Patrick Willay
To
Today
at 5:24 AM
QUÂN TRƯỜNG VÀ
CHIẾN TRƯỜNG
Trương Văn
Út (MũđỏÚtBạchLan)
…Thế là tôi âm
thầm giã từ đôi mắt lên láy “u uẩn chiều lung lạc” của cô láng giềng người em
gái nhỏ lên đường vào quân ngũ…! Tôi nhập trường Võ Bị Đà Lạt vào tháng
12 năm 1965. Tính đến nay (2014) chỉ còn một năm nữa là một phần hai của thế
kỷ. Năm mươi năm trôi qua cũng khá dài so với đời của một con người.
Chặng đường “Binh Nghiệp” tuy không dài lắm đối với thiên lý tuế nguyệt và gió
bụi thời gian…Nhưng với tôi thân phận phàm nhân “bị” cuốn trôi lăn ngập chìm
trong biển lửa, máu, nước mắt… chiến tranh…và hoài niệm cảnh cũ, người xưa với
“thương hải biến vi tang điền”…là định mệnh ư…?
Chưa phải là thiên
lý du du bỉ phương…nhưng có lẽ vừa đủ để ký ức đong đầy những kỷ niệm mà nét
thời gian hằng chuyển chuyện nhật tân…lại chồng chất nhật…nhật tân…tưởng chừng
đôi lúc như đã lãng quên, bôi xoá nhạt nhòa đâu đó …! Nhưng “nó” vẫn
còn lãng vãng quanh đây như… như hiện tiền chưa chịu phôi phai với
nhiên khứ lai hề, thiên thu giả mộng…mà mỗi khi nhắc đến thì dĩ vãng
lại hiện ra như một đoạn phim sống thực còn lưu trử tận trong tiềm thức của
chính mình. Nửa đời oan nghiệt, lẫn lộn tiếc nuối, chua xót cho thân phận của
một thế hệ " Sinh Bất Phùng Thời "…! Hai năm trong Quân Trường, tám
năm với Chiến Trường, ba mươi chín năm đời “tù tội” và lưu vong xứ người…cảm cảnh:
”Quê
Hương khuất bóng hoàng hôn,
Dậy lên khói
sóng cho buồn lòng ai” !
Tổ Quốc là “tổ
quốc” của người, Dân Tộc là “dân tộc” của người, Tổ Tiên là “tiên tổ” cũng của người,
đất đai mồ mã lạ quắt, lạ quơ...! Còn lại cho riêng trong tôi vẫn là dòng sông ký
ức một thời với Quân Trường và Chiến Trường.
- Quân Trường,
nơi đó tôi có “đàn anh, đàn em: Khoá 21 (K21), Khoá 22 (K22) Khoá 23 (K23) và
các Sĩ Quan Cán Bộ, Sĩ Quan Tham Mưu Hành Chánh được gọi là "Đồng
Môn" cùng đã đổ mồ hôi như nhau, cùng dìu dắt nhau trên ngưỡng của binh
nghiệp với biết bao nhiêu ân tình nghĩa luỵ in hằn thành kỷ niệm… có mấy
ai quên…?!
- Chiến Trường,
nơi đó tôi có đồng đội cùng đồng cam, cộng khổ với máu và nước mắt qua những
tháng năm miệt mài khói lửa… mà sự sống và cái chết chỉ cách nhau một sợi tóc,
“cái” còn, “cái” mất như bọt nước chóng tan vỡ tưạ phù du…Nhưng rất thực và
siêu nhiên mỗi lần vuốt mắt cho bạn bè đồng đội đã ngã xuống với vết đạn cày
sâu ghim trong thân thể hãy còn chút hơi ấm và đang lạnh dần, hồn thiêng như u
uất vướng víu, lẫn khuất đâu đây rờn rợn dưới làn gió âm u thổi qua và đạn pháo
của quân thù đang nổ vang rền trên chiến địa ...!
“Quân
Trường Đổ Mồ Hôi - Chiến Trường Đổ Máu Xương”:
Tháng12Năm1967:
Tốt
nghiệp K22 VBQGVN, tôi trình diện Bộ Tư Lệnh LLĐB và được bổ nhiệm về TĐ81BCND
cùng hai người bạn cùng khóa. Hãnh diện sung sướng biết bao khi trình diện vị
Tiểu Đoàn Trưởng Lê Như Tú Thiếu Tá K11 VBĐL...rồi được giới thiệu TĐP Đại Úy
Nguyễn Quang Vinh K14, Đại Úy Bình Ban Ba K17, Đại Úy Táo Ban Truyền Tin K20,
Đại Úy Hưởng Ban An Ninh K19, ĐĐT ĐĐ1 Trung Úy Thăng K20, ĐĐ6 Trung Úy Tuấn
K20, ĐĐ3 Trung Úy Lâu K21...cón nhiều nữa kể không hết...Tôi cảm thấy ấm lòng
vì ngây thơ với ý nghĩ ngộ nghĩnh: may quá, mình may mắn về tiểu đoàn khét
tiếng này vì “dân” Đà Lạt không hà, chắc mẫm thế nào cũng được bao che và nâng
đỡ…!!! Nhưng tôi đã lầm to ! Dù các Niên Trưởng có "phe đảng" bao che
cho mình như thế nào chăng nữa, thì có tài thánh cũng không ngăn chận được súng
đạn vô tình…và cho dù Niên Trưởng có quyền thế cũng không nâng đỡ được nếu mình
tỏ ra kém tài chỉ huy, hèn nhát và khiếp nhược trước quân thù, nhất là trước
mặt thuộc cấp trong tình huống dầu sôi lửa bỏng…!
Chỉ có một tuần lễ sau, ngay
đêm giao thừa Tết Mậu Thân (1968)...Thiếu Tá Tú Tiểu Đoàn Trưởng (K11) tử trận,
Đại Uý Tiểu Đoàn Phó Vinh (K14) bị thương nặng không còn khả năng
tác chiến và hai người bạn cùng khóa K22 của tôi phút chốc cũng đã bỏ bạn bè,
đồng đội …hồn bay về nơi đâu khi tiết Xuân thì hãy còn khoe
sắc lụa mượt mà trên những đọt chồi non mơn mỡn và nụ mấy Mai vàng đang lung
linh run nhẹ trước gió sớm đầu mùa…!...lại thêm một Đại Đội Trưởng bị tử thương
và rồi lại thêm Đại Đội Trưởng nữa bị thương mất một chân…! Cũng may Đại Đội
Phó ( ĐĐ3) là niên trưởng Nguyễn Đăng Lâu( K21) lên thay thế chỉ huy, điều động
tác chiến…!!!
Thời gian chỉ có bốn tháng kể từ ngày ra trường, tôi đã trải qua
ba cuộc hành quân chớp nhoáng, cường độ khốc liệt, đẫm máu tươi trên ba vùng
chiến thuật II, I và III với những cuộc hành quân: “ Giải Tỏa Thị Xã
Nha Trang, Thung Lũng Ashao, Alưới, Giải Tỏa Mặt Trận Cây Quéo - Cây
Thị,…” thay đổi bốn vị ĐĐT đến vị ĐĐT thứ năm là niên trưởng Nguyễn
Văn Lân (K17) Anh Lân (xin phép tôi gọi bằng Anh) từ trại Lực Lượng Đặc Biệt biên
phòng Pleimơreng về đây, dáng người Anh cao dong dỏng, gương mặt trẻ măng như
sinh viên đại học dù nước da rám nắng, ứng xử với ngôn ngữ nhã nhặn, dịu dàng,
lịch sự với cả cấp trên lẫn người dưới.
Khi nhận bàn giao xong, Anh bảo tôi
giới thiệu đơn vị và quân nhân các cấp cho Anh, sau đó gọi tôi vào phòng riêng
căn dặn :” Út đã ở đơn vị này từ ngày ra trường cho đến bây giờ, Út giúp cho
Anh trông coi đơn vị, có gì trở ngại hay cần những quyết định quan trọng báo
cho Anh biết… Nếu đơn vị dưỡng quân ở hậu cứ, ngày thường Anh tà… tà rong chơi,
Út cùng anh em sinh hoạt như: huấn luyện, chiến tranh chính trị, bảo trì vũ khí
quân trang-quân dụng...chú trọng vấn đề lãnh đạo chỉ huy cho các cấp trưởng…vào
những ngày cuối tuần, Anh cho xã trại 100%, riêng Anh thì Anh tự chính mình cấm
trại 100%...Út có thể xử dụng xe Jeep của Anh cùng các Sĩ Quan, Binh Sĩ đi
chơi…Nhưng nhớ giữ kỷ luật đừng đánh lộn, đánh lạo…làm mang tiếng xấu cho đơn
vị…”.
Nhưng rồi "tai nạn" xảy ra một vụ bắn lộn. Anh Lân nghe báo cáo,
vội phóng ra đồn Quân Cảnh Nha Trang thì lại gặp Ông Đồn Trưởng là Đại Úy
Trương Văn Cao (K18) thế là mọi việc được “xử” êm xuôi trong
tình “Huynh Đệ Chi Binh” với vài lời khiển trách nhẹ nhàng của hai
Ông niên trưởng”:”… mới ra trường chưa nứt mắt mà bắt đầu làm trò khỉ
rồi..."!!! Tiếp theo …Đơn vị tham dự hai cuộc hành quân xâm nhập Chiến Khu
C, Chiến Khu Đ, giải tỏa núi Bà Đen, núi Heo, núi Cậu...Anh Lân đã trao trao
truyền cho tôi những kinh nghiệm máu xương của chiến trường… Chính Anh là người
đã khuôn đúc những viên gạch vững chắc để tôi vững bước trên con đường khói lửa
chiến chinh sau này…Anh chỉ chỉ huy Đại Đội 3Biệt Cách Nhẩy Dù (ĐĐ3BCND) chưa
đầy một năm thì được chỉ định giữ chức vụ Tiểu Đoàn Phó cho Thiếu Tá
Trần Phương Quế (K10).
Sĩ Quan khác đổi về thay thế Anh, tôi vẫn là Đại Đội Phó
ĐĐ3BCND. Ba tháng sau, Anh gọi tôi lên Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn cười cười nói : “
Chuẩn bị tâm tư nhận lệnh phạt đó em” ! Thì ra Anh Lân và các niên trưởng khác
đã hết lời thuyết phục TĐT bổ nhiệm tôi quyền ĐĐT/ĐĐ5/BCND khi tôi
vừa tròn 23 tuổi, một Đại Đội Trưởng “măng non” miệng còn hôi sữa, chưa có “bề
dầy” chiến trường so với các Đại Đội Trưởng khác cùng đơn vị…Sau…có vài tiếng
thị phi phàn nàn, dèm pha của một vài Sĩ Quan cấp Trung Úy thâm niên hơn
tôi:”phe đảng”… ! Đảng gì đây ? “Đảng Tự Thắng” để chỉ huy là châm
ngôn của “Dòng Trưòng Mẹ Võ Bị Đà Lạt” ?!!!
Tháng12Năm1969:
Đơn vị của
tôi được cải danh là “Đaị Đội II Trinh Sát Nhẩy Dù”, thống thuộc quản trị hành
chánh của Lữ Đoàn II Nhẩy Dù. Sau hai tháng thụ huấn khóa viễn thám ở “lò Cừ”
Dục Mỹ, Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp, một số Hạ Sĩ Quan
được gửi đi học mật mã truyền tin, tình báo… thì lại bắt đầu tham dự những cuộc
hành quân cùng với các đơn vị khác… Phương thức và kỷ thuật tác chiến của hai
binh chủng có nhiều khác biệt...Bên 81Biệt Cách Dù không bao giờ xử
dụng pháo yểm mà hoàn toàn lệ thuộc vào không yểm… Nhẩy Dù thì phối
hợp cả hai trong bất cứ điều kiện cần thiết của chiến truờng… Tôi bỡ ngỡ
bối rối vì là một đại đội biệt lập, đơn vị trưởng phải phối hợp trực tiếp với
Lữ Đoàn hoặc Sư Đoàn và lo liệu mọi bề…!
May mắn thay, “lù khù có ông Cù độ
mạng” Thiếu Tá Trần Đăng Khôi (K16) Trưởng Ban Ba hành quân của LĐIIND trạc
trên dưới 30 tuổi, dáng người thanh nhã với ống bíp Havana trên tay, bụng hơi
phệ, nếu nói khẳng khái thì mọi điều hợp hành quân đều do Anh thiết kế…tôi tham
dự chiến dịch "Lùng và Diệt Địch " kế hoạch của Tướng Westmoreland và
Tướng Đỗ Cao Trí…cuộc hành quân “Toàn Thắng “ vùng Tây Ninh Phước Long và Campuchia….Tôi
lạng quạng, lờ quờ ngu ngơ đến nỗi Anh Khôi phải gọi vào trình diện
riêng trong hầm hành quân của Lữ Đoàn (TOC) moral với thái độ và giọng nói từ
tốn, chậm rãi cố cho tôi hiểu: “…báo cáo diễn tiến hành quân, báo cáo tổn thất,
báo cáo tình hình địch...Anh còn quá lượm thượm, nhất là phối hợp pháo binh
Nhẩy Dù và Trực Thăng võ trang… Anh nên nhớ rằng có rất nhiều cặp
mắt đang nhìn vào anh và họ thèm rõ dãi chỗ của anh. Điều quan trọng nhất là
chúng ta đang phối hợp hành quân với Sư ĐoànI Không Kỵ Hoa Kỳ...chỉ một lời báo
cáo của cố vấn Mỹ bên cạnh anh, thì anh bị trả về đơn vị gốc của anh ngay...”!
Tôi yên lặng
thẩn thờ ngồi nghe…! Anh lại tiếp lời:” Thôi được...tôi nói sơ sơ rồi ngày mai
anh bay với tôi…”! Hành Quân Phối Hợp GAP (Ground & Air Preparation) là kỷ
thuật dùng Pháo Binh và Air Strike cùng một lúc để dọn bãi đáp (LZ) hay bãi bốc
(PZ), điều phối hành quân sơ xuất hay không chính xác là pháo binh bắn rớt phi
cơ, hoặc phi cơ nã Rocket vào đầu quân bộ chiến thì cả đám đi chỗ khác để “ngồi
chơi sơi nước” muôn đời lục quân Việt Nam…!!! Anh còn sắp xếp thời giờ tôi gặp
các trưởng ban: Ban 4 Tiếp Liệu, Ban1 Quản Trị quân số, Ban 2 Tình Hình
bạn-địch…để nắm vững dữ kiện trước khi lên C&C thả tóan viễn thám hay trung
đội trinh sát… Như vậy trên những bước đường chập chửng của hai binh chủng BCD
và ND tôi đã quá may mắn được hai “Đàn Anh” đở đầu, hướng dẫn và bao che… cho
đến khi đủ lông, đủ cánh…!!! Nói lên lời “biết ơn”" thì khách
sáo quá, tôi chỉ xin hứa cái đầu “mũ nồi Võ Bị” và hai cầu vai Greenberet
và Redhat là cố gắng sống trọn tình nghĩa…Biết nói sao cho vừa…?!!!
Năm 1972 - Đường Vào Binh Lửa:
Nhắc
đến 1972 là phải nói đến “Mùa Hè Đỏ Lửa” đã có “nhà văn Quân Đội” Phan Nhật Nam
(K18), Niên Trưởng Đoàn Phương Hải (K19), Niên Trưởng Huỳnh Văn Phú
(K19) viết quá nhiều rồi… lại còn thêm hằng vạn trang sách báo viết về “Chiến
Trận Mùa Hè” bằng máu, nước mắt và thân xác của đồng đội thuộc tất
cả Quân Binh Chủng đã ngã xuống và biết bao nhiêu đồng bào trong chiến nạn đã may
mắn sống xót, lê lết tấm thân thương tật trở về xóm làng điêu tàn tan hoang nhà
cửa, ruộng vườn xơ xác … sau cuộc hành quân giải toả…nên tôi chỉ gói ghém ngắn
gọn những gì còn nhớ như một có “Lễ” là đầu của giềng mối
Nhân Luân trong đó “nói” nên lời tình tự với Võ Bị Đà Lạt và những “Chiến Binh
Kiệt Xuất” đã không hổ danh Tự Thắng Để Chỉ Huy thiện xảo phát huy hết tất cả
tài năng ứng chiến và quyền biến trên khắp mặt trận khốc liệt nhất ở
giai đoạn Mùa Hè 1972,tiêu biểu như chỉ một An Lộc thôi đã:
An Lộc quê hương
của loài nai
Xanh xanh rừng
cao su chạy dài…
Thấp thoáng trên
đường quê đất đỏ
Em nhỏ tung tăng
chân bước đến trường làng.
Chị duyên dáng
áo vàng khoe nắng sớm
Mẹ hiền từ quẩy
gánh buổi chợ đông
Năm Bẩy Hai, mùa
Hạ chí trời trong
Bắc Quân đến:
Công Trường Năm, Bẩy, Chín…
Điện Biên, Sao
Vàng, Tank, Pháo, Bình Long…
Hơn năm vạn quân
vây kín trùng trùng…
An Lộc thoi thóp
dưới mãn thiên mưa pháo !
Dân kinh hãi tìm
đường lánh nạn !
Bỏ làng vượt lửa
ngục trần gian !
Giặc điên cuồng
nả pháo bắn tan hoang…
Thị xã thân yêu
tan tác thãm sầu…!
Em nhỏ tan xác
vỡ học trò đẫm máu…!
Cô giáo trẻ với
tình yêu phấn, bảng…
Xác nơi nào hàng
phượng trổ đầy hoa ?
Mầu của hoa hay
máu thắm chan hoà ?
Đêm mưa gió nghe
oan hồn ê …a…trong lớp học !
Tiểu Đoàn Sáu Dù
vỡ, vòng vây xiết chặc
Đồi Gió tan tành
tràn ngập bóng Bắc Quân
Đỉnh Charlie ôm
xác người Anh Hào
Nguyễn Đình Bảo
hy sinh đền nợ nước !
Liên Đội Hổ Xám
lao vào trận địa
Cứu dân lành
trước họng súng Bắc Quân
Giặc bạo tàn bắn
giết tấn công
Máu các Anh đổ
đất Bình Long thêm đỏ !
Hoàng hôn xuống
nắng tà vương mộ chí
Thiếu nữ u buồn
nhỏ lê đề Thi
Lời Thơ lòng cảm
kích chân thành
Trong chiến trận
tình Quân Dân thắm thiết !
“ An Lộc địa sử
ghi chiến tích,
Biệt Kích Dù vị
quốc vong thân “ !
Giặc pháo hậu
xung biển người lớp lớp…
Quyết tràn qua
tàn sát Quân Dân Ta…
Đại Tá Vỹ bắn hạ
chiến xa tại tuyến đầu
Quân phòng thủ
vượt hào diệt Tank lẫm liệt… !!!
Lửa cháy rực bốn
phương trời An Lộc
Bóng tử thần
thấp thoáng điểm oan hồn
Nghe tiếng pháo
đưa người qua cõi chết…!
Những phi tuần
đánh bom thiêu đốt xác
Hoả pháo thổi
tung địa đạo chiến hào
Vòng đai phòng
thủ đạn xới cày vỡ đất
Ánh sáng hoả
châu soi leo lét ngoài biên
Như nến
lung ling đưa tiễn những linh hồn
Sinh đất Bắc vào
Nam tìm huyệt mộ…!
An Lộc du du
Thiên bất dung quỷ dữ
Quân Dân khôi
khôi chiến đấu phi thường !
Tướng Hưng điều
quân tử thủ kiên cường
Địch bỏ lại
chiến trường xác Tank cháy nám.
Tháng Sáu mưa
đầu mùa rơi rớt
Hàng mộ hôm qua
đã lợp cỏ non
Xác người nằm,
hồn vẫn sắt son
Giữ vững An Lộc
địa danh vào Lịch Sử.
Đỉnh, Tiểu Đoàn
Sáu Dù lướt qua An Lộc
Biệt Kích Dù
chiếm lại Đồng Long
Tiều Đoàn Tám
Dù, Biệt Động Quân phản công
Chiến Đoàn càn
quét giải vây An Lộc
Tháng Tám rừng
cao su sang Thu thay lá
Đất đỏ, mưa phùn
thị xã vẫn còn đây
Lời thơ ngây em
bé nói :” Mai nầy…
Khôn lớn con sẽ
oai hùng như An Lộc …”.
Hoàng Minh Uyên
Sau chiến thắng có
những vinh quang cho những Huynh- Đệ được tưởng thưởng vinh thăng thì cũng có
những đau thương như xé rách tâm hồn vì những Anh Em vừa xanh cỏ để tôi
“ta”được đỏ ngực…!
Tháng 3 -1972, đơn vị ĐĐ2TSND được triệt xuất khỏi
đồn điền Memot trở về hậu cứ Long Bình chờ lệnh. Hai ngày sau lên C130 trực chỉ
Kontum. Xuống phi trường "tái ngộ" ngay với NT Lân, Anh đang giữ chức
vụ Lữ Đoàn Phó LĐ81BCD vừa được triệt xuất ra khỏi vùng Tam Biên. Anh kéo
tôi ra nói vội vàng vài ba câu trước khi lên C130 về Sài gòn:” Út...em phải hết
sức thận trọng...nhớ và áp dụng kỷ thuật tác chiến của Biệt Cách Dù để tránh
tổn thất… Sư Đoàn Thép 320 của chúng nó đã áp sát Kontum với trọng pháo 130 và
tăng T54 nữa đó...”!
Hai ngày sau cả tôi dẫn cả Đại Đội lên trực thăng vận ngay trên đỉnh
1049 (Căn Cứ Delta) cách hơn 10Km về hướng tây Căn Cứ Võ Định
BCH/LĐ2ND thì bị Việt Cộng “phục kích độn thổ “ ngay tức khắc…! “Hand by
hand” Đại Úy Budard hét lên trong máy báo cáo với cấp chỉ huy của hắn trong tiếng
súng nổ vang trời…!!!
Tôi lại nghe trong máy của tôi tiếng của Thiếu Tá Nguyễn
Văn Thành tự “Thành Râu”( K19) phụ tá hành quân của Lữ Đoàn từ chiếc trực
thăng C&C do Đại Úy Phạm Công Cẩn (K21) Trưởng Tâm Hành Quân Phi Đoàn 229,
Thiếu Tá Lê Văn Bút (K16) Phi Đoàn Trưởng)đang vần vũ trên không phận vùng đồi
delta:
- Út Bạch
Lan...cho tôi biết cái gì đang xảy ra…!
- Đích thân chờ
một chút...tôi bị phục kích độn thổ…!
Lại có tiếng réo
của NT Nguyễn Trọng Nhi (K20) Trưởng Ban3Lữ Đoàn:
- Út Bạch Lan...báo cáo tình hình ngay...207 đang ngồi đây chờ (207 là Đại Tá
Trần Quốc Lịch LĐT/LĐ2ND)…!
Tôi “ne
pas”…!... để mặc cho họ chờ… thì chờ…?!!! Tôi làm gì có thì giờ
để báo với cáo…tay đâu còn mà ôm hai ba cái ống liên hợp để “tường trình” cung
cách quí phái thưa bẩm với trình “Đích Thân” như hồi còn làm
“học sinh” trong Trường Võ Bị” Royal…?!!! Tại “hiện trường” tôi
và mấy ông Tây (cố vấn Mỹ) đang cận chiến “face to face” vật lộn với..”vi
xi” tưng bừng banh xác pháo…chúng tôi ném lựu đạn xuống hầm đếm 1-2-3…chưa
tới 6 thì chúng quăng ngược trở lên, thầy trò “hồi bộ” bò lăng bò
càng te tua…!!! Mọi người sốt ruột lo lắng cho tôi, nhất là NT Thành Râu trên
trực thăng C&C 24/24, NT Nhi cứ năm ba phút rống lên hỏi ra sao rồi,
NT Cẩn thì hét to trong máy:
- UBT qua tần số
UHF, tôi sẽ cho biết tình hình chung quanh của UBL...UBL đang bị bao vây rồi
đó, chúng nó đông như kiến… nói với Tây (CV Mỹ)xin khẩn cấp Trực Thăng Võ Trang
(Cobra) trang bị M79, ngồi với tôi có NT Thành, ở dưới đất có NT Nhi lo Pháo
rồi...Nghe rõ không ?!!!
Trước áp lực
nặng nề của địch quân càng lúc càng thậm chí nguy… ! Nhưng tôi vẫn cảm
thấy yên tâm vì trên trời dưới đất lúc nào cũng có những “Ông thần hộ mạng” là
những Niên Trưởng đã một thời là "Hung Thần"
hét ra lửa, mửa ra khói… của những Sinh Viên Sĩ Quan khóa đàn anh
trong trường mẹ, đã thị uy dũng truyền thống phạt chúng tôi khoá đàn em tơi tả
như cái mền rách bươm…!!!
Nay đang trên trời ban ngày thì “Thành Râu19”
với “Công Cẩn21”, ban đêm thì “Thẩm Quyền Bút16”, dưới đất thì “Trọng Nhi20”
sáng trưa chiều tối thường trực “on” trên tần số, kề bên có NT “Ngọc Ngà19” TĐP
TĐ2ND, Lê Thơm (K22) ngày đêm ghìm súng chờ “giặc từ ngoài Bắc...dzô đây...dzô
đây...bàn tay vấy máu đồng bào…”…!!!
Hai ngày sau
CCDelta tạm lắng dịu vì có phi pháo yểm trợ…tôi tạm được một chút nghĩ “dưỡng
quân”, ngậm điếu thuốc, hớp một hớp cà phê… tôi chợt nhớ đến NT Khôi giờ này
TĐ7ND của Anh đang trên đường vào vùng chiến địa cùng với TĐ11ND…
Nhớ đến NT Khôi vì hôm nay bom, đạn pháo nổ tung xác giặc trên đồi… mà tôi
đã phối hợp hữu hiệu với cố vấn Mỹ và Pháo Binh Nhẩy Dù áp dụng kỷ thuật GAP từ
NT Trần Đăng Khôi đã “om” cho tôi hai năm về trước.
Một tuần lễ sau, TĐ11ND vào thay TĐ2ND ở CC Charlie, cách
phía bắc CC Delta khoảng hơn một cây số...TĐT Nguyễn Đình Bảo (K14) TĐ11ND, TĐP/
NT Mễ(K18), Ban3/ NT Đoàn Phương Hải (K19), ĐĐT113/ Hùng Mập( K22), ĐĐT112/
Hùng Móm (K22), ĐĐT111/ Thinh (ĐĐP của TS2 ) vừa được bổ nhiệm.
TĐ7ND vào
thay thế TS2ND ở Delta, TĐT/TĐ7ND là NT Khôi (K16), TĐP/T Đ7ND là NT Nguyễn Lô
(K18), Ban3/NT Em (K19), ba ĐĐT nòng cốt Đăng (K22), Hải (K22), Cao (K22)...
Trinh Sát II
Nhẩy Dù được bốc về CC Võ Định "dưỡng quân" hai ngày nằm dưới
giao thông hào tránh pháo “sơn pháo”130, sau đó lại được bốc thả vào CCCharlie
tăng cường cho TĐ11ND. Vừa đặt chân xuống bải đáp nằm bên cạnh sườn đồi Charlie
thì NT Hải chờ sẵn đó rồi:
- Út theo tôi
lên gặp Đích Thân cái đã...!
Trong căn hầm
tối mù mù với ánh đèn pin vừa đủ soi bản đồ, NT Nguyễn Đình Bảo nói:
- Út giúp cho tôi tăng cường phía Bắc với Hùng Mập, phía Nam có Hùng Móm, phía
Đông có Thinh, phía Tây tương đối không lo ngại vì phải qua một khe núi sâu
khoảng 100 mét…!
Tôi vâng lệnh đeo Balô,
súng đạn lên đường gặp Hùng Mập đang ngồi chàng hảng dưới gốc cây bên cạnh hố
cá nhân như Thổ Địa trấn trạch, “thằng ma cà rồng” này cùng ĐĐE22 Võ Bị Đà Lạt
với tôi, nó là dân “Bắc Kỳ ri cư” nên mồm chưỡi ròn rã “địt bố, địt…”…tùm
lum hiến dâng “món ngon vật lạ “ khó nuốt … tôi hỏi nó:
- Cái địt,… đồi này tên gì
vậy Hùng mập…?
- Đồi Bắc...đồi
bên kia (Charlie) là đồi 1515...!!!
Tôi
ra lệnh nghĩ ngơi, ăn uống đồng thời chỉ định ba toán viễn thám sẽ xuất hành
đêm nay… “thằng” Hùng mập cười khình khịt… trong cổ họng, đầu lắc qua, lắc
lại có ý chế diểu:
- Địt mẹ..Tank54 nó
nằm đầy ở dưới chân đồi mấy ngày nay, tao không hiểu sao nó đéo thèm bò
lên...nghe mày lệnh lạc cho các toán viễn thám của mày bung rộng lục soát mà
tao lạnh toát mồ hôi…!!!
Đúng
như lời Hùng mập bông đùa chiều nay, đêm hôm đó ba toán VT báo cáo y chang với
vài tấm ảnh T54 chụp được bằng máy hình hồng ngoại tuyến… Tôi được lệnh trở lại
CCCharlie để qua hướng Tây đóng quân trên ngọn đồi thấp hơn Charlie về phía tây
khoảng 150 mét…Nhưng muốn qua đó phải vượt qua khe núi đá dựng đứng sâu
100 mét…phải mất 3 tiếng đồng hồ toàn bộ Đại Đội mới lên được đỉnh đồi với hai
tóan viễn thám đã thám sát trước…Chưa kịp nghĩ chân và bố trí quân thì bị
Bắc Quân "Tapi" ngay...! Đại Úy Budard (CV/TS2ND) hét trong máy
với Đại Úy Muffy (CV/TĐ11ND):” Help..Help…do or die...do or die…!!!
Đại Tá Mike (CV/
LĐ2ND ) xen vào tần số: “Budard..listen to me...camldown..I will give
somethings rightnow...camldown...ok...ok…”!!!
Chúng nó tràn
lên như kiến, tôi hét Budard:” Becareful...don't shoot to my soldiers back…!
Năm phút sau
John Paul Van (CV/QĐ2) với chiếc Log và chiếc C&C của NT Cẩn cùng Đại Tá
Lịch, NT Thành đã có mặt trên không phận. Lệnh của ĐT Lịch:
- UBL..step by step Romeo-Juliet...you understand what I mean… ???
- I got… it… !!!
Tôi áp dụng
phương pháp "rút lui nhẩy cóc " vì rút lui đồng loạt sẽ bị Địch tràn
ngập ngay và mặc cho cấp trên điều động thế nào tôi không có "quởn"
nghĩ tới… chỉ thấy sau lưng của tôi là cả một biển lửa giống như trong phim
" We Are The Soldier " hằng loạt Bom Napal từ những phi tuần
trên không dội xuống đốt cháy vạn vật như “giời cao” huỷ diệt sinh linh quả địa
cầu tròn trịa nầy…Kinh hồn và khiếp hãi…!!! Phải bỏ lại hai toán VT và hơn 20
HSQ-BS, một số chết tại chỗ, số bị thương nặng nhẹ…tan tác…! Thôi đành xin lỗi
các bạn...”không phải tại anh cũng không phải tại em, tại trời xui khiến nên
chúng mình xa nhau…”… tử biệt sinh ly mỗi giây phút, mỗi giờ và mỗi ngày…Chinh
chiến mà…có mấy ai trở lại...?!!!
Ngày hôm sau TS2ND được bốc ra khỏi Charlie sau một đêm cùng TĐ11ND nằm vắt giò
lên miệng hầm nghe tiếng “mưa rơi” từ hai Pass B52 cách Charlie chừng 300 mét.
Sự việc đã phá lệ duy nhất trong Lịch Sử Chiến Trường Thế Giới và
chỉ có ở Charlie, VN 1972 vì khoảng cách an toàn để B52
dội bom tối thiểu phải 1000 mét vòng đai tránh thiệt hại cho quân ta.
Tôi ngồi
trên chiếc trực thăng Mỹ cuối cùng rời Charlie, không một vẫy tay chào, không
một lời giã từ "Đồi Bắc" nơi đó có Hùng Mập E22, "Đồi 1515"
có các NT thân yêu của tôi mà chỉ cách đây hai tuần lễ còn ăn nhậu mệt nghĩ tại
CLB/TĐ11ND với NT Bảo, NT Mễ, NT Hải, Hùng Móm, Thinh…! Vài ngày hôm
sau số phận Charlie kết thúc, để người Anh đáng kính Cố Đại Tá Nguyễn Đình Bảo
của CC Nguyễn Huệ-Long Bình nay có vinh Danh "Người Ở Lại Charlie"
qua dòng nhạc xót xa tiếc nuối của Nhật Trường…! Tưởng như vậy đã xong. Nhưng
có bao giờ Nhẩy Dù biết hai chữ "chấm hết"?... chỉ trừ khi nhắm mắt
“an ngủ” giấc ngàn thu…! Có lệnh LĐ2ND được Galaxy C5 tại phi trường
Pleiku không vận về Sài gòn khẫn cấp để " trên đường ra Quảng Trị..."
Trước khi rời khỏi Kontum, QĐ2 "cân hồ" xử dụng lực lượng Tổng Trừ Bị
Nhẩy Dù theo kiểu vơ vét cú chót: TĐ7ND và TS2ND được “có vé trực thăng"
của Thiếu Tá Lê Văn Bút và Đại Úy Phạm Công Cẩn thuộc PĐ 229 bay
“tham quan” đỉnh Chupao trước khi về phi trường Pleiku…Nhìn,… cũng lại là “dân
Đà Lạt”: NT Lô18, Đăng 22, Hải 22… đằng vân hạ thổ ngay trên đỉnh Chupao, NT
Khôi16, NT Em19 cùng Cao 22 dẫn quân "tam bộ nhất...bắn" xuôi nam,
UBL nhẩy xuống phía Tây Nam dưới chân đồi, NT Cẩn (C&C) ban ngày, NT Bút
ban đêm. Mạnh ai nấy lo trong tình huống tứ bề thọ địch “Tam Quốc Chí Tân Thời”
Anam với “Quan Vân Trường Đà Lạt” đang “lăng ba vi bộ” trên Hoa Dung
Lộ có trùng trùng “giặc từ miền Bắc dzô đây” bố trí quân phục kích và sẵn sàng
“uýnh” Full Contact trận địa chiến…và trong khi Triệu Tử Long múa thương trường
bản trên đỉnh Chupao…!!! Rồi nhiệm vụ nào cũng “thi thố” Xong tuyệt vời…!!!
Đứng sắp hàng
chờ lên Phi Cơ C5 (lần đầu tiên đơn vị Nhẩy Dù được không vận bằng C5 của Mỹ )
từ thầy đến trò, từ anh xuống em nhìn nhau với ánh mắt không nói nên lời vì đã
bỏ lại sau lưng bao nhiêu đồng đội cùng thành phố Kontum với giòng sông PoKo có
cô “sơn nữ phà ca” mang gùi đi đổi muối…!
Đường Vào
Quảng Trị:
Có
thể ví von là Đà Lạt “du ngoạn” vào tử địa Quảng Trị !!! LĐ2ND làm mũi dùi
chính trên đường chiếm lại cổ thành Đinh Công Tráng. Thành có dạng hình vuông,
sông Thạch Hãn bao bọc phía Tây uốn quanh một phần phía Bắc, phía Đông là Làng
Tri Bưu, Hạnh Hoa Thôn nơi đóng quân của BTL/ SĐ304 CSBV, phía Nam là nhà thờ
La Vang và ngã ba Long Hưng…
“Phái Đoàn Đà
Lạt” gồm có:
TĐ5ND/ NT
Nguyễn Chí Hiếu (K15), NT Bùi Quyền (K16), NT Chí K20, TĐSĩ K21, NTViệt K23.
TĐ7ND/ NT Trần
Đăng Khôi( K16), NT Nguyễn Lô (K18), NT Em K19, ba ĐĐ nòng cốt Đăng,
Hải, Cao K22, TV Quyền K23.
TĐ11ND/ NT Mễ
(K18), NT Thành( K19), NT Hải (K19), Hùng Móm (K22), NVN Long K23.
Tăng cường:
TĐ6ND/ NT Nguyễn Văn Đỉnh (K15), NT Tùng K19 và 2 Biệt Đội 81BCD dưới quyền chỉ
huy của NTLân (K17)….Như vậy là “dân ĐàLạt” toàn phần nếu không “tiếu ngạo
giang hồ” gọi đó là "Phái Đoàn Đà Lạt.." thì đã khoa ngôn chi thiện
xảo ư từ chăng …?!!! Với hai mươi bảy (27) ngày đêm phái đoàn được đón tiếp
bằng “pháo bông” rực rỡ mãn thiên hoa đạn liên ti tù tỳ từ nổ chụp trên đầu tới
cày nát địa đại không thua gì đêm pháo bông Tết Tây ở Time Square New York…!!!
Chỉ
có điều trớ trêu là “nhân sự” trong phái đoàn thưởng lãm địa pháo, sơn
pháo…phải cảnh giác tối đa, chong súng đỏ mắt, nón sắt che đầu, ẩn nấp dưới
giao thông hào hay hố cá nhân ngập nước bùn sình… Tôi có một kỷ niệm khó quên ở
đây khi dẫn quân đã xâm nhập vào được Quận Châu Thành-Mai Lĩnh, nín thở ém quân
chờ TĐ7ND còn đang bị khựng lại ở ngả ba Long Hưng, lúc nửa đêm về sáng hôm
sau, “Sông Lô” TĐP/TĐ7ND một mình với hai HSQ mang máy vượt một đoạn đường
gần một cây số để bắt tay với TS2ND trong khi Bắc Quân bủa vòng vây kín, tứ bề
thọ địch và chiến xa T54 của chúng đang tuần tiểu trên đoạn đường này…Niên
Trưỏng ”Ôn Lệnh Hồ Xung Lô Lọ Rượu” (K18VBĐL) mừng rỡ ôm chầm Út
Bạch Lan tôi (K22VBĐL) cười khằng khặc sảng khoái như muốn Hồ Trường…hồ rượu ta
muốn “trút” về phương mô cho cát bay đá chạy chôn trăm ngàn xác quân sinh Bắc
tử Nam mà chưa cạn một Hồ Trường…!!! “Ôn Sông Lô” trọ trẹ:
- Mạ mi…Ta không ngờ mi mò vô tới đây…!!!
- Chuột
mà...Niên Trưởng !!! (Huy hiệu Trinh Sát Dù là con Hải Sư nhưng trông giống
như con chuột đầu Giáp thập nhị chi Tí Sửu Dần Mẹo…)
Vì: Danh Dự -
Trách Nhiệm - Tổ Quốc ...mà “đàn anh-đàn em” cùng chung dưới mái Trường
Mẹ Võ Bị Đà Lạt kéo nhau lao vào những cuộc binh đao “chơi hết láng” bằng máu,
nước mắt và thân xác gói Poncho miếng còn, miếng mất…! Tôi đã mất đi một NT
Tùng K19, một thằng bạn Hùng Móm cùng khóa, một đàn em NVN Long K23...và còn
nhiều nữa đã bị loại ra khỏi vòng chiến làm sao mà nhớ hết trong suốt quảng đời
chinh chiến được sao…? Đáng tiếc và ngậm ngùi…!
Đã có rất nhiều
"Cây Viết có tầm cở”...viết tả lại những chiến trận Kontum, An Lộc và
Quảng Trị với nhiều công sức truy tầm, nghiên cứu trên tài liệu sách báo…Nhưng
hầu hết họ không và làm sao để có thể “lột tả” diễn đạt được hết những khốc
liệt trên chiến trường mà người chiến binh phải vượt qua nỗi chết để giành lấy
sự sống khi thế chiến đấu ở An Lộc là Tử Thủ, Quảng Trị
là Tử Chiến… Một là Thủ hai là Công, hai tính chất khác biệt nhau nhiều lắm…
Vậy cho nên dù là Thuỷ Quân Lục Chiến, Nhẩy Dù, Biệt Động Quân, 81Biệt Cách Dù,
Bộ Binh, Thiết Giáp, Không Quân, Hải Quân, Địa Phương Quân, Nghĩa Quân, Nhân
Dân Tự Vệ …trong số những đơn vị của toàn thể Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà đã có
không ít những “đứa con yêu” của trường Mẹ Võ Bị Đà Lạt nói riêng và của Tổ Quốc
nói chung, đã một mai rơi rụng như chiếc lá lìa cành dưới những tràng đạn, mưa
pháo, lưới đạn phòng không nổ kinh hoàng làm nên cơn địa chấn và
vùng trời đầy bão lửa cháy rực đỏ thôn làng... máu xương dân lành đã đỗ xuống,
anh em cùng một bọc thai bào sinh ra gọi nhau là “Đồng Bào” lại tàn
sát lẫn nhau…Ôi …có oan khiên nào hơn…! Thua cuộc hay thắng cuộc ? Tôi còn nhớ
trong Đệ Nhất Thế Chiến khi Danh Tướng FOX đi ngang ngôi mộ của Napoléon có ghé
lại chào và viết một câu trên mộ bia: " Công Danh -Sự Nghiệp của
một con người không phải là lúc khởi đầu mà là lúc kết thúc... ".
Hay câu viết của
NT Lâm Quang Thi:” Chúng ta thua một trận chiến, chứ chưa phải thua một
cuộc chiến...".
Trải
qua bao thế sự thăng trầm… sau nửa đời người một phần hai thế kỷ, ngày nay kẻ
còn người mất, giàu-nghèo, sang- hèn có khác gì nhau khi đã có mang chung một
“dòng máu Võ Bị", ND qua ngưỡng của phi cơ cùng tung cánh dù
lộng gió lơ lững giữa trời không, BĐQ cùng nhẩy ào ra khỏi lòng slick trực
thăng lội bãi sình lầy gian khổ, TQLC đỗ quân hay nhẩy ùm xuống bờ biển nông
sâu lõm bõm lội vào bờ trước họng súng đang chực chờ khai hoả của Cộng nô, KQ
lao vào lưới đạn phòng không nã hoả tiễn, rãi từng tràng đạn liên thanh, bay
sát mục tiêu để “thẩy lỗ” từng trái bom nổ bung xác Bắc Quân như những con
thiêu thân đang tràn ngập căn cứ quân bạn hoặc lắc cánh "né đạn" chào
nhau hẹn mai tương phùng, hay anh TG đang ngồi trên pháo tháp chiến
xa chợt nghe tiếng cà xịch cà xịch của SA7 vội lao mình xuống đất và húc trên
xác địch mà tấn xa, khạc đạn…!!!
Quân Trường chỉ có đổ mồ hôi, nhưng Chiến Trường đỗ mồ hôi, máu và nước mắt…!
Các cấp Tướng lãnh, các Đại Niên Trưởng thì...thì...đỗ mồ hôi " hột "
nhiều hơn, bởi... "Nhất Tướng Công Thành Vạn Cốt Khô" cũng phải lau
giọt lệ khi nghe tin một khóa đàn em vừa nằm xuống hay vừa bị mất một quận một
tỉnh nào đó. Không biết giọt mồ hôi hột có nóng hơn giọt máu đào hay không…?!
Nay ngồi đây với nỗi nhớ ngập tràn qua ly rượu, hồn mênh mang hồi tưởng lại
chiến trường xưa mà đoạn đường Kontum bỏ lại sau lưng bao Niên Trưởng, vào An
Lộc nằm xuống mấy kẻ "đồng môn", ra Quảng Trị chôn vùi bao nhiêu thân
bách chiến và đoạn đường nào đốt cả quảng trời xanh…?!!!
Màu
xanh đó ...bây giờ chỉ còn là “chiếc áo dài Võ Bị” đi bên cạnh cuộc
đời nơi xứ lạ quê người…Võ Bị Đà Lạt còn đây những Anh Em một thuở Anh Hùng Bảo
Quốc An Dân-Trấn Không-Phòng Vệ Lãnh Hải giặc Tàu Ô Man thừa gió bẻ măng chứ
chưa thật sự dám động cuộc can qua.
Trương Văn
Út (MũđỏÚtBạchLan) K22. Tháng Giêng Năm 2014.
__._,_.___