Nghĩ về 30/4
TS.Mai Thanh TruyếtMài gươm mãi đến bao giờ nhỉ
Bao giờ chém chết nỗi
đau thương
Nỗi đau vẫn đó ngày Quốc
Hận
30 tháng 4 sông núi ngẩn
ngơ!
Thơ Huỳnh Công Ánh
Không biết tự lúc nào
sau ngày 30 tháng tư năm 1975, mỗi năm vào dịp nầy lòng tôi dường như chùng
xuống. Trước khi về hưu vào năm 2012, công việc hàng ngày vẫn chu toàn 8 giờ để
trả nợ áo cơm, một vài giờ cho dịch vụ tư vấn về môi trường của tôi, cũng như
thì giờ cho các buổi phỏng vấn hay ngồi suy tư và viết bài hoặc đi đó đi
đây…tôi đã cảm nhận được một nỗi niềm u uẩn nào đó trong tôi. Nhưng bây giờ,
mặc dù đã giã từ nợ cơm áo, nhưng niềm u uẩn trên vẫn tiếp tục còn trong tôi
ngày càng…dai dẳng hơn thêm, càng cô đọng hơn nữa đến nỗi nhiều khi tôi chỉ
muốn nói… một mình!
1. Tại sao lại có hiện
tượng như vậy trong tôi?
Có lẽ, vì tuổi đời ngày
càng cao, và niềm hy vọng về một ngày mùa xuân nở hoa trên quê hương còn xa vời
vợi…cho nên nỗi buồn của tôi càng thêm ray rứt và điểm thêm đôi nét tuyệt vọng
trong tâm tư?
Mà cũng có lẽ, theo lời
của một người bạn xưa, Ngộ Không nhận xét về tôi trong bài “Thằng… chào cờ” là:
"Thêm một lần với biệt hữu thiên địa phi nhân gian, và ông hiểu là gã làm
như đang sửa soạn cho một chuyến đi xa… Lại thêm một lần sau ánh mắt xa vắng
như vắt ngang dòng sông Bến Hải đang lặng lờ với nước chẩy đôi dòng. Dòng sông
vẫn tiếp tục trôi đi, ở giữa dòng có một giải phân cách ý thức hệ tích tụ đã
bao năm. Cùng một cảm hoài, ông cảm thấy thanh thản ở cái tuổi cổ lai hy nên
hiểu được cuộc đời là dòng sông đã gần đến cửa biển. Mà biển là tàng thức chứa
chấp mọi nhân sinh. Thời gian trên những dòng sông chính là những mảnh đời. Qua
ánh mắt thằng Nam Kỳ quốc dường như đã mệt mỏi. Ông nhìn thấy ánh mắt ấy vắt
qua một khoảng không gian nào đó mà gã đã từng hoài bão, kể cả những hoài vọng
thầm kín như giấc mơ của một đời người với … mơ gì ấp Tiết thiêu văn tự, giầy
cỏ, gươm cùn ta đi đây. (Nguyễn Bính)”.
- Bỏ qua những ngày
tháng nghiệt ngã còn lại ở Việt Nam trước khi vượt biên sau 30/4/1975, phải
thành thật mà nói, lúc đó tôi không có thì giờ để “buồn” như hôm nay, vì miếng
cơm manh áo và mãi lo “tìm đường ra đi” (cứu nước?) cho một gánh nặng với 4 đứa
con dại…
- Bỏ qua những năm đầu
tiên sống đời tị nạn, tôi cũng chưa thực sự quan tâm gì mấy cũng như không có
thì giờ để buồn…như nỗi buồn hôm nay vì một đời sống tạm dung nơi xứ người.
Nhưng chỉ trong vòng 30
năm trở lại đây, khi gia đình tương đối ổn định và sau khi bắt đầu bước vào con
đường tranh đấu cho Việt Nam qua ngã môi trường, tôi mới thực sự cảm thấy buồn.
Và mỗi năm nỗi buồn đó càng se sắc hơn, ngậm ngùi hơn, vì nghiệm thấy con đường
mình đang đi vẫn còn quá xa…mà ước mơ một ngày Việt Nam ơi! Quê hương réo gọi -
Những người con Việt hẹn nhau về - Chung vai vá lại dư đồ rách - Cùng nhau xây
đắp mảnh Tình Quê …vẫn còn quá xa…
2. Buồn để mà buồn một
mình!
Không thể nào nói tôi
buồn không hiểu vì sao tôi buồn được. Mà tôi hiểu và hiểu rất rõ nỗi buồn thực
sự của tôi vì hai lý do:
- Đất Nước còn điêu
linh,
- Và Bà con mình vẫn còn
chìm đắm trong nỗi nhục nhằn làm công dân hạng hai cho một chế độ phản dân tộc
chưa từng thấy trong lịch sử Việt Nam.
Nhìn lại những ngày bắt
đầu từ giữa tháng tư năm 75, có thể nói cả thành phố Sài Gòn đang lên cơn sốt.
Nào là chạy đôn chạy đáo thăm dò tình hình… mặc dù biết rằng miền Nam đang
trong cơn hấp hối, nhưng cũng mong tìm và hy vọng một phép lạ. Nào là, đối với
những người có chút tiền, lo chạy đi đổi đô la, làm…áp phe, hay do là tin tức
tìm đường ra đi. Tin tức đồn đãi nhiều khi trái ngược nhau, tin vui lẫn với tin
buồn.
Nhưng nỗi buồn của tôi
thực sự buồn khi rời trụ sở USAID ở đường Lê Văn Duyệt sau khi làm “thủ tục”…ra
đi. Cầm tấm thẻ vô tri có hình của một “ông giáo trẻ” đầy nhiệt huyết, mà khi
về lại Việt Nam năm 1973, nguyện sẽ làm một cái gì cho thanh niên Việt Nam. Tôi
không thiết ăn cơm chiều hôm đó. Nếu tôi nhớ không lầm, đó là ngày thứ tư
09/4/1975.
Tới thứ hai tuần sau đó,
vào khoảng tuần lễ thứ hai của tháng tư, lên Đại học Cao Đài Tây Ninh, tôi gặp
mấy anh chàng “CIA” trẻ đóng trên đài phát tuyến ở đỉnh Núi Bà vừa xuống chợ
Tây Ninh, cho tôi biết rằng ngày mai, họ sẽ rút về Mỹ và khuyên tôi nên rời bỏ
quê hương qua một giọng Bắc rất rành rọt. Suốt các buổi lên lớp sau đó, tôi nói
như người mất hồn, một tâm trạng mà chính giờ phút viết lên dòng chữ nầy, tôi
lại thêm một lần “phiêu diêu” nữa.
3. Đi? hay Ở?
Hai chữ nầy ám ảnh mãi
nơi tôi trong suốt thời gian còn lại cho đến ngày 30/4 năm đó.
Hình ảnh Ba tôi lẩn quẩn
trong đầu. Hình ảnh một ông giáo già đã về hưu từ lâu, căm cụi viết thư cho con
mình đi du học mỗi buổi sáng thứ năm trong tuần, để rồi, sang sáng thứ bảy đem
thư ra Bưu diện gửi đi cho kịp chuyến máy bay Air France bay về Pháp, để con
mình nhận được thư đúng ngày thứ hai. Việc nầy xảy ra đúng như in, không hề sai
sót suốt hơn hai năm trời sau khi tôi du học bên Pháp cho đến khi Ba tôi mất.
Ba tôi mất ngày chủ nhật và thứ hai sau đó tôi vẫn nhận được thư ba viết trước
khi nhận được điện tín của anh tôi.
Còn Má tôi. Một người mẹ
già gặp lại và sống với con chưa đầy hai năm…sau khi tôi về nước. Mà cũng chính
trong thời gian nầy, tôi luôn bận bịu với những “đam mê” cho cuộc sống, mải mê
chuẩn bị cho con đường “công danh” của mình… thì làm sao tôi có thì giờ chăm
sóc hay hỏi han đến mẹ già. Và mỗi khi nhìn lại mình, chính tôi cũng phải tự
thú rằng mình cũng không có thì giờ để nghĩ đến mẹ mình nữa trong thời gian
nầy. Tôi thật có lỗi với má tôi nhiều và nỗi ân hận vẫn còn ray rứt mãi trong
tôi. Và giờ đây, khi viết những dòng chữ nầy, tôi chỉ còn biết mỗi đêm nhìn ảnh
mẹ để sám hối.
Trở lại thời gian giữa
tháng 4 năm xưa. Tâm trí tôi luôn bị ray rứt với tâm trang nửa Ở nửa Đi.
- Đi không đành cũng vì
mẹ già đơn côi.
- Đi không đành cũng vì
bầu nhiệt huyết của tuổi trẻ níu kéo lại để làm một “cái gì” cho quê hương.
- Và đi cũng không đành
vì một suy nghĩ non dại (mà chắc cũng có nhiều người suy nghĩ như tôi), đó là
“Mình có thể đối thoại với người cộng sản, vì trước khi họ là cộng sản, họ cũng
là người Việt Nam với đầy đủ dân tộc tính; vì vậy mình có thể hợp tác được”.
Một khi đã biết sai lầm
thì đã muộn, tôi phải trả cái giá gần 8 năm trong nhà tù lớn Việt Nam dưới chế
độ nầy. Biết là sai lầm trong giai đoạn đó, nhưng tôi không bao giờ hối hận vì
quyết định trên. Vì sao? Vì chính cái sai lầm oan nghiệt nầy đã làm cho tôi
hiểu được người cộng sản Bắc Kỳ như thế nào…và chính điều sau này làm cho tôi
dứt khoát hơn là chúng ta, những người con Việt hiền hòa không thể nào sống
chung với những người luôn mang não trạng chuyên chính vô sản và không có tình
người.
Cái sai lầm nầy cũng giống
như cái sai lầm của người thầy giáo Tạ Ký dạy Văn chương của mái trường thân
yêu của người miền Nam; đó là Trường Petrus Trương Vĩnh Ký, mà thời tôi đi học
có tên là Lycée Petrus Trương Vĩnh Ký – LPK. Anh Ký khi đi “tù” về cùng ngồi
uống rượu với Gs Tôn Thất Trung Nghĩa bên Trường Luật và tôi tại Chợ Đuổi nằm
tại góc đường Lê Văn Duyệt và Trần Quý Cáp năm 1981 như sau:“Hai mươi năm mới
biết chuyện xưa lầm. Thì tuổi trẻ đã biến thành uất hận!”
Chiều thứ hai 28/4, khi
một tên phi công (tôi không muốn nhắc tới tên nầy lên đây, vì làm sao tôi quên
được tên những kẻ phản bội quê hương) dội bom dinh Độc Lập, và từ đó lịnh giới
nghiêm 24/24 được ban hành. Tôi liền chạy lên nhà một người bạn vong niên trên
cư xá giáo chức ở đường Tự Đức. Đó là GS Nguyễn Văn Trường, vừa qua đời ngày
3/1/2018 tại Houston.
Ngay từ những ngày đầu
còn chập chững bước vào ngưỡng của trường ĐH Sư Phạm Sài Gòn với tâm thức đầy
tự tin, Anh đã từng khuyên tôi:”Cuộc sống vốn bất toàn. Vì thế mà con người cầu
toàn. Vì cầu, và muốn cho bằng được, cho nên mới có thất vọng. Cuộc sống vốn vô
thường, không ngừng biến đổi. Nhưng ta lại muốn ngưng giòng đời, gói nó trong
những ước vọng của ta, cho nên mới có khổ đau. Vọng tâm là duyên tạo thành, và
biến đổi tùy duyên, ta lại đồng nhất mình với nó, cho nó là chân lý, căn cứ vào
nó để phê phán thiệt hơn, đúng sai, phải trái. Thế thì làm sao ta không nhìn
sai lệch, không sống trong giả tưởng của vọng. Cho nên, nhà Phật dạy vô trụ.
Đừng trụ vào bất cứ một niệm nào, Đừng trụ vào Phật Tánh, Chân Tâm, Thiên Đàng,
Địa Ngục. Đừng trụ ngay cả vào cái ý niệm vô trụ”.
4. Tôi đã chứng kiến
được gì và đã học được gì?
Xin ghi lại vài dòng để
chiêm nghiệm nỗi đau thương, nhục nhằn của những người con Việt trước cảnh quốc
phá gia vong trong những ngày cuối cùng của Miền Nam. Đó là:
- Hình ảnh một Trung tá
TQLC chạy từ Đà Nẵng về nhà người anh cũng ở cùng cư xá, hình ảnh giọt nước mắt
lưng tròng khi anh cổi chiếc áo trận và cắt từng nút áo cũng như hai bông mai
bạc trên cầu vai. Anh nói với người anh qua giọt nước mắt và trong từng tiếng
nấc “Anh xem như em đã chết ngày hôm nay”;
- Hình ảnh từng đoàn
trực thăng Mỹ chiếu đèn sáng rọi vào mặt chúng tôi trên sân thượng của cư xá
trong lúc tháo chạy và chở người di tản đi ra hạm đội;
- Hình ảnh những người
lính tôi không còn nhớ Dù tiếp tục chiến đấu ở cầu Phan Thanh Giản trên con
đường đi ra Ngã tư Hàng Xanh. Tiếng súng bắt đầu ngay sau khi tướng Minh tuyên
bố đầu hàng lúc 10 giờ 37 phút sáng 30/4. Và tiếng súng chỉ im lặng lúc xế
trưa, có nghĩa là tất cả anh em binh sĩ đã chiến đấu cho đến quả lựu đạn cuối
cùng.
Chuyện ĐI và Ở đã được
tôi quyết định ở khúc quành định mệnh nầy, không khác chi khúc quành của nhân
vật Thiệu “phải” rời bỏ khúc quành của con sông Đuống đầy kỷ niệm tuổi thơ với
Yến, người bạn thời trẻ thơ mà sau nầy trở thành…người tình muôn thuở cho đến
cuối đời, để di cư vào Nam tìm tự do. (trong quyển tiểu thuyết “Dòng sông định
mệnh” của nhà văn Doãn Quốc Sĩ).
5. Những ngày sau đó
Qua ngày thứ năm 1/5,
lệnh trên radio yêu cầu (bắt buộc thì đúng hơn) mọi công chức phải đến trình
diện tại trụ sở làm việc của mình. Sáng đó, tại cư xá có mặt Ông Khoa trưởng,
Ông Phó Khoa trưởng và một số giáo sư, tôi và một giảng nghiệm viên tình nguyện
vào Trường Sư phạm xem tình hình.
Mọi sự có vẻ êm xuôi vì
“họ” chưa có người vào tiếp quản, ngoài một số “cơ sở” địa phương thôi. Nhưng
một hình ảnh khác làm bẽ bàng và làm đảo lộn những suy nghĩ tốt đẹp trong tôi
khi nhìn thấy một số đồng nghiệp của mình mới chỉ vừa cách đây một ngày, nay đã
mang “băng đỏ cách mạng” từ cung cách hướng dẫn chỗ để xe, cho tới thái độ
trong lúc nói chuyện. Đáng phỉ nhổ nhứt là những người nầy ngày nào thưa anh,
xưng em với tôi, mà nay trở mặt dương dương tự đắc tự xưng tôi, tôi, anh, anh
một cách trơ trẻn. Có những chị giáo sư thước tha, dịu hiền trong khi lên lớp
mà nay ngoài băng đỏ, thậm chí còn để lá cờ vàng ba sọc đỏ dưới chân bàn đạp ga
xe nữa. Thế mà, rốt cuộc, họ cũng phải liều thân vượt thoát và hiện đang sống
rải rác tại Canada, Hoa Kỳ, Pháp, và Úc châu. Thật là nẽ bang cho chính họ!
Và hơn nữa, có giáo sư
trong suốt thời gian chưa đầy hai năm ngắn ngủi của tôi, đã xem tôi như “thần
tượng” mặc dù biết rằng tôi đã lập gia đình rồi, thường xuyên đi ăn uống chung.
Tết đến, cô cũng không quên hái vài trái xoài trước nhà để biếu tôi, thậm chí
đã dám cùng tôi “nhậu thịt chó” nữa…Người đó bây giờ là một “công thần” của chế
độ. Chính là Tôn Nữ Thị Ninh.
- Làm sao tôi quên được
lần đổi tiền đợt I ngày 22/9/1975, đổi 1Đ tiền “chính phủ cách mạng lâm thời
miền Nam” tức tiền “ngân hàng Việt Nam” lấy 500Đ tiền Việt Nam Cộng Hòa hay
“tiền Ngân hàng Quốc gia Việt Nam”. Người dân chỉ đổi được mỗi gia đình
100.000Đ mà thôi.
- Làm sao tôi quên được
lần đổi tiền đợt II ngày 3/5/1978, đổi 1Đ “tiền thống nhứt XHCN” tức tiền “ngân
hàng nhà nước” lấy 1Đ tiền “ngân hàng Việt Nam” và mỗi gia đình chỉ được đổi
100Đ mà thôi.
- Làm sao tôi quên được
lần đổi tiền đợt III ngày 14/9/1985, đổi 1Đ tiền ngân hàng nhà nước cũ lấy 1Đ
tiền ngân hàng nhà nước mới (tiền thống nhứt Bắc Nam).
- Làm sao tôi quên được
lần đánh tư sản đợt I ngày 11/9/1975, cướp của và tịch thu nhà những người được
cho là tư sản cùng bắt đi vùng kinh tế mới. Chiến địch nầy gọi là X1;
- Làm sao tôi quên được
lần đánh tư sản đợt II, tức chiến dịch X2, từ tháng 3/1978 tới cuối năm 1990
nhắm vào tư sản tiểu thương, những nhà tiểu thủ công nghệ, ước tính trên 14.000
gia đình tại Sài Gòn;
- Làm sao tôi quên được
lần đánh tư sản đợt III tức chiến dịch X3, song hành với chiến dịch X2 tại Sài
Gòn nhằm mục đích trục xuất người củ ra khỏi nơi ở và điền khuyết vào bằng gia
đình cán bộ ngoài Bắc vào. Đây là một âm mưu thâm độc nhằm “Bắc kỳ hóa” thành
phố Sài Gòn. Tính đến tháng 9/1989, ước tính có đến 950.000 người bị đuổi khỏi
Sài Gòn, và có khoảng 150.000 gia đình cán bộ Bắc kỳ được điền khuyết vào;
- Làm sao tôi quên được
những đợt bị bắt buột đi “học tập cải tạo”, đáng kể nhứt là đợt cuối cùng vào
tháng 6/1975, kêu gọi công quân cán chính tập trung mang theo lương thực cho
một tháng…để rồi tất cả bị lường gạt và phải chịu lao động khổ sai từ một hai
năm cho đến hơn 17 năm đối với những cán bộ hành chánh và quân đội cao cấp của
Việt Nam Cộng hòa….
6. Những ngày hôm nay và
sắp tới
Một người bạn trong nước
vừa viết những nhận định của anh về CSBV như sau:
- Cuộc Cách mạng Môi
trường hiện tại chưa phải là “ý chí của cả dân tộc”, đứng dậy, dứt khoát và
trực diện “đối đầu” với một đảng độc tài đang đi dần đến sự tự hủy! Vì vẫn còn
nhiều chữ “nếu” “nếu toàn dân đã ý thức được vận mệnh đất nước, tương lai của
mình mà nổi dậy, biểu tình lớn thì …”
- Thế trận hiện tại
trong nước: Thành phần trong Đảng CSBV chống đối với nhau tới cùng …” chứ không
hẳn phải “thành phần thứ ba luôn “quyết tử” với đảng …”
- Đảng viên: niềm tin lý
tưởng đảng Cộng sản hiện nay không phải là mối liên kết hay trở lực lớn, vấn đề
chính chi phối mọi người là quyền lực và quyền lợi. Lý tưởng đảng hiện nay đã
trở nên vật trang trí rẻ tiền cho toan tính quyền lợi…”
- Lớp cầm quyền: Lớp
lãnh đạo doanh nghiệp nhà nước, Lớp doanh nhân ăn theo, Lớp hy vọng hưởng lợi,
Lớp công lực: công an, quân đội;
- Tầng lớp muốn thay
đổi: cuộc sống bế tắc, ủng hộ thay đổi;
- Người Việt trong nước:
Đây là một trở lực lớn khi mà người dân trong nước sau bao nhiêu năm sống trong
môi trường thiếu tin tức, đã bị nhiễm độc âm mưu tuyên truyền của Cộng Sản, xem
những thành phần chiến đấu cho dân chủ tại Hải Ngoại là hoạt động chống phá nhà
nước, rước ngoại bang để chịu hàng phục làm nô lệ! Tuy nhiên, ngoài lực cản như
trình bày thì lực lượng trí thức của người Việt nước ngoài đông đảo mang nguồn
tư tưởng dân chủ tiến bộ là một nguồn lực vô cùng quí giá sẵn sàng cổ vũ sự
thay đổi, xây dựng lại đất nước sau ách toàn trị.
- Quốc nội: Số ít chưa
nhận ra đại họa Tàu Cộng. Trong số Dân đã nhận thức được đại họa của Quốc Dân,
thì đa số Dân quá ù lì thụ động, kể cả hàng ngũ Chức Sắc các Tôn giáo, Nhân sĩ,
Trí thức, chỉ thở dài thất vọng hoặc khóc, mà không biết nên làm gì (?)
- Cái khó là nhìn thấy
hướng đúng, hướng phù hợp với từng người! Cái khó vạn nan kế tiếp là hăng hái
bước lên đi vào hành động.
Qua sự nhận xét của một
người con Việt trong nước cùng với những lời biện bạch trên, người viết xin
diễn lại bức tranh vân cẩu chập chùng những ý nghĩ lộn xộn trong những ngày
quốc phá gia vong và suy nghĩ miên man sau 43 năm trong cuộc hành trình chưa
thấy …Điểm đến!
Xin chia xẻ cùng bà con.
Đây không phải là lời tự
thú hay than thở, hay nói về mình.
Nơi đây tôi chỉ muốn nói
lên vài điều suy nghĩ của một người con Việt mà thôi.
Đó là:
- Đừng bao giờ mơ tưởng
những người Việt cộng sản Bắc kỳ là người Việt Nam.
Và để thoát khỏi ý nghĩ
tiêu cực trong những ngày đau thương của Đất và Nước, tôi tự điều hướng cho
chính mình cần phải hành xử trong tương lai như:
- Đứng trước quá khứ,
hãy ngả mũ. Đứng trước tương lai, hãy XẮN TAY ÁO (H.L.Mencken) và chúng ta phải
tiếp tục giữ lửa Quê Hương trong lòng mãi mãi.
- Lời ca của cố nhạc sĩ
du ca Nguyễn Đức Quang đã kéo tôi về với thực tại, bài “Không phải là lúc”, bắt
đầu bằng “Không phải là lúc ta ngồi đặt vấn đề”, để rồi kết thúc bằng một quyết
tâm dứt khoát “…Làm việc đi không lo khen chê, làm việc đi hãy say và mê, cứ
bắt tay gan lỳ, chúng ta giải quyết. Mình chậm chân đi sau người ta, mà ngồi
đây nghĩ lo viễn vông, thắc mắc ngại ngùng biết khi nào mới làm xong!”
Và cũng chính vì mang
quyết tâm trên mà tôi vẫn “Không đặt vấn đề với anh em, nhưng chắc chắn đứa con
Việt nầy dứt khoát đặt vấn đề những người đang tàn phá Đất và Nước của Ông Cha
để lại.
Và tôi ”đặt vấn đề” với
người Cộng sản Bắc Kỳ, đã và đang chấp nhận và tiếp tục đóng vai trò “thái thú
biết nói tiếng Việt” cho Trung Cộng thực thi “Đại Họa Mất Nước” để hoàn tất
công cuộc Bắc thuộc lần thứ V.
Nhưng tôi cũng không
quên dứt khoát đặt vấn đề với những kẻ cuối đời vẫn còn bon chen
- danh lợi, bất kể cố ý hay vô tình, bị rơi vào cái bẫy lợi danh của Cộng sản, cái
bẫy của “cây gậy và củ cà rốt” với cây gậy đập trên đầu mà củ cà rốt vẫn không
cho ăn, cái bẫy của Cộng sản muốn mượn tay người Quốc gia “bôi đen” người Quốc
gia chống Cộng, cái bẫy “gây rối cộng đồng” do những tay ăn bã của cộng sản;
những kẻ dễ đánh mất thân phận làm “người” của mình, bất kể đó là loại “người”
gì; lắm khi đó là những con “ếch” muốn làm con “bò”, cho dầu “ếch” hay “bò”,
“nhỏ” hay “lớn”, vẫn không phải là... “người”.
Xin ghi lại và góp phần
vào những Ngày Buồn Tháng Tư của những người con Việt.
Mùa Quốc hận tại Ottawa
ngày 30/4/2018
TS.Mai Thanh Truyết
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết