SỐNG CHẲNG CÒN QUÊ (Bài Thứ Hai).
NGUYỄN KHẮP NƠI.
Như tôi đã nói ở phần đầu, cuốn Hồi Ký của Bác sĩ Trần Xuân Dũng tạm được gọi
là một cuốn Lịch Sử Việt Nam Cận Đại Rút Gọn, vậy chúng ta hãy cùng nhau . . . đi vào lịch sử mà anh bác sĩ Dũng
đã gom lại trong cuốn hồi ký của ông, khởi hành từ Lạng Sơn, vùng giới tuyến địa đầu Việt Nam và Trung Cộng:
“Tôi sinh năm 1939 tại Làng Lý Nhân, Tỉnh Hà Nam . . . Ba tôi theo Tây Học.
Cuối năm thứ tư bậc trung học, ba tôi thi đậu bằng Diplome, ông nộp đơn xin đi làm công chức sở hỏa xa và được gởi đi làm ở Nhà Ga Đồng
Đăng. Nơi này rất nổi tiếng trong văn chương Việt Nam:
“Đồng Đăng có Phố Kỳ Lừa,
Có Nàng Tô Thị, có Chùa Tam Thanh . . .”
Ga Đồng Đăng
Từ trái qua phải, tòa nhà thứ hai là tòa nhà chính của Ga Đồng Đăng. Nửa
bên phải của tầng trên là nơi chúng tôi cư ngụ (1942).
Đã có lần ba tôi đưa chúng tôi đi thăm Động Tam Thanh (Chùa Tam Thanh ở
trong động Tam Thanh này). Chỉ nhớ rằng hôm đó trời rất nóng, nhưng bước vào
trong động thấy mát rượi.
Giếng Tiên.
Sau đó được đi thăm Giếng Tiên. Miệng giếng ngang với mặt đất, nước mấp mé
gần miệng, ngồi xổm xuống có thể dùng một cái bát hay một cái gầu cũng múc nước
được. Nếu nhiều người cùng dùng thùng liền tay múc nước, thì mực nước sẽ xuống,
nhưng chỉ một hai phút sau nước lại lên cao gần miệng giếng như cữ. Vì thế người
ta mới gọi là Giếng Tiên, không bao giờ cạn nước và không bao giờ tràn ra ngoài,
đầy rồi thì thôi.
Đối với một cậu bé ba tuổi, nhớ được nhiêu đó chuyện là quá hay rồi.
Núi Vọng Phu có Nàng Tô Thị bồng con đứng chờ.
Từ những di tích mà anh Dũng còn nhớ, và theo nhiều trang mạng trên
internet, chúng ta biết thêm rằng, trong quần thể núi đồi vùng Lạng Sơn, có một
ngọn núi tên là Vọng Phu. Trên đỉnh núi này có một khối đá tự nhiên hình một
người phụ nữ bồng con hướng nhìn về phương xa. Từ xưa tượng đá này đã gắn với
truyền thuyết về một người con gái chung thuỷ đứng chờ chồng đi lính. Chờ mãi
không thấy chồng về, nàng và con đã hoá thành đá, từ đó người dân gọi đây là tượng
Nàng Tô Thị.
Ra khỏi Đồng Đăng, còn rất nhiều thứ gợi nhớ nhung, hoài niệm cho chúng ta:
Quỷ Môn Quan, Ải Chi Lăng và cuối cùng là Ải Nam Quan.
Ở Đồng Đăng một thời gian, ba của anh Dũng được đổi về miền đồng bằng, đó
là thị trấn Vinh của tỉnh Nghệ An.
Thành phố Vinh thật là yên tĩnh, đa số người dân đều di chuyển bằng cách đi
bộ, cả tỉnh có hai chiếc xe đạp, xe hơi thì hầu như không có (thỉnh thoảng cũng
có xe nhà binh của Pháp chạy ngang).
Biến cố súng đạn lớn nhất mà lần đầu tiên trong đời bác sĩ Dũng được chứng
kiến xẩy ra vào ngày 9 tháng 3 năm 1945:
“Hôm đó là ngày 9 tháng 3 năm 1945, tôi đang ngồi trong cửa sổ ăn quà
sáng và nhìn ra đường.
Nghe tiếng xôn xao, tôi cũng đưa mắt nhìn ra đường: Mấy người lính Nhật
đang ôm súng ngồi trên chỗ ghế của hành khách, còn những người đang kéo xe lại
là những ông Tây. Cũng có cả một hai bà Đầm bị kéo xe có lính Nhật ngồi trên. Bọn
lính Nhật cười nói huyên thuyên nhưng mắt vẫn theo dõi những người Pháp kéo xe.
Những người Pháp này, mới hôm qua đây, còn là những ông quan cai trị. Nhật
vừa đảo chính Pháp được có vài tiếng đồng hồ trên toàn cõi Việt Nam. Bây giờ
người Nhật đang lên voi, còn Pháp xuống chó.
Từ khi quân Nhật chiếm đóng vùng Đông Nam Á, nhiều người dân Việt tưởng rằng
thời kỳ đô hộ của Pháp đã chấm dứt, chúng ta đã
được độc lập tự do. Sự thật không phải như vậy, dân Việt vẫn phải chịu nhục đô
hộ, nhưng thay vì bị người Pháp da trắng đô hộ, thì nay kẻ đô hộ chúng ta cũng
là dân da vàng với nhau. Thay vì cùng là một mầu da, nhưng sự đô hộ của họ còn
khắt khe và tàn nhẫn hơn nữa. Vì sự tàn bạo đó mà dân Việt đã gọi bọn họ là “Nhật
Lùn”.
Tàn bạo hơn nữa, chúng còn bắt dân ta nhổ hết lúa lên
để trồng đay, vì đay có nhiều chất sợi, bọn chúng cho chở về Nhật dệt thành vải
may quần áo cho binh lính của họ. Nơi nào lúa đã chín thì họ tịch thu hết đem về
Nhật. Ở miền Bắc, do thiên tai, lũ lụt, sâu bệnh . . . gây mất mùa. Đói kém lại thêm vào bệnh tật, bệnh dịch tả lan tràn khắp nơi, người chết không có ai chôn, nên đành đào những
huyệt lớn bỏ hết những thân xác vào trong đó, đổ vôi lên rồi lấp đất chôn. Đó
là nạn đói năm Ất Dậu, trong khoảng thời gian từ tháng 10 năm 1944 đến tháng
5 năm 1945, đã làm gần hai triệu người dân chết
đói.
Nạn đói này chấm dứt vào khoảng tháng 5 năm 1945, anh
Dũng kể tiếp:
“Từ ngày 17 tháng Tư năm 1945, chính phủ Việt Nam đầu tiên được thành lập, do ông Trần Trọng Kim là thủ tướng. Mặc dù phương tiện và nhân lực hạn chế, thủ tướng Kim đã cố gắng cho chuyển gạo từ Nam ra Bắc để cứu đói, những nạn nhân còn sống sót được đưa vào những trung tâm cứu trợ để được săn sóc, thêm vào đó, vụ mùa tháng 5 1945 vừa đến lúc thu hoạch, dân chúng đã bắt đầu có gạo ăn.
“Từ ngày 17 tháng Tư năm 1945, chính phủ Việt Nam đầu tiên được thành lập, do ông Trần Trọng Kim là thủ tướng. Mặc dù phương tiện và nhân lực hạn chế, thủ tướng Kim đã cố gắng cho chuyển gạo từ Nam ra Bắc để cứu đói, những nạn nhân còn sống sót được đưa vào những trung tâm cứu trợ để được săn sóc, thêm vào đó, vụ mùa tháng 5 1945 vừa đến lúc thu hoạch, dân chúng đã bắt đầu có gạo ăn.
Sau khi Mỹ ném hai quả bom nguyên tử xuống hai thành
phố Hiroshima và Nagasaki của Nhật vào ngày 6 tháng Tám năm 1945, quân đội
Nhật đã biến đi đâu hết, không còn thấy xuất hiên trên đường phố ở Vinh nữa.”
Đến khoảng giữa tháng Tám năm 1945, một sự kiện thứ
hai đã xẩy ra trong cuộc đời của anh Dũng:
“Lúc đó vào khoảng 11 giờ sáng, một đoàn người mặc quần
xóoc trắng ngồi trên xe đạp nối đuôi nhau, họ đạp từ phía nhà ga hướng về nhà
tôi, tôi đếm được 15 người cả thẩy, mỗi người đều cầm một lá cờ đỏ sao vàng.
Người dẫn đầu tay trái cầm một cái loa đưa lên miệng hô đi hô lại: “Ba giờ chiều
nay, mời đồng bào đi ra sân vận động để dự cuộc mít tinh “.
Chẳng bao lâu, sau ngày 2 tháng 9 năm 1945, ai cũng biết
đến một cái tên mới của Việt Nam: Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, do Hồ Chí Minh làm
Chủ Tịch nước. Ở mọi nơi, từ công sở cho tới trường học, ngoài chợ và trong cả
nhà dân nữa, đâu đâu cũng thấy treo hình ông này.
Chuyện gì phải đến, đã đến: Việt Minh thanh toán những
đảng phái quốc gia đã từng cùng nhau cộng tác chống lại sự đô hộ của người
Pháp. Đầu tiên là những đảng viên của Việt Nam Quốc Dân Đảng:
“Một hôm, một số Việt Minh vác loa đi khắp tỉnh, rao
lên rằng:
Xin mờ đồng bào, mười giờ sáng mai, hãy tập trung tại cửa Tả để nghe xử án.”
Xin mờ đồng bào, mười giờ sáng mai, hãy tập trung tại cửa Tả để nghe xử án.”
Ngày hôm sau, anh Ninh (Trần Xuân Ninh) và tôi ra chỗ
đã dặn để xem xử án. Lúc đó, anh Ninh được 9 tuổi và tôi 6 tuổi. chúng tôi đến
sớm, nhưng đám đông đã đến sớm hơn, đang chờ sẵn bên đường. Phía trước chỗ
chúng tôi đứng, có đóng sẵn hai cái cọc, cao chừng hai thước.
Đây rồi, một nhóm người đang tới, tám chín người đang
dẫn hai người bị trói giật khuỷu tay ra đằng sau, mỗi người này đều được mặc một
bộ quần áo trắng mới tinh.
Một người cầm loa nói to: “Xin đồng bào chú ý nghe xử
án”
Một người khác cầm một tờ giấy đọc một hơi những điều
gì đó tôi không hiểu, người này đọc câu chót: “Phải xử tử hai tên Trần Văn Cống
và Tống Gia Liêm này. Chúng là Việt Nam Quốc Dân Đảng.”
Anh ta hất hàm ra hiệu. Mấy người trong bọn xông lại,
kéo hai người đó trói vào hai cây cột đã đóng sẵn. Xong, chúng dùng hai miếng vải
trắng bịt mắt hai người lại.
Sáu người cầm súng tiến ra phía trước . . .
Người chỉ huy hô to: “Bắn”
Trên bộ quần áo trắng của hai người bị trói, nhiều khoảng
máu đỏ tươi lan ra nhanh . . .
Một số người đứng xem vùng bỏ chạy, sô đẩy nhau . . .
Kể từ đó, mối nguy hiểm xẩy ra cho mọi người dân Việt,
gia đình anh Dũng cũng không ngoại lệ:
“Bỗng một hôm ba tôi bị Việt Minh bắt. Mợ tôi chẳng biết
phải làm thế nào.
Riêng tôi rất lo sợ. Liệu ba tôi có bị bắt mặc một bộ
quần áo trắng giống như hai người đã bị bắn không?
Đến ngày thứ tư, Việt Minh cho người đến nói rằng, ba
tôi hiện bị giam trong nhà tù Vinh, người nhà mỗi ngày phải đem cơm vào nuôi
người tù, ngày hai bữa.
Trưa hôm sau, mợ tôi bế Minh Nguyệt vừa mới sinh, anh
Ninh bế Tường Vi, tôi xách một cà mèn cơm đi tới nhà tù.
Đến 12 giờ, một người dẫn ba tôi ra tới bên song cửa sắt.
Ba tôi mặc bộ quần áo tù mầu xám, có số. Tôi mừng thầm vì thấy ba tôi không bị
mặc bộ quần áo mầu trắng. Mợ tôi khóc, nước mắt ràn rụa. Ba tôi mếu máo, thò
tay qua những song sắt xoa đầu chúng tôi. Ba mợ tôi nói chuyện với nhau được
khoảng năm bẩy phút, người kia lại đến. Tôi đưa ca men cơm vào tay ba, người
kia lôi ba tôi đi về phía trái, ba tôi cứ quay đầu lại, chúng tôi cố nhìn theo.”
Vận hạn đen đủi cứ theo đuổi gia đình họ Trần mãi, mợ
anh đã phải bán hết tất cả đồ đạc trong nhà để lo cho ba anh được ra tù, tìm đường
trốn về quê nội ở Hà Nam, người mẹ dẫn đàn con đi theo sau.
Đói khổ, bệnh hoạn, mợ của anh dẫn đàn con về tới quê
nội thì kiệt sức, đứa con gái mới sinh chết vì mẹ không có sữa cho con bú, mẹ
chết vì kiệt sức.
Không còn cách nào sống, người cha phải liều chết đưa
ba đứa con chạy giữa hai lằn đạn của Pháp và Việt minh, may mắn về tới Hà Nội.
Tiếp theo kỳ tới.
NGUYỄN KHẮP NƠI.
NGUYỄN KHẮP NƠI.
From: anapl303@ozemail.com.au
<anapl303@ozemail.com.au>
Sent: Thursday, 12 April 2018 5:00 PM
To: 'ChinhNghiaViet@yahoogroups.com' <ChinhNghiaViet@yahoogroups.com>; 'DienDanCongLuan@yahoogroups.com' <DienDanCongLuan@yahoogroups.com>; 'hangnguyen@vietbao.com' <hangnguyen@vietbao.com>; 'ThoiChinhChien@Gmail.com' <ThoiChinhChien@Gmail.com>
Subject: Hồi Ký Sông Chẳng Còn Quê của Bác Sĩ Trần Xuân Dũng.
Sent: Thursday, 12 April 2018 5:00 PM
To: 'ChinhNghiaViet@yahoogroups.com' <ChinhNghiaViet@yahoogroups.com>; 'DienDanCongLuan@yahoogroups.com' <DienDanCongLuan@yahoogroups.com>; 'hangnguyen@vietbao.com' <hangnguyen@vietbao.com>; 'ThoiChinhChien@Gmail.com' <ThoiChinhChien@Gmail.com>
Subject: Hồi Ký Sông Chẳng Còn Quê của Bác Sĩ Trần Xuân Dũng.
NGƯỜI VIỆT CỦA TÔI
SỐNG CHẲNG CÒN QUÊ.
NGUYỄN KHẮP NƠI.
Tuần trước, tôi có dịp hàn huyên với Bác sĩ Trần Xuân
Dũng và đã được ông tặng bản in đặc biệt của cuốn Hồi Ký của ông với tựa đề “Sống
Chẳng Còn Quê”.
Cuốn tự truyện của Bác sĩ Dũng dầy 685 trang (A5), bìa
trước in hình Quê cũ của ông, với căn nhà gỗ phên nứa, có dàn mướp leo trước
nhà, bìa sau là hình ảnh “Quê Người” đang độ vào Thu với cây sồi lá đã đổi qua
mầu vàng rực rỡ.
Tôi đã đọc nhiều Sách, nhiều Tiểu Thuyết, nhiều Hồi
Ký, cuốn nào cũng dầy, cũng có hình ảnh, trung bình là khoảng 400 trang, ít khi
có một nhà văn, nhà thơ nào dám viết, dám in một cuốn sách dầy trên 500 trang.
Vậy mà Bác sĩ Dũng dám viết, dám in một cuốn Hồi Ký 685 trang (chưa kể hai
trang bìa)!
Có người dám viết một cuốn Hồi ký 685 trang thì cũng
có người dám đọc hết 685 trang hồi ký đó.
Tôi đọc liên tiếp năm đêm, đọc từng trang sách, xem từng
tấm hình do gia đình cung cấp và do ông tự chụp. Tôi đọc say mê, đọc không sót
một chữ, xem không thiếu một tấm hình nào cả, đọc nguyên cuốn trong suốt năm
đêm liên tục.
Cuốn Hồi Ký này có gì đặc biệt mà tôi phải thức năm
đêm liền để đọc, mà lại đọc say mê?
Đó là vì cuốn Hồi Ký đã kể lại cuộc đời của ông từ khi
ông mới sinh ra đời (1939) cho tới khi định cư ở Úc Đại Lợi từ năm 1978 cho tới
nay, 2018.
Lịch sử Việt Nam cận đại với những biến chuyển quan trọng,
từ lúc giao thời của Hoàng Đế Bảo Đại (1930), của Chính Phủ Lâm Thời của Trần
Trọng Kim, của Việt Nam Quốc Dân Đảng, của Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội, nạn
đói năm Ất Dậu, cho tới cuộc di cư vào Nam của hơn một triện người Việt nam, tới
cuộc chiến tranh xâm lược của Việt Cộng và cuộc di cư lần thứ hai của người dân
Việt 1975. . . tất cả đều gói ghém trong cuốn hồi ký này.
Do đó, tôi có thể nói, cuốn Hồi Ký của Bác sĩ Trần
Xuân Dũng là một cuốn Lịch Sử Việt Nam Rút Gọn vậy.
Đó là lý do tôi đã đọc hết cuốn Hồi Ký, đọc từng
trang, đọc say mê và giới thiệu với quý vị để cùng đọc cho vui, cho biết những
biến chuyển lịch sử của nước nhà.
Ngoài cái việc làm Bác sĩ ra, Trần Xuân Dũng còn có gì
đặc biệt hay không?
Nhiều lắm bạn ạ!
Điều đầu tiên mà tôi phục là, sau khi tốt nghiệp Y
Khoa tại Sài Gòn năm 1965, được trưng tập làm Y Sĩ Tiền Tuyến (dân y trưng tập
vào Lính), ông đã dám . . . Đăng Lính Thủy Quân Lục Chiến, làm Y Sĩ Trưởng cho
Tiểu Đoàn 4, đóng tại Vũng Tầu.
Trận ra quân mở hàng của ông vào năm 1966 là ở ngay
phía Tây của thành phố Sài Gòn, nhưng không phải là ở văn phòng, ở Quân Y Việt
đâu, mà là ở ngay tuyến đầu Bà Hom của Tiểu Đoàn 4. Lính Thủy Quân Lục Chiến được
trực thăng vận đổ quân xuống xã Vĩnh Lộc, hành quân tìm và diệt địch. Người
Lính đánh tới đâu, bị thương ở chỗ nào, bất kể đó là nơi tuyến đầu hay lúc xung
phong, là Y Sĩ Dũng và toán quân y của ông có mặt nơi đó để lo cho anh em được
an toàn, để giữ lại mạng sống cho người Lính Thủy Quân Lục Chiến.
Rời chiến trường Vĩnh Lộc, tiểu Đoàn lại được trực
thăng thẩy vào ngay giữa trận địa vùng Kinh Sáng và Kinh Ba Tà để tăng viện cho
một tiểu đoàn Biệt Động Quân đang chạm địch từ tối hôm qua. Khi được lệnh đi
tìm và cứu những thương binh Mũ Nâu, ông và toán quân y đi hết cánh đồng này tới
cánh đồng khác, chỉ thấy xác chết của Lính Mũ Nâu chứ không có một thương binh
nào cả. Y sĩ Dũng đã ôm máy truyền tin thảng thốt báo cáo:
“Trận chiến không có thương binh!”
Đúng vậy!
Nhưng có nghỉa là gì?
Nghỉa là, trước khi rút lui, bọn Việt Cộng đã dã man
tàn sát tất cả những chiến binh Biệt Động Quân, dù là còn sống hay đã bị
thương.
Có một Hạ Sĩ Biệt Động Quân chết gục trên khẩu Đại
Liên M60, Y sĩ Dũng lật ngửa xác người Lính lên để xem còn cách nào cứu anh ta
hay không: Trên cổ người Lính có mang sợi giây chuyền đeo chiếc thánh giá, bọn
Việt cộng đã giết anh ta bằng cách bắn từng viên đạn lên ngực anh ta, bắn chéo
thành hình Chữ Thập của cây thánh giá. Người Hạ sĩ đã bị bắn khoảng hàng chục
viên đạn vào ngực và một phát vào đầu. Bị bắn kiểu này không phải là bị bắn
trong lúc giao tranh, mà là bị hành hình! Chắc rằng, trong khi giao tranh, bọn
Việt Cộng đã bị khẩu Đại Liên này giết nhiều lắm, cho nên khi anh đã bị trúng đạn
ở đầu rồi, chúng đã nhào lên bắn thêm cả chục viên đạn vào xác người Lính Biệt
Động để trả thù. Những xác chết khác, đều bị rất nhiều vết đạn ở trên người, chứng
tỏ rằng, khi họ chỉ bị thương, còn sống, còn có thể chữa trị, nhưng bọn ác ôn
côn đồ Việt cộng trước khi rút lui, đã tàn nhẫn bắn hàng loạt đạn vào thân hình
những thương binh Biệt Động Quân để hủy diệt mạng sống của họ.
Rời Tiểu đoàn 4, ông được đổi về Tiểu đoàn 6, rồi Tiểu
đoàn 3 và đến đầu năm 1968, ôngđược thăng cấp Y Sĩ Trưởng của Chiến Đoàn B Thủy
Quân Lục Chiến để trở lại giải cứu Sài Gòn đang bị bọn Việt cộng tấn công vào dịp
Tết Mậu Thân. Đúng ngày Mùng Một Tết (30/01/1968), chiến đoàn đổ quân xuống ngay
Bộ Tổng Tham Mưu để từ đó hành quân diệt Cộng tại Trường Tổng Quản Trị, Sinh Ngữ
Quân Đội, Chùa Ấn Quang, đường Nguyễn Duy Dương và Bà Hạt. Chính tại nơi này,
Tiểu Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến đã bắt được tên phiến loạn Bẩy Lém (Lốp). Tên
này được coi là phiến loạn vì y không mặc quân phục của Cộng Sản Bắc Việt hoặc
của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, mà đã dùng vũ khí bắt chết rất nhiều sĩ quan
trong Trại Gia Binh, và nhất là y đã giết hại cả gia đình của Trung Tá Nguyễn
Tuấn gồm hai vợ chồng và 6 đứa con nhỏ. Chính vì lý do này mà khi Thiếu tá Ngô
Văn Định (Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 2 TQLC) giao hắn lại cho Tướng Nguyễn Ngọc
Loan, Tướng Loan đã xử bắn y ngay tại chỗ.
Thiếu Tá Ngô Văn Định (cầm súng Colt) đang dẫn tên Bẩy
Lốp tới gặp Tướng Loan.
Một hôm, Chiến đoàn họp hành quân, Y Sĩ Trưởng của Chiến
đoàn cũng được tham dự. Khi được biết pháo binh của TQLC sẽ bắn vào khu Đồng
Ông Cộ trước khi các tiểu đoàn hành quân diệt đich, Y sĩ Dũng đã hốt hoảng ra mặt,
vì đó là nơi cư ngụ của gia đình ông, ba mẹ và các anh em cháu của ông, làm sao
bây giờ? Sau phiên họp, ông đã xin gặp riêng vị sĩ quan pháo bịnh, nói cho ông
hay cớ sự và xin rằng:
“Anh rót cho khéo nhé, lỡ lầm vào nhà tôi,
Nhà tôi ở giữa vùng Đồng Ông Cộ,
Có dàn mướp đắng, có những người tôi thương . . .”
(Hồi đó, nhạc sĩ Anh Bằng chưa sáng tác bài Dàn Hoa
Thiên Lý).
Quả thật, đạn pháo binh đã né nhà ông, cả nhà được yên
lành.
Sau trận Mậu Thân, Y sĩ Trần Xuân Dũng được ân thưởng
Anh Dũng Bội Tinh với Ngôi Sao Bạc.
Điều thứ Hai mà tôi phục là . . .Bác sĩ Dũng làm bác
sĩ theo đúng lời thề của sư tổ Nghành Y Khoa (The Hippocratic Oath), chỉ chữa bệnh cho người có bệnh và giúp người chứ
không cần kiếm nhiều tiền. Thì giờ còn lại, ông dùng để viết Sử Sách cho đời
sau.
Ông nói với tôi một câu đáng nể:
“Người ta thường khoe với nhau: “Tôi có bốn năm căn nhà . . . tôi lái chiếc xe Mercedes ba bốn trăm ngàn . . . Đối với tôi thì lại khác, tôi chỉ có một căn nhà cho mẹ con chúng nó ở thôi, chạy xe thì tôi chạy chiếc Jeep (Vì đây là chiếc xe đầu tiên tôi được lái ở trận tiền, sau này mua xe, cũng chỉ xe Jeep mà thôi). Nhưng tôi đã viết được hai cuốn sách lưu lại cho hậu thế:
“Người ta thường khoe với nhau: “Tôi có bốn năm căn nhà . . . tôi lái chiếc xe Mercedes ba bốn trăm ngàn . . . Đối với tôi thì lại khác, tôi chỉ có một căn nhà cho mẹ con chúng nó ở thôi, chạy xe thì tôi chạy chiếc Jeep (Vì đây là chiếc xe đầu tiên tôi được lái ở trận tiền, sau này mua xe, cũng chỉ xe Jeep mà thôi). Nhưng tôi đã viết được hai cuốn sách lưu lại cho hậu thế:
Chiến Sử Thủy Quân Lục Chiến và
Lịch Sử Quân Y Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Để cho hậu thế biết rằng, ngày xưa, có một quốc gia
tên là Việt Nam Cộng Hòa Tự Do Dân Chủ, được bảo vệ bởi một quân đội tên là
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Một trong những binh chủng xuất xắc của Quân Lực
này là Thủy Quân Lục Chiến, họ được săn sóc bới những Y sĩ xuất xắc của Quân Y
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.”
Hồi 1981 mới qua Úc, tôi xin làm thợ sơn xe cho hãng
xe Nissan. Tôi cần việc làm nên nhận đại là mình biết sơn chứ đã có bao giờ tôi
cầm tới cái chổi sơn đâu, nói chi sơn bằng máy. Vì chằng có nghề, nên cái máy
sơn quần tôi thê thảm, mệt quá tôi nghỉ đại một vào ngày, tới bác sĩ Dũng xin
cái giấy chứng nhận nghỉ bệnh.
Sở dĩ tôi tới ổng là vì, nghe nói ổng hồi xưa cũng là
Lính, tức là . . . phe ta . . . tức là cũng có phần nào . . . Huynh Đệ Chi Binh
giúp đỡ nhau. Đang ngồi chờ, gặp một thằng bạn đi ra, mặt mày buồn xo, nói với
tôi:
“Tao nghỉ đi chơi hai bữa nay, tới xin ổng cái giấy chứng
nhận có cảm cúm chút xíu để nộp cho hãng, ổng không những không cho mà còn lên
lớp tao:
“Còn mạnh khỏe thì . . . cứ đi làm mà kiếm tiền, có bệnh
thật thì tôi chứng, chứ đang khỏe mạnh như thế này, làm sao mà tôi ký giấy bệnh
cho anh được.”
Tôi chia buồn với người bạn nhưng trong lòng cũng nổi
lên ý kiến: Ông bác sĩ này cũng . . . ngon, có bịnh mới khám, không có bịnh thì
đi chỗ khác chơi.
Tới phiên tôi, tôi khai đau tay quá, không dở lên nổi,
bác sĩ Dũng nắm bắp tay tôi bóp nhẹ, tôi la làng vì đau, tức là có bịnh thiệt.
Ông lấy cây đèn có ánh sáng mầu đỏ chiếu vào bắp thịt tay của tôi một hồi rồi
cho thuốc giảm đau, rồi chứng nhận cho tôi cần nghỉ hai ngày. Trong khi viết
toa, ông hỏi tôi hồi xưa ở Việt Nam làm gì? Tôi nói hồi xưa đăng Lính Biệt Động,
ổng nói ổng cũng đăng Lính, Lính Thủy Quân Lục Chiến . . . thế là chúng tôi
quen nhau.
Qua vài lần khám bệnh khác, mỗi lần nói vài câu xã
giao, tôi mới biết ra là bác sĩ Dũng học cùng lớp, cùng trường Chu Văn An với
anh Hiệp của tôi. Khi nhắc tới anh lớn của tôi, bác sĩ Dũng sáng mắt lên nhắc lại
chuyện xưa:
“Tôi với anh Hiệp học chung với nhau từ Đệ Thất ở Chu
Văn An, năm nào cũng một đứa bàn trên, một đứa bàn dưới cho đến Đệ Nhất. Vào
trường Y, hai đứa cũng học chung với nhau, ra trường chọn đơn vị, anh Hiệp về
Trung đội Lựa Thương Quảng Đức, tôi về Thủy Quân Lục Chiến.”
Vì anh là huynh trưởng của tôi (đi lính từ năm 1965),
nay lại là bạn cùng lớp với anh cả của tôi nữa, nên từ đó, tôi gọi anh là Anh
Dũng.
Trở lại cuốn hồi ký của bác sĩ Dũng,
Tiếp theo kỳ tới.
NGUYỄN KHẮP NƠI.
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết