gia đình nghèo tại miền quê, Bông đã phải làm lao động thêm để
lo đèn sách, lớn lên anh ta xuất dương du học, làm bồi tầu, khuân vác cực nhọc
rồi thành công vẻ vang, đậu tiến sĩ, thạc sĩ, làm tới chức Viện trưởng một Học
viện lớn, nếu sống dưới chế độ CSVN hiện nay, tột đỉnh cuộc đời của ông ta chỉ
có thể làm một thầy giáo làng quèn mà thôi.
Từ 1975 cho tới nay, sự học hành, công ăn việc làm chỉ con cái lâu
la, đảng viên hoặc những người từ miền Bắc vào mới được ưu tiên, con cháu các
cựu quân cán chính chế độ cũ hoặc phó thường dân Nam bộ vẫn bị kỳ thị phân biệt
đối xử nặng nề, bọn cướp CS duyệt xét lý lịch đương đơn rất kỹ.
Những công việc
tốt, lương cao, béo bở hái ra tiền… chỉ dành cho các đảng viên hoặc họ hàng
thân thuộc, những người từ miền Bắc vào Nam còn những việc xương xẩu, làm chỉ
đủ bỏ vào mồm mới đến tay thành phần chế độ cũ hoặc phó thường dân Nam bộ.
Nay người dân phía dưới sông Bến Hải vẫn tiếc nhớ một thời vàng
son của miền Nam nước việt nhưng cái thời ấy nay đã chết rồi, nó chỉ còn để lại
một tiếng vang, vang bóng một thời. Quân cướp đã tàn nhẫn bế mạc cái thời huy
hoàng ấy, mặc dù họ lớn tiếng kêu gọi xóa bỏ hận thù nhưng người miền Nam vẫn
không thể quên những hành động trắng trợn của họ tại mảnh đất này.
Quân cướp có thực sự muốn xoá bỏ hận thù hay không? Họ xóa bỏ hay
đào sâu thêm cái hố sâu hận thù đã vốn dĩ sâu thăm thẳm từ bao năm qua? Người
Việt Hải ngoại chúng ta “hòa hợp” với quân cướp, đem tài nguyên tài năng về
Việt Nam xây dựng quê hương hay là để củng cố thêm quyền lực và tài sản cho bọn
thống trị, để họ vơ vét thêm tài sản nhân dân cho đầy túi tham và đè đầu cưỡi
cổ nhân dân miền Nam thêm nhiều thế kỷ nữa?
Trước mắt chúng ta thấy cộng sản
vẫn ngoan cố như tự bao giờ, trước sau như một.
Địa vị của quân cướp, của bọn thống trị vẫn phải được củng cố vững
mạnh hơn bao giờ hết bằng lưỡi lê và họng súng!
Trọng Đạt