---------- Forwarded message ----------
From: LeKhoi
Tượng đài Thủy Quân Lục Chiến
giữa công viên Sài Gòn trước năm 1975 nay đã không còn. Văn Quang viết: “Tôi
đứng trước Nhà Hát Thành Phố nhìn cảnh “vườn không nhà trống” đó mà ngậm ngùi
nhớ tới pho tượng Thủy Quân Lục Chiến sừng sững đứng bảo vệ thành phố ngày nào,
và nhớ tới những đồng đội TQLC đã ngã xuống hoặc giờ này đã ở khắp phương trời
xa.
‘Nhưng
với tôi, Sài Gòn vẫn là Sài Gòn từ trong tâm thức mình, từ trong tận cùng tim
óc mình. Thế là đủ và tôi lại phải sống cũng như những người Sài Gòn khác, bất
chấp gian khổ.’
Hai tuần nay người Sài Gòn xôn xao về một số công trình xưa cũ sẽ
bị phá bỏ lấy đất làm tàu điện ngầm. Rầm rộ nhất là khu thương xá Tax đã bị
“bao vây” bởi những hàng rào chắn chạy dài và tất cả các cửa hàng trong thương
xá này phải dời đi vào tháng 10 này để làm một siêu thị 40 tầng văn minh hơn.
Hầu như cả thành phố xôn xao, người ta kéo đến mua hàng giảm giá đông như hội.
Và cũng có nhiều người đến để nhìn lại chút kỷ niệm xưa với một công trình kiến
trúc được xây dựng từ xa xưa khiến bất cứ ai dù chỉ sống ở thành phố này ít năm
cũng cảm thấy tiếc nuối. Lứa tuổi già đã có từng hơn nửa thế kỷ với Sài Gòn
bỗng nhận ra cái khu thương xá đó không chỉ gắn liền với thành phố mà còn gắn
liền với cả gia đình mình.
Hầu như gia đình nào cũng đã từng đưa nhau vào đây mua sắm vài
thứ đồ dùng lặt vặt hoặc chỉ dạo quanh, ăn một ly kem, uống một ly cà phê. Nỗi
buồn vẩn vơ thật nhưng lại rất sâu sắc như người ta vừa lấy đi một phần đời
mình. Bởi cái mất đi đã từng có những kỷ niệm với người thân quen không bao giờ
tìm lại được nữa. Người mất kẻ còn, người ra đi, kẻ ở lại đã từng cùng nhau đến
đấy.
Đường Lê Lợi phía Thương Xá
TAX chỉ còn một lối đi nhỏ.
Và còn một số công trình gắn
liền với Sài Gòn chẳng phải chỉ là biểu tượng mà còn là da thịt của một thành
phố từng được vinh danh là “hòn ngọc viễn đông” này cũng sắp mãi mãi biến mất
để nhường chỗ cho công trình ga tàu điện ngầm đầu tiên của tuyến Metro số 1 Bến
Thành - Suối Tiên. Dẫu biết vạn vật đổi dời không có gì là vĩnh cửu cả nhưng
cái gì quá thân quen mất đi cũng thấy lòng trống rỗng. Có khi chỉ một cửa hàng
như quán cơm bình dân Bà Cả Đọi, tiệm cắt tóc Đàm, nước mía Viễn Đông… mất tích
vĩnh viễn, thay vào đó là những tòa nhà chọc trời, những cửa hàng choáng lộn
cũng thấy nó lạnh lùng xa lạ.
Văn Quang trước Thương Xá Tax
ngày 25-8-2014.
Người còn ở trong nước xót xa,
người Việt ở nước ngoài tiếc nuối, đó là điểm những người thân quen gặp nhau ở
nỗi nhớ nhung tiếc nuối này. Tôi đã đọc khá nhiều bài viết từ nước ngoài và e
mail của bạn bè chia sẻ nỗi hoài niệm đó. Như Thế Hải từ Hawaii đã mượn
hai câu thơ bất hủ của Bà Huyện Thanh Quan, chia sẻ cùng bè bạn khắp nơi khi
nhớ về những cái sắp mất đi của Sài Gòn: “Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo. Nền cũ
lâu đài bóng tịch dương.”
Với một người còn ở lại như tôi, đã hơn nửa thế kỷ gắn bó với hòn ngọc viễn
đông này, hai tuần nay càng thấy lòng hoài cổ dâng trào. Nhớ, nhớ đến từng chi
tiết từ cái bước chân đầu tiên đặt lên đất Sài Thành, nhớ từng ngõ ngách, từng
nhân vật thuộc về quá khứ ấy cho đến ngày nay. Mặc cho Sài Gòn đã có nhiều tang
thương dâu biển, từ cái tên thành phố đến những con đường đã thay họ đổi tên,
từ con người đến xã hội cho đến cả cái cách sống cũng đã khác xưa nhiều lắm.
Chẳng trách khi xã hội đổi thay, người ta chép miệng than: “Trời làm một trận
lăng nhăng, ông hạ xuống thằng, thằng nhảy lên ông, con đĩ đánh bồng nhảy lên
bà lớn” cũng chẳng sai. Nhưng với tôi, Sài Gòn vẫn là Sài Gòn từ trong tâm thức
mình, từ trong tận cùng tim óc mình. Thế là đủ và tôi lại phải sống cũng như
những người Sài Gòn khác, bất chấp gian khổ. Có chăng chỉ là nỗi ngẩn ngơ khi
những dấu tích xưa dần mất đi, chẳng bao giờ tìm lại được.
Thanh Saigon với hoài niệm
“người xưa” trong ảnh quảng cáo trên vỉa hè bên hông Thương xá Tax.
Trong nỗi hoài niệm sâu sắc ấy
nhiều buổi chiều đứng trong hành lang hẹp chung cư, nhìn lên khung trời cao,
hướng về ánh đèn đêm mơ hồ của thành phố, tôi cố tưởng tượng lại đó vẫn là
khung trời xưa, tôi nhớ lại những năm tháng dài tôi sống ở Sài Gòn. Ở đây không
chỉ có cảnh quan mà còn có cả những nhân vật là bạn hoặc là người tôi đã từng
gặp, từng quen, từng biết đến. Người ở đâu bây giờ? Có biết Sài Gòn của chúng
ta đang có rất nhiều người đang nhớ đang mong các “bạn ta” không?
Tạm biệt Thương Xá Tax và
hàng giảm giá.
Bước
chân đầu tiên trên đất Sài Gòn
Thế mà
60 năm rồi đấy, kể từ ngày tôi mới đặt chân lên thành phố Sài Gòn. Tôi nhớ như
in, ngày đầu tiên ấy. Cuối tháng 1 năm 1954, sau hai tháng học ở Trường Sĩ Quan
Thủ Đức, ngày thứ bảy chúng tôi được đi phép ở Sài Gòn. Niềm mơ ước của tôi từ
những ngày còn nhỏ ở trường trung học, ước gì có ngày mình được vào Sài Gòn.
Niềm mơ ước ấy còn rộn ràng hơn khi khóa học sĩ quan khai giảng. Thủ Đức – Sài
Gòn chỉ có hơn 10 cây số, tuy chỉ cách thành phố rất gần nhưng theo đúng chương
trình khóa học, hai tháng sau chúng tôi mới được đi phép. Mấy anh “Bắc kỳ” nôn
nao hỏi thăm mấy ông bạn “Nam Kỳ” về Sài Gòn. Từ cái xe taxi nó ra sao, đi thế
nào, bởi hồi đó miền Bắc chưa hề có taxi, cho đến Chợ Lớn có những gì… Mấy ông
bạn Nam Kỳ tha hồ tán dóc. Đấu óc tôi cứ lơ mơ về cái chuyến đi phép này.
Rồi ngày đi phép cũng đến, một
nửa số sinh viên sĩ quan (SVSQ) đi phép mặc bộ tenue sortie là ủi thẳng tắp, áo
bốn túi, chemise trắng tính, thắt cravate đen đàng hoàng, giầy đánh bóng lộn có
thể soi gương được. Vô phúc quên cái gì là bị phạt ở lại ngay. Nhưng hầu như
chưa có anh nào bị phạt. Đoàn xe GMC của trường chở chúng tôi chạy vèo vèo vào
thành phố. Ôi cái cửa ngõ vào thành phố hồi đó chưa có gì lộng lẫy mà chúng tôi
cũng mở to mắt ra nhìn. Đoàn xe “diễu” qua vài con phố rồi dừng lại trên đường
Hai Bà Trưng (hồi đó còn gọi là đường Paul Blanchy), ngay phía sau Nhà Hát Lớn
Thành Phố mà sau này là Trụ Sở Hạ Nghị Viện VNCH.
Tất cả các cửa hàng trong
thương xá vắng hoe.
Cú nhảy từ sàn xe GMC xuống
con đường Hai Bà Trưng là bước chân đầu tiên của tôi đến đất Sài Thành hoa lệ.
Ông Hồ Trung Hậu là dân miền Nam chính hiệu, ông đã hứa hướng dẫn tôi
đi chơi… cho khỏi “ngố”. Chúng tôi đi bộ vào con đường nhỏ bên hông Nhà Hát
Thành Phố và khách sạn Continental, vòng ra trước bùng binh Catinat – Lê Lợi
(hồi đó còn gọi là Boulevard Bonard) và Nhà hát TP. Nhìn mặt trước nhà hát TP
có mấy bức tượng bà đầm cứ tưởng… mình ở bên Tây. Lúc đó đã có nhà hàng Givral
rồi, nhưng tôi vẫn còn “kính nhi viễn chi” cái nhà hàng văn minh lịch sự giữa
thành phố lớn rộng đó, chưa dám mơ bước chân vào. Ông Hậu vẫy một cái taxi chở
chúng tôi về nhà ông. Taxi hồi đó toàn là loại deux cheveaux, nhỏ hẹp sơn hai
màu xanh vàng. Khi bước lên xe, đồng hồ con số chỉ là 0, đi quãng nào số tiền
nhảy quãng đó.
Những chiếc thang máy không
người vẫn chạy đều đều.
Trong ngày đầu tiên, tôi ngu
ngơ làm quen với không khí Sài Gòn qua gia đình anh em ông Hậu. Hôm sau ông bạn
tôi đi với bồ nên tôi bắt đầu cuộc solo giữa thành phố xa lạ này. Tất cả Sinh
Viên SQ đều không được đi xe buýt hay xích lô, phải đi taxi. Nhưng lệnh là
lệnh, chúng tôi học các đàn anh khóa trước, cởi áo bốn túi, bỏ cravate, cất cái
nón đi là lại tha hồ vung vẩy.
Các tầng lầu càng vắng khách.
Trở
thành người Sài Gòn từ bao giờ
Nơi tôi đến đầu tiên là Chợ
Lớn. Một cuốc taxi từ giữa trung tâm TP đến cuối Chợ Lớn mất 12 đồng. Tôi tìm
đến khách sạn rẻ tiền của mấy thằng bạn Bắc Kỳ ở đường Tản Đà, một con phố nhỏ,
ba bốn thằng thuê chung một phòng cũng chẳng có “ông mã tà” nào hỏi đến. Chợ
Lớn hồi đó tấp nập hơn ở Sài Gòn, con phố Đồng Khánh chi chít những khách sạn,
hàng ăn, cửa tiệm tạp hóa lu bù tưởng như mua gì cũng có. Chúng tôi cũng biết
cách chui vào Kim Chung Đại Thế Giới xem thiên hạ đánh bạc. Hôm đó có anh
Nguyễn Trọng Bảo cùng Đại Đội tôi nhưng lớn hơn chúng tôi vài tuổi và là một
cặp với Nguyễn Năng Tế (lúc đó mới là người yêu của nữ diễn viên điện ảnh Kiều
Chinh). Anh thử đánh “tài xỉu”, may mắn làm sao, một lúc sau đó anh được khoảng
vài trăm ngàn. Thế là chúng tôi xúi anh “ăn non”, không chơi nữa, rủ nhau đi
ăn.
Bắt đầu từ hôm đó chúng tôi đi
“khám phá” Sài Gòn và rồi theo cùng năm tháng trở thành người Sài Gòn lúc nào
không biết. Càng có nhiều thăng trầm chúng tôi càng gắn bó với Sài Gòn hơn.
Các cửa hàng đá quý vàng bạc
càng vắng vẻ.
Lần
thứ hai trở lại Sài Gòn
Tôi
lại nhớ ngày trở về Sài Gòn sau hơn 12 năm đi tù cải tạo từ Sơn La đến Vĩnh Phú
rồi Hàm Tân. Đó là vào buổi chiều tháng 9 năm 1987. Khi đoàn xe thả tù cải tạo
bị giữ lại nhà giam Chí Hòa nghe các ông quan chức trấn an về số phận chúng tôi
khi được trở về, khoảng hơn 5 giờ chiều chúng tôi mới được thoát ra khỏi cánh
cửa sắt nhà tù Chí Hòa. Ngay từ cổng trại tù đã có đoàn quay phim đợi sẵn để
quay cảnh “vui mừng đoàn tụ” của tù nhân, chắc là để chứng tỏ cái sự “khoan
hồng bác ái” của nhà nước cho những thằng may mắn không chết trong ngục tù. Lại
là lần thứ hai tôi đặt chân lên đất Sài Gòn nhưng với tư cách khác giữa một
thành phố đã đổi chủ.
Thấy cái cảnh sẽ bị quay phim, Trần Dạ Từ kéo tôi lên vỉa hè đi lẫn trong đám
thân nhân được vận động ra đón tù cùng những người dân tò mò nhình “cảnh lạ”.
Tránh được cái máy quay phim, chúng tôi đi gần như chạy ra khỏi con phố nhỏ
này. Ra đến đường Lê Văn Duyệt, chúng tôi đi chậm lại, nhìn đường phố mà cứ
thấy đường phố đang nhìn chúng tôi với một vẻ xa lạ và xót thương? Trần Dạ Từ
còn lại ít tiền, anh rủ tôi ghé vào đường Hiền Vương ăn phở. Chẳng biết là bao
nhiêu năm mới lại được ăn tô phở Hiền Vương đây. Tôi chọn quán phở ngay sát
cạnh tiệm cắt tóc Đàm mà mấy chục năm tôi cùng nhiều bạn bè vẫn thường đến cắt
tóc. Có lẽ Trần Dạ Từ hiểu rằng anh về đoàn tụ cùng gia đình chứ còn tôi, vợ
con đi hết, nhà cửa chẳng còn, sẽ rất cô đơn, nên anh níu tôi lại. Ngồi ăn tô
phở tưởng ngon mà thấy đắng vì thật ra cho đến lúc đó tôi chưa biết sống ra sao
giữa thành phố này.
Ở tiệm phở bước ra, chúng tôi
đi bên nhau dưới ánh đèn chập choạng của con đường Duy Tân mà Phạm Duy gọi là
con đường Đại Học “uống ly chanh đường, uống môi em ngọt.” Đến ngã tư Phan Đình
Phùng, tôi chia tay người bạn tù Trần Dạ Từ, đi lang thang trong cô đơn, trong
bóng tối của chính đời mình. Bây giờ tôi mới hiểu hết nghĩa của sự cô đơn là
thế nào. Tôi bắt đầu cuộc sống lưu lạc trên chính quê hương mình.
Tôi tìm về nhà ông anh rể đã từng nuôi nấng tôi suốt những năm tháng trong tù.
Bắt đầu từ đó tôi trở thành người Sài Gòn khác trước. Và rồi với những cùng
khổ, những khó khăn, tôi đã tự mình đứng lên. Bởi tôi thấm thía rằng thằng bạn
đồng minh xỏ lá đã phản phé mình, lúc này không ai cứu mình cả, anh không vượt
qua nó, nó sẽ đè chết anh. Vì thế cho đến bây giờ sống giữa Sài Gòn, tôi phải
là người Sài Gòn và mãi mãi sẽ là người Sài Gòn. Làm được cái gì hay chết bẹp
dí là do mình thôi.
Tác giả thẫn thờ đứng nhìn
công trường Lam Sơn đang bị phá bỏ
Đi tìm hoài niệm
Tôi không lan man về chuyện cũ tích xưa nữa, bởi nói tới những ngày tháng đó
chẳng biết bao giờ mới đủ. Cho đến hôm nay, 25 tháng Tám năm 2014, hơn 60 năm ở
Sài Gòn, mọi người đang xôn xao về những đổi thay lớn của Sài Gòn, tôi không
thể ngồi yên. Tôi muốn chính mắt mình được nhìn thấy những thay đổi ấy. Mặc dù
qua 2 lần nằm bệnh viện và với cái tuổi trên tám mươi, tôi đã mất sức nhiều,
hầu như suốt ngày ngồi nhà đã từ ba tháng nay. Tôi điện thoại cho Thanh Sài Gòn
rủ anh đi thăm “cảnh cũ người xưa”. Chúng tôi vào phở Hòa, môt tiệm phở nổi
tiếng từ trước năm 1975 cho đến nay. Con đường Pasteur đan kín xe cộ, tiệm phở
Hòa có vẻ tấp nập hơn xưa. Bạn khó có thể tìm lại một chút gì đó của “muôn năm
cũ”. Tô phở bị “Mỹ hóa” vì cái tô to chình ình và miếng thịt cũng to tướng, có
lẽ ông bà chủ đã học theo phong cách những tiệm phở VN ở Mỹ. Nó “to khỏe” chứ
không còn cái vẻ “thanh cảnh” như xưa nữa.
Sau
đó, nơi tôi tìm đến đầu tiên chính là Thương Xá Tax. Vừa đến đầu hai con đường
gặp nhau Pasteur – Lê Lợi đã nhìn thấy một hàng rào bằng tôn chạy dài. Đường Lê
Lợi chỉ còn đủ một lối đi nhỏ dẫn đến Thương Xá Tax và công viên Lam Sơn. Chiếc
xe gắn máy len lỏi cho đến tận cuối đường Lê Lợi sát mép đường Tự Do. Chúng tôi
đứng trước cửa TX Tax đang bày ra cảnh vô cùng vắng vẻ, chỉ có tôi và anh bảo
vệ nhìn nhau. Anh thừa biết tôi đến đây để làm gì. Anh bảo vệ cũng không còn
làm cái nhiệm vụ cao quý là mở cửa đón khách, anh để mặc tôi tự do đẩy cánh cửa
kính nặng chịch đi vào trong khu thương mại. Đèn đuốc vẫn thắp sáng choang, chiếc
thang máy cuốn vẫn lặng lẽ chạy không một bóng người. Nó mang một vẻ gì như
người ta vẫn lặng lẽ theo sau một đám tang.
Trong quầy hàng đầu tiên, điều khiến tôi chú ý là hàng chữ nổi bật hàng đại hạ
giá (Big Sale) tới 70% đỏ loét chạy dài theo quầy hàng và hàng chữ “TẠM BIỆT
THƯƠNG XÁ TAX”.
Tôi cố
gợi chuyện với cô chủ hàng xinh xắn: Cô phải đề là “TỪ BIỆT” THƯƠNG XÁ TAX mới
đúng chứ, sao lại là “TẠM BIỆT”? Cô hàng trẻ đẹp thở dài ngao ngán: “Ấy người
ta còn hứa khi nào căn nhà 40 tầng làm xong sẽ cho chúng tôi được ưu tiên thuê
cửa hàng đấy.” Nhưng ngay sau đó cô lại lắc đầu: “Hứa là hứa chứ khi đó mình
không cổ cánh, đút lót thì đừng hòng bén mảng tới, ông có tin không?”
Bị hỏi ngược, tôi đâm lúng túng ấp úng nói lảng: Phải đợi tới lúc đó mới biết
được. Cô bán hàng quay đi, dường như cô chẳng tin gì cả.
Các quầy hàng khác vẫn mở cửa, mỗi gian hàng chỉ còn lại vài ba người, chắc
toàn là những ông bà chủ. Tôi nghĩ họ đang làm công việc khác chứ không để bán
hàng. Có ai mua đâu mà bán. Tôi đến hỏi thăm vài ông bà chủ cửa hàng, không tìm
thấy bất cứ nụ cười nào trên những khuôn mặt buồn hiu ấy.
Có lẽ
vài tuần nay, người đi tìm đồ hạ giá đã “khuân” đi khá nhiều rồi, lúc này những
thứ hàng còn lại không còn giá trị nữa. Tuy nhiên cửa hàng nào cũng còn bề bộn
hàng ế. Nhìn lên tầng lầu cũng vậy, nó còn vắng vẻ thê thảm hơn.
Tôi bước lên mấy bậc của bục gỗ, ghé vào một tiệm bán máy hình còn nguyên si
bởi ông chủ quyết không giảm giá. Tôi hỏi lý do, ông có vẻ liều:
- Thà ế chứ không giảm.
Tôi lại tò mò hỏi tiếp:
- Vậy là ông có một cửa hàng ở nơi khác nữa?
Ông lắc đầu:
- Không.
Tôi hỏi:
-Vậy ông sẽ làm gì?
Câu trả lời của ông cụt lủn:
- Về quê làm ruộng.
Tôi yên lặng trước sự bất bình đó. Đứng nhìn hàng loạt máy hình, máy quay phim
đủ loại còn nằm rất thứ tự trong tủ kính sáng bóng. Tôi lại hỏi:
- Chắc họ phải đền bù cho ông những thiệt hại này chứ?
- Chưa có xu nào cả. Thời hạn bắt di dời nhanh quá, trở tay không kịp.
Tôi nghĩ chắc ông này cũng chỉ
là người đi thuê lại cửa hàng của một ông nhà giàu nào đó mà thôi, ông có vẻ
bất cần đời. Tôi từ giã, ông chỉ gật đầu nhẹ.
Nhìn sang hàng loạt cửa hàng vàng bạc đá quý gần như vẫn còn nằm nguyên vẹn và
không một bóng khách vãng lai. Các bà, các cô tha hồ nhìn nhau ăn cơm hộp. Tôi
có cảm tưởng một thành phố chết vì chiến tranh gần kề hay vì một nạn dịch nào
đó.
Vậy mà tôi vẫn còn đi vơ vẩn trong cái không gian như nghĩa trang sống đó. Tôi
đi tìm hình bóng của một thời dĩ vãng, nào vợ con, nào bè bạn, nào những người
xa lạ trong cái nhịp thở rộn ràng thân thiện của tất cả Sài Gòn xưa ở chốn này.
Chẳng bao giờ trở lại. Tôi muốn gọi tên tất cả trong hoài niệm tận cùng sâu lắng.
Trước cửa Công Ty Cấp Nước
TP, nơi tác giả đặt chân lên TP Sài Gòn 60 năm trước.
Ngậm ngùi nhìn công viên Lam
Sơn trống rỗng
Rồi
tôi cũng phải bước ra. Trở về với thực tại, nhưng vẫn gặp cái vắng lặng của vỉa
hè chạy dài theo đại lộ Nguyễn Huệ. Dường như chỉ còn có Thanh Sài Gòn ngồi
ngất ngư với “người xưa trong ảnh” của một ô quảng cáo vuông vắn phía ngoài
thương xá.
Chúng tôi đi qua khu công viên Lam Sơn, lúc này đã được phá sạch, chỉ còn vài
cây cổ thụ cao lêu nghêu bên cạnh “công trường” đang làm, dường như hàng cây
đứng chờ giờ hành quyết như các “đồng nghiệp” của nó đã bị đốn hạ vài hôm
trước. Các bác thợ quần áo xanh, dây đeo chằng chịt đã và đang dọn dẹp cho công
trường trống rỗng. Tôi đứng trước Nhà Hát Thành Phố nhìn cảnh “vườn không nhà
trống” đó mà ngậm ngùi nhớ tới pho tượng Thủy Quân Lục Chiến sừng sững đứng bảo
vệ thành phố ngày nào và nhớ tới những đồng đội TQLC đã ngã xuống hoặc giờ này
đã ở khắp phương trời xa.
Chắc
hẳn bạn còn nhớ ngay cạnh đó là góc bùng binh Nguyễn Huệ - Lê Lợi còn là nơi tổ
chức đường hoa vào dịp Tết. Gia đình nào chẳng một lần kéo nhau đi giữa đường
hoa với tâm trạng rộn ràng của một ngày hội hoa xuân. Từ năm nay sẽ mất hẳn,
chẳng bao giờ thấy bóng dáng mùa xuân ở đây nữa.
Cuối cùng tôi trở lại nơi mà lần đầu tiên tôi đặt chân lên TP Sài Gòn. Tôi đã
nhảy xuống xe GMC ở đây, đúng nơi này, phía sau Nhà Hát Thành Phố, bây giờ là
trụ sở của Tổng Công Ty Cấp Nước của TP. Mặt đường nhựa chẳng có gì thay đổi,
nó cũng nhẵn mòn như những con đường nhựa khác, nhưng với tôi nó là một dấu son
đáng nhớ nhất trong đời. Vậy mà đã đúng 60 năm rồi sao?
Mai này Sài Gòn sẽ còn mất đi
nhiều thứ nữa như vòng xoay trước cửa Chợ Bến Thành, một biểu tượng mà bất cứ
ai đã đến Sài Gòn dù chỉ một lần cũng không thể nào quên. Đó là những thứ sẽ
mất đi để làm tuyến metro số 1 Bến Thành - Suối Tiên. Ngoài tuyến metro số 1,
còn xây dựng thêm 6 tuyến metro khác. Chúng ta sẽ mất đi nhiều di tích xưa cũ.
Sài Gòn sẽ đổi khác rất nhiều, để lại trong người Sài Gòn dù ở đâu cũng thấy
cảm thấy một nỗi bùi ngùi, nhớ tiếc. 60 năm Sài Gòn, hồn ở đâu bây giờ?
Văn
Quang
29 tháng Tám, 2014
Jul 28, 2014
Sáng 22/7, nhiều cây cổ thụ
trước Nhà hát thành phố (quận 1) bị đốn hạ để chuẩn bị cho việc công trình
Metro đường hầm đầu tiên của tuyến Metro số 1 (Bến Thành - Suối Tiên). image.
Bắt đầu cho việc công trình Metro ...
Chúng tôi
muốn biết
Một số bạn trẻ tại Việt Nam hôm nay
đưa lên các trang mạng xã hội hình chụp của họ với dòng chữ ‘Tôi muốn biết’.
Sinh hoạt mới này của các bạn trẻ hoạt động lâu nay nhắm đến mục tiêu gì?
Quyền được biết
Theo những bạn công khai hình ảnh và bảng viết
với dòng chữ ‘Tôi muốn biết’ thì công dân có quyền tiếp cận thông tin từ nhà
nước như chính sách quốc gia, hoạt động của chính khách Nhà nước và/hoặc đảng
cầm quyền trên mọi lĩnh vực: giáo dục, y tế, an sinh xã hội, môi trường… Những
người này cho rằng đó là một quyền cơ bản của người dân.
Cựu tù nhân lương tâm Phạm Thanh Nghiên, một
trong những người tham gia, cho biết về quyền đó như sau:
Vào 12 giờ đêm ngày hôm qua theo giờ Việt Nam,
Mạng lưới Bloggers Việt Namđã chính thức khởi động phong trào ‘Chúng tôi
Muốn Biết’.
Trước hết phải nói sơ một chút là quyền tự do
ngôn luận có mối quan hệ rất chặt chẽ với quyền tự do tiếp cận thông tin, bởi
vì Mạng lưới Bloggers Việt Nam cho rằng quyền được thông tin là cơ sở để người
dân thực hiện quyền làm chủ đất nước của mình. Ngày 28 tháng 9 là ngày là Liên
Hiệp Quốc lấy làm Ngày Quốc tế Quyền Được biết.
Luật pháp và hiến pháp Việt Nam mặc dù
chưa thật đầy đủ, nhưng hiến pháp Việt Nam đã quy định người dân được
quyền tiếp cận thông tin. Tức trong hiến pháp cũng ghi quyền căn bản của người
dân Việt Nam; tuy nhiên đó chỉ là trên lý thuyết thôi, còn trên thực tế
hầu như sự thật là không hề có quyền tự do ngôn luận hay quyền tự do tiếp cận
thông tin.
Bản thân tôi chính là một trong những nạn nhân
của chính thể chế này, tôi từng bị bốn năm tù giam bởi vì tôi đã lên tiếng bày
tỏ quan điểm của mình về vấn đề chủ quyền- lãnh thổ hay những vấn đề tự do, dân
chủ, nhân quyền khác. Cho nên tôi có đủ tư cách để nói rằng ở Việt Nam không hề
có quyền tiếp cận thông tin, không có tự do ngôn luận, không có nhân quyền một
cách chính đáng như những gì nhà nước, đảng cộng sản Việt Nam đã ghi trong hiến
pháp và luôn nói với công luận rằng Việt Nam có đầy đủ những quyền đó.
Tôi nhắc lại là quyền tiếp cận thông tin là
quyền căn bản của người dân cũng như quyền tự do ngôn luận, quyền bày tỏ các
quan điểm về các vấn đề xã hội hay đất nước mình. Không có nên mọi người phải
biết để giành lại các quyền cho mình. Hôm nay tôi nói ‘Tôi muốn biết’ và tôi có
quyền được biết vì không thể có một xã hội tiến bộ nếu người dân không được
biết những quyết sách mà can dự đến đời sống của mình, nhất là đến sự tồn vong
của dân tộc!
Một người tham gia khác từ Nha Trang là anh Phạm
Văn Hải cũng cho biết ý thức về quyền được thông tin và động cơ tham gia phong
trào ‘Tôi muốn biết’:
Phong trào '"Chúng tôi Muốn biết" xuất
phát trước hết từ quyền căn bản của mỗi người, mà động cơ để chúng tôi tham gia
phong trào này là những sự kiện liên quan đến đời sống của chúng tôi và của
cộng đồng.
Điều muốn được công khai
Hai vấn đề được các bạn tham gia cho hay họ muốn
chính quyền Hà Nội và đảng cộng sản cầm quyền hiện nay phải công khai đầu tiên
là Công hàm do thủ tướng Phạm Văn Đồng ký hồi năm 1958 gửi cho ông Chu Ân Lai
và hội nghị Thành đô vào tháng 9 năm 1990 giữa các lãnh đạo Việt Nam và Trung
Quốc.
Cô Phạm Thanh Nghiên nói về điều này:
Trước tình hình mối quan hệ rất đặc biệt giữa
Việt Nam và Trung Cộng, giữa đảng cộng sản Việt Nam và đảng
cộng sản Việt Nam rất đặc biệt. Đặc biệt (mối quan hệ đó) can dự tiêu
cực đến đời sống của người dân Việt Nam. Như chúng ta biết Hội nghị Thành
Đô năm 1990, người dân Việt Nam hoàn toàn không được biết, không được
tiếp cận thông tin. Một nhóm lãnh đạo Việt Nam nhân danh đảng và nhà
nước Việt Nam đã ký kết hiệp định Thành Đô. Mặc dù không được biết
nhưng trên thực tế thông tin cho hay sau năm 1990 đảng cộng sản Việt Nam hầu
như lệ thuộc hoàn toàn vào đảng cộng sản Trung Cộng và gây một ảnh hưởng vô cùng
nghiêm trọng đến vận mệnh của người dân Việt Nam, của tổ quốc Việt Nam. Đó là
chưa nói đến Công hàm năm 1958 của Phạm Văn Đồng.
Sau sự kiện hồi tháng 5 vừa rồi khi Trung Cộng cắm
giàn khoan HD981 trong vùng biển của Việt Nam, một số báo chí, thông tấn của
Trung Cộng tiết lộ phần nào nội dung của Mật ước Thành Đô. Chính vì thế
Mạng lưới Bloggers Việt Namcũng như nhiều người dân Việt Nam cũng
rất lo lắng về vấn đề liên quan mật ước Thành Đô.
Mạng lưới Blogger Việt Nam và nhiều
người đấu tranh tại Việt Nam nhận thấy đây là vấn đề cần phải lên
tiếng.
Anh Phạm Văn Hải cũng nêu ra thắc mắc về những
hành xử của nhà cầm quyển Việt Nam trong các vấn đề liên quan:
Chuyện Trung Cộng kéo giàn khoan qua
cách đây mấy tháng và cách cư xử của nhà cầm quyền, cách ứng xử của họ
không bình thường, không xứng đáng là của một quốc gia có chủ quyền. Từ đó
chúng tôi đặt thắc mắc vì sao có những ứng xử không phù hợp như vậy. Chúng tôi
muốn biết đằng sau có cái gì, vì sao mà một quốc gia luôn tuyên bố có chủ quyền
mà lại ứng xử như vậy. Phải có cái gì đó đằng sau chứ?
Đánh giá về đáp ứng của chính quyền
Một khi công khai lên tiếng đòi hỏi quyền được
thông tin nêu lên như thế, các bạn tham gia mong mỏi hoạt động đó phần nào tác
động được đến chính quyền, dù rằng khả năng đáp ứng không mấy cao.
Cựu tù nhân lương tâm Phạm Thanh Nghiên phát
biểu:
Dù có đòi, nói thẳng ra đảng cộng sản Việt Nam sẽ
không đáp ứng; tuy nhiên nó rất khác với việc chúng ta không làm gì, chúng ta
không bày tỏ. Tôi xin nói thêm chút nữa, cách đây vài năm khi tôi nói đến Công
hàm Phạm Văn Đồng thì tôi phải trả giá 4 năm tù giam. Từ năm 1958 đến năm 2014
là mấy chục năm đảng cộng sản Việt Nam không hề nói đến công hàm Phạm Văn Đồng.
Tuy nhiên khi có sự kiện HD 981 thì đảng cộng sản Việt Nam phải bắt buộc công
nhận có công hàm Phạm Văn Đồng. Dẫu thế họ diễn giải theo một cách khác.
Có thể không có kết quả trước mắt, nhưng chúng
ta cứ kiên trì, tôi tin sẽ có kết quả. Ngày hôm nay, mặc dù tôi tin đảng cộng
sản Việt Nam sẽ không đáp ứng; nhưng chỉ khi chúng ta gây một sức ép
chính đáng, thì sự thật sẽ phải được trả về với sự thật.
Anh Phạm Văn Hải cho rằng hoạt động đòi quyền
được biết mà các bạn tham gia có thể gặp khó khăn, tuy nhiên các bạn chấp nhận
mọi rủi ro để mọi quyền công dân phải được tôn trọng.
Độc giả không muốn nêu tên
Suốt cả thế kỷ, đảng cộng sản đã ém nhẹm, giấu
giếm và bưng bít mọi sự thật, để lừa bịp nhân dân trong cả nước bởi một guồng
máy tuyên truyền, báo chí, các đài do đảng độc quyền một chợ, nên ngày nay nhờ
Internet mà người dân phần nào đã tỉnh ngộ, tự giác và nhận thức đảng đã ngầm
ký kết nhiều văn kiện hủy hoại và tàn phá Việt-Nam.
Gia Minh
Tôi Muốn
Biết!
Tôi muốn biết, non sông còn, hay đã mất?
Tôi muốn biết, đất nước này có còn của Việt Nam?
Tôi muốn biết, những việc đảng đã và đang làm?
Tôi muốn biết, tập đoàn nào đã bán đứng giang san?
Tôi muốn biết, ai làm đất nước cơ hàn?
Tôi muốn biết, ai gây bao cuộc chiến tan hoang?
Tôi muốn biết, ai gây ra cảnh triệu dân oan?
Và ai là kẻ nằm trong mồ kia, đã gây ra bao thảm án?!?
Tôi muốn biết, tại sao lại có ngày quốc nạn?
Tôi muốn biết, tại sao đảng làm bạn với kẻ thù?
Tôi muốn biết, 4 tốt và 16 chữ vàng là ru ngủ?
Tôi muốn biết, tại sao đảng chịu làm nô lệ thiên thu?
Tôi Muốn Biết, Tại Sao Đảng Tôn Thờ Kẻ Tử Thù?!?
Hoàng
Hạc
__._,_.___
Posted by: truc nguyen