QUỐC HẬN 30 THÁNG 4

Image result for Tháng Tư năm 1975 -----

==== ====



Wednesday, January 7, 2015

Vụ 16 tấn vàng: Vì sao TT Thiệu được minh oan?


Vụ 16 tấn vàng: Vì sao TT Thiệu được minh oan?

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2015-01-05

Email
Ý kiến của Bạn
Chia sẻ
In trang này
01052014-gold-nn.mp3Phần âm thanh Tải xuống âm thanh
045_IS098T6WN.jpg
Vàng thỏi, ảnh minh họa.
 AFP photo
Trước và sau ngày 30/4/1975 báo chí phương tây cũng như trong nước đưa nhiều tin bài với nghi vấn nhà lãnh đạo VNCH Nguyễn Văn Thiệu đã tẩu tán số vàng dự trữ 16 tấn của Nam Việt Nam. Phải mấy chục năm sau Lịch sử mới được làm sáng tỏ.

Nam Nguyên phỏng vấn ông Huỳnh Bửu Sơn, người đã quản lý và chuyển giao số tài sản quốc gia đó cho chế độ mới. Trong biến cố lịch sử tháng 4/1975, ông Huỳnh Bửu sơn mới 29 tuổi tốt nghiệp Cao học Kinh tế Đại học Luật khoa Saigon. Ông Sơn thuộc nhóm lãnh đạo Nha Phát hành Ngân hàng Quốc gia Việt Nam và là người giữ chìa khóa hầm vàng. Từ Saigon trước hết ông Huỳnh Bửu Sơn phát biểu:

Ông cũng biết, số lượng vàng có trong hầm như thế nào, thì khi được tiếp quản và chuyển giao cho Ủy ban Quân quản của Ngân hàng Nhà nước lúc đó được giao toàn vẹn không thiếu một nút vàng nào cả. Chúng tôi thường gọi là nút vàng vì ngoài những thoi vàng tính cách ra, còn có những đồng tiền cổ, những đồng tiền vàng Napoleon nhưng mà buôn lậu sang Việt Nam bị bắt dưới hình thức những cái nút cài áo. Cho nên là khi được giao lại cho Ủy ban Quân quản thì toàn bộ vàng trong hầm bạc bao gồm cả những đồng tiền cổ đó được giao đầy đủ hết.
Số lượng vàng có trong hầm như thế nào, thì khi được tiếp quản và chuyển giao cho Ủy ban Quân quản của Ngân hàng Nhà nước lúc đó được giao toàn vẹn không thiếu một nút vàng nào cả.
- Ông Huỳnh Bửu Sơn
Nam Nguyên: Thưa sau này ông có được nghe nói là chính phủ mới đã sử dụng lượng vàng đó như thế nào hay không? Bởi vì 16 tấn vàng vào thời ký đó rất là lớn có thể giúp phát triển kinh tế, hay chính phủ lại dung để trả nợ các nước bạn có quân viện giúp cho việc thống nhất đất nước.
Ông Huỳnh Bửu Sơn: Thật ra lúc đó có rất nhiều tin đồn về việc sử dụng số vàng đó. Nhưng tôi không ở trong một vị trí mà biết được những thông tin như vậy và xin được phép không dám nói về những lời đồn xung quanh chuyện sử dụng số vàng đó. Tôi nghĩ là Chính phủ Việt Nam thì cũng sử dụng số vàng đó cho những mục tiêu rất thiết yếu về kinh tế hay cho mục tiêu nào khác của chính phủ.
Nam Nguyên: Thưa ông là người quản lý cuối cùng và chuyển giao qua chính phủ mới. Lúc đó ở Việt Nam có tin đồn là Tổng thống Thiệu đã mang số vàng đó đi, thời gian đó ông có nghe tin này hay không ?
Ông Huỳnh Bửu Sơn: Có tôi cũng có nghe chuyện đó, chính BBC trong thời gian đó cũng có một loạt bài về chuyện này, cũng có nói tôi đã minh oan cho ông Thiệu (cười). Thật ra có thể ông Thiệu lúc đi có mang theo một số vàng của riêng ông ấy thôi, còn số vàng của quốc gia thì vẫn còn tại hầm vàng của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam.
Nam Nguyên: Thưa quản lý vàng của chế độ cũ trong Ngân hàng Quốc gia có chặt chẽ và khoa học hay không?
Ông Huỳnh Bửu Sơn: Mình không dám dùng những tĩnh từ để nói rằng chặt chẽ hay khoa học, nhưng riêng việc cuối cùng toàn bộ những thoi vàng đó được giữ rất là chu đáo, đầy đủ và không thiếu như tôi nói là một cái nút vàng, theo đúng như sổ sách và được giao lại cho chính phủ mới. Điều đó cũng cho thấy cách quản lý của Ngân hàng Quốc gia, không riêng gì vàng mà đối với các tài sản khác đều có kỷ luật rất tốt.
Nam Nguyên: Thưa ông có thể mô tả chút ít về cách quản lý khoa học như thế?
Ông Huỳnh Bửu Sơn: Tôi nghĩ nếu mà so với kỹ thuật quản lý hiện nay của những Ngân hàng Trung ương trên thế giới thì nó cũng không phải là có cái gì đặc sắc lắm. Tuy nhiên vàng được cất giữ trong những hầm trong đó có thể vừa chứa vàng vừa chứa tiền chưa được phát hành và có thể nói là được quản lý, kiểm kê khá là thường xuyên. Chắc chắc mỗi năm đều có việc kiểm kê đó và tất nhiên việc ra vào hầm bạc cũng rất nghiêm ngặt, chỉ những người có trách nhiệm thôi.
Việc giữ chìa khóa hầm bạc không phải chỉ một người mà giữ được. Tức là có hai bộ chìa khóa, một bộ thuộc về bên kiểm soát, một bộ thuộc về bên điều hành; phải có hai bộ chìa khóa đó và thêm một người giữ mật mã của cửa ra vào hầm vàng hầm bạc đó thì mới có thể mở cửa được. Như ông biết các cửa hầm vàng của Ngân hàng Trung ước các nước là rất kiên cố có độ dày lên tới 8 tấc hay một thước, phải nói là rất kiên cố chưa kể việc giữ an ninh bên ngoài rất là chặt chẽ. Tôi nghĩ đây  là việc bình thường của bất cứ Ngân hàng Trung ương nào có kho trữ vàng trữ tiền.
Thật ra có thể ông Thiệu lúc đi có mang theo một số vàng của riêng ông ấy thôi, còn số vàng của quốc gia thì vẫn còn tại hầm vàng của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam.
- Ông Huỳnh Bửu Sơn
Nam Nguyên: Thưa hồi đó chưa có kỹ thuật điện toán (computer) thì sổ sách kế toán ghi chép có chặt chẽ và bảo đảm hay không?
Ông Huỳnh Bửu Sơn: Thật ra lúc đó cũng đã có điện toán rồi, tất nhiên không mạnh và nhanh như hiện nay. Nhưng đã có sử dụng điện toán để theo dõi tài sản đó và ghi rõ trên các bảng kê, chúng tôi gọi là listing. Những bảng kê đó được đối chiếu nhiều lần mỗi khi có trường hợp đột xuất về vàng. Vì thật ra hồi xưa Ngân hàng Quốc gia cũng có sử dụng số vàng trong kho bán ra để bình ổn thị trường vàng vào lúc đó.
Nam Nguyên: Thưa trong những ngày cuối cùng cho đến 30/4/1975  ông có thấy chính quyền cũ có nỗ lực nào để chuyển số vàng đó đi hay không. Dẫn tới tin đồn là đã chuyển ra ngoại quốc.
Ông Huỳnh Bửu Sơn: Thật sự là có và cũng đã dự kiến là chuyển sang gởi ở tại Mỹ, tôi nhớ không lầm là gởi tại một ngân hàng ở Mỹ và đã có sự chuẩn bị đó rồi. Chính vì sự chuẩn bị đó cho nên một hãng bảo hiểm ở Bỉ là nơi được hợp đồng bảo hiểm số vàng chuyển đi đã tiết lộ ra. Nhưng cuối cùng của chính phủ quyết định giữ lại số vàng đó cho nên nó không được chuyển đi.
Nam Nguyên: Đối với tư cách công dân Việt Nam một người chịu trách nhiệm quản lý, nói chung là của đất nước và ông đã chuyển giao không suy suyển thì ông có cảm nhận gì vào ngày hôm đó?
Ông Huỳnh Bửu Sơn: Lúc đó từ việc kiểm kê số vàng đó và giao lại cho Ủy ban Quân quản thì tôi nghĩ tôi cũng chỉ hành động như một nhân viên bình thương của Ngân hàng Quốc gia mà thôi. Tức là làm cho tròn trách nhiệm mình được giao phó, chứ lúc đó tôi cũng không nghĩ ngợi gì cả…mà cũng khá lo vì nếu lỡ mà thiếu một cái gì thì có khi chính mình phải chịu trách nhiệm oan đấy (cười) mà may quá đã không thiếu gì cả.
Nam Nguyên: Cảm ơn ông Huỳnh Bửu Sơn đã trả lời RFA.



Đảng CSVN Làm sao bảo vệ nổi Chủ nghĩa Mác Lê đã như cái xác chết thối rữa?

Monday, January 5, 2015

CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM

 
From: "joseph pham  [GiongLacHong]" 
To:
Sent: Tuesday, December 16, 2014 8:32 PM
Subject: [GiongLacHong] Hội Luận Về Chính Đề Việt Nam Phần 3 Ngày 16 tháng 12, 2014.

 CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM
Chương I


         Năm 2009, nhằm ngày lịch-sử mồng 1 tháng 11, Giáo-Sư Tiến-Sĩ Tôn Thất Thiện đã cho phổ-biến trên báo Người Việt Boston (Massachusetts, USA) một bài-viết, nhan đề:

 

CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM:

MỘT VIÊN NGỌC QUÝ TRONG KHO TÀNG TƯ TƯỞNG,
MỘT ĐÓNG GÓP LỚN VỀ SOI SÁNG VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN

*
 
         Đọc xong bài-viết của Ông Tôn Thất Thiện về “Chính Đề Việt Nam”, chúng tôi đã có một số cảm-nhận và suy-nghĩ thô-thiển dưới đây:
 
 
A- “Chính Đề Việt Nam” Là Gì?
 
         Qua bài-viết của Ông Tôn Thất Thiện, độc-giả biết rằng “Chính Đề Việt Nam” là một tập “tài-liệu học tập nội bộ của những người thuộc Đệ Nhất Cộng Hoàmà nội-dung là “kết tụ những nghiên cứu và phân tích dựa trên kinh nghiệm lịch sử của cố vấn Ngô Đình Nhu cùng một số phụ tá thân cận nhằm giúp những cán bộ quốc gia nắm vững con đường phát triển dân tộc”, trong đó “một phần những đề tài này đã được thảo luận trong hàng ngũ cán bộ lãnh đạo dưới thời Đệ Nhất Cộng Hoà”, và vai trò của nó hiện nay là “phổ biến rộng rãi một công trình đóng góp rất lớn của những người lãnh đạo Đệ I Cọng Hoà Việt Nam vào sự soi sáng vấn đề phát triển Việt Nam, để những ai cứu xét vấn đề có thêm dữ kiện để suy ngẫm”.
 Về thời-điểm ra đời của tài-liệu này thì Ông Thiện cho biết là: “Lúc soạn tài liệu này, vào khoảng những năm 1957-1960. Những nhận xét trên đây được đưa ra vào khoảng năm 1960. Điều nhận xét nay được đưa ra năm 1960” (có nơi Ông Thiện viết là năm 1962).
         Nói chung, mục-đích của công trình này là để phác-hoạ “con đường phát triển dân tộc”, đưa Việt Nam ra khỏi “tình-trạng chậm tiến”.
 Tuy thế, Ông Tôn Thất Thiện còn đánh giá nó cao hơn: “Chính Đề Việt Nam là một tài liệu được soạn đặc biệt như là một tài liệu học tập để huấn luyện cán bộ cao cấp của chế độ về nghệ thuật trở thành những người lãnh đạo xứng danh’. Tuy nhiên, như ta đã thấy, tài liệu này có một tầm quan trọng vượt xa không những chế độ Cọng Hoà I [Miền Nam VN], mà ngay cả [toàn quốc] Việt Nam: nó có giá trị một tài liệu học tập quý báu cho cán bộ các nước chậm tiến muốn hiện đại hoá”.
 
 
B- Ông Tôn-Thất Thiện Là Ai?
 
         1/ Trên mạng lưới thông-tin toàn-cầu, tỉ như “Wikipedia” (từ-điển bách-khoa mở: http://en.wikipedia. org/wiki/Ton_That_Thien), Ông Tôn Thất Thiện được tả là một nhân-sĩ quốc-gia, lìa bỏ chính-phủ Hồ Chí Minh vì là cộng-sản trá-hình, đứng ngoài chính-phủ Bảo Đại vì là phụ-thuộc thực-dân, và chỉ tùng-phục Ông Ngô Đình Diệm là một “lãnh-tụ quốc-gia chân-chính”. Ông Thiện tri-ngộ Ông Diệm tại Pháp từ năm 1953, và đã trở thành Giám Đốc Báo Chí kiêm Thông-Dịch-Viên riêng của Thủ-Tướng Ngô Đình Diệm từ những ngày đầu-tiên [1954] và của Tổng-Thống Ngô Đình Diệm vào chính ngày cuối-cùng của nền Đệ-Nhất Cộng-Hoà [1963].
 
         2/ Ngay trong bài-viết nói trên, Ông Tôn Thất Thiện đã tự giới-thiệu như sau: “Từ lúc tôi bắt đầu suy tư về tình trạng Việt Nam, vào những năm cuối giai đoạn Trung học, 1942-44, rồi qua những năm học hỏi, sưu tầm, giảng dạy ở Đai học, từ năm 1947 cho đến nay, 2009, đã 85 tuổi, hưu trí được liệt vào hạng bô lão, tôi không ngớt suy tư, sưu tầm, nghiên cứu, tìm hiểu về vấn đề canh tân, cải tiến Việt Nam để đưa dân tộc ra khỏi tình trạng chậm tiến, khổ cực được dàn ra hàng ngày trước mặt mọi người. ... vấn đề căn bản của rất nhiều nước... trong đó có Việt Nam, là những nước ở tình trạng chậm tiến. ‘Chậm tiến’ là dẫm chân, thua xa về đời sống yên ổn, sung túc so với dân các nước Tây Phương, và so với tình trạng khoa học kỹ thuật của nhân loại trong giai đoạn hiện đại... . Tôi đã được học hỏi ở những Đại học có tiếng là đứng hàng đầu thế giới về các môn Chính trị, Kinh tế, Xã hội học, tôi đã đọc rất nhiều sách, báo, về vấn đề phát triển; tôi đã dành rất nhiều thì giờ quan sát, suy tư về vấn đề, và cũng đạt được một số nhận xét có thể coi là chính xác, nhưng tôi không mãn nguyện, trí tôi vẫn không yên, vì tôi chưa thấy thật rõ ràng và toàn bộ giải pháp dẫn đến sự phát triển mà tôi mong muốn. Điều này cũng có nghĩa là tôi chưa tìm ra được một cách tiếp cận hiệu nghiệm để thấy con đường đó...” và “(tôi) là một học giả đã để nhiều thì giờ, nhiều công tâm trí vào việc tìm hiểu vấn đề”.
 
 
C- Thắc-Mắc khi đọc “Chính Đề Việt Nam”:
 
         1) Ông Tôn Thất Thiện viết: “Mãi đến năm 2004 (tức là hơn 40 năm sau khi chấm dứt Đệ Nhất Cộng Hoà) tôi mới được cái may mắn này... . Năm 2004 là năm tôi được nghe nói đến, rồi được đọc, tác phẩm Chính Đề Việt Nam...”
 
         Thắc-Mắc: Ông Tôn Thất Thiện theo phò Thủ-Tướng rồi Tổng-Thống Ngô Đình Diệm với một tấm lòng tín-nghĩa, và sau Ngày Định-Mệnh 1-11-1963 thì vẫn giữ vững một niềm kiên-trung đối với cố lãnh-tụ họ Ngô. Đương-nhiên Ông Thiện cũng thân-cận không ít với Cố-Vấn Ngô Đình Nhu (Ông Thiện cũng là thông-dịch-viên tín-cẩn của Ông Nhu tỉ như trong cuộc họp báo với kí-giả ngoại-quốc vào cuối tháng 9 năm 1963, về những tin đồn rằng Ông Ngô Đình Nhu liên-lạc với cộng-sản). 

Cương-vị, trách-vụ, năng-khiếu và sở-trường của Ông Thiện gắn liền với chữ-nghĩa, tư-tưởng, chủ-thuyết và... chính-đề Thế mà tập tài-liệu (“Chính Đề”) này, dù đã “kết-tụ những nghiên cứu và phân tích dựa trên kinh nghiệm lịch sử của cố vấn Ngô Đình Nhu cùng một số phụ tá thân cận” và “một phần đã được thảo-luận trong hàng-ngũ cán-bộ lãnh-đạo dưới thời Đệ Nhất Cộng-Hoà”, rồi sau chính-biến 1963 còn được “xuất-bản năm 1964 ở Việt Nam, được tái bản tại Hoa Kỳ năm 1988”, với một nội-dung hệ-trọng và cấp-thiết như thế, thế mà nó vẫn tàng-hình như một hồn ma, và phải đợi mãi đến năm 2004 (hơn 40 năm sau) ông Thiện mới có được “cái may-mắn được nghe nói đến, rồi được đọc, tác phẩm Chính Đề Việt Nam”. 

Tôi không tin rằng một tập tài-liệu, chỉ là giấy mực, có thể chơi trò cút+bắt (trốn+tìm) với Ông Thiện; nhưng tôi thắc-mắc tại sao các bạn đồng-tâm đồng-chí của Ông Thiện, hẳn là vẫn còn (và vẫn còn trung-thành chứ!), nhất là “một nhóm thân hữu đã cùng sát cánh bên nhau trong nhiều năm” lại không có lòng, không có tình, báo tin hay bắn tin cho ông Thiện biết về sự có mặt của tập tài-liệu “quý-giá vô-song” này, khiến ông phải mất hơn 40 năm mới biết đến nó. Phải chăng trong hơn 40 năm ấy Ông Tôn Thất Thiện không còn liên-lạc với các “cán bộ lãnh đạo dưới thời Đệ Nhất Cộng Hoà” hay là chính họ (“một số chiến-hữu trung kiên”) không còn liên-hệ với ông (vì lí-do nào, ông có thể cho biết không)?

Hay đoạn ghi-chú “được xuất-bản năm 1964 ở Việt Nam, được tái bản tại Hoa Kỳ năm 1988” quả là một câu viết phịa [vì không có ai thấy/giữ được một bản in nào]?
 
         2) Ông Tôn Thất Thiện viết: Vấn đề được bàn đến trong Chính Đề Việt Nam là vấn đề phát triển “Sau khi đọc xong Chính Đề Việt Nam, phản ứng đầu tiên của tôi (Tôn Thất Thiện)” là: “Trời! Sao mình không được biết đến tài liệu này sớm hơn! Tất cả những gì mình tìm kiếm đều có trong đó. Mình đã mất gần 50 năm... tìm kiếm những gì mà đã có người Việt Nam đã viết lên rồi.”
 
         Thắc-Mắc: “Tổng-Thống Ngô Đình Diệm và Cố-Vấn Ngô Đình Nhu, từ thập-niên 1940, nhất là trong suốt thời-gian 9 năm cầm quyền từ 1954 cho đến 1963, cũng đã đem hết tim óc ra để, không những tìm cách tiếp-cận, mà còn cố gắng thực-hiện con đường “đưa dân tộc ra khỏi tình-trạng chậm tiến” (Phát Triển Cộng Đồng, Cộng Đồng Đồng Tiến), qua chủ-nghĩa Nhân Vị, thể-hiện bằng Đảng Cần Lao Nhân Vị Cách Mạngquốc-sách Ấp Chiến Lược và chính Ông Tôn Thất Thiện trên cương-vị Giám Đốc Báo Chí và Thông-Dịch-Viên riêng của Tổng-Thống Ngô Đình Diệm rồi Tổng Giám Đốc Việt Tấn Xã của Đệ Nhất Cộng Hoà, cũng đã tích-cực tham-dự vào quá-trình ấy, trong chế-độ ấy. Thế mà nay Ông Tôn Thất Thiện mới tìm ra được cái may mắn đọc tác phẩm Chính Đề Việt Nam, là “tài-liệu học-tập” về “con đường phát triển dân tộc” và Ông Thiện đã vội kêu lên “Trời! Sao mình không được biết đến tài liệu này sớm hơn!” Điều này đưa đến hai giả-thuyết:
 
         a- Hoặc là “Chủ Nghĩa Nhân Vị” và “Chính Đề (Phát Triển: Tây-Phương-Hoá tức Hiện-Đại-Hoá)” của Đệ-Nhất Cộng-Hoà, “tuy hai mà một” (“Nhân Vị” thuộc về tư-tưởng: chủ-đạo thượng-tầng kiến-trúc; “Phát Triển”, riêng về khoa-học kỹ-thuật, thuộc về hành-động: cải-tiến hạ-tầng cơ-sở); nhưng Ông Thiện thì trước kia chỉ biết “Chủ Nghĩa Nhân Vị” đến nay mới biết “Chính Đề (Phát Triển)”, trong lúc nó là “một tác phẩm hết sức độc đáo, một đóng góp lớn, một viên ngọc quý trong kho tàng tư tưởng của nhân loại” và ông Thiện thì tự xưng là “một học giả chuyên nghiên cứu về vấn đề phát triển các quốc gia châm tiến”? Thế thì vì lí-do gì Ông Tôn Thất Thiện thông-thái đến thế mà hồi đó lại không nhận ra?
 
         b- Hoặc là “Chủ Nghĩa Nhân Vị” khác với “Chính Đề (cũng là tư-tưởng) về Phát Triển”; nhưng Ông Tôn Thất Thiện không biết đến, hoặc đúng hơn là không được những người lãnh đạo Đệ I Cọng Hoà Việt Nam cho biết về Chính Đề Phát Triển. Thế thì chỗ đứng của ông Thiện trong lòng chế-độ thời đó là ở chỗ nào?
 
         c- Trong cả hai trường-hợp, Ông Tôn Thất Thiện viết: “Từ (khi phục-vụ dưới quyền Ông Ngô Đình Diệm cho đến sau khi chấm dứt Đệ-Nhất Cộng-Hoà), tôi không ngớt suy tư, sưu tầm, nghiên cứu, tìm hiểu về vấn đề canh tân, cải tiến Việt Nam để đưa dân tộc ra khỏi tình trạng chậm tiến (tức là con đường phát triển dân tộc)” mà mãi đến “bây giờ (năm 2004) mới thấy thật rõ ràng và toàn bộ giải pháp dẫn đến sự phát triển mà mình mong muốn, tất cả những gì mình tìm kiếm gần 50 năm, trong tác phẩm Chính Đề Việt Nam” này, là “tài liệu xuất sắc nhứt... trong suốt thời gian gần 70 (19422009=67) năm qua tức là Ông Tôn Thất Thiện chính-thức và công-khai phủ-nhận giá-trị của Chủ-Nghĩa Nhân Vị (với cả tư-tưởng chủ-đạo trong Hiến Pháp Đệ-Nhất Cộng-Hòa, trong Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng Đảng và trong “quốc-sách Ấp Chiến Lược”) cũng như hành-động thực-thi trong chương-trình Phát Triển Cộng Đồng, chủ-trương Cộng Đồng Đồng Tiến, v.v... của nhị vị Diệm+Nhu qua biết bao nhiêu là sách-sử; báo-chí; tài-liệu tuyên-truyền, giảng-dạy, học-tập), vì mãi đến nay Ông Thiện mới biết, tức là hồi đó (Đệ-Nhất Cộng-Hòa=19541963) Ông Thiên không hề (cần, thèm) biết dến những thứ đó.
 
         3) Ông Tôn Thất Thiện viết: ai là tác giả của tác phẩm (‘Chính Đề Việt Nam) cũng không quan trọng. Điều quan trọng là phổ biến rộng rãi một công trình đóng góp rất lớn của những người lãnh đạo Đệ I Cọng Hoà Việt Nam vào sự soi sáng vấn đề phát triển Việt Nam”, rồi viết thêm: “dù gặp muôn vàn khó khăn, nhóm chủ trương quyết định ấn hành tài liệu này”.
 
         Thắc-Mắc: Trong bài-viết này, Ông Tôn Thất Thiện đã khiến độc-giả ngỡ-ngàng khi đọc đến tên của một nhân-vật lạ-hoắc đối với đa-số đồng-bào Việt-Nam (mặc dù có thể là một bí-danh trong Đảng Cần Lao?), đó là Tùng Phong, tác-giả của tập tài-liệu “Chính Đề Việt Nam”, “viên ngọc quý trong kho tàng tư tưởng”. Từ đầu đến sát cuối, cái gì cũng Tùng Phong. Nào là Tùng Phong giải-thích, Tùng Phong soi sáng, Tùng Phong cảnh-báo, Tùng Phong dự-đoán, v.v... cứ lặp đi lặp lại mãi cái tên Tùng Phong. Cho đến cuối bài Ông Tôn Thất Thiện mới chịu chêm chú rằng Tùng Phong chính là cố Cố-Vấn Ngô Đình Nhu

Là một ngạc-nhiên thú-vị, nhưng điều thắc-mắc của tôi lại càng gia-tăng. Ông Thiện viết: “Lúc đó (2004), vấn đề gặp một số trở ngại về danh tánh của tác giả.” Theo tôi, Ông Ngô Đình Nhu, dù có kẻ tôn lên là “kiến-trúc-sư” của nền Đệ-Nhất Cộng-Hoà, là “đầu não” của Chủ Nghĩa Nhân Vị, là “cha đẻ” của Quốc Sách Ấp Chiến Lược, v.v... nhưng có người đã phản-biện, bác-bỏ; tuy nhiên, dù sao Ông Nhu cũng đã là Tổng Bí Thư của Đảng Cần Lao, Cố Vấn của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, một nhân-vật lịch-sử, thì tại sao lại không chịu đề tên thật của tác-giả tập tài-liệu này ngay từ đầu là Ngô Đình Nhu, nhất là sau khi ngay cả Đệ-Nhị Cộng-Hoà [coi như là chống Đệ-Nhất Cộng-Hòa] cũng đã không còn (2004), và Ông Thiện cùng các “chiến hữu trung kiên” thì cũng đã được sống trong Thế-Giới Tự-Do từ ngót 30 năm nay [1975-2004] rồi? Phải chăng cái tên Ngô Đình Nhu vẫn còn có thể gây dị-ứng gì trong lòng độc-giả quần-chúng? 

          Hơn nữa, mãi đến năm 2004 mà Ông Thiện còn viết là việc xuất-bản tập tài-liệu ấy vẫn “gặp muôn vàn khó khăn”: Phải chăng “Nhóm chủ trương” hèn-yếu đến nỗi bị người ngoài cấm/cản? hoặc “Nhóm chủ trương” kiết-xác đến nỗi không có ai đủ khả-năng tự mình xuất ra, hoặc kêu-gọi người khác quyên góp, chỉ dăm/bảy trăm đô-la để thuê in?
 
         4) Ông Tôn Thất Thiện viết: Những kết luận của Tùng Phong (Ông Ngô Đình Nhu) đưa ra lúc soạn tài liệu này, vào khoảng những năm 1957-1960, ngày nay, 2009, có thể nói là tiên tri. Những điều trên đây, từ điểm quan sát 2009 nhìn lui, tôi thấy rõ, vì đó là những điều tôi đã được nghe, đọc, thấy, suy ngẫm, từ những năm 1949-1952, lúc tôi học ở Trường L.S.E. (London School of Economics)”
 
         Thắc-Mắc: Qua đoạn văn này, Ông Tôn Thất Thiện đã tự mâu-thuẫn:
 
         a/ Trọng-tâm của “Chính Đề (Phát Triển) Việt Nam” là “Một cuộc Tây phương hoá, đến mức độ cao (Tây phương hoá đến khi nào chúng ta chế ngự được khả năng sáng tạo khoa học của Tây phương) chỉ thực hiện được khi nào sự hấp thụ kỹ thuật Tây phương được thành tựu đến mức độ người hấp thụ chế ngự kỹ thuật đó, để đến phiên mình sáng tạo. Và muốn chế ngự được kỹ thuật đó, trước tiên phải thấu triệt được những nguyên lý của khả năng sáng tạo và luyện được cách sử dụng khả năng đó một cách diễn-đạt tư-tưởng mà Ông Thiện cho (và tự-hào) là “lối hành văn lập luận trừu tượng cũng trừu-tượng như lối nói của cố Cố Vấn Ngô Đình Nhu về “Ấp Chiến Lược” năm 1963: “Hiện nay cái học thuyết Nhân Vị mà tôi cổ võmột nền dân chủ đấu tranh trong đó tự do không phải là món quà của Ông Già Noel, nhưng mà là kết quả của một cuộc chinh phục bền bỉ và sáng suốt trong đời sống thực tế, không phải trong một khung cảnh lý tưởng mà trong những điều kiện địa lý chính trị đã được định sẵn

Chính cái quan niệm về tự do nầy đã khai mào cho toàn bộ chương trình ACL. Hệ thống Ấp Chiến Lược nầy sẽ làm thay đổi cơ cấu chính trị thượng tầng của chính phủ hiện tại.” Đồng-thời, Đệ-Nhất Cộng-Hoà cũng đã tìm cách “soi sáng vấn đề phát triển Việt Nam” (không những cho Miền Namcho cả toàn-quốc [kể cả Miền Bắc] và các nước chậm tiến nữa), bằng cách thực-hiện cuộc “Cách Mạng Quốc Gia” với Hiến Pháp Nhân Vị và các nỗ-lực khác.” Vậy thì các vị lãnh-đạo Đệ-Nhất Cộng-Hoàbiết trước là triều-đại Ngô Đình sẽ phải sụp đổ vào năm 1963 hay không, mà Ông Thiện bảo là “tiên tri”?
 
         b/ Vả lại, nếu như mọi sự đều đã diễn ra y như tác-giả Tùng Phong (Ông Ngô Đình Nhu?) dự-đoán, thì “những điều trên đây, từ điểm quan sát 2009 nhìn lui, (Ông Tôn Thất Thiện) thấy rõ, đó là những điều (Ông Thiện) đã được nghe, đọc, thấy, suy ngẫm, từ những năm 1949-1952, lúc (Ông Thiện) học ở Trường L.S.E.” Vậy thì Ông Nhu chỉ nói ra những gì mà Trường L.S.E. đã dạy cho Ông Thiện từ trước Đệ-Nhất Cộng-Hòa rồi, chứ đâu phải là “tất cả những gì (Ông Thiện) đã mất gần 50 năm để tìm kiếm”! có gì là “tiên tri” đâu?
 
 
D- Nghi-Vấn
 
         1.  Ông Tôn Thất Thiện có viết ở một đoạn: “kết tụ những nghiên cứu và phân tích dựa trên kinh nghiệm lịch sử của cố vấn Ngô Đình Nhu cùng một số phụ tá thân cận”, và ở một đoạn khác: “vấn đề được các tác giả bàn đến”, rồi ở một đoạn khác: “tưởng nên nhắc đến những người đóng góp lớn nhứt vào công trình này”. Ông Thiện có nhắc đến tên của các ông Cao Xuân Vỹ, Lê Văn Đồng, Phan Xứng, Đỗ La Lam, và một số thân hữu khác” (nhưng lại không nhắc đến tên của các Ông Lâm Lễ Trinh, Quách Tòng Đức, Nguyễn Văn Chức, ...!
 
         Như thế, phải chăng tập “Chính Đề Việt Nam” này là tuyển-tập những bài viết của những người đóng góp lớn nhứt vào công trình này (“nhóm thân hữu của ông Ngô Đình Nhu”) chứ không thực-sự là bài viết của Ông Ngô Đình Nhu và các “phụ tá thân cận”, mà họ muốn cho độc-giả tưởng là của Ông Nhu, nên họ cùng nhau gán hết cho Tùng Phong là tác-giả, rồi cuối-cùng để cho Ông Thiện chêm một cái chú trong hai dấu ngoặc rằng Tùng PhongNgô Đình Nhu để lừa-phỉnh độc-giả?
 
         2. Ông Tôn Thất Thiện đã viết rất nhiều về tình-hình Trung Cộng xâm-lấn Việt-Nam hiện nay, và đặc-biệt là đã viết ở trong hai dấu ngoặc kép, tức là trích lời của chính Ông Ngô Đình Nhu như sau: “Tùng Phong (Ông Ngô Đình Nhu?) nhận xét rằng: miền Bắc vẫn còn đang ca tụng như những chân lý những giá trị tiêu chuẩn và giai đoạn mà Nga Sô đã bỏ”.
 
         Ông Thiện đã giới-thiệu rằngTùng Phong (Ông Ngô Đình Nhu) soạn tài liệu này vào khoảng những năm 1957-1960 (có nơi Ông Thiện lại viết: “ta nên nhớ rằng tác phẩm này được hoàn tất vào năm 1962”), mà dù cho đến ngày 2-11-1963 là ngày ông Nhu mất đi nữa, thì Nga Xô cũng vẫn còn bình chân như vại, nếu không muốn nói là đang đe-doạ cả thế-giới, thì làm sao mà có mấy chữNga Sô đã bỏ(Nga Xô mãi đến năm 1991 [hơn 28 năm sau] mới bỏ chủ nghĩa cộng sản mà)? Phải chăng tập “Chính Đề Việt Nam” này mới được viết ra không chỉ sau ngày chấm dứt Đệ Nhất Cộng Hoà (1963), mà còn bổ-túc vào đầu thế-kỷ 21 này?  

         3. Ông Tôn Thất Thiện mới được đọc Chính Đề Việt Nam[năm 2004] sau khi tập tài-liệu này đã thành-hình rồi, tức là Ông Thiện chỉ viết bài giới-thiệu (“Phụ Giải”), mà bài giới-thiệu này thì tóm-tắt hầu hết nội-dung toàn tập, ca-tụng nó là “một tác phẩm hết sức độc đáo, một đóng góp lớn” và đánh giá nó là “môt viên ngọc quý trong kho tàng tư tưởng của nhân loại.” Như thế tức là nhờ có Ông Thiện mà tập tài-liệu này mới được “ra đời” công-khai, chính-thức, và “sáng giá” đến thế.

         Phải chăng Ông Tôn Thất Thiện không chỉ tô son hình-ảnh của cố Cố-Vấn Ngô Đình Nhu để phục-hồi vang-bóng một thời của chế-độ Ngô Đình Diệm (“Với sự phổ biến rộng rãi của tác phẩm Chính Đề Việt Nam... uy tín của chế độ Đệ Nhứt Cọng Hòa... sẽ được công nhận” và nhằm khởi động sức phấn đấu của dân tộc trong giai đoạn cấp bách hiện nay”) mà Ông Thiện còn muốn tự giới-thiệu mình như một nhân vật của thời-thế để đứng ra [tái-lập Đệ-Nhất Cộng-Hòa hay tiếp-lập Đệ-Tam Cộng-Hòa]? vì ông Thiện:

         *vừa là “phụ-tá tín-cẩn và kiên-trung của cố Tổng-Thống Diệm”= để quy tụlãnh đạonhững người còn lại của Đệ Nhất Cộng Hòa” (nhóm thân hữu” không nhờ người khác, mà lại nhờ Ông Thiện viết bài Phụ Giải”); 
         *vừa được Đệ-Nhị Cộng-Hòa trọng-dụng (không bị sa-thải sau cuộc Cách Mạng 1-11-1963 mà còn được mời làm Tổng-Trưởng Bộ Thông-Tin, một chức-vụ cao hơn)= để được sự ủng-hộ của các giới bài-Ngô;
         *vừa không bị kỳ-thị mà còn được mời khai-lập và đảm-trách Khoa-Trưởng Khoa Xã-Hội tại Viện Đại-Học “Vạn Hạnh”= để chiếm được lòng của đồng-bào Phật-Giáo-Đồ;
         *vừa sống theo truyền-thống của Đạo Nho bên nội và chịu ảnh-hưởng của Cửa Thiền bên ngoại= để phù-hợp với đời sống tâm-linh của đại-đa-số người Việt mình;
         *vừa áp-dụng chủ-trương của nhà cách-mạng Phan Chu Trinh, là văn-hóa & kinh-tế đi trước chính-trị (ưu-tiên cho dân-trí mở-mang & dân-sinh tiến-bộ, trước cả dân-quyền độc-lâp: hãy cải-tiến giáo-dục, nới rộng tự-do và nâng cao mức sống của người dân, rồi hãy thay-đổi chính-quyền sau)= để trấn-an phần nào các nhà cầm quyền trong nước hiện nay;
         *vùa đi sát với lộ-trình “diễn biến hòa bình” của Hoa Kỳ (như trên), trong lúc Ông Tôn Thất Thiện đã đươc Mỹ, qua Đại-Sứ Ellsworth Bunker, khẳng-định rằng Ông Thiện (tuy thuộc Lực Lượng Thứ Ba, chống cả chủ-nghĩa thực-dân lẫn chủ-nghĩa cộng-sản) là “một trong những người chỉ-trích Hoa-Kỳchính-phủ VNCH một cách sáng-suốt và hùng-hồn nhất, nhưng vẫn là một nhân-vật có khả-năng, nghị-lực, và tinh-thần ái-quốc, và dĩ-nhiên là không chống Mỹ= để tỏ ra là sẽ không gặp khó-khăn gì với Chú Sam;
         *vừa quen biết với hầu hết các khuôn mặt chính-trị, quân-sự, kinh-tế, tình-báo, truyền-thông của Thế-Giới Tự-Do liên-quan đến Việt Nam từ cuối thế-kỷ trước= để tỏ là đã có sẵn tư-thế dễ-dàng giao-tiếp với ngoại-bang;
         *vừa đã tự mình thực-thi (chứ không phải là chỉ hô-hào hay hứa-hẹn suông) chính-sách Tự-Do (bãi bỏ chế-độ kiểm-duyệt, tạo hoàn-cảnh cho người dân được tự-do (có Nhân Quyền) để chỉ-trích, kể cả truy-cố, thậm-chí chửi-bới Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu, mà thành-tích ấy được vinh-danh bằng giải thưởng Magsaysay)= để đáp ứng nhu-cầu cấp-thiết và là mục-tiêu tiên-quyết của cuộc tranh-đấu chung cho Việt Nam ngày nay?

 

 

E- Hết Luận

 

         1- Đây là phản-hồi của tôi về bài-viết của Ông Tôn Thất Thiện về tập tài-liệu “Chính Đề Việt Nam”, sau khi một số phần-tử hoài-Ngô định mở chiến-dịch gây quỹ để dựng một bức tượng của cố Tổng-Thống Ngô Đình Diệm, rồi báo Newsweek của Mỹ đăng bài tố-cáo TT Diệmcông-cụ của cộng-sản nên Mỹ phải lật đổ, rồi Giáo-Hoàng John Paul II qua đời tạo dịp cho một số người cho rằng “giáo-dân Ky-Tô-Giáo có thể lật đổ CSVN theo kiểu Ba Lan (?)”, rồi Tiến-Sĩ Nguyễn Ngọc Tấn viết Chương “Chủ Nghĩa Nhân Vị Con Đường Mới, Con Đường của Tiến Bộ” và gán cho cố Cố-Vấn Ngô Đình Nhu để phục-hồi tên tuổi cho Nhà Ngô, rồi vụ xây tượng tưởng-niệm cố TT Diệm được một số người nhắc lại, v.v... 

         2- Song le, dưới đây là một số kết-luận, của Ông Tôn Thất Thiện và “nhóm thân hữu của ông Ngô Đình Nhu”, viết rõ trong bài “Chính Đề Việt Nam” (trích đoạn ở trong ngoặc kép, chứ không phải là của tôi):
 
         a) “Về phần miền Nam thì Tùng Phong (Ông Ngô Đình Nhu?) quả quyết: nếu bây giờ (1957-1962) chúng ta chưa có ý thức rõ rệt chính thể ấy phải thế nào, thì ngay bây giờ chúng ta có thể quan niệm được rằng ‘chính thể đó không thể là một chính thể chuyên chế hay độc tài được’.” Tức là mãi đến năm 1962 (sau 8 năm cầm quyền) mà Nhà Ngô vẫn “chưa có ý thức rõ rệt là chính-thể ấy (Đệ Nhất Cộng Hòa) phải thế nào”, tuy cũng đã nhận thức rằng “chính thể đó không thể là một chính thể chuyên chế hay độc tài được”!
 
         b) “Về vấn đề lãnh đạo, chúng ta đã lâm vào một sự gián đoạn lãnh đạo đến một trình độ trầm trọng nhứt’. Sự chuyển quyền không thực hiện được giữa lớp người trước lớp người sau. Các bí mật [bí quyết] Quốc gia bí mật [bí quyết] lãnh đạo đều mất. Thuật lãnh đạo không truyền lại được. Người lãnh đạo không có đủ, di sản dĩ vãng không bảo tồn được, văn khố thất lạc và bị cướp bóc... Đặc biệt là sự thiếu hụt lãnh đạo này có môt ảnh hưởng tai hại: sự điều hoà giữa thiểu số lãnh đạo và đa số chịu lãnh đạo để bảo đảm một trạng thái thăng bằng cần thiết cho sự ổn định và tiến lên của xã hội không còn nữa... Tái lập sự thăng bằng này là nhiệm vụ chính trong công cuộc phát triển, và nó được Tùng Phong cứu xét rất tường tận.” –  Tức là mãi đến năm 1962 (khi sắp sụp đổ vào năm 1963) Nhà Ngô mới chịu “cứu xét” “vấn đề lãnh đạo” và sự thuận-hòa giữa chính-quyền với dân-chúng (nhưng đã quá trễ rồi)!

         c) “Công cuộc xây dựng tầng lớp lãnh đạo có đủ khả năng gánh vác trọng trách trong giai đọan mới cần nhiều thời gian chuẩn bị, nên lược đồ xây dựng cho tương lai dân tộc bị gián đoạn từ đó (1957-1962).” Tức là đến năm 1962 (một năm trước ngày vãn tuồng), thì “lược đồ xây dựng cho tương lai dân tộc” tức là nội dung của “Chính Đề Việt Namđã “bị gián đoạn”. Thế thì làm sao mà Ông Tôn Thất Thiện lại có thể viết là “Với sự phổ biến rộng rãi của tác phẩm Chính Đề Việt Nam, những tư tưởng, suy luận trong đó, và nhứt là phương pháp tiếp cận đưa đến những giải pháp rất hay được trình bày trong đó (đã bị gián đoạn từ 1962 rồi, mà) uy tín của chế độ Đệ Nhứt Cọng Hoàsự đóng góp của những nhà lãnh đạo của chế độ ấy sẽ được công nhận”?
 
 d) “Những tư tưởng chứa đựng trong Chính Đề Việt Nam chưa được phổ biến và áp dụng, thì chế độ Cọng Hoà I (đã) bị lật đổ (1963).” Vậy thì làm sao mà bảo là “uy tín của chế độ Đệ Nhứt Cọng Hòasự đóng góp của những nhà lãnh đạo của chế độ (ấy) sẽ được (ai) công nhận”? Gán những ý-nghĩ tốt cho người-xấu đã chết, mà lại khẳng-định rằng những ý-nghĩ tốt ấy chưa hề được thể-hiện thành việc-làm tốt trong lúc người ấy còn sống, rồi hô-hào thiên-hạ công-nhận người đã chết ấytốt?

  e) “Chỉ cần một điều kiện căn bản hơn cả, mà Tùng Phong đưa ra trong phần kết thúc tác phẩm. Đó là: Trong tình hình chính trị thế giới hiện nay, và trong trình độ tiến hoá của nhân loại hiện nay, các vấn đề Dân Tộc Việt Nam, trong thời kỳ này, chỉ có thể tìm ra được một giải đáp nếu chúng ta trụ vào vị trí Dân Tộc.” Tức là Đệ Nhất Cộng Hòa [mãi đến 1962] đã không (hoặc chưa) “trụ vào vị trí Dân Tộc” (nên mới sụp đổ vào năm 1963).
 
 f) “Nay, chỉ còn tôi (Tôn Thất Thiện) là người nhân chứng duy nhứt... Tôi làm nhân chứng những điều sau đây do chính ông Nhu đã tiết lộ trong một cuộc họp báo với ký giả ngoại quốc vào cuối tháng 9, năm 1963. Tôi là thông dịch viên trong buổi họp báo đó, và tôi đã nghe và thông dịch hai điều sau đây: ông (Ngô Đình Nhu) đã tiếp Trần Độ ngay ‘trong phòng này’, văn phòng của ông (Nhu), nơi mà ông đang tiếp các ký giả (ngoại quốc), Trần Độ có hỏi ông (Ngô Đình Nhu), vân vân...” Tức là rốt cuộc, Ông Tôn Thất Thiện đã kết-luận rằng “Ông Nhu quả thật đã có tiếp xúc với phía Cộng Sản.” Thế thì một số phần-tử hoài-Ngô lâu nay ngoan-cố không chịu tin vào chuyện đó, nay đã hết đường chối-cãi.



 TB: Để biết Sự Thật là những lừa-dối của Ông Tôn Thất Thiện (cùng các kẻ khác) trong vụ Chính Đề Việt Nam nầy, xin xem tiếp bài-viết về Ông Trương Phú Thứ.

Kỳ sau: CHÍNH-ĐỀ VIỆT NAM
 - Chương II: Ô. TÔN THẤT THIỆN LỪA NGƯỜI
- Chương III: Ô. TÔN THẤT THIỆN BỊ NGƯỜI LỪA





Hội Luận Với Nhà Văn Phạm Quang Trình, Cựu Chủ Tịch Văn Bút Hải Ngoại trong diễn đàn Sự Thật... Với sự cộng tác của website www.chinhkhiviet2013.com  Về Chính Đề Việt Nam Phần 3 Ngày 16 tháng 12, 2014.
MC: Chính Khí Việt
Kính mời theo dõi:




__._,_.___

Posted by: Nhuan Xuan Le 

Featured Post

BẠN TÔI: ĐẠI ÚY TRẦN QUANG HIỆP

 https://www.facebook.com/groups/160591528349491/permalink/723350692073569/ https://www.youtube.com/watch?v=oqhFQFR2-JM Chuyện Xứ Xã Nghĩa r...

Popular Posts

Popular Posts

My Blog List