QUỐC HẬN 30 THÁNG 4

Image result for Tháng Tư năm 1975 -----

==== ====



Friday, April 20, 2018

Nhớ Lại Ngày Quốc Hận 30 tháng 4 năm 1975


...Phải kiên cường tranh đấu đánh đổ cộng sản để đất nước có độc lập tự do, người dân được ấm no hạnh phúc, có đầy đủ tự do, dân chủ và nhân quyền.
Hãy nhớ ngày 30-4 là ngày Quốc Hận.


Nhớ Lại Ngày Quốc Hận 30 tháng 4 năm 1975
Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh
Nhớ Lại Ngày Quốc Hận 30 tháng 4 năm 1975

Thời gian đi quá nhanh. Như vó câu qua cửa sổ. Thấm thoát từ ngày miền Nam rơi vào tay cộng sản miền Bắc, Việt Nam thống nhất thành XHCN đến nay đã 43 năm. Gần một nửa thế kỷ. Một đời người.
Viết về ngày 30-4 thì có nhiếu điều phải viết. Cả người ngoại quốc lẫn người Việt mình, trong cũng như ngoài nước, bên thắng cuộc cũng như bên thua cuộc đều đã viết. Nhiều lắm! Hỷ nộ ái ố, hay dở đều có cả. Khía cạnh nào cũng làm người đọc phải nửa khóc nửa cười, thương cho quê hương mình sao mà nhiều gian truân cợ cực thế. Vì ai nên nỗi? Chúng ta nhất là giới trẻ phải làm gì cho đất nước được độc lập toàn vẹn, dân tộc trong nước được hạnh phúc, hết đau thương khốn khổ, được sống trong hòa bình an vui, không còn lo sợ từ miếng cơm đến nơi ăn chốn ở, việc làm, lời ăn tiếng nói không phải e dè, bị cấm đoán, nói gì cũng phải nhìn trước nhìn sau xem có công an đang sẵn sàng bắt mình về đồn điều tra vì tội chông phá nhà nước, không còn cảnh dân oan bị ức hiếp, bị cướp nhà cướp đất, cướp ruộng vườn…
Khi cs Bắc Việt tung chiến dịch đánh chiếm miền Nam Việt Nam thì chúng nói là làm“cách mạng” “giải phóng” dân chúng miền Nam khỏi gông cùm của Mỹ Ngụy, khỏi cảnh đói khổ lầm than, cái bát để ăn cơm không có, nói chi có cơm gạo. Saigon đã một thời là Hòn Ngọc Viễn Đông thì chúng cho là phồn vinh giả tạo, tối tăm tiêu điều thê thảm như bãi tha ma, người người đói khổ, trẻ con không được đi học, gầy ốm, nheo nhóc lê bước đi ăn xin ngoài đường phố. Vì vậy chúng ta phải chiến đấu để giải phòng đồng bào miền Nam khỏi cảnh kìm kẹp ấy của “Mỹ Ngụy”? Nhưng ngày 30-4 những chú bộ đội Bắc Việt lúc tiến vào Saigon, đã tận mắt nhìn thấy thực tế. Saigon với nhà cửa, building chọc trời sáng chói, xe cộ nhộn nhịp, người dân vui khỏe, đúng cảnh “Ngưa xe như nước, áo quần như nêm” thì các chú choáng váng ngớ người ra. Tại sao Bác và Đảng nói thế mà bây giờ bon ngụy nó thế này? Đồ ăn thức uống dư thừa. Có người đã phải ngồi xụp xuống vệ đường như bị xỉu. Vì sung sướng đã chiến thắng hay thất vọng vì cảnh đời oái oăm trái ngược? Nhà văn Dương thu Hương lúc đó là bộ đội đã phải ôm mặt khóc bên vệ đường vì bị Bác và Đảng lừa một cách trắng trợn. Không phải một mình bà mà nhiều cán bộ và bộ đội khác, toàn thể dân chúng miền Bắc, có đôi chút suy tư đã thất vọng thốt lên: Phải nói dân miền Nam giải phóng miền Bắc mới đúng.
Cảnh bộ đội hay dân Bắc vào Nam khênh đồ về Bắc từng con búp bê nhỏ bằng nylon, cái đồng hồ đeo tay không người lái, cái radio nhỏ cũ kỹ, cái quạt máy rỉ đến cái chén, cái bát sứ để dùng hoặc làm quà cho vợ con hoặc người nhà. Một anh bộ đội thấy dân miền Nam uống nước ngọt có đá lạnh, một điều mà dân miền Bắc chưa bao giờ có và nhìn thấy.. Trước khi về, anh đã lấy một thùng đá lạnh mang về Bắc để làm quà cho bà con. Anh bọc thật kỹ, quấn thật chặt thùng đá bằng nhiều lớp vải để không bị rơi, khỏi ai ăn cắp! Dọc đường vì nóng quá anh mở ra đề uống chút nước lạnh thì thùng đá lớn đã đi đâu mất rồi. Anh bực mình thốt ra: Mấy thằng ngụy Nam Kỳ mất dạy quá. Mình đã giữ chặt, gói kỹ như vậy mà chúng cũng ăn cắp được. Đúng là Mỹ Ngụy toàn là lũ lưu manh!!! Đấy, những người mệnh danh là cách mạng, đi giải phóng, mang văn minh cho người mà tâm tư hiểu biết như vậy! Còn nhiều chuyện cười ra nước mắt không thể kể ra hết được. Tội cho con người bản tính hiền lành chất phác bị bọn đầu não Hồ chí Minh và đảng cs che mắt, bịt tai để bịp bợm, nhồi sọ hầu dễ bề khống chế dạy bào theo đường hướng gian manh của chúng. Dân miền Nam cũng biết rõ thực chất khốn khổ và lầm than của người dân dưới chế độ cs do HCM cai trị. Những cái mà đảng cs và HCM tuyên truyền bịp bợm về cảnh bị kìm kẹp đói khổ ức hiếp của dân miền Nam thì lại chính là cảnh mà dân miền Bắc phải gánh chịu mà còn tàn tệ hơn thế nữa về cả tinh thần lẫn thể chất.
Thế rồi hơn triệu người dân miền Nam bằng mọi giá vượt biên trốn ách cs đã làm dân chúng miền Bắc cà miền Nam và thê giới tỉnh ngộ. Sau này, khi khối cs đầu não ở Liên Sô, Đông Âu xụp đổ năm 1989, bức màn sắt, màn tre kéo xuống, người dân Việt mới vỡ lẽ phân biệt giữa quốc gia, phe tự do và cs độc tài. Quá muộn. Nhưng muộn còn hơn không.
Đến hôm nay, 41 năm sau khi miền Nam bị cs Bắc Việt chiếm, đất nước thống nhất hòa binh, nhưng tình trạng kinh tê chính trị giáo dục văn hóa xã hội ra sao mọi người trong, ngoài nước và thế giới đều đã biết rõ. Toàn dân Việt vẫn lầm than đói khổ đạo đức suy đồi, tự do nhân quyền không có…So sánh với miền Nam trước 1975 vẫn còn thua, nói chi toàn vùng Đông Nam Á.
Ai giải phóng ai? Miền Nam hay miền Bắc?
Nói đánh cho “Mỹ cút”, nhưng khi Mỹ đi rồi, bọn cầm quyền csVN lại cầu cạnh, mời Mỹ trở lại VN. Quan chức cs thì thi nhau gửi con cháu đi Mỹ học và, nếu có cơ hội là ở lại sinh sống. Mọi người từ quan chí dân coi nước Mỹ như thiên đàng. Được sống ở Mỹ là mơ ước đã đạt.
Trong khi đó, vì muốn giữ mãi địa vị độc tôn, độc quyền để ăn cắp, ăn cướp tài nguyên quốc gia, bóc lột dân chúng, bọn cầm quyền ở Bắc Bộ Phủ vì hèn vì nhát đã cam tâm phủ phục trước kẻ thù truyền kiếp của dân tộc là Tầu khựa -tại hội nghị thành Đô 1990- đã ký kết với Trung quốc xin được đặt dưới sự chỉ đạo và che chở của Trung quốc. Việt Nam lại một lần nữa bị Bắc Thuộc.
Hiện nay, dù chưa chính thức trở thành một tỉnh lỵ của Trung Quốc, những trọng điểm về kinh tế quân sự đã nằm trọn trong tay Trung Quốc. Trước năm 2008, người Tàu vào Việt Nam được miễn hộ chiếu và có thể di chuyển tự do trong phạm vi miền Bắc mà thôi. Cuối năm 2008, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng lại miễn hộ chiếu và nới rộng vùng di chuyển của ngưới Tàu đến tận Cà Mau. Quyết định nầy chính là điểm mấu chốt và là điểm khởi đầu thực sự trong âm mưu Hán hóa Việt Nam của TC và đảng csVN. Hiện nay, người ta thấy ngưới Tầu hiện diện trên khắp hang cùng ngõ hẹp của đất nước. Trong hơn 65 khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung, không đâu là không thấy công nhân, quản đốc và chủ nhân người Hoa, trong lúc người lao động Việt Nam khắp nơi phải chịu cảnh thất nghiệp! Trong các nhà máy sản xuất có tính cách quốc phòng như nhà máy phát điện nhà máy gang thép, sản xuất hóa chất công nghiệp…đâu đâu cũng có chủ nhân và công nhân người Tàu…Ngoài 9 tỉnh địa đầu hầu như chịu ảnh hưởng của người Tàu, đường xá mang tên Tàu, hàng quán, chợ búa mang tên Tàu, thậm chí cung cách trang hoàng những ngày Tết cũng đậm nét Tàu như treo lồng đèn đỏ dọc theo các đường phố chính, trưng bày hàng hóa thực phẩm Tàu…Trên 306.000 hecta đất cho Tàu thuê mướn trong 50 năm với giá rẽ mạt, chiếm toàn những vị trí kinh tế, chiến lược trọng yếu ở Bắc Việt, như mỏ boxit ở Cao Nguyên Lâm Đồng, căn cứ Tam Điệp là nơi Bộ Chính trị cs VN ẩn náo trong giai đoạn chiến tranh năm 1972. Trên biển thì Hoàng Sa đã bị Phạm văn Đồng và HCM công khai ký giấy cho Tấu. Sau này Trung Cộng ngang nhiên chiếm thêm Trường Sa và các đảo chìm chung quanh, đổ cát đá làm phi trường quân sự để khống chế biển Đông, chiếm cả vùng biển đánh cá, đuổi bắt, giết, đánh chìm tàu đánh cá của ngư dân VN mà nhà nước không hề can thiệp hoặc phản đối. Dân chúng biểu tình chống đối TC chiếm Hoàng Sa, Trường Sa thì công an bắt bớ đàn áp tàn ác. Câu nói “csVN ác với dân hèn với giặc” đã trở thành tục ngữ lưu truyền trong dân gian. Mọi người ai cũng biết csVN là đầy tớ của TC, còn TC là kẻ xâm lược VN. Dân chúng trước kia thường nghe cs tuyên truyền gọi miền Nam là Mỹ-Ngụy thì nay họ đổi ra là Hán-Ngụy.
Chúng ta, những người đã rời bỏ đất nước trốn ách cs độc tài bằng mọi giá. Thuyền nhân. Bộ nhân, HO hay xum họp. Khi ra đi, chúng ta có nghĩ đến ngày trở về không? Chúng ta nghĩ gì và phải làm gì khi đất nước đang bị Bắc Thuộc trở lại, dân tình đói khổ lầm than, bị áp bức cướp đất cướp nhà, dân oan khiếu kiện từ Bắc vào Nam, giáo dục mất gốc, xã hội tha hóa, văn hóa đồi trụy, đàn bà con gái phải đi làm dâu khắp thế giói, phải đứng trần chuồng cho người ta ngắm nhìn sờ nắn để chọn làm vợ. Dân tộc ta từ ngàn xưa có bao giờ phải nhục như vậy đâu? Khi xưa cộng sản tuyên truyền “đánh cho Mỹ cút Ngụy nhào”, bây giờ sau gần 50 năm sự thật đã phơi bày rõ ràng, giửa csVN và VNCH ai là ngụy, giữa Mỹ và Tàu Cộng ai là thực dân xâm chiếm VN? Tại sao chúng ta không quyết đánh cho “Tàu cộng cút, Ngụy cs nhào”? Chiến đấu như vậy mới là chính nghĩa.
Lịch sử là một sự tái diễn. Đời không có gì là vĩnh viễn. Cộng sản Nga đang hùng mạnh bỗng chốc xụp đổ tan tành kéo theo cả Đông Âu. CS Tầu và cs VN cũng không là ngoại lệ. Cs càng gian manh tàn ác bao nhiêu thì càng xụp đổ nhanh bấy nhiêu. Marx nói chỗ nào có bất công, đàn áp chỗ đó có đấu tranh. Quốc nội đã nổi lên. Hải ngoại chúng ta phải yểm trợ quốc nội. Muốn tranh đấu cần phải có một biểu tượng là lá cờ vàng ba sọc đỏ, tượng trưng cho chính nghĩa quốc gia, độc lập tự do nhân quyền nhân bản…Lá cờ đó đã được hầu hết các tiểu bang Hoa Kỳ công nhận là cờ của người Mỹ gốc Việt tỵ nạn cs. Quốc hội Hoa Kỳ đã công nhận và đặt một ngày trong năm là ngày Nhân Quyền cho VN. Đừng nghe tuyên truyền bịp bợm của cs và tay sai hoặc những trí thức tay mơ, nằm vùng, trí vận nói lá cờ vàng chỉ là dĩ vãng, là hoài niệm. Dân miền Nam đã mắc mưu cs qua bọn thành phần thứ ba / MTGPMN. Chúng cũng có lá cờ riêng. Khi cs chiếm được miền Nam, lá cờ MTGPMN có còn không?
Gần 50 năm thống nhất đất nước, cs không làm gì gọi là phục vụ cho dân cho nước, trái lại chỉ tàn phá, bán nước cho ngoại bang, đàn áp hành hạ bóc lột dân, cướp nhà cướp đất, vơ vét cho đầy túi tham, mặc cho dân tình đói khổ, đã làm cho đất nước tụt hậu về đủ mọi mặt. Chúng đã để lại cho đất nước biết bao nhiêu di hại về văn hóa, giáo dục, tôn giáo, đạo đức với dối trá, lừa lọc, gian manh, vô cảm…không biết bao giờ mới rửa cho sạch. Nhìn đất nước thì thấy quả là bi quan. Có người thất vọng thở dài chẳng bao giờ cs bị xụp đổ. Nhưng ý nghĩ đó hoàn toàn sai lầm. Nhìn lịch sử Việt Nam từ ngày lập quốc cho đến nay, dân tộc ta dù gặp biết bao gian nguy vẫn không bao giờ chịu thua. Bị nhà Hán tấn chiếm Quảng Dông, Quảng Tây và Vân Nam, dân ta phải suôi nam lập thành nước Việt Nam. Đến thời Trịnh-Nguyễn phân tranh dân ta lại Nam tiến lập thành nước Việt Nam hình chữ S từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau. Hơn 1000 năm đô hộ giặc Tầu, 100 đô hộ giặc Tây nhưng chúng ta vẫn giành lại được đất nước, không để mất vào tay ngoại bang. Tại sao bây giờ chúng ta có thể để đất nước rơi vào tay cs và Tàu cộng? Tương lai đất Việt nằm ở tay những người trẻ. Chúng ta có bổn phận giáo dục, hun đúc tinh thần tự hào dân tộc, yêu quê hương của con cháu chúng ta như tinh thần anh hùng Hai Bà Trưng, Lý thường Kiệt, Trần hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung v.v. Nhớ lại những trang sử oai hùng của tổ tiên và dân tộc ta. Có vậy mới hy vọng cứu sống nước Việt thân yêu của chúng ta thoát ách cs và Tàu cộng. Đừng thất vọng. Do Thái mất nước mấy ngàn năm từ trước kỷ nguyên. Bị nô lệ bởi Ai Cập, rồi bị đày đi Babylone, Perse, Macedona, Syria bao nhiêu trăm năm, sau này lại bị La Mã đô hộ. Nước mất dân phân tán đi khắp thế giới, vậy mà năm 1948, vì tinh thần yêu nước và đoàn kết dân tộc, Do Thái chỉ với nửa triệu người đã lập lại một quốc gia lấy tên là Israel, ngày nay là một quốc gia văn minh hùng mạnh nổi tiếng trên thế giới. Người Do Thái đã muôn người như một cùng một lòng yêu quê hương, đoàn kết đồng bào, giữ vững mọi tập tục dân tộc. Việt Nam chúng ta với hơn 2 triệu người trên khắp thế giới với những đức tính cần cù, chăm chỉ, thông minh và tình tự dân tộc, yêu quê hương…chắc chắn phải lấy lại được quê hương khỏi tay cs. Có lật đổ được cs mới có thể đánh đuổi được Tàu cộng trở về Tàu.
ĐÔI LỜI KẾT
Lịch sử Việt Nam có một hướng đi rõ rệt: Nam tiến. Phía Bắc là cường địch, phía Nam là con đường thoát hiểm. Bến bờ hy vọng mở ra ở phương Nam. Sự sống còn của Việt Nam tùy thuộc vào phương Nam. Còn đường Nam tiến, Viêt Nam còn tồn tại.
Ngày 30-4-1975, chúng ta bị dồn xống tận cùng phương Nam. Hết đất đi chúng ta đã lao vào đại dương. Từ đó Việt Nam thoát xác. Nam tiến trở thành siêu tiến: Chúng ta vượt biển để tiến ra thế giới. Trong khoảng 10 năm, hơn 2 triệu người Việt Nam đã vượt đại dương tràn vào thế giới. Đến nay thế hệ thứ hai thứ ba sinh sôi nảy nở khá nhiều. Đây là thành phần nòng cốt cho một Việt Nam ngày mai tươi sáng. Một nước Việt Nam khác đang thành hình trong lòng thế giới.
Di dân mở nước vốn là truyền thống của con cháu Lạc Hồng.
Vận mệnh của Việt Nam đã ra khỏi Việt Nam. Tương lai của Việt Nam không mở ra ở Việt Nam, nhưng sẽ mở ra trên toàn thế giới. Rời bỏ quê hương với hai bàn tay trắng, nhưng chỉ hơn 10 năm trời, sức sống của dân tộc ta đã làm cho người dân địa phương phải kính phục từ chính trị, văn hóa xã hội đến thương mại khoa học. Chúng ta có một tài sản vô cùng quí báu là khối chuyên viên kỹ thuật gồm đủ mọi ngành nghề, nhân biến động lịch sử đã được đào luyện trong những đại học lừng danh trên thế giới trong một thời gian kỷ lục mà từ xưa tới nay chưa một quốc gia chậm tiến nào có được kể cả Nhật Bản. Tài nguyên có, khả năng có, chỉ còn cần một Tấm Lòng Cương Quyết thế tất đất nước sẽ thoát khỏi ách cộng sản độc tài, Tàu cộng sẽ phải rời khỏi quê hương chúng ta, đất nước sẽ giàu mạnh, dân tộc sẽ phú cường hạnh phúc. Sự sống còn của quê hương Việt Nam tùy thuộc hoàn toàn vào sự lớn mạnh của phần siêu quốc gia Việt Nam này.
Mượn đất người sống đời mình,
Mược sức người làm việc mình,
Mượn thế người thăng tiến mình.
Đó là con đường siêu tiến của Việt Nam hải ngoại. Siêu tiến để thực hiện vận mệnh Việt Nam bằng những phương tiện của thế giới. Siêu tiến để chuyển hóa tài lực của thế giới thành tài lực của Việt Nam. Siêu tiến để khai thông những hưng thịnh của thế giới chảy đổ về quê hương mình khi mà bon cs ở Bắc Bộ Phủ bị tiêu giệt.
Những người Việt Nam trên thế giới liên kết với nhau hoàn thành cuộc siêu tiến này: NHANH, quê hương sẽ thăng tiến nhanh, thoát ách cs độc tài nhanh; CHẬM quê hương sẽ thăng tiến chậm. Nhưng trên hết và trước nhất, chúng ta phải liên kết với nhau để bảo vệ và thăng tiến chính cuộc đời ta ngay lúc này trong cộng đồng thế giới. Một Việt Nam hải ngoài. Một Việt Nam bên ngoài Việt Nam. Một siêu quốc gia Việt Nam với đầy đủ trí lực và vật lực. Lúc đó ta có thể tự lực về mọi mặt. Lúc đó ta không còn phụ thuộc vào một thế lực nào khac. Ta không bị thế lực nào bán đứng, bức tử chúng ta như trong quá khứ. Lúc đó cộng sản làm sao mà tồn tại được. Tàu Công làm sao có thể tiếp tục đô hộ đất nước chúng ta được. Tất cả đều cậy nhờ ở thế hệ trẻ, những hậu duệ của người Việt tỵ nạn cộng sản, yêu nước yêu quê hương giống nòi, không chấp nhận cộng sản tàn ác vô luân và bán nước..
Phải kiên cường tranh đấu đánh đổ cộng sản để đất nước có độc lập tự do, người dân được ấm no hạnh phúc, có đầy đủ tự do, dân chủ và nhân quyền.
Hãy nhớ ngày 30-4 là ngày Quốc Hận.
Fleming Island, Florida
April 2018
Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh


__._,_.___

Posted by: "Patrick Willay" 

HIỆP ĐỊNH VỀ CHẤM DỨT CHIẾN TRANH LẬP LẠI HÒA BÌNH Ở VIỆT NAM 27-1-1973

 

HIỆP ĐỊNH VỀ CHẤM DỨT CHIẾN TRANH LẬP LẠI HÒA BÌNH Ở VIỆT NAM 27-1-1973

Các bên tham gia Hội Nghị Paris về Việt Nam .
Nhằm chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở VN trên cơ sở tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân VN và quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam, góp phần củng cố hòa bình ở Châu Á và thế giới.
Đã thảo luận, cam kết tôn trọng và thi hành những điều khoản sau đây :

CHƯƠNG I
CÁC QUYỀN DÂN TỘC CƠ BẢN CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM

ĐIỀU 1: Hoa Kỳ vá các nước khác tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhẩt, toàn vẹn lãnh thổ của nước VN như Hiệp Định Geneve năm 1954 về VN đã công nhận.

CHƯƠNG II
CHẤM DỨT CHIẾN SỰ RÚT QUÂN
ĐIỀU 2: Một cuộc ngừng bắn sẽ được thực hiện trên khắp miền Nam VN kể từ 24 giờ(giờ GTM) ngày 27-1-1973.
Cùng ngày giờ nói trên, Hoa Kỳ sẽ chấm dứt mọi hoạt động quân sự của Hoa Kỳ chống lãnh thổ nước VN Dân Chủ Cộng Hòa bằng mọi lực lượng trên bộ , trên không, trên biển bất cứ từ đâu tới , và sẽ chấm dứt việc thả mìn tại vùng biển, cácc cảng và sông ngòi nước VN Dân Chủ Cộng Hòa. Hoa Kỳ sẽ tháo gỡ , làm mất hiệu lực vĩnh viễn, phá hủy tất cả những mìn ở vùng biển , các cảng vá sông ngòi ở miền Bắc VN ngay sau khi Hiệp Định nầy có hiệu lực.
Việc chấm dứt hoàn toàn chiến sự nói trong điều nầy là vững chắc và không thời hạn.
ĐIÊU 3: Các bên cam kết giữ vững ngừng bắn, bảo đảm hòa bình lâu dài và vững chắc.
Bắt đầu từ khi ngừng bắn:
a/ Các lực lượng của Hoa Kỳ và của các nước ngoài khác đồng minh của Hoa Kỳ và của Việt Nam Cộng Hòa sẽ ở nguyên vị trí cúa mình trong lúc chờ đợi thực hiện kết hoạch rút quân.. Ban Liên Hiệp Quân Sự Bốn Bên nói trong điều 16 sẽ qui định những thể thức.
b/ Các lực lượng vũ trang của hai bên miền Nam VN sẽ ở nguyên vị trí của mình.
Ban Liên Hiệp Quân Sự Hai Bên nói trong điều 17 sẽ qui định vùng do mỗi bên kiểm soát và những thể thức trú quân.
c/ Các lực lượng chính qui thuộc mọi quân chủng va2 binh chủng vá các lực lượng không chính qui của các bên ở miền Nam VN phải ngừng mọi hoạt động tấn công nhau và triệt để tuân theo những qui định sau đây :
- Ngăn cấm mọi hoạt động vũ lực trên bộ, trên không và trên biển
- Ngăn cấm mọi hành động đối địch , khủng bố và trả thù của cả hai bên
ĐIỀU 4:  Hoa Kỳ sẽ tiếp tục dính líu quân sư hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam VN.
ĐIỀU 5: Trong thời hạn 60 ngày kể từ khi k1y hiệp định này sẽ hoàn thành việc rút quân hoàn toàn ra khỏi miền Nam VN mọi quân đội , cố vấn quân sự và nhân viên quân sự kỹ thuật , nhân viên quân sự liên quan đến chương trình bình định , vũ khí, đạn dược và dụng cụ chiến tranh của Hoa Kỳ và của các nước ngoài khác đã nói ở điều 3(a). Cố vấn của các nước nói trên cho tất cả các tổ chức bán quân sự và lực lượng cảnh sát cũng sẽ rút trong thời hạn đó.
ĐIỀU 6:Việc hủy bỏ tất cà các căn cứ quân sự ở miền Nam VN của Hoa Kỳ và của các nước ngoài khác đã nói ở điều 3(a) sẽ hoàn thành trong thời hạn 60 ngày kể từ khi ký kết hiệp định nầy .
ĐIỀU 7:Từ khi thực hiện ngừng bắn cho đến khi thành lập chính phủ ở điều 9(b) và điều 14 của Hiệp Định nầy , hai bên miền Nam sẽ không được nhận đưa vào miền Nam VN quân đội , cố vấn quân sự và nhân viên quân sự , kể cả nhân viên quân sự kỹ thuật , vũ khí, đạn dược và dụng cụ chiến tranh.
Hai bên miền Nam VN được phép từng thời gian thay thế vũ khí , đạn dược, dụng cụ chiến tranh đã bị phá hủy, hư hỏng, hao mòn hoặc dùng hểt từ sau khi ngừng bắn trên cơ sở một đổi một cùng đặc điểm và tính năng , có sự giám sát của Ban Liên Hiệp Quân Sư hai bên miền Nam VN và Ủy Ban Quốc Tế kiểm soát và giám sát.

CHƯƠNG III
VIỆC TRAO TRẢ NHÂN VIÊN QUÂN DỰ BỊ BẮT , THƯỜNG DÂN NƯỚC NGOÀI BỊ BẮT VÀ NHÂN VIÊN DÂN SỰ VIỆT NAM BỊ BẮT VÀ GIAM GIỮ
ĐIỀU 8: a/ Việc trao trả những nhân viên quân sữ của các bên bị bắt và thường dân nước ngoài của các bên bị bắt sẽ tiến hành song song và hoàn thành không chậm hơn ngày hoàn thành việc rút quân nói trong điều 5. Các bên sẽ trao đổi danh sách đầy đủ những nhân viên quân sự và thường dân nước ngoài bị bắt nói trên vào ngày ký kết Hiệp Định nậy
b/ Các bên sẽ giúp đỡ nhau tìm kiếm tin tức về những nhân viên quân sự của các bên và thường dân nước ngoài của các bên bị mất tích trong chiến đấu , xác định vị trí và bảo quản mồ mả của những người bị chết ,nhằm tạo điều kiện dễ dàng cho việc cất bốc và hồi hương hài cốt và có những biện pháp cần thiết để tìm kiếm tin tức những người còn coi là mất tích trong chiến đấu.
c/ Về vấn đề trao trả các nhân viên dân sự VN bị bắt và giam giữ ở miền Nam VN se4 do hai bên miền Nam Vn hỉai quyết trên cơ sở những nguyên tắc của điều 21(b) của Hiệp Định đình chỉ chiếm sự ở VN ngày 20-7-1954. Hai bên miền Nam VN sẽ làm việc đó trên tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc , nhẳm chấm dứt thù hằn, giãm bớt đau khổ và đoàn tụ các gia định Hai bên miền Nam VN sẽ gắng hết sức mình để giải quyết vấn đề nầy trong vòng 90 ngày sau khi ngừng bắn có hiệu lực.

CHƯƠNG IV
VIỆC THỰC HIỆN QUYỀN TỰ QUYẾT CỦA NHÂN DÂN MIỀN NAM VIỆT NAM
ĐIỀU 9:Chính phủ Hoa Kỳ và chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa cam kết tôn trọng những nguyên tắc thực hiện quyền tự quyết của nhân dân miền Nam VN sau đây :
a/ Quyền tự quyết của nhân dân miền Nam VN là thiêng liêng, bất khả xâm phạm và phải được tất cà các nước tôn trọng.
b/ Nhân dân miền Nam VN tự quyết định tương lai chính trị của miền Nam VN thông qua tổng tuyển cử thật sự tự do và dân chủ, có giám sát quốc tế.
c/ Các nước ngoài sẽ không được áp đặt bất cứ xu hướng chính trị hoặc cá nhân nào đối với nhân dân miền Nam VN.
ĐIỀU 10:Hai bên miền Nam VN cam kết tôn trọng ngừngba81n và giữ vững hòa bình ở miền Nam VN, giải quyết các vấn đề tranh chấp bằng thương lượng và tránh mọi xung đột bằng vũ lực.
ĐIỀU 11:Ngay sau khi ngừng bắn, hai bên miền Nam VN sẽ:
- Thực hiện hòa giải và hòa hợp dân tộc, xó bỏ thù hằn , cấm mọi hành động trả thù và phân biệt đối xử với những cá nhân hoặc tổ chức đã hợp tác với bên này hoặc bên kia.
- Bảo đảm các quyền tự do dân chủ của nhân dân: tự do cá nhân, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do tổ chức, tự do hoạt động chính trị , tự do tín ngưỡng, tư do đi lại, tư do cư trú , tư do làm ăn sinh sống, quyền tư hữu tài sản và quyền tự do kinh doanh.
ĐIỀU 12: a/ Ngay sau khi ngừng bắn,hai bên miền Nam VN sẽ hiệp thương trên tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc, tôn trọng lẫn nhau và không thôn tính nhau để thành lập Hội Đồng Quốc Gia Hòa Giải và Hòa Hợp Dân Tộc gồm ba thành phần ngang nhau. Hội Đồng sẽ làm việc theo nguyên tắc nhất trí. Sau khi Hội Đồng Quốc Gia Hòa Giải và Hòa Hợp Dân Tộc  nhậm chức, hai bên miền Nam VN sẽ hiệp thương về việc thành lập các hội đồng cấp dưới . Hai bên miền Nam VN sẽ ký Hiệp Định về các vấn đề nội bộ của miền Nam VN cáng sớm càng tốt  và sẽ làm hết sức mình để thực hiện việc nầy trong vòng 90 ngày sau khi ngừng bắn có hiệu lực, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân miền Nam là hòa bình, độc lập và dân chủ ..
b/ Hội Đồng Quốc Gia Hòa Giải và Hòa Hợp Dân Tộc có nhiệm vủ đôn đốc hai bên miền Nam VN thi hành Hiệp Định nầy, thực hiện hòa giải và hòa hợp dân tộc, bào đảm tư do dân chủ . Hội Đồng Quốc Gia Hòa Giải và Hòa Hợp Dân Tộc sẽ tổ chức tổng tuyển cử tự do và dân chủ như đã nói trong điều 9(b) và qui định thủ tục và thể thức của cuộc tổng tuyển cử nầy. Các cơ quan quyền lực và cuộc tổn tuyển cử đó sẽ bầu ra , sẽ do hai bên miền Nam VN thông qua hiệp thương mà thỏa thuận. Hội Đồng Quốc Gia Hòa Giải và Hòa Hợp Dân Tộc cũng sẽ qui định thủ tục và thể thức tuyển cử địa phương theo như hai bên miền Nam VN thỏa thuận .
ĐIỀU 13 : Vấn đề lực lượng vũ trang VN ở miền Nam VN sẽ do hai bên miền Nam VN giải quyết trên tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc , bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau, không có sự can thiệp của nước ngoài, phù hợp với tình hình sau chiến trạnh Trong số những vấn đề hai bên miền Nam VN thảo luận có các biện pháp giãm số quân của họ và phục viên số quân đã giạm Hai bên miền Nam VN sẽ hoàn thành việc đó càng sớm càng tốt .
ĐIỀU 14 : Miền Nam VN sẽ thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình , độc lập. Miền Nam VN sẳn sàng thiết lập quan hệ với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị và xã hội trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau và nhận viện trợ kinh tế, kỹ thuật của bất cứ nước nào không kèm theo điều kiện chính trị . Vấn đề nhận viện trợ quân sự sau nầy cho miền Nam Vn sẽ thuộc thẩm quyền của chính phủ được thành lập sau tổng tuyền cử ở miền Nam VN nói trong điều 9(b).

CHƯƠNG  V
VẤN ĐỀ THỐNG NHẤT NƯỚC VIỆT NAM VÀ VẤN ĐỀ QUAN HỆ GIỮA MIỀN BẮC VÀ MIỀN NAM VIỆT NAM
ĐIỀU 15 : Việc thống nhất nước VN sẽ được thực hiện từng bước bằng phương pháp hòa bình trên cở sở bàn bạc và thỏa thuận giữa miền Bắc và miền Nam VN , không bên nào cưỡng ép hoặc thôn tính bên nào và không có sự can thiệp của nước ngoài . Thời gian thống nhất sẽ do miền Bắc và miền Nam thỏa thuận.
Trong khi chờ đợi thống nhất :
a/ Giới tuyến quân sự giữa hai miền tại vĩ tuyến 17 chỉ là tạm thời và không phải là một ranh giới về chính trị hoặc về lãnh thổ như qui định trong đoạn 6 của Tuyên Bố cuối cùng của Hội Nghị Geneve năm 1954.
b/ Miền Bắc và miền Nam VN sẽ tôn trọng khu phi quân dự ở hai bên giới tuyến quân sự tạm thời.
c/ Miền Bắc và miền Nam Vn sẽ sớm bắt đầu thương lượng nhằm lập lại quan hệ bình thường về nhiều mặt . Trong các vấn đề sẽ được thương lượng ,có vấn đề thể thức đi lại dân sự qua giới tuyến quân sự tạm thời .
d/ Miền Bắc và miền Nam VN sẽ không tham gia bất cứ liên minh quân sự hoặc khối quân sự nào và không cho phép nước ngoài có căn cứ quân sự , quân đội , cố vấn quân sự và nhân viên quân sự trên đất mình , như Hiệp Định Gene ve năm 1954 về VN qui định .
CHƯƠNG VI
CÁC BAN LIÊN HỢP QUÂN SỰ, ỦY BAN QUỐC TẾ   KIỂM SOÁT VÀ GIÁM SÁT ,
HỘI  NGHỊ QUỐC TẾ.
ĐIỀU 16 : a/ Các bên tham gia Hội Nghị Paris về VN sẽ cử ngay đại diện để thành lập Ban Liên Hợp Quân Sự Bốn Bên có nhiệm vụ bảo đảm sự phối hợp hành động của các bên trong việc thực hiện các điều khoản sau đây của Hiệp Định nầy :
- Đoạn đầu của Điều 2 về việc thực hiện ngừng bắn trên khắp miền Nam VN
- Điều 3(a) về việc ngừng bắn của lực lượng của Hoa Kỳ và của các nước ngoài khác nói trong điều nầy
- Điều 3(c) về việc ngừng bắn giữa tất cả các bên ở miền Nam VN
- Điều 5 về việc rút ra khỏi miền Nam VN quân đội của Hoa Kỳ và quân đội của các nước ngoài khác đã nói ở Điều 3(a)         
- Điều 6 về việc hủy bỏ các căn cứ quân sự ở miền Nam VN của Hoa Kỳ và của các nước ngoài khác đã nói ở Điều 3(a).
- Điều 8(a) về việc trao trả những nhân viên quân sự của các bên bị bắt và thường dân nước ngoài của các bên bị bắt
- Điều 8(b) về việc các bên giúp đỡ lẫn nhau tìm kiếm tin tức về những nhân viên quân sự của các bên và thường dân nước ngoài của các bên bị mất tích trong chiến đấu.
b/ Ban Liên Hợp Quân Sư Bốn Bên sẽ làm việc theo nguyên tắc hiệp thương và nhất trí . Những vấn đề bất đồng sẽ chuyển cho Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát và Giám Sát.
c/ Ban Liên Hợp Quân Sự Bốn Bên sẽ bắt đầu hoạt động ngay sau khi ký kết Hiệp Định nầy và chấm dứt hoạt động trong thời hạn 60 ngày , sau khi việc rút quân của Hoa Kỳ và quân của các nước ngoài khác đã nói ở Điều 3(a) và việc trao trả nhân viên quân sự của các bên bị bắt và thường dân nước ngoài của các bên bị bắt đã hoàn thành.
d/Bốn bên sẽ thỏa thuận ngay về tổ chức, thể thức làm việc , phương pháp hoạt động và chi phí của Ban Liên Hợp Quân Sự Bốn Bên.
ĐIỀU 17 : a/ Hai bên miền Nam VN sẽ cử ngay đại diện để thành lập Ban Liên Hợp Quân Sự Hai Bên có nhiệm vụ bảo đảm sự phối hợp hành động của hai bên miền Nam VN trong việc thực hiện các điều khoản sau đây của Hiệp Định nầy :
- Đoạn đầu của Điều 2 về việc thực hiện ngừng bắn trên khắp miền Nam VN , sau khi Ban Liên Hợp Quân Sự Bốn Bên chấm dứt hoạt động của mình .
Điều 3(b) về việc ngừng bắn giữa hai bên miền Nam VN
- Điều 3(c) về việc ngừng bắn giữa tất cả các bên ở miền Nam VN sau khi Ban Liên Hợp Quân Sự Bốn Bên chấm dứt hoạt động của mình.
- Điều 7 về việc không được đưa quân đội vào miền Nam VN và tất cả những điều khoản khác của điều nầy.
- Điều 8( c) về vấn đề trao trả các nhân viên dân sự VN bị bắt và giam giữ ở miền Nam VN.
- Điều 13 về việc giảm số quân của hai bên miền Nam VN và phục viên số quân đã giảm.
b/ Những vấn đề bất đồng này được ký kết , Ban Liên Hợp Quân Sự Hai Bên sẽ thỏa thuận ngay những biện pháp và tổ chức nhằm thực hiện ngừng bắn và giữ gìn hòa bình ở miền Nam VN.
ĐIỀU 18 : a/ Sau khi ký kết Hiệp Định nầy , thành lập ngay Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát và Giám Sát.
b/ Cho đến khi Hội Nghị Quốc Tế nói ở Điều 19 có những sắp xếp dứt khoát , Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát và Giám Sát việc thi hành những điều khoàn sau đây của Hiệp Định này :
- Đoạn đầu của Điều 2 về việc thực hiện ngừng bắn trên khắp miền Nam VN
- Điều 3(a) về việc ngừng bắn của lực lượng Hoa Kỳ và của các nước ngoài khác nói trong điều nầy
- Điều 3(c) về việc ngừng bắn giữa tất cả các bên ở miền Nam VN
- Điều 5 về việc rút ra khỏi miền Nam VN quân đội của các nước ngoài khác đã nói ở Điều 3 (a)
- Điều 6 về việc hủy bỏ các căn cứ quân sự ở miền Nam VN của Hoa Kỳ và của các nước ngoài khác đã nói ở Điều 3(a)
- Điều 8(a) về việt trao trả những nhân viên quân dự của các bên bị bắt và thường dân nước ngoài của các bên bị bắt.
Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát và Giám Sát lập những tổ kiểm soát để làm những nhiệm vụ của mình. Bốn bên sẽ thỏa thuận ngay về chỗ đóng và sự hoạt động của các tổ đó . Các bên sẽ làm dễ dàng cho hoạt động của các tổ đó.
c/ Cho đến khi Hội Nghị Quốc Tế có những sắp xếp dứt khoát , Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát và Giám Sát sẽ báo cáo với hai bên miền Nam VN những vấn đề về việc kiểm soát và giám sát việc thi hành những điều khoản sau đây của Hiệp Định nầy:
- Đoạn đầu của Điều 2 về việc thực hiện ngừng bắn trên khắp miền Nam VN , sau khi Ban Liên Hợp Quân Sự Bốn Bên chấm dứt hoạt động của mình
- Điều 3(b) về việc ngừng bắn giữa hai bên miền Nam Việt Nam
- Điều 3(c) về việc ngừng bắn giữa tất cả các bên ở miền Nam VN , sau khi Ban Liên Hợp Quân Sự Bốn Bên chấm dứt hoạt động của mình
- Điều 7 vể việc không được đưa quân đội vào miền Nam VN và tất cả các điều khoản khác của điều nầy.
- Điều 8(c) về vấn đề trao trả các nhân viên dân sữ VN bị bắt và giam giữ ở miền Nam VN
- Điều 9(b) về tổng tuyển cử tự do và dân chủ ở miền Nam VN
- Điều 13 về việc giảm số quân của hai bên miền Nam VN và phục viên số quân đã giảm
Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát và Giám Sát lập những tổ kiểm soát để làm nhiệm vụ của mình. Hai bên miền Nam VN sẽ thỏa thuận ngay về chỗ đóng và sự hoạt động của các tổ đó. Hai bên miền Nam VN sẽ làm dễ dàng cho hoạt động của các tổ đó ,
d/ Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát và Giám Sát sẽ gồm đại diện của bốn nước: Ba Lan, Canada, Hung Ga Ri, Nam Dươn. Các thành viên của Ủy Ban Quốc Tế sẽ luân phiên làm chủ tịch trong từng thời gian do Ủy Ban Quốc Tế qui định .
e/ Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát và Giám Sát thi hành nhiệm vụ của mình theo nguyên tắc tôn trọng chủ quyền của miền Nam VN.
f/ Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát và Giám Sát làm việ theo nguyên tắc hiệp thương và nhất trí .
g/ Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát và Giám Sát sẽ bắt đầu hoạt động khi ngừng bắn có hiệu lực ở Việt Nam . Đối với các điều khoản liên quan đến bốn bên nói trong Điều 18(b)
Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát và Giám Sát chấm dứt hoạt động của mình khi nhiệm vụ kiểm soát và giám sát của Ủy Ban đối với các điều khoản đó đã hoàn thành. Đối với các điều khoản liên quan đến hai bên miền Nam VN nói ở điều 18(c) , Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát và Giám Sát chấm dứt hoạt động của mình theo yêu cầu của chính phủ được thành lập sau tổng tuyển cử ở miền Nam VN nói ở điều 9(b)
h/ Bốn bên thỏa thuận ngay về tổ chức, phương tiện hoạt động và chi phí của Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát và Giám Sát. Mối quan hệ giữa Ủy Ban Quốc Tế và Hội Nghị Quốc Tế sẽ do Ủy Ban Quốc Tế và Hội Nghị Quốc Tế thỏa thuận.
ĐIỀU 19 :Các bên thỏa thuận về việc triệu tập một Hội Nghị quốc tế trong vòng 30 ngày kể từ khi ký Hiệp Định nầy ghi nhận các Hiệp Định đã ký kết , bảo đảm chấm dứt chiến tranh , giữ vững hòa bình ở VN, tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Vn và quyền tự quyết của nhân dân miền Nam VN , góp phần vào hòa bình và bảo đảm hòa bình ở Đông Dương.
Hoa Kỳ và VN Dân Chủ Cộng Hòa thay mặt các bên tham gia Hội Nghị Paris về VN, sẽ đề nghị các bên sau đây tham gia Hội Nghị Quốc Tế nầy : Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, Cộng Hòa Pháp, Liên Bang Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Xô Viết , Liên Hiệp Vương Quốc Anh, bốn nước ở trong Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát và Giám Sát và Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc, cùng với các bên tham gia Hội Nghị Paris về Việt Nam

CHƯƠNG VII
ĐỐI VỚI CAMPUCHIA VÀ LÀO
ĐIỀU 20 :a/ Các bên tham gia Hội Nghị Paris về VN phải triệt để tôn trọng Hiệp Định Geneve năm 1954 về Campuchia và Hiệp Định Geneve năm 1962 về Lào đã công nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Campuchia và nhân dân Lào : độc lập, chủ quyền , thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của các nước đó. Các bên phải tôn trọng nền trung lập của Campuchia và Lào..
Các bên tham gia Hội Nghị Paris về VN cam kết không dùng lãnh thổ của Campuchia và lãnh thổ của Lào để xâm phạm chủ quyền và an ninh của nhau và của các nước khác .
b/ Các nước ngoài sẽ chấm dứt mọi hoạt động quân sự ở Campuchia và Lào , rút hết và không đưa trở lại vào hai nước đó quân đội, cố vấn quân sự và nhân viên quân sự,vũ khí , đạn dược và dụng cụ chiến tranh.
c/ Công việc nội bộ của Campuchia và Lào phải do nhân dân mỗi nước nầy giải quyết , không có sự can thiệp của nước ngoài ..
d/ Những vấn đề liên quan giữa các nước Đông Dương sẽ do các bên Đông Dương giải quyết trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền , toàn vẹn lãnh thổ của nhau và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.

CHƯƠNG VIII
QUAN HỆ GIỮA HOA KỲ VÀ VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
ĐIỀU 21 :Hoa Kỳ mong rằng Hiệp Định nầy sẽ mang lại một thời kỳ hòa giải với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa cũng như với tất cà các dân tộc ở Đông Dương. Theo chánh sách truyền thống của mình , Hoa Kỳ sẽ đóng góp vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh ở Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và toàn Đông Dương
ĐIỀU 22 :Việc chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở VN và việc thực hiện triểt để Hiệp Định nầy sẽ tạo điều kiện thiết lập quan hệ mới, bình đẳng và cùng có lợi giữa Hoa Kỳ và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa , trên cơ sở tôn trọng độc lập, chù quyền của nhau và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.Đồng thời những việc đó sẽ bảo đảm hòa bình vững chắc ở VN và góp phần giữ gìn hòa bình lâu dài ở Đông Dương và Đông Nam Á.

CHƯƠNG  IX
NHỮNG ĐIỀU KHOẢN KHÁC
ĐIỀU 23: Hiệp định nầy sẽ có hiệu lực khi đại diện toàn quyền của các bên tham gia Hội Nghị Paris về VN ký. Tất cà các bên có liên quan sẽ thi hành triệt để Hiệp Định nầy và các Nghị Định Thư của Hiệp Định
Làm tạo Paris, ngày 27-1-1973 bằng tiếng Anh và tiếng Việt Nạm Bản tiếng Anh và bản tiếng Việt đều là những bản chính thức và có giá trị như nhau.

Thay mặt Chính Phủ Hoa Kỳ                                     
William P. Roger. Bộ Trưởng Ngoại Giao                             
Thay mặt Chính Phủ VNCH
Trần Văn Lắm,Tổng Trưởng Ngoại Giao
HIỆP ĐỊNH PARIS 1973
----------o0o-----------

Ủy Ban Phục Hoạt Hiệp Định Paris 1973.
__._,_.___

Posted by: "Patrick Willay" 

30 tháng 4, đọc gì, viết gì?


...Ngoài những con chuột đỏ trà trộn trong làn sóng người Việt tị nạn vượt biển vượt biên ra hải ngoại sau ngày 30.4.1975, còn có thêm những loại chuột đỏ khác sau đó được khơi khơi xách va-li lên máy bay sang Mỹ...
...Có thể nói các cộng đồng người Việt ở hải ngoại ngày nay đã thực sự biến thành những “vùng xôi đậu” giữa ta và địch, không khác gì tình trạng miền Nam VN trong thời chiến tranh. Khi ấy, chính quyền VNCH có quân đội, cảnh sát, tình báo, an ninh, mật vụ mà VC còn len lỏi vào khắp nơi, ngày nay ở hải ngoại, các tổ chức cộng đồng, các đảng phái, hội đoàn lấy gì để ngăn chặn những con chuột đỏ?

stkt.jpg


Sổ Tay Ký Thiệt kỳ 195

30 tháng 4, đọc gì, viết gì?

Trích bài “Những mũi giáo đâm sau lưng, hay những kẻ nối giáo cho giặc” của ông Đỗ Hồng Ngọc:
...
Sự sụp đổ của một chế độ nhân bản không phải chỉ do người Mỹ quay lưng và “đồng minh tháo chạy”, mà còn do những mũi giáo đâm thẳng sau lưng dân tộc.
Những mũi giáo đó ẩn hiện khắp miền Nam VN. Nếu cho rằng đó là những kẻ, hay gia đình họ, đã nhờ được hưởng tự do và ít nhiều ơn mưa móc từ chế độ VNCH mà cuộc sống của họ tương đối sung túc thì họ có thể được gọi là những kẻ “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản”.
Một số tập kết ra Bắc và nhiều tên khác ở lại nằm vùng trong Nam. Họ trà trộn, luồn lách vào các cơ quan công quyền, quốc hội và quân đội. Họ đóng vai những nhà báo khuynh tả. Họ mặc áo nghệ sĩ. Họ đội lốt tôn giáo. Họ mang hia đội mão trí thức. Họ thậm chí đi xuống tận cùng giai cấp xã hội để làm công nhân lao động nghèo khổ. Họ có khi là những người trẻ, nhẹ dạ, bị tuyên truyền, nhồi nhét những điều huyễn mị về chủ nghĩa cộng sản.
Những phần tử này được liệt vào thành phần thứ năm sau 4 cái ngu mà dân gian vẫn thường hay nói tới, khiến câu ca dao bình dân có thể được thêm vào như sau:

Trên đời có bốn cái ngu                                                                                                                           Làm mai, lãnh nợ, gác cu, cầm chầu                                                                                                         Thứ năm ngu nhưng lại đứng đầu                                                                                                        Đó là cuồng tín theo hầu cộng nô

Những người nổi tiếng gia nhập đảng cộng sản như:Nguyễn Thị Bình (Sa Đéc), Nguyễn Tấn Dũng (Cà Mau), Nguyễn Thị Định (Bến Tre), Nguyễn Hộ (Gò Vấp), Phan Văn Khải (Củ Chi), Võ Văn Kiệt (Vĩnh Long)… đều là gốc người miền Nam và chính họ hay gia đình họ đã từng hưởng trực tiếp hay gián tiếp ơn mưa móc của chính phủ VNCH.
Vào ngày 20/12/1960, con bàiMặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam VN (MTDTGPMN) ra đời để bắt đầu quấy rối cuộc sống yên bình của dân chúng miền Nam. Những tên gạo cội của mặt trận này gồm có:Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát, Phùng Văn Cung, Võ Chí Công, Đại đức Sơn Vọng, Trần Nam Trung, Nguyễn Văn Hiếu, Trần Bạch Đằng, Phan Văn Đáng, Nguyễn Hữu Thế,  Nguyễn Thị Định, Thích Thượng Hào, Nguyễn Văn Ngợi, Lê Quang Thành, Đặng Trần Thi, Trần Bửu Kiếm…
Sau đó, cái quái thai “MTDTGPMNVN” của Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) này đã đẻ ra cái gọi là“Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam” (CPCMLTCHMNVN) với những tên chủ chốt như:Huỳnh Tấn Phát, Phùng Văn Cung, Trần Bửu Kiếm, Trần Nam Trung, Nguyễn Thị Bình, Cao Văn Bổn, Lưu Hữu Phước, Nguyễn Văn Kiết, Dương Quỳnh Hoa, Trương Như Tảng, Nguyễn Hữu Thọ, Trịnh Đình Thảo, Thích Đôn Hậu…
Có lẽ cần mở ngoặc để nói đôi điều cái quái thai “MTDTGPMNVN”. Thế giới lúc bấy giờ đều gọi họ là Việt Cộng (VC), theo người Mỹ, trong khi người Việt gọi Việt Cộng là để chỉ chung Cộng Sản Việt Nam từ Nam chí Bắc. Không biết người Mỹ có cố tình gọi VC chỉ để nhắm vào phần tử của “MTDTGPMNVN” hay không mà khi tổ chức hội đàm Paris, họ lại dành cho mặt trận này một chỗ ngồi ngang hàng với VNCH. Cuộc hội đàm 4 bên thật sự không đúng nghĩa bởi vì 4 bên đó phải là Trung Cộng hay/và Liên Xô (nước đỡ đầu cho CSVN trong cuộc chiến) đối đầu với Mỹ (đại diện cho phe đồng minh) và VN Dân Chủ Cộng Hòa (hay CSBV) đối đầu với VNCH. Vì thế, Hiệp Định Paris 27/1/1973 được ra đời trong sự thua thiệt bất công nghiêng về phía VNCH. CSBV với sự yểm trợ mạnh mẽ cả về vũ khí, tài chính lẫn nhân sự từ Trung Cộng và Liên Xô, đã trắng trợn vi phạm hiệp định này trong khi VNCH bị cúp mất viện trợ từ Mỹ nên đã ngậm ngùi bị bức tử vào ngày 30/4/1975. Phong trào phản chiến lớn rộng tại Mỹ và nhiều nơi, kể cả VN, đã có nhận định quá sai lầm về cuộc chiến. Họ không chống kẻ xâm lăng gây chiến mà lại chống người tự vệ chính đáng. Bốn mươi lăm năm đã trôi qua kể từ ngày ký hiệp định Paris với những đau khổ triền miên dành cho một dân tộc bất hạnh sau ngày Sài Gòn bị thất thủ. Đã có những nỗ lực đáng trân trọng để phục hoạt hiệp định Paris trong gần như vô vọng. Trước đó, những kẻ nằm mơ giữa ban ngày về cái gọi là “miền Nam trung lập” thuộc MTDTGPMN và CPCMLTMNVN đã vỡ mộng vì cả hai tổ chức này đều bị chính thức khai tử không kèn không trống vào ngày 2/7/1976.
Trở lại với những mũi giáo oan nghiệt đâm sau lưng, từ Dinh Độc Lập, có các cố vấn của Tổng Thống VNCH như Huỳnh Văn Trọng, Vũ Ngọc Nhạ… Điều đáng lưu ý là những tên này cùng đồng bọn gồm 20 tên khác từng bị bắt nhốt bởi Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung phối hợp với Ty Công An Huế thời Đệ Nhất Cộng Hòa, nhưng đến ngày 1/11/1963, Hội Đồng Cách Mạng của Tướng Dương Văn Minh thả ra và sau đó họ đã len lỏi vào các cơ quan trọng yếu của VNCH.
Trong hàng ngũ sĩ quan cao cấp quân lực VNCH, có Phạm Ngọc Thảo, Lâm Văn Phát, Nguyễn Hữu Hạnh… và vô số binh sĩ cũng như sĩ quan VNCH âm thầm làm việc tiếp tay cho CSVN, như Nguyễn Thành Trung, thượng sĩ nhất Nguyễn Văn Minh…
Nằm vùng tại Quốc Hội VNCH có cái gọi là thành phần thứ ba và Dân Biểu Đối Lập như Dương Văn Ba, Lý Quý Chung, Lý Chánh Trung, Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức, Ngô Bá Thành (Phạm Thị Thanh Vân), Kiều Mộng Thu, Hồng Sơn Đông, Nguyễn Văn Hàm, Đinh Văn Đệ…
Một số phần tử này cũng là những nhà báo thiên tả như Ngô Công Đức (Tin Sáng), Hồng Sơn Đông (Điện Tín) hợp cùng Chân Tín (Đối Diện), Họa Sĩ Ớt (Huỳnh Bá Thành), Phạm Xuân Ẩn (các báo ngoại quốc như Time, New York Herald Tribune…) Vào đầu năm 1970, có khoảng 36 tờ báo tư nhân ở miền Nam, nhưng có rất ít báo của nhà nước, chẳng hạn như tờ Tiền Tuyến. Lợi dụng tự do báo chí, nhiều nhà báo thiên tả đã công khai đả phá chính phủ VNCH và cá nhân của TT Nguyễn Văn Thiệu. Thậm chí họ còn tổ chức diễn biến “ký giả xuống đường đi ăn mày” vào ngày 10/10/1974 để phản đối sắc luật 007 qui định về tiền ký quỹ ra báo.
Những mũi giáo đâm sau lưng còn phát xuất từ những kẻ đội lốt nghệ sĩ mà điển hình là Kim Cương, kẻ được cho là mang cấp bậc Thượng Tá của VC mặc dù bà ta phủ nhận điều này, nhưng có lẽ chẳng mấy ai tin. Ngoài ra, còn có một số nhạc sĩ nổi tiếng phản chiến như Trịnh Công Sơn (TCS), Trương Quốc Khánh, Tôn Thất Lập… Riêng TCS được xem là thiên tài âm nhạc và phù thủy ngôn ngữ, nhưng rất tiếc những tinh hoa đó lại phục vụ cho chế độ man rợ cộng sản.
Mặc lớp áo thầy tu, những mũi giáo đó đã lũng đoạn hàng ngũ quốc gia miền Nam. Những tay nổi bật trong thành phần này từ Thích Trí Quang cho tới Thích Nhất Hạnh, Chân Tín, ni sư Huỳnh Liên, Phan Khắc Từ, Trần Hữu Thanh… đều tích cực nối giáo cho giặc bằng mọi hình thức như xách động xuống đường, tuyệt thực, tự thiêu… dưới chiêu bài chống độc tài gia đình trị (thời đệ nhất Cộng Hòa), đòi quyền sống, đòi hòa bình, viết báo công kích chính phủ, chống tham nhũng (thời đệ nhị Cộng Hòa)…
Thành phần trí thức thiên tả miền Nam góp phần phá nát chính thể dân chủ của người quốc gia có khá nhiều, tiêu biểu như: Trương Bá Cần, Nguyễn Văn Trung, Lý Chánh Trung, Thế Uyên, Thế Nguyên, Duy Lam, Nguyễn Hữu Chung, Lê Văn Hảo, Lê Khắc Quyến​ (ông này là cha của ông Lê Khắc Nhàn tức Hằng Trường. Đại lão Hòa Thượng Tuyên Hóa đã đuổi ra khỏi Tăng Đoàn Vạn Phật Thành vì âm mưu chiếm chùa Vạn Phật​​ và không được lấy pháp danh họ Hằng nữa)​, Tôn Thất Hanh, Lê Tuyên...
Thành phần năng động nhất ở miền Nam gây khó khăn cho chính phủ VNCH ở hậu phương Sài Gòn là các học sinh sinh viên thiên tả như: Lê Văn Nuôi, Huỳnh Tấn Mẫm, Cao Thị Quế Hương, Võ Như Lanh, Phan Kim Hạnh, Dương Văn Đầy, Trịnh Đình Ban… Ở miền Trung có Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân… Ngoài ra, còn có một số lãnh tụ sinh viên ở Sài Gòn chuyên cầm đầu những cuộc xuống đường rầm rộ ở Sài Gòn như Nguyễn Văn Thắng (cựu SV Sư Phạm Sài Gòn), Đoàn Kỉnh (Đại Học Khoa Học SG) mà lý lịch không rõ là người quốc gia hay thân cộng.
Những mũi giáo đâm sau lưng dân tộc còn có vô số những tay nằm vùng hành nghề lao động tay chân như lái tắc xi, đạp xích lô… và thậm chí còn có những kẻ được gọi bằng danh xưng mỹ miều “bà mẹ chiến sĩ”. Sau ngày 30/4, bọn này xuất đầu lộ diện thành những tên VC mang băng đỏ trên cánh tay chỉ đường cho CSBV tiến vào Sài Gòn và sau đó giữ những chức vụ tại hạ tầng cơ sở hay trung ương.
Trên đây là những mũi giáo đâm sau lưng được người dân nhận diện ra tại Sài Gòn, không kể đến những kẻ khác hoạt động bí mật rải rác khắp miền Nam.
Những kẻ này đã góp phần lật đổ chế độ nhân bản VNCH và xây dựng nên một chế độ man di, tàn bạo gây thống khổ cho toàn dân suốt gần 43 năm dài..
Những kẻ nối giáo cho giặc cộng sau năm 1975 đều bị vắt chanh bỏ vỏ một cách không thương tiếc. Một số đấm ngực ăn năn thì đã quá muộn màng.
Ngay cả sau biến cố 30/4, trong làn sóng tị nạn ra hải ngoại cũng có không ít phần tử cộng sản trà trộn hay hoạt động ngầm cho VC dưới hình thức tôn giáo vận, văn hóa vận…
Rút tỉa kinh nghiệm sống chung với những mũi giáo phản trắc suốt mấy chục năm ở trong nước, đồng bào hải ngoại cần vạch mặt chỉ tên những kẻ này để vận động chính quyền sở tại tống cổ chúng về nước hầu duy trì cuộc sống yên bình cho cộng đồng. (ngưng trích)

Ngoài những con chuột đỏ trà trộn trong làn sóng người Việt tị nạn vượt biển vượt biên ra hải ngoại sau ngày 30.4.1975, còn có thêm những loại chuột đỏ khác sau đó được khơi khơi xách va-li lên máy bay sang Mỹ. Nào đoàn tụ gia đình, nào bảo lãnh thân nhân, nào hôn nhân (thật lẫn giả), nào “HO”, nào du sinh, nào đại gia VC và con cháu VC gộc, cùng nhau cấu kết với cựu tị nạn trở cờ…tạo thành một “đội ngũ” chuột đỏ rộng lớn dưới sự chỉ đạo giấu tay của các sứ quán VC, đã xâm nhập mọi sinh hoạt chính trị, văn hóa, giáo dục, tôn giáo, báo chí, truyền thông ... trong các cộng đồng người Việt ở hải ngoại.

Có thể nói các cộng đồng người Việt ở hải ngoại ngày nay đã thực sự biến thành những “vùng xôi đậu” giữa ta và địch, không khác gì tình trạng miền Nam VN trong thời chiến tranh. Khi ấy, chính quyền VNCH có quân đội, cảnh sát, tình báo, an ninh, mật vụ mà VC còn len lỏi vào khắp nơi, ngày nay ở hải ngoại, các tổ chức cộng đồng, các đảng phái, hội đoàn lấy gì để ngăn chặn những con chuột đỏ? Chưa kể sinh hoạt của các tổ chức cộng đồng, đảng phái và các hội đoàn rất lỏng lẻo, dễ dãi, tạo cơ hội cho những con chuột đỏ xâm nhập khi chúng đóng kịch là những con người đầy thiện chí, dễ thương, dễ bảo, nhiều tài vặt, mồm cũng nói “chống cộng”, có khi còn to mồm hơn người khác. Một khi xâm nhập được rồi thì những con chuột đỏ bắt đầu quậy phá.

Hậu quả như thế nào? Có lẽ không cần dẫn chứng.

Những ai còn quan tâm tới sinh hoạt cộng đồng và chưa quên bài học xương máu ngày 30.4.1975 thì không thể không nhìn thấy những gì đang diễn ra trước mắt.


Thiệt
(Đời Nay ra ngày 20.4.2018)
1135.jpg
Dân miền Trung chạy trốn "Giải phóng" tháng 4/1975


__._,_.___

Posted by: "Patrick Willay

Tuesday, April 17, 2018

SỐNG CHẲNG CÒN QUÊ (Bài Thứ Hai).

SỐNG CHẲNG CÒN QUÊ (Bài Thứ Hai).
NGUYỄN KHẮP NƠI.



Như tôi đã nói ở phần đầu, cuốn Hồi Ký của Bác sĩ Trần Xuân Dũng tạm được gọi là một cuốn Lịch Sử Việt Nam Cận Đại Rút Gọn, vậy chúng ta hãy cùng nhau . . . đi vào lịch sử mà anh bác sĩ Dũng đã gom lại trong cuốn hồi ký của ông, khởi hành từ Lạng Sơn, vùng giới tuyến địa đầu Việt Nam và Trung Cộng:

“Tôi sinh năm 1939 tại Làng Lý Nhân, Tỉnh Hà Nam . . . Ba tôi theo Tây Học. Cuối năm thứ tư bậc trung học, ba tôi thi đậu bằng Diplome, ông nộp đơn xin đi làm công chức sở hỏa xa và được gởi đi làm ở Nhà Ga Đồng Đăng. Nơi này rất nổi tiếng trong văn chương Việt Nam:
“Đồng Đăng có Phố Kỳ Lừa,
Có Nàng Tô Thị, có Chùa Tam Thanh . . .”
Ga Đồng Đăng

Ga Đồng Đăng
Từ trái qua phải, tòa nhà thứ hai là tòa nhà chính của Ga Đồng Đăng. Nửa bên phải của tầng trên là nơi chúng tôi cư ngụ (1942).

Đã có lần ba tôi đưa chúng tôi đi thăm Động Tam Thanh (Chùa Tam Thanh ở trong động Tam Thanh này). Chỉ nhớ rằng hôm đó trời rất nóng, nhưng bước vào trong động thấy mát rượi.
Giếng Tiên
Giếng Tiên.

Sau đó được đi thăm Giếng Tiên. Miệng giếng ngang với mặt đất, nước mấp mé gần miệng, ngồi xổm xuống có thể dùng một cái bát hay một cái gầu cũng múc nước được. Nếu nhiều người cùng dùng thùng liền tay múc nước, thì mực nước sẽ xuống, nhưng chỉ một hai phút sau nước lại lên cao gần miệng giếng như cữ. Vì thế người ta mới gọi là Giếng Tiên, không bao giờ cạn nước và không bao giờ tràn ra ngoài, đầy rồi thì thôi.
Đối với một cậu bé ba tuổi, nhớ được nhiêu đó chuyện là quá hay rồi.
nang-to-thi
Núi Vọng Phu có Nàng Tô Thị bồng con đứng chờ.

Từ những di tích mà anh Dũng còn nhớ, và theo nhiều trang mạng trên internet, chúng ta biết thêm rằng, trong quần thể núi đồi vùng Lạng Sơn, có một ngọn núi tên là Vọng Phu. Trên đỉnh núi này có một khối đá tự nhiên hình một người phụ nữ bồng con hướng nhìn về phương xa. Từ xưa tượng đá này đã gắn với truyền thuyết về một người con gái chung thuỷ đứng chờ chồng đi lính. Chờ mãi không thấy chồng về, nàng và con đã hoá thành đá, từ đó người dân gọi đây là tượng Nàng Tô Thị.
Ra khỏi Đồng Đăng, còn rất nhiều thứ gợi nhớ nhung, hoài niệm cho chúng ta: Quỷ Môn Quan, Ải Chi Lăng và cuối cùng là Ải Nam Quan.

Ở Đồng Đăng một thời gian, ba của anh Dũng được đổi về miền đồng bằng, đó là thị trấn Vinh của tỉnh Nghệ An.
Thành phố Vinh thật là yên tĩnh, đa số người dân đều di chuyển bằng cách đi bộ, cả tỉnh có hai chiếc xe đạp, xe hơi thì hầu như không có (thỉnh thoảng cũng có xe nhà binh của Pháp chạy ngang).
Biến cố súng đạn lớn nhất mà lần đầu tiên trong đời bác sĩ Dũng được chứng kiến xẩy ra vào ngày 9 tháng 3 năm 1945:
“Hôm đó là ngày 9 tháng 3 năm 1945, tôi đang ngồi trong cửa  sổ ăn quà sáng và nhìn ra đường.
Nghe tiếng xôn xao, tôi cũng đưa mắt nhìn ra đường: Mấy người lính Nhật đang ôm súng ngồi trên chỗ ghế của hành khách, còn những người đang kéo xe lại là những ông Tây. Cũng có cả một hai bà Đầm bị kéo xe có lính Nhật ngồi trên. Bọn lính Nhật cười nói huyên thuyên nhưng mắt vẫn theo dõi những người Pháp kéo xe.
Những người Pháp này, mới hôm qua đây, còn là những ông quan cai trị. Nhật vừa đảo chính Pháp được có vài tiếng đồng hồ trên toàn cõi Việt Nam. Bây giờ người Nhật đang lên voi, còn Pháp xuống chó.
Từ khi quân Nhật chiếm đóng vùng Đông Nam Á, nhiều người dân Việt tưởng rằng thời kỳ đô hộ của Pháp đã chấm dứt, chúng ta đã được độc lập tự do. Sự thật không phải như vậy, dân Việt vẫn phải chịu nhục đô hộ, nhưng thay vì bị người Pháp da trắng đô hộ, thì nay kẻ đô hộ chúng ta cũng là dân da vàng với nhau. Thay vì cùng là một mầu da, nhưng sự đô hộ của họ còn khắt khe và tàn nhẫn hơn nữa. Vì sự tàn bạo đó mà dân Việt đã gọi bọn họ là “Nhật Lùn”.
Tàn bạo hơn nữa, chúng còn bắt dân ta nhổ hết lúa lên để trồng đay, vì đay có nhiều chất sợi, bọn chúng cho chở về Nhật dệt thành vải may quần áo cho binh lính của họ. Nơi nào lúa đã chín thì họ tịch thu hết đem về Nhật. Ở miền Bắc, do thiên tai, lũ lụt, sâu bệnh . . . gây mất mùa. Đói kém lại thêm vào bệnh tật, bệnh dịch tả lan tràn khắp nơi, người chết không có ai chôn, nên đành đào những huyệt lớn bỏ hết những thân xác vào trong đó, đổ vôi lên rồi lấp đất chôn. Đó là nạn đói năm Ất Dậu, trong khoảng thời gian từ tháng 10 năm 1944 đến tháng 5 năm 1945, đã làm gần hai triệu người dân chết đói.
Nạn Đói Tại Việt Nam
Nạn đói này chấm dứt vào khoảng tháng 5 năm 1945, anh Dũng kể tiếp:
“Từ ngày 17 tháng Tư năm 1945, chính phủ Việt Nam đầu tiên được thành lập, do ông Trần Trọng Kim là thủ tướng. Mặc dù phương tiện và nhân lực hạn chế, thủ tướng Kim đã cố gắng cho chuyển gạo từ Nam ra Bắc để cứu đói, những nạn nhân còn sống sót được đưa vào những trung tâm cứu trợ để được săn sóc, thêm vào đó, vụ mùa tháng 5 1945 vừa đến lúc thu hoạch, dân chúng đã bắt đầu có gạo ăn.
Sau khi Mỹ ném hai quả bom nguyên tử xuống hai thành phố Hiroshima và Nagasaki của Nhật vào ngày 6 tháng Tám năm 1945, quân đội Nhật đã biến đi đâu hết, không còn thấy xuất hiên trên đường phố ở Vinh nữa.”
Đến khoảng giữa tháng Tám năm 1945, một sự kiện thứ hai đã xẩy ra trong cuộc đời của anh Dũng:
“Lúc đó vào khoảng 11 giờ sáng, một đoàn người mặc quần xóoc trắng ngồi trên xe đạp nối đuôi nhau, họ đạp từ phía nhà ga hướng về nhà tôi, tôi đếm được 15 người cả thẩy, mỗi người đều cầm một lá cờ đỏ sao vàng. Người dẫn đầu tay trái cầm một cái loa đưa lên miệng hô đi hô lại: “Ba giờ chiều nay, mời đồng bào đi ra sân vận động để dự cuộc mít tinh “.
Chẳng bao lâu, sau ngày 2 tháng 9 năm 1945, ai cũng biết đến một cái tên mới của Việt Nam: Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, do Hồ Chí Minh làm Chủ Tịch nước. Ở mọi nơi, từ công sở cho tới trường học, ngoài chợ và trong cả nhà dân nữa, đâu đâu cũng thấy treo hình ông này.

Chuyện gì phải đến, đã đến: Việt Minh thanh toán những đảng phái quốc gia đã từng cùng nhau cộng tác chống lại sự đô hộ của người Pháp. Đầu tiên là những đảng viên của Việt Nam Quốc Dân Đảng:
“Một hôm, một số Việt Minh vác loa đi khắp tỉnh, rao lên rằng:
Xin mờ đồng bào, mười giờ sáng mai, hãy tập trung tại cửa Tả để nghe xử án.”
Ngày hôm sau, anh Ninh (Trần Xuân Ninh) và tôi ra chỗ đã dặn để xem xử án. Lúc đó, anh Ninh được 9 tuổi và tôi 6 tuổi. chúng tôi đến sớm, nhưng đám đông đã đến sớm hơn, đang chờ sẵn bên đường. Phía trước chỗ chúng tôi đứng, có đóng sẵn hai cái cọc, cao chừng hai thước.
Đây rồi, một nhóm người đang tới, tám chín người đang dẫn hai người bị trói giật khuỷu tay ra đằng sau, mỗi người này đều được mặc một bộ quần áo trắng mới tinh.
Xử Án
Một người cầm loa nói to: “Xin đồng bào chú ý nghe xử án”
Một người khác cầm một tờ giấy đọc một hơi những điều gì đó tôi không hiểu, người này đọc câu chót: “Phải xử tử hai tên Trần Văn Cống và Tống Gia Liêm này. Chúng là Việt Nam Quốc Dân Đảng.”
Anh ta hất hàm ra hiệu. Mấy người trong bọn xông lại, kéo hai người đó trói vào hai cây cột đã đóng sẵn. Xong, chúng dùng hai miếng vải trắng bịt mắt hai người lại.
Sáu người cầm súng tiến ra phía trước . . .
Người chỉ huy hô to: “Bắn”
Trên bộ quần áo trắng của hai người bị trói, nhiều khoảng máu đỏ tươi lan ra nhanh . . .
Một số người đứng xem vùng bỏ chạy, sô đẩy nhau . . .
Kể từ đó, mối nguy hiểm xẩy ra cho mọi người dân Việt, gia đình anh Dũng cũng không ngoại lệ:
“Bỗng một hôm ba tôi bị Việt Minh bắt. Mợ tôi chẳng biết phải làm thế nào.
Riêng tôi rất lo sợ. Liệu ba tôi có bị bắt mặc một bộ quần áo trắng giống như hai người đã bị bắn không?
Đến ngày thứ tư, Việt Minh cho người đến nói rằng, ba tôi hiện bị giam trong nhà tù Vinh, người nhà mỗi ngày phải đem cơm vào nuôi người tù, ngày hai bữa.
Trưa hôm sau, mợ tôi bế Minh Nguyệt vừa mới sinh, anh Ninh bế Tường Vi, tôi xách một cà mèn cơm đi tới nhà tù.
Đến 12 giờ, một người dẫn ba tôi ra tới bên song cửa sắt. Ba tôi mặc bộ quần áo tù mầu xám, có số. Tôi mừng thầm vì thấy ba tôi không bị mặc bộ quần áo mầu trắng. Mợ tôi khóc, nước mắt ràn rụa. Ba tôi mếu máo, thò tay qua những song sắt xoa đầu chúng tôi. Ba mợ tôi nói chuyện với nhau được khoảng năm bẩy phút, người kia lại đến. Tôi đưa ca men cơm vào tay ba, người kia lôi ba tôi đi về phía trái, ba tôi cứ quay đầu lại, chúng tôi cố nhìn theo.”
Vận hạn đen đủi cứ theo đuổi gia đình họ Trần mãi, mợ anh đã phải bán hết tất cả đồ đạc trong nhà để lo cho ba anh được ra tù, tìm đường trốn về quê nội ở Hà Nam, người mẹ dẫn đàn con đi theo sau.
Đói khổ, bệnh hoạn, mợ của anh dẫn đàn con về tới quê nội thì kiệt sức, đứa con gái mới sinh chết vì mẹ không có sữa cho con bú, mẹ chết vì kiệt sức. 
Không còn cách nào sống, người cha phải liều chết đưa ba đứa con chạy giữa hai lằn đạn của Pháp và Việt minh, may mắn về tới Hà Nội.

Tiếp theo kỳ tới.
NGUYỄN KHẮP NƠI.



From: anapl303@ozemail.com.au <anapl303@ozemail.com.au>
Sent: Thursday, 12 April 2018 5:00 PM
To: 'ChinhNghiaViet@yahoogroups.com' <ChinhNghiaViet@yahoogroups.com>; 'DienDanCongLuan@yahoogroups.com' <DienDanCongLuan@yahoogroups.com>; 'hangnguyen@vietbao.com' <hangnguyen@vietbao.com>; 'ThoiChinhChien@Gmail.com' <ThoiChinhChien@Gmail.com>
Subject: Hồi Ký Sông Chẳng Còn Quê của Bác Sĩ Trần Xuân Dũng.

NGƯỜI VIỆT CỦA TÔI
SỐNG CHẲNG CÒN QUÊ.
NGUYỄN KHẮP NƠI.
1. Sống Chẳng Còn Quê
Tuần trước, tôi có dịp hàn huyên với Bác sĩ Trần Xuân Dũng và đã được ông tặng bản in đặc biệt của cuốn Hồi Ký của ông với tựa đề “Sống Chẳng Còn Quê”.
Cuốn tự truyện của Bác sĩ Dũng dầy 685 trang (A5), bìa trước in hình Quê cũ của ông, với căn nhà gỗ phên nứa, có dàn mướp leo trước nhà, bìa sau là hình ảnh “Quê Người” đang độ vào Thu với cây sồi lá đã đổi qua mầu vàng rực rỡ.
Tôi đã đọc nhiều Sách, nhiều Tiểu Thuyết, nhiều Hồi Ký, cuốn nào cũng dầy, cũng có hình ảnh, trung bình là khoảng 400 trang, ít khi có một nhà văn, nhà thơ nào dám viết, dám in một cuốn sách dầy trên 500 trang. Vậy mà Bác sĩ Dũng dám viết, dám in một cuốn Hồi Ký 685 trang (chưa kể hai trang bìa)!
3. Quê Mới
Có người dám viết một cuốn Hồi ký 685 trang thì cũng có người dám đọc hết 685 trang hồi ký đó.
Tôi đọc liên tiếp năm đêm, đọc từng trang sách, xem từng tấm hình do gia đình cung cấp và do ông tự chụp. Tôi đọc say mê, đọc không sót một chữ, xem không thiếu một tấm hình nào cả, đọc nguyên cuốn trong suốt năm đêm liên tục.
Cuốn Hồi Ký này có gì đặc biệt mà tôi phải thức năm đêm liền để đọc, mà lại đọc say mê?
Bác Sĩ Dũng
Đó là vì cuốn Hồi Ký đã kể lại cuộc đời của ông từ khi ông mới sinh ra đời (1939) cho tới khi định cư ở Úc Đại Lợi từ năm 1978 cho tới nay, 2018.
Lịch sử Việt Nam cận đại với những biến chuyển quan trọng, từ lúc giao thời của Hoàng Đế Bảo Đại (1930), của Chính Phủ Lâm Thời của Trần Trọng Kim, của Việt Nam Quốc Dân Đảng, của Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội, nạn đói năm Ất Dậu, cho tới cuộc di cư vào Nam của hơn một triện người Việt nam, tới cuộc chiến tranh xâm lược của Việt Cộng và cuộc di cư lần thứ hai của người dân Việt 1975. . . tất cả đều gói ghém trong cuốn hồi ký này.
Do đó, tôi có thể nói, cuốn Hồi Ký của Bác sĩ Trần Xuân Dũng là một cuốn Lịch Sử Việt Nam Rút Gọn vậy.
Đó là lý do tôi đã đọc hết cuốn Hồi Ký, đọc từng trang, đọc say mê và giới thiệu với quý vị để cùng đọc cho vui, cho biết những biến chuyển lịch sử của nước nhà.
Ngoài cái việc làm Bác sĩ ra, Trần Xuân Dũng còn có gì đặc biệt hay không?
Nhiều lắm bạn ạ!
Điều đầu tiên mà tôi phục là, sau khi tốt nghiệp Y Khoa tại Sài Gòn năm 1965, được trưng tập làm Y Sĩ Tiền Tuyến (dân y trưng tập vào Lính), ông đã dám . . . Đăng Lính Thủy Quân Lục Chiến, làm Y Sĩ Trưởng cho Tiểu Đoàn 4, đóng tại Vũng Tầu.
Trận ra quân mở hàng của ông vào năm 1966 là ở ngay phía Tây của thành phố Sài Gòn, nhưng không phải là ở văn phòng, ở Quân Y Việt đâu, mà là ở ngay tuyến đầu Bà Hom của Tiểu Đoàn 4. Lính Thủy Quân Lục Chiến được trực thăng vận đổ quân xuống xã Vĩnh Lộc, hành quân tìm và diệt địch. Người Lính đánh tới đâu, bị thương ở chỗ nào, bất kể đó là nơi tuyến đầu hay lúc xung phong, là Y Sĩ Dũng và toán quân y của ông có mặt nơi đó để lo cho anh em được an toàn, để giữ lại mạng sống cho người Lính Thủy Quân Lục Chiến.
Rời chiến trường Vĩnh Lộc, tiểu Đoàn lại được trực thăng thẩy vào ngay giữa trận địa vùng Kinh Sáng và Kinh Ba Tà để tăng viện cho một tiểu đoàn Biệt Động Quân đang chạm địch từ tối hôm qua. Khi được lệnh đi tìm và cứu những thương binh Mũ Nâu, ông và toán quân y đi hết cánh đồng này tới cánh đồng khác, chỉ thấy xác chết của Lính Mũ Nâu chứ không có một thương binh nào cả. Y sĩ Dũng đã ôm máy truyền tin thảng thốt báo cáo:
“Trận chiến không có thương binh!”
Đúng vậy!
Nhưng có nghỉa là gì?
Nghỉa là, trước khi rút lui, bọn Việt Cộng đã dã man tàn sát tất cả những chiến binh Biệt Động Quân, dù là còn sống hay đã bị thương.
Có một Hạ Sĩ Biệt Động Quân chết gục trên khẩu Đại Liên M60, Y sĩ Dũng lật ngửa xác người Lính lên để xem còn cách nào cứu anh ta hay không: Trên cổ người Lính có mang sợi giây chuyền đeo chiếc thánh giá, bọn Việt cộng đã giết anh ta bằng cách bắn từng viên đạn lên ngực anh ta, bắn chéo thành hình Chữ Thập của cây thánh giá. Người Hạ sĩ đã bị bắn khoảng hàng chục viên đạn vào ngực và một phát vào đầu. Bị bắn kiểu này không phải là bị bắn trong lúc giao tranh, mà là bị hành hình! Chắc rằng, trong khi giao tranh, bọn Việt Cộng đã bị khẩu Đại Liên này giết nhiều lắm, cho nên khi anh đã bị trúng đạn ở đầu rồi, chúng đã nhào lên bắn thêm cả chục viên đạn vào xác người Lính Biệt Động để trả thù. Những xác chết khác, đều bị rất nhiều vết đạn ở trên người, chứng tỏ rằng, khi họ chỉ bị thương, còn sống, còn có thể chữa trị, nhưng bọn ác ôn côn đồ Việt cộng trước khi rút lui, đã tàn nhẫn bắn hàng loạt đạn vào thân hình những thương binh Biệt Động Quân để hủy diệt mạng sống của họ.
Rời Tiểu đoàn 4, ông được đổi về Tiểu đoàn 6, rồi Tiểu đoàn 3 và đến đầu năm 1968, ôngđược thăng cấp Y Sĩ Trưởng của Chiến Đoàn B Thủy Quân Lục Chiến để trở lại giải cứu Sài Gòn đang bị bọn Việt cộng tấn công vào dịp Tết Mậu Thân. Đúng ngày Mùng Một Tết (30/01/1968), chiến đoàn đổ quân xuống ngay Bộ Tổng Tham Mưu để từ đó hành quân diệt Cộng tại Trường Tổng Quản Trị, Sinh Ngữ Quân Đội, Chùa Ấn Quang, đường Nguyễn Duy Dương và Bà Hạt. Chính tại nơi này, Tiểu Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến đã bắt được tên phiến loạn Bẩy Lém (Lốp). Tên này được coi là phiến loạn vì y không mặc quân phục của Cộng Sản Bắc Việt hoặc của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, mà đã dùng vũ khí bắt chết rất nhiều sĩ quan trong Trại Gia Binh, và nhất là y đã giết hại cả gia đình của Trung Tá Nguyễn Tuấn gồm hai vợ chồng và 6 đứa con nhỏ. Chính vì lý do này mà khi Thiếu tá Ngô Văn Định (Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 2 TQLC) giao hắn lại cho Tướng Nguyễn Ngọc Loan, Tướng Loan đã xử bắn y ngay tại chỗ.
5. Bẩy Lớp
Thiếu Tá Ngô Văn Định (cầm súng Colt) đang dẫn tên Bẩy Lốp tới gặp Tướng Loan.
Một hôm, Chiến đoàn họp hành quân, Y Sĩ Trưởng của Chiến đoàn cũng được tham dự. Khi được biết pháo binh của TQLC sẽ bắn vào khu Đồng Ông Cộ trước khi các tiểu đoàn hành quân diệt đich, Y sĩ Dũng đã hốt hoảng ra mặt, vì đó là nơi cư ngụ của gia đình ông, ba mẹ và các anh em cháu của ông, làm sao bây giờ? Sau phiên họp, ông đã xin gặp riêng vị sĩ quan pháo bịnh, nói cho ông hay cớ sự và xin rằng:
“Anh rót cho khéo nhé, lỡ lầm vào nhà tôi,
Nhà tôi ở giữa vùng Đồng Ông Cộ,
Có dàn mướp đắng, có những người tôi thương . . .”
(Hồi đó, nhạc sĩ Anh Bằng chưa sáng tác bài Dàn Hoa Thiên Lý).
Quả thật, đạn pháo binh đã né nhà ông, cả nhà được yên lành.
Sau trận Mậu Thân, Y sĩ Trần Xuân Dũng được ân thưởng Anh Dũng Bội Tinh với Ngôi Sao Bạc.
Điều thứ Hai mà tôi phục là . . .Bác sĩ Dũng làm bác sĩ theo đúng lời thề của sư tổ Nghành Y Khoa (The Hippocratic Oath), chỉ chữa bệnh cho người có bệnh và giúp người chứ không cần kiếm nhiều tiền. Thì giờ còn lại, ông dùng để viết Sử Sách cho đời sau.
Ông nói với tôi một câu đáng nể:
“Người ta thường khoe với nhau: “Tôi có bốn năm căn nhà . . . tôi lái chiếc xe Mercedes ba bốn trăm ngàn . . . Đối với tôi thì lại khác, tôi chỉ có một căn nhà cho mẹ con chúng nó ở thôi, chạy xe thì tôi chạy chiếc Jeep (Vì đây là chiếc xe đầu tiên tôi được lái ở trận tiền, sau này mua xe, cũng chỉ xe Jeep mà thôi). Nhưng tôi đã viết được hai cuốn sách lưu lại cho hậu thế:
Chiến Sử Thủy Quân Lục Chiến và
Lịch Sử Quân Y Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Để cho hậu thế biết rằng, ngày xưa, có một quốc gia tên là Việt Nam Cộng Hòa Tự Do Dân Chủ, được bảo vệ bởi một quân đội tên là Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Một trong những binh chủng xuất xắc của Quân Lực này là Thủy Quân Lục Chiến, họ được săn sóc bới những Y sĩ xuất xắc của Quân Y Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.”
 
Hồi 1981 mới qua Úc, tôi xin làm thợ sơn xe cho hãng xe Nissan. Tôi cần việc làm nên nhận đại là mình biết sơn chứ đã có bao giờ tôi cầm tới cái chổi sơn đâu, nói chi sơn bằng máy. Vì chằng có nghề, nên cái máy sơn quần tôi thê thảm, mệt quá tôi nghỉ đại một vào ngày, tới bác sĩ Dũng xin cái giấy chứng nhận nghỉ bệnh.
Sở dĩ tôi tới ổng là vì, nghe nói ổng hồi xưa cũng là Lính, tức là . . . phe ta . . . tức là cũng có phần nào . . . Huynh Đệ Chi Binh giúp đỡ nhau. Đang ngồi chờ, gặp một thằng bạn đi ra, mặt mày buồn xo, nói với tôi:
“Tao nghỉ đi chơi hai bữa nay, tới xin ổng cái giấy chứng nhận có cảm cúm chút xíu để nộp cho hãng, ổng không những không cho mà còn lên lớp tao:
“Còn mạnh khỏe thì . . . cứ đi làm mà kiếm tiền, có bệnh thật thì tôi chứng, chứ đang khỏe mạnh như thế này, làm sao mà tôi ký giấy bệnh cho anh được.”
Tôi chia buồn với người bạn nhưng trong lòng cũng nổi lên ý kiến: Ông bác sĩ này cũng . . . ngon, có bịnh mới khám, không có bịnh thì đi chỗ khác chơi.
Tới phiên tôi, tôi khai đau tay quá, không dở lên nổi, bác sĩ Dũng nắm bắp tay tôi bóp nhẹ, tôi la làng vì đau, tức là có bịnh thiệt. Ông lấy cây đèn có ánh sáng mầu đỏ chiếu vào bắp thịt tay của tôi một hồi rồi cho thuốc giảm đau, rồi chứng nhận cho tôi cần nghỉ hai ngày. Trong khi viết toa, ông hỏi tôi hồi xưa ở Việt Nam làm gì? Tôi nói hồi xưa đăng Lính Biệt Động, ổng nói ổng cũng đăng Lính, Lính Thủy Quân Lục Chiến . . . thế là chúng tôi quen nhau.
Qua vài lần khám bệnh khác, mỗi lần nói vài câu xã giao, tôi mới biết ra là bác sĩ Dũng học cùng lớp, cùng trường Chu Văn An với anh Hiệp của tôi. Khi nhắc tới anh lớn của tôi, bác sĩ Dũng sáng mắt lên nhắc lại chuyện xưa:
“Tôi với anh Hiệp học chung với nhau từ Đệ Thất ở Chu Văn An, năm nào cũng một đứa bàn trên, một đứa bàn dưới cho đến Đệ Nhất. Vào trường Y, hai đứa cũng học chung với nhau, ra trường chọn đơn vị, anh Hiệp về Trung đội Lựa Thương Quảng Đức, tôi về Thủy Quân Lục Chiến.”
Vì anh là huynh trưởng của tôi (đi lính từ năm 1965), nay lại là bạn cùng lớp với anh cả của tôi nữa, nên từ đó, tôi gọi anh là Anh Dũng.
Trở lại cuốn hồi ký của bác sĩ Dũng,
Tiếp theo kỳ tới.
NGUYỄN KHẮP NƠI.
 





Featured Post

BẠN TÔI: ĐẠI ÚY TRẦN QUANG HIỆP

 https://www.facebook.com/groups/160591528349491/permalink/723350692073569/ https://www.youtube.com/watch?v=oqhFQFR2-JM Chuyện Xứ Xã Nghĩa r...

Popular Posts

Popular Posts

My Blog List