QUỐC HẬN 30 THÁNG 4

Image result for Tháng Tư năm 1975 -----

==== ====



Saturday, August 3, 2013

A Thousand Tears Falling


 

 

From: Patrick03 Lew <>
To: Patrick03 Lew <com>
Sent: Friday, August 2, 2013 1:45 PM
Subject:
Mời đọc Vũ Uyên Giang viết về Yung Krall, Đặng Mỹ Dung với Ngàn Giọt Lệ Rơi, A Thousand Tears Falling.

hcnguyen813
11:18 AM (24 minutes ago)



to bcc: me


Mời đọc Vũ Uyên Giang viết về Yung Krall, Đặng Mỹ Dung với Ngàn Giọt Lệ Rơi, A Thousand Tears Falling.

 

A Thousand Tears Falling

 Vũ Uyên Giang


Bài đọc suy gẫm: Bài viết tóm lược của tác giả Vũ Uyên Giang về “Sự Chọn Lựa Giữa Hai Chiến Tuyến” qua tác phẩm “Ngàn Giọt Lệ Rơi” (A thousand Tears Falling), tức câu chuyện thật về gia đình nữ cựu điệp viên CIA gốc Việt Yung Krall, tên Việt là Đặng Mỹ Dung.

 

…Yung Krall đúng là một công dân Mỹ vĩ đại. Tôi nhiệt liệt tán thưởng sự nghiệp của cô đối với nước ta, và tôi vui mừng thấy câu chuyện của người phụ nữ xuất sắc nầy cuối cùng đã được để cho mọi người cùng đọc và biết đến. Hy vọng của tôi là cuốn sách nầy sẽ đóng góp vào quá trình hàn gắn vết thương và xiết chặt tình cảm ở đất nước nầy và ở Việt Nam.

 

Griffin Boyette Bell

Former U.S. Attorney General

Cựu Bộ trưởng Tư Pháp Hoa Kỳ

Tháng 10, năm 1995

 


Tác giả Đặng Mỹ Dung (giữa) đến Nam California dự lễ Tưởng Niệm

 

Tng Thống -VNCH  Trần Văn Hương 2010.


 

Yung Krall, tác giả của quyển tự truyện bằng Anh ngữ A Thousand Tears Falling (Nghìn Giọt Lệ Rơi) do Nhà Xuất bản LongStreet Spress ở Attlanta, Georgia xuất bản lần thứ nhất năm 1995, tên thật của chị là Đặng Mỹ Dung, sinh năm 1946 tại Cần Thơ, Miền Nam Việt Nam (trong một vùng được gọi là Vùng Giải Phóng). Giống như hàng ngàn trường hợp các gia đình Việt nam khác bị phân chia giữa lằn ranh Quốc gia và cộng sản; gia đình và bản thân của chị cũng là một trong số nạn nhân ấy. Sự mâu thuẫn giữa cuộc đấu tranh ý thức hệ trong gia đình những người Việt bị lôi cuốn trong cuộc chiến dai dẳng nhiều chục năm vì những nhân danh của hai phía, gây nên những thương tổn tình cảm trong mối giây liên hệ huyết thống. Nỗi đau khổ của những gia đình bị ly tán bởi chiến tranh Quốc – cộng không chỉ giới hạn trong khoảng thời gian từ 1954 đến lúc cuộc chiến kết thúc năm 1975, khi Miền Nam bị người bạn đồng minh bội phản, đâm sau lưng chiến sĩ, mà nó còn di hại cho đến ngày nay đã được chị trình bày qua 28 Chương với hơn 400 trang sách.

 

Trong phần viết ngắn này, người viết không có ý định điểm sách hoặc phê bình sách vì nó sẽ quá dài cho 1 bài giới thiệu những Khuôn Mặt Văn Nghệ Sĩ; nên người viết chỉ xin tóm lược những nét chính về thái độ can đảm của tác giả quyển Nghin Giọt Lệ Rơi khi đứng giữa hai chiến tuyến và quyết định của chị là đứng hẳn về phiá đối nghịch với sự tàn ác cuả cộng sản, đối nghịch hẳn con đường cha chị đã chọn lựa là trung thành với cộng sản.

 

I. Tóm lược nội dung sách:

 

Cha của chị Đặng Mỹ Dung tên thật là Đặng Văn Quang, bí danh Đặng Quang Minh, một cán bộ tập kết ra Bắc khi Mỹ Dung mới lên 9 tuổi, cùng 1 người anh ruột 18 tuổi của Mỹ Dung (Đặng Văn Khôi. Sau này Khôi trở thành một Sĩ quan Hoả tiễn phòng không tốt nghiệp ở Nga). Mỹ Dung cùng mẹ và 5 chị em khác ở lại Miền Nam, nhưng vì cả họ nội gồm các cô và chú đều tham gia cộng sản nên mẹ chị (bà Trần Thị Phàm) phải dắt nhau về tá túc bên ngoại ở Long Thành, Cần Thơ. Bên ngoại của Mỹ Dung lại là những người không thích cộng sản tàn ác.

 

Năm 18 tuổi (1964), Mỹ Dung tốt nghiệp Trung Học và để kiếm tiền phụ giúp mẹ nên chị đã xin vào làm việc ở Phòng 5 Tâm Lý Chiến thuộc Bộ Tư Lệnh Quân đoàn 4 QLVNCH lúc đó do Đại úy Nguyễn Đạt Thịnh phụ trách và được giao nhiệm vụ làm phóng viên. Chị cũng đã từng bị cơ quan An Ninh Quân Đội điều tra vì cái lý lịch có cha vô danh, nhưng mọi chuyện cũng êm xuôi. Khi bà Phàm (mẹ của Mỹ Dung) bị bệnh nặng, cả gia đình phải di chuyển về Sàigòn sinh sống; Mỹ Dung cũng rời nhiệm sở ở Phòng 5 của Đại úy Nguyễn Đạt Thịnh để theo mẹ về Sàigòn. Tại đây, Mỹ Dung đã xin được một chân thư ký kế toán kiêm điện thoại viên của một ấn quán với một đồng lương khiêm tốn. Dung liền rời bỏ Sàigòn và một mình trở lại Cần Thơ làm việc lại cho Phòng 5 Tâm Lý Chiến của Đại Uy Nguyễn Đạt Thịnh; nhưng cũng chỉ được hơn một năm, một phần vì nhớ mẹ và em; một phần vì công việc làm không thấy được tương lai nên Mỹ Dung trở lên Sàigòn sống với gia đình. Thời gian này hai người chị của Mỹ Dung đang việc cho một cơ quan của Mỹ nên đã giới thiệu cho chị nộp đơn xin với Trung Tâm Bachelor Officers Quarter (BOQ) tại tầng lầu cuối cùng của cao ốc Rex và chị đã được nhận vào làm với lương tháng 5,500 đồng. Sau 4 tháng huấn luyện, chị được chuyển về làm việc ở văn phòng Brinks BOQ; tại đây Mỹ Dung đã gặp Trung úy Hải quân John J.Krall; một thời gian sau, hai người đã yêu nhau. Ngay sau Tết Mậu Thân 1968, Mỹ Dung đã kết hôn với John J.Krall ngày 3 tháng 8 năm 1968 tại Monterey, California. Lúc này 2 người chị của Mỹ Dung cũng đang sống ở Mỹ; và cả 3 chị em đã trở thành con chiên của Chuá. Năm 1970 em trai của chị là Hải Vân đã tình nguyện gia nhập binh chủng Không quân QLVNCH, được gửi sang Lacland, Texas, Hoa kỳ để huấn luyện; trong lúc đó thì Dung cũng có thai cháu đầu lòng. Vào tháng 1/1971, khi Dung mới hạ sinh con trai đầu lòng Lance thì cũng nhận được tin Hải Vân đã bị tử nạn khi đang trong một phi vụ huấn luyện trực thăng ở gần căn cứ Hunter Army Airfield thuộc tiểu bang Georgia.

 

Năm 1973, Mỹ Dung cùng cháu trai Lance có dịp về thăm mẹ ở Việt Nam; dịp này chị cũng nhận lời bảo trợ cho Cô Nhi Viện Minh Trí ở Gò Vấp do Sơ Hồ Thị Trọng trông coi hơn 350 trẻ cô nhi trong điều kiện thiếu thốn. Khi trở về Hawaii, Hoa kỳ, Mỹ Dung đã liên lạc với Lois Taylors, một biên tập viên của tờ báo điạ phương Honnolulu Star Bulletin để Taylors viết một bài về sự thiếu thốn, khó khăn của Cô Nhi viện hòng vận động những tấm lòng thiện tâm. Nhờ thế Mỹ Dung đã nhận được sự trợ giúp của nhiều người, nhiều giới… Vài tháng sau, Mỹ Dung lại có dịp trở về Sàigòn và mang theo một số vật dụng và tiền để giúp cho Cô Nhi Viện Minh Trí.

 

Một buổi sáng đầu năm 1975, khi tình hình chính trị và quân sự ở miền Nam đã quá rối rắm, thình lình Mỹ Dung nhận được 1 cú điện thoại “collect call” của một người Pháp tên là Jean Sagan ở Paris, Pháp quốc; ông này xưng là bạn của cha Mỹ Dung. Ông cho biết tình hình Việt Nam sẽ sụp đổ nhanh chóng và khuyên Mỹ Dung bằng mọi cách phải đem gia đình (mẹ và em) rời Sàigòn ngay. Chính ông Sagan đã khuyên Dung nên nói cho chồng (John Krall) biết và gặp Đô Đốc Gaylor, Tư Lệnh Hạm đội Thái Bình Dương để nhờ ông này giúp. Vì ông là người tốt bụng; ông ta sẽ giúp. Thật là một gợi ý đáng qúy trong khi Dung đang lo lắng không biết làm cách nào đem mẹ và em ra khỏi Việt Nam. (Chương 16)

 


 

Mỹ Dung nhớ mang máng là đã nghe ở đâu đó tên của ông Jean Sagan, nên lục tìm trong sổ điện thoại thì chợt nhớ ra rằng cách đây vài năm, chính ông Sagan đã gửi từ Paris một bì thư có chưá hình ảnh của cha chị, Đại sứ Đặng Quang Minh chụp chung với những cán bộ cao cấp trong hàng ngũ lãnh đạo CSVN như Hô Chí Minh, Lê Đức Thọ v.v… và một số hình ảnh của ông và người anh ruột Đặng Văn Khôi chụp trước điệm Cẩm Linh ở Nga sô.

 

Mỹ Dung bàn với chồng lúc đó đã lên Thiếu tá và John Krall quyết định nghỉ 30 ngày để bay sang Việt Nam một cách bất hợp pháp vì không kịp xin visa nhập cảnh VN, cũng như không có sự cho phép của đơn vị nhằm tìm cách đưa gia đình vợ rời VN. John đến Sàigòn nhưng tình thế lúc đó đã cực kỳ hỗn độn, anh làm đủ mọi cách vẫn không sao xin được giấy phép để đem gia đình nhà vợ đi, mà ngay chính bản thân anh cũng chưa chắc đã có chỗ để rời VN. Anh liền điện thoại từ văn phòng hãng thông tấn AP về Mỹ cho vợ và nhắc Mỹ Dung về lời cuả ông Jean Sagan nên gọi điện thoại xin gặp thẳng Thủy sư Đô Đốc Gaylor.

 

Ngay buổi sáng hôm nói điện thoại với chồng, Mỹ Dung đã gọi điện thoại cho Đô Đốc Gaylor, nhưng người tùy viên cho biết ông vừa ngủ, chị liền xin nói chuyện với bà Gaylor, sau một hồi do dự, người tùy viên cũng thông báo cho bà Gaylor. Sau khi nghe Dung trình bày, bà đã đánh thức Đô đốc dậy và đưa điện thoại cho ông. Mỹ Dung trình bày sự việc với ông và cho ông biết chị chính là con gái một ông Đại sứ CSVN ở Mạc Tư Khoa; trước tình trạng nguy cấp của Sàigòn, chị lo lắng đến sự an nguy của mẹ và em nên xin giúp đỡ đem họ rời khỏi Việt Nam; để đổi lại, Mỹ Dung sẽ cộng tác với chính phủ để làm mọi chuyện khi nào họ cần đến. Đô đốc hứa sẽ cử người tiếp xúc để tìm cách giúp cho gia đình Mỹ Dung. Sau 1 thời gian ngắn Dung đã nhận được điện thoại của Trung tá Dave Smith, nói ông sẽ đến nhà Mỹ Dung để bàn chuyện giúp đem gia đình nàng rời VN. Chưa đến 24 giờ sau, một nhân viên tình báo CIA tên là Bob Jantzen đã đến tiếp xúc với Mỹ Dung và đã lấy các chi tiết để giúp đem mẹ và em cuả chị rời VN đến nơi an toàn.

 

Ngày 23 tháng 4 năm 1975, gia đình của Mỹ Dung đã đến được Guam an toàn; 5 ngày sau, cả gia đình đã đến phi trường Honolulu, Hawaii để đoàn tụ với Mỹ Dung.

Ít ngày sau, vợ chồng Mỹ Dung qua trung gian của nhân viên CIA Bob Jantzen đã được gặp 1 người cán bộ tên là Robert Hall đến từ Washington DC. Sau lần gặp gỡ này, Mỹ Dung đã được bố trí làm việc cho CIA và sau vài năm hoạt động, có những lần vào tận hang ổ của CSVN ở New York, Washington DC, San Francisco hoặc Paris. Mỹ Dung đã phá vỡ các ổ CSVN nằm vùng nấp dưới danh nghiã các Hội Liên Hiệp Việt Kiều, Hội Việt Kiều Yêu Nước; qua đó những khuôn mặt cộng sản nằm vùng như Nguyễn Thị Ngọc Thoa (1 nữ cán bộ điều hành một mạng lưới tình báo của CSVN ở Washington DC), Nguyễn Văn Lũy (Chủ tịch Hội Việt kiều yêu nước ở San Francisco), Huỳnh Trung Đồng (Chủ tịch Hội Liên Hiệp Việt kiều ở Paris), Nguyễn Ngọc Giao (một cán bộ hoạt động về Việt kiều ở Pháp v.v… Nhưng vụ án lớn Mỹ Dung đã phá được là ổ gián điệp ở Hoa Kỳ là vụ Đại sứ VC Đinh Bá Thi, David Trương (tức Trương Đình Hùng, con trai của luật su Trương Đình Dzu, 1 ứng cử viên đối lập tranh chức Tộng thống với ông Nguyễn Văn Thiệu ở Miền Nam Việt Nam) và 1 nhân viên cao cấp tên Ronald Humphrey, làm việc ở Tầng lầu 7 Bộ Ngoại giao Hoa kỳ. Tất cả các nhân vật liên hệ bị ra toà và bị xử án (vì có bằng chứng cụ thể là những tài liệu đánh cắp bị cơ quan an ninh chụp được). Kết quả Đinh Bá Thi bị trục xuất về VN và bị chết trong một tai nạn xe do VC dàn cảnh vì nghi ngờ lòng trung thành của Thi; còn Trương Đình Hùng tự David Trương và Humphrey mỗi người lãnh 15 năm tù. Cho đến nay, những người này cũng đã mãn hạn án tù. Nghe nói Trương Đình Hùng đã sang Âu Châu sinh sống.

 

Trong thời gian từ 1975 đến 1977, Mỹ Dung đã nhiều lần gặp Cha mình: lần thứ nhất tại Tokyo, Nhật Bản khi Dung đọc trên tờ Japan Times thấy có đăng tin và hình của Đại sứ Đặng Quang Minh sẽ cùng 1 cán bộ sộng sản khác tên Đỗ Quang Oánh đến Tokyo để tham dự một Hội Nghị Quốc Tế về chống bom Nguyên tử. Quá mừng, Dung liền dắt theo con trai (Lance) bay sang Tokyo để gặp cha sau hơn 20 năm xa cách. Nhưng trái với những suy nghĩ về tình phụ tử, Dung đã nhìn thấy rõ hơn lòng trung thành của cha mình với chủ nghĩa cộng sản. Ông nhất định đổ diệt cho Đế quốc Mỹ và CIA đã giết Hải Vân và ông cũng nói với Dung rằng chính những kẻ này đã bắt ép mẹ và em của Mỹ Dung đi sang Mỹ. Cả hai điều này Mỹ Dung biết rất rõ là Hải Vân không bị ai giết cả mà chỉ là tai nạn, còn chuyện ép gia đình đi di tản, cũng chẳng có ai cưỡng ép mà do chính sự hy sinh của Mỹ Dung để cứu mẹ và em mình vì sợ hãi họ gặp hiểm nguy khi cộng sản xâm chiếm hoàn toàn Miền Nam.

 

Qua lần gặp gỡ với người cha ruột là một cán bộ cao cấp cộng sản, Mỹ Dung đã nhìn thấy hố cách biệt và những mâu thuẫn giữa cái nhìn từ hai phiá đối nghịch nhau. Ngay đứa con của Mỹ Dung, chỉ là một đứá trẻ 5 tuổi mà đã biết nhận xét về cộng sản khi cháu nói với người thông ngôn của ông ngoại mình (đại sứ Đặng Quang Minh) như sau:

 

-Tôi đã nghe nói cộng sản giết hại đàn bà và trẻ em ở quê hương của mẹ tôi.

 

Ông ta hỏi: “Cháu nghe ở đâu những điều đó?”

 

-Mẹ tôi giúp đỡ những người tị nạn. Họ đã kể cho mẹ tôi nghe những sự sợ hãi đối với cộng sản. Tôi hy vọng ông đừng gây tổn hại cho mẹ tôi và tôi.

 

Rồi cháu còn nói: “Tôi hy vọng rằng ông sẽ đối xử tốt với người Sàigòn. Tôi đã ở đó và họ rất tốt với tôi”.

 

Người thông ngôn bèn nói: “Tôi sẽ đối xử tốt với người Sàigòn. Cháu đừng lo”

 

Lance lại nói: “Cha tôi là một người Mỹ, nhưng ông ấy rất buồn khi thấy dân chúng bị cộng sản giết hại”

 

Mỹ Dung đã xin lỗi cha về những gì cháu Lance vừa nói, và ông Đặng Quang Minh đã cho rằng “người lớn đầu độc con nít về những điều như vậy, chứ con nít không đáng trách” (trang 246)

 

Trong lần gặp này, ông Đặng Quang Minh đã nói với Dung: “Ba không muốn làm con thay đổi, nhưng ba cũng muốn rằng con đừng hủy hoại niềm tin của ba” (trang 247)

 

Lần gặp cha thứ hai vào giữa tháng 9 năm 1975, Mỹ Dung cùng với mẹ (bà Trần Thị Phàm) sang Paris để gặp ông Đặng Quang Minh nhân dịp ông sang công tác ở đây. Lần gặp gỡ này, cả ông Đặng Quang Minh lẫn Phan Thanh Nam, xử lý thường vụ Đại diện của Chính Phủ Lâm Thời MTGPMN tại Pháp đều động viên mẹ và em của Mỹ Dung trở về VN; mà họ coi như đó sẽ là một chiến thắng lớn khiến đế quốc Mỹ phải bẽ mặt. Nhưng bà Trần Thị Phàm nhất quyết không trở về VN và cũng không dự bữa tiệc do Đại sứ VC Võ Văn Sung khoản đãi.

 

Sau khi cha rời Paris trên một chuyến bay của hãng Aeroflot, Mỹ Dung được đưa đến gặp Đại sứ Võ Văn Sung và ông này đã có ý định móc nối chồng của Mỹ Dung làm việc cho chúng sau này. Khi trở về Hoa Kỳ, Mỹ Dung được CIA yêu cầu dọn lên vùng Washington DC sinh sống. Phan Thanh Nam cũng tuyển mộ Mỹ Dung làm việc cho cộng sản để thu lượm tin tức trong chính quyền Hoa Kỳ và chúng khuyên Mỹ Dung phải giả vờ như là một người chống cộng. (nguyên văn: “You should even pretend that you are anti-communist” - Trang 322)

 

Ngày 13 tháng 12 năm 1977, vợ chồng Mỹ Dung cùng bà Trần Thị Phàm đến Heathrow, Anh quốc để đón ông Đặng Quang Minh. Sau đó lại có Hoà Bình, em của Mỹ Dung cũng sang bằng chuyến phi cơ khác. Gia đình đã gặp nhau trong những ngày Giáng Sinh lạnh giá ở Anh; mọi người nhân dịp này cùng kêu gọi ông Đặng Quang Minh hãy nghỉ hưu để đoàn tụ với gia đình, nhưng ông cương quyết từ chối, ngay cả việc ở lại căn nhà số 8 Regal Lane, Luân đôn. Nhân dịp này nhóm CIA đã có kế hoạch bắt cóc ông Minh nếu Mỹ Dung đồng ý; nhưng sau cùng chị đã từ chối thực hiện kế hoạch này.

 

Qua những liên hệ với Võ Văn Sung, Phan Thanh Nam, Đinh Bá Thi v.v… và các ổ cộng sản trá hình dưới các chiêu bài Hội Việt Kiều Yêu Nước, Hội Việt Kiều Đoàn Kết, Hội Ai hữu Việt kiều v.v… Hơn nữa được sự móc nối của Phan Thanh Nam để làm việc cho chúng; Mỹ Dung đã trở thành một gián điệp nhị trùng, xâm nhập vào hang ổ của CSVN tại Hoa kỳ và Pháp để phá vỡ một ổ gián điệp đã đánh cắp những tài liệu của chính phủ Hoa kỳ ở cấp cao. Việc này cũng dắt đến những hệ lụy bởi sự hăm doạ dưới hình thức thư nặc danh hoặc xâm nhập vào nhà riêng của Mỹ Dung để đập phá đồ đạc v.v… nhưng Mỹ Dung cương quyết làm một công việc phải làm là dẹp các tổ chức cộng sản đang hoạt động trên đất Mỹ. Toàn bộ những tên gián điệp cộng sản đã bị đưa ra toà và người nhân chứng trong vụ này là một người mang mật danh Keyseat có điạ chỉ ở nhà số 8 Regal Lane, Luân đôn; chính là tác giả của quyển sách Nghìn Giọt Lệ Rơi. Toàn thể những cán bộ điệp báo của CSVN đã bị đưa ra toà và bị giam giữ nhiều năm; riêng Đinh Bá Thi vì có quy chế ngoại giao nên bị trục xuất về nước và cũng bị cộng sản thanh trừng dưới hình thức tai nạn.

 

II. Con người cộng sản không chú trọng tình cảm gia đình:

 

Đọc từng trang sách cho đến trang cuối, gấp cuốn sách lại mà người đọc còn bâng khuâng. Những trang sách với giọng văn trong sáng, mạch lạc và lôi cuốn vì những pha gay cấn khi một người phụ nữ Việt Nam phải vào tận hang ổ của cộng sản ở Paris, ở New York, ở Luân đôn để làm gián điệp nhị trùng. Hấp dẫn và nghẹt thở không kém truyện của Ian Fleming hay Alfred Hitcock. Nhưng qua đó người đọc cũng ngậm ngùi trước sự hy sinh lớn lao của Mỹ Dung trước một người cha chỉ biết có những đồng chí và đảng. Ông quay lưng trước mọi lời năn nỉ của vợ con sau hơn 20 năm chia cách; thậm chí khi gặp nhau lần đầu tiên với con gái ở Đông Kinh (Nhật bản) ông đã không dám nhận Mỹ Dung là con gái ruột mà chỉ giới thiệu với các đồng chí của ông chị là người cùng quê. Tình cảm ruột thịt gia đình, nhất là tình cha con, tình vợ chồng sau 20 năm chia xa lẽ ra phải quyến luyến không rời khiến người đọc phải bồi hồi xúc động, nhưng ngược lại ông vẫn coi trọng đảng của ông, tổ chức của ông và các đồng chí của ông hơn. Hay nói cho đúng hơn con người cộng sản một khi đã tuyên thệ dưới cờ đảng, họ chỉ biết trung thành với đảng, nhắm mắt đi theo con đường của đảng, gạt bỏ mọi tình cảm huyết thống gia đình; vì vậy khi gia nhập vào cộng sản họ luôn luôn dùng từ “thoát ly gia đình” đã nói lên sự thoát ly mọi liên hệ, ràng buộc gia đình, vợ con, huyết thống; đối với họ chỉ còn có đảng là con đường duy nhất họ gắn bó đời họ. Sau ngày 30/4/1975, người dân Miền Nam, đã được chứng kiến những người cha từ trong rừng trở về và chối bỏ giúp đỡ, bảo lãnh con ruột của mình là quân nhân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà đang bị cộng sản giam cầm đầy ải trong các lò tập trung cải tạo; trong khi nếu đặt trường hợp ngược lại, người Miền Nam sẵn sàng làm mọi cách để cứu giúp kẻ thâm tình của mình. Trường hợp Dương Văn Minh che giấu người em ruột của ông, Dương Văn Nhựt là một cán bộ cộng sản ở trong nhà của Minh cả tháng trời là một thí dụ điển hình. Còn rất nhiều trường hợp khác như thế, người viết không liệt kê trong bài này.

 

Chính ông Đặng Quang Minh đã thú nhận qua câu trả lời Mỹ Dung khi chị nêu câu hỏi với ông về số phận những người tù binh Mỹ còn ghi nhận mất tích: “…but you must understand that before me is the party. It is not simple as you think” (…nhưng con phải hiểu rằng trước mặt Ba còn có đảng. Không đơn giản như con nghĩ đâu.) (Trang 243)

 

Mặc dù ông Đặng Quang Minh nói rằng: “…Ba không muốn tranh cãi với con. Ba không bao giờ muốn thay đổi tư duy của con. Nếu con cảm thấy hài lòng và sung sướng với niềm tin của con thì ba cũng cảm thấy hạnh phúc cho con. Gia đình thì rất qúy giá đối với ba, con biết không?”. Khi Mỹ Dung nói: “Ồ! Nhưng đảng lại qúy giá đối với ba hơn bất kỳ ai khác trong chúng con.” Thì ông đã xác quyết là: “Đất nước còn qúy giá hơn đối với ba”… (trang 254). Điều này đã chứng minh rằng đối với ông, gia đình chỉ là thứ yếu và lòng trung thành của ông đối với đảng còn nặng hơn bất cứ thứ tình cảm gia đình, thân tộc, huyết thống nào khác.

 


 


 

Trong lần gặp gỡ tại Anh quốc vào tháng 12/1977, ông Đặng Quang Minh được vợ (bà Trần Thị Phàm), hai người con gái (Mỹ Dung và Hoà Bình), cháu ngoại (Lance) đã cố thuyết phục ông nên xin nghỉ hưu để về sống chung với gia đình vì gia đình rất cần đến ông sau 21 năm dài chia xa. Nhưng ông đã nhất quyết từ chối vì theo ông: “đảng còn cần đến ông nên ông không thể trốn tránh nhiệm vụ” và cho dù ban ngày ông đến nhà Mỹ Dung để ở với vợ con, nhưng đến đêm ông nhất quyết đòi về ngủ trong phòng dành cho khách của Toà đại sứ cộng sản VN mà ông nói là để chấp hành quy tắc chung của đảng. Điều này đã chứng tỏ rằng: ông sống trong guồng máy của đảng cộng sản nhiều năm nên ông biết rõ sự kiểm soát chặt chẽ đời sống, tâm tư, tình cảm, cách sống của từng cá nhân trong guồng máy đó, nhất nhất đều phải tuân thủ theo sự giám sát, theo dõi của đảng; không thể trệch hướng. Đó là lý do ông nhất định phải trở về Toà đại sứ để ở chung với những kẻ tai mắt của đảng, nguyên tắc của cộng sản là kẻ này phải theo dõi kẻ khác để kịp thời báo cáo cho đảng như trong quyển Thằng Người Có Đuôi của nhà văn Thế Giang đã phơi bày rất rõ qua truyện ngắn Một Ngày Của Đồng Chí Chủ Tịch, cho thấy sự rình rập không phải chỉ ở trong dân chúng, đảng viên mà còn ở ngay trong hàng ngũ lãnh đạo với danh nghĩa “bảo vệ lãnh đạo”… :

 

“Người đàn ông già (đồng chí Chủ tịch) chợt yên lặng. Xoáy mắt nhìn tận đáy mắt người thư ký, ông hỏi nhỏ như toả hơi lạnh từ thân vào cái mặt trắng bệch:

 

– Anh bắt đầu làm việc cho Phạm Hùng từ bao giờ?

 

Người thư ký chết điếng người, nói không ra lời:

 

– Việc gì? Việc gì? Ý đồng chí muốn nói việc gì?

 

– Cái việc bẩn thỉu đó, việc nhòm lỗ khoá ấỵ

 

– Không. Không. Tôi chỉ giúp ông ấy những việc… những việc thuần túy theo chức nghiệp của mình thôi.

 

– Ờ… ờ cái nghiệp cũ ấy hả? Ta đã lôi anh ra khỏi cái nghề sát sinh, tắm rửa thay quần áo và mở cho một con đường thênh thang về chính trị, thế mà vẫn chứng nào tật nấy, ăn cháo đái bát, cái máu rình mò bẩm báo công an chưa nhạt được hả”

 

Cũng trong Thằng Người Có Đuôi, tác giả cho thấy vì sống trong một xã hội luôn bị rình rập cho nên cách sống cảnh giác đa nghi đã hằn sâu vào tâm khảm của một người tuy đã thoát khỏi vùng đầy nghi kỵ, tị hiềm mà chưa thể chặt đứt con ma nghi ngờ ra khỏi con người.

 

“Tôi không phải đoàn viên, chả phải đảng viên, chưa một ngày đứng trong cơ chế cộng sản; trong tôi không có những cuộc đấu tố rùng rợn, không có bội phản gỉa trá, nhưng thói đa nghi, đề phòng cảnh giác luôn luôn bắt tôi phải soi mói, phân tích và phê bình con người. Và với tính chất này, chế độ đã biến con người trở thành kẻ thù của con người.”

 

Qua những đoạn văn trên đây, người ta cũng đã nhìn thấy bản chất thật của cộng sản; nên việc ông đảng viên cộng sản Đặng Quang Minh phải từ bỏ thâm tình mà chỉ ở trong hang ổ, nơi có những đồng chí, đồng loại của ông là điều không có gì đáng ngạc nhiên.

 

III. Cộng sản tàn ác trả thù người dân Miền Nam:

 

Sau khi miền Nam bị rơi vào tay giặc cộng, biết bao thảm cảnh đã xảy ra cho quân dân Miền Nam từ những lần đổi tiền, từ những việc bắt buộc, cưỡng bách lao động người dân lên vùng rừng thiêng nước độc mệnh danh hoa mỹ Kinh Tế Mới, hoặc đi làm thủy lợi, từ những cuộc đánh tư sản mại bản làm một cái cớ để tước đoạt tài sản của nhân dân, từ những cuộc đẩy người dân ra biển cho họ chết vì giông tố bão bùng và hải tặc (mà cái đau đớn là nạn nhân phải bỏ tiền ra để mua lấy cái chết) vân vân…. Dù tác giả Mỹ Dung không trực tiếp chứng kiến thảm trạng đó sau khi Miền Nam thân yêu lọt vào tay giặc nhưng chị cũng đã viết lại thảm cảnh này qua lời kể của ông Huỳnh Ngọc Châu bạn của ông Đặng Quang Minh (cha của tác giả), một kỹ sư Dầu Hỏa làm việc cho Hãng Dầu Esso Oil Company; (ông Châu cũng là con rể của một nhà báo cộng sản là Cao Minh Chiếm, người đã bị chính quyền Miền Nam trục xuất ra Bắc năm 1965 và sau đó được cộng sản đưa sang Pháp để làm công tác tuyên truyền) trong Chương 23 từ trang 324 đến 329 khi chị đến nhà ông Châu ở số 15 đường Rue de Savoir, Paris để thăm ông. Cuộc đánh tư sản và chiếm đoạt tài sản của người dân đã được Mỹ Dung kể lại tóm lược như sau:

 

Gia đình Ông Châu là một gia đình thân cộng, cha cuả ông Châu là ông bà Huỳnh Ngọc Nhuận, một triệu phú ở Miền Nam từng che giấu nhiều cán bộ cộng sản trong nhà ở Gia định. Ông Nhuận lại là bạn của Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Gia đình ông bà Nhuận là một gia đình giàu có, làm chủ nhiều ruộng đất ở Đồng bằng Sông Cửu Long, có nhà ở Bạc Liêu, có biệt thự ở Sàigòn… Năm 1976, chính gia đình của ông Châu đã bị cả một Tiểu đội VC đột nhập vào nhà, bắt mọi người tập trung ở phòng ăn dưới họng súng AK 47 và bắt đầu lục soát nhà để tìm kiếm tiền và vàng. Sau đó đã tra hỏi bà Nhuận xem vàng và tiền giấu ở đâu. Khi bà nói không có tiền cất giấu thì chúng bèn lôi xệch bà khỏi ghế và bắt đầu nạt nộ, hăm doạ ông bà Châu. Hành động man rợ và vô nhân đối với một bà cụ 70 tuổi chỉ có cộng sản dã thú mới có can đảm làm. Sau đó chúng bèn bắt bà Nhuận đem đi mà chúng nói để tiếp tục điều tra. Còn mọi người trong nhà thì bị đuổi ra khỏi nhà và lùa vào căn phòng dành cho người giúp việc ở phía sau. Chúng nói là chính quyền cách mạng niêm phong nhà để điều tra và cấm mọi người không được vào. Ngay cả khi đứa con của ông bà Châu khóc vì khát sữa, bà Châu xin chúng cho vào nhà để lấy sữa cho con cũng bị từ chối.

 

Chỉ một thời gian sau, gia đình ông Châu được phép trở lại căn nhà, nhưng chỉ còn là căn nhà trống rỗng; tất cả đồ đạc trong nhà đã được cách mạng tịch thu hết. Chính quyền cách mạng cũng yêu cầu gia đình ông phải dâng hiến căn nhà cho chính quyền cách mạng vì nó quá lớn so với gia đình ông. Bà Nhuận, mẹ của ông Châu thì bị đưa đi giam ở nhà giam tỉnh Cần Thơ cách xa Sàigòn 400 Ki lô mét. Ông Châu phải đi tìm Nguyễn Hữu Thọ để xin giúp đỡ và Thọ đã đích thân đi xuống Cần Thơ để can thiệp thả bà ra. Lúc đó ông Châu mới biết những người cộng sản đã cưỡng đoạt hết mọi đất đai, ruộng vườn, nhà cửa của gia đình ông bằng cách ép buộc mẹ ông (bà Nhuận) phải ký giấy dâng hiến cho chính quyền cộng sản và chúng cho rằng như thế là trả về cho nhân dân.

 

Qua sự giúp đỡ của Nguyễn Hữu Thọ, ông Châu và gia đình đã được đưa đi Pháp để trị bệnh ung thư ruột.

 

Sau khi kể cho Mỹ Dung nghe câu chuyện của gia đình, ông Châu còn nói với chị: “Cháu phải chia xẻ câu chuyện này với chính quyền Hoa kỳ, nếu không phải giới báo chí. Đây là lúc Tây phương phải biết về sự ngu xuẩn và khờ khạo của họ khi họ đã làm trong chiến tranh Việt Nam. Henry Kissinger phải vùi đầu xuống bùn đen khi đã tham gia Hoà Đàm Ba Lê. Thuở đó Hà Nội đã đạo diễn gần như 85 phần trăm.”

 

Cộng sản thường dùng chiêu bài tuyên truyền lừa mị dân chúng là “họ đã giải phóng nhân dân, tầng lớp công nông ra khỏi sự áp bức của Mỹ – Ngụy và kể từ nay giai cấp công nông, bần cố nông sẽ là chủ của đất nước và chúng chỉ là những tên đầy tớ trung thành…”; nhưng bên cạnh đó, chúng luôn trương khẩu hiệu “Nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý và đảng lãnh đạo”. Người dân sau một thời gian đã nhìn rõ bộ mặt thật lưu manh, xảo quyệt và đê hèn của cộng sản. Những người chủ thì tiếp tục bị đày đoạ, bóc lột và bóp chẹt tự do còn hơn cả thời nông nô, phong kiến và ngày nay người ta thấy những tên đầy tớ trung thành của nhân dân ăn trên ngồi chốc, sống xa hoa vương giả, ở trong những biệt thự bề thế; trong khi tầng lớp chủ nhân thì bị đầy đoạ trong đói nghèo, khổ sở ở những nhà tranh xiêu vẹo, dột nát; có nhiều gia đình ở chung trong những căn nhà tối tăm ẩm mốc, chia xẻ với nhau từng manh chiếu hẹp dưới đáy sâu địa ngục (Hình ảnh này rẫy đầy ở Hà Nội, Hải Phòng, Sàigòn và nhiều nơi khác ở mọi miền đất nước). Chỉ cần ghé đến vườn hoa Mai Xuân Thưởng ở Hà Nội sẽ thấy hàng ngàn người dân “khiếu kiện kêu oan” sống cảnh màn trời chiếu đất để mong được những tên đầy tớ của nhân dân đang nắm giữ quyền lực trong tay ghé mắt đến cứu xét, giải oan cho trường hợp oan sai của họ thì sẽ biết những tên đảng viên cộng sản có “hiếu với dân” như chúng vẫn tuyên truyền ngoài cửa miệng hay không.

 

Qua câu chuyện này cho chúng ta thấy con người cộng sản không có nhân tính chúng chỉ muốn trả thù quân dân Miền Nam bằng mọi cách để tước đoạt tài sản, sinh mạng, của cải vật chất của người dân Miền Nam kể cả những cách man rợ nhất. Đây chỉ là một câu chuyện liên quan đến một gia đình có nhiều liên hệ với cộng sản mà còn bị chúng tước đoạt tài sản do công sức mồ hôi nước mắt của chính gia đình nạn nhân qua nhiều thế hệ; sau ngày đen tối 30/4/1975 còn hàng nhiều trăm ngàn, hoặc cả triệu trường hợp bi thảm hơn thế nữa xảy ra cho nhân dân miền Nam mà cộng sản thường gọi chung là bọn ôm chân đế quốc Mỹ. Bao nhiêu sinh linh đã chết dưới bàn tay độc tài khát máu của cộng sản, bao nhiêu thảm trạng nhà tan cửa nát, bao nhiêu người bị lùa vào các ngục tù trên khắp mọi miền đất nước? Ở đâu cũng là nhà tù, chỗ nào cũng là trại giam. Từ Bắc chí Nam, từ thành phố đến nông thôn, từ hải đảo đến rừng sâu núi thẳm… nhà giam mọc lên như nấm để giam cầm, đầy ải quân dân cán chính miền Nam. Chưa nơi nào trên thế giới lại có hệ thống nhà tù rộng lớn như ở Việt Nam sau ngày cộng sản cưỡng chiếm. Bất kể mọi phương tiện nào có thể giam cầm người dân là chúng trưng dụng hết từ nhà thờ, đình chùa, trường học, rạp hát v.v… đều biến thành những chỗ nhốt người. Chúng chỉ muốn trả thù người dân MiềnNam bằng mọi cách để cho họ đói rách, lầm than dưới tận cùng đáy sâu của mấy từng địa ngục.

 

IV. Ý chí cương quyết của tác giả đứng về chiến tuyến của tự do:

 

Đọc hết quyển sách, người đọc không khỏi bâng khuâng khi nhận ra rằng cuộc chiến tranh do cộng sản gây nên đã tàn hại bao nhiêu sinh linh vô tội của cả 2 miền đất nước, chúng đã dùng những chiêu bài bịp bợm, xảo trá để lừa gạt toàn thể những người dân lành ở cả 2 miền đất nước: ở miền Bắc thì bưng bít những sự thật, tuyên truyền và dùng bạo lực để cưỡng bách người dân ăn đói mặc rét để tập trung sức lực, tiền của vào xâm lược miền Nam tự do; ở miền Miền Nam thì dùng những xảo thuật tuyên truyền, lợi dụng vào tình cảm gia đình thân tộc của những người có thân nhân tập kết ra Bắc năm 1954, lợi dụng những mâu thuẫn và bất mãn xã hội kể cả việc dùng bạo lực trấn áp và đe doạ để lôi kéo người dân tiếp tay cho chúng. Tôi có một anh bạn mà tôi quen thời còn là học sinh trung học, gia đình sống trong một vùng xôi đâu ở nông thôn, năm lên 14 tuổi chỉ vô tình nhìn thấy một tên VC chui ra từ hầm bí mật khi đang đi rong chơi băt dế, hái hoa ở một ven rừng. Tên VC biết rõ gốc gác gia đình người bạn tôi nên chỉ hăm doạ và dặn không được tiết lộ cho ai biết rồi thả bạn tôi ra về. Khi về nhà, anh không dám kể cho ai nghe mà quyết giữ bí mật trong lòng, nhưng hôm đó có người chú ở trên Tỉnh về chơi và dắt anh đi lên Tỉnh để mua sắm sách vở, quần áo cho anh chuẩn bị nhập học, ngày hôm sau sẽ về. Chẳng may cũng trong đêm hôm đó, có một toán lính nhảy toán xuống vùng rừng đó, tuy chưa khám phá ra cái hầm bí mật, tuy chưa bắn chết tên VC trong hầm, nhưng VC đã nghi bạn tôi tiết lộ hoặc báo cáo tin tức cho quân đội quốc gia. Chúng liền cử người đến giết cả nhà gia đình người bạn tôi không từ già trẻ, trai gái, bé lớn… không chừa một mống với tội danh là “việt gian” sao mà giống trong truyện Cô Gái Đồ Long, Hân Tố Tố giết cả nhà Long Môn Tiêu Cục quá vậy? Cả gia đình chỉ còn một mình anh bạn tôi sống sót nhờ được người chú dắt lên Tỉnh mua sắm áo quần. Sau lần đó, người chú đưa anh lên Sàigòn và vào học chung trường với tôi; nhờ đó tôi mới quen anh và mới được anh kể cho nghe niềm đau u uất của gia đình anh. Những chuyện như vậy xảy ra rất nhiều khắp nơi ở Miền Nam làm những người dân lành khác chứng kiến phải sợ hãi, phải đóng góp nghĩa vụ luá gạo cho kháng chiến chống Mỹ cứu nước, hoặc phải làm giao liên, kinh tài, hoặc thu lượm các tin tức tình báo cho chúng mỗi khi chúng yêu cầu. Chống lại, không đóng góp, không làm việc cho chúng đồng nghĩa với phản động, đồng nghĩa với việt gian và số phận là cái chết không chỉ riêng bản thân 1 cá nhân mà là cả nhà.

Người ta cũng thấy trong thời gian chiến tranh, những người giã từ hàng ngũ cộng sản để hồi chánh với chính quyền quốc gia; cá nhân người đó đã được an phận sống trong phần đất tự do, dân chủ và nhân quyền, nhưng thân nhân của họ ở miền Bắc thì bị trù dập, dày đoạ đến khốn khổ; bị cúp lương thực, bị cắt tem phiếu, bị đuổi việc ở các xí nghiệp hoặc hợp tác xã, bị chèn ép đủ mọi cách… Hoặc trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm ở Miền Bắc, các văn thi nhạc sĩ dính dấp trong nhóm này đã bị trù dập nhiều chục năm dài, có những người đã chết trong nghèo đói như Nguyễn Bính dù đã cố phản tỉnh làm thơ bợ đỡ đảng; hoặc trong vụ án những người bị quy kết là tay sai của Nga chủ trương xét lại như Ung Văn Khiêm, Thiếu tướng Đặng Kim Giang, Trung tướng Nguyễn Văn Vĩnh, Vũ Đình Huỳnh và con trai là Vũ Thư Hiên v.v… và v.v…; không chỉ những cá nhân này bị tù đày mà thân nhân cùng gia đình cũng bị cô lập cũng bị vạ lây nhiều chục năm dài. Ngay ở thời buổi bây giờ, hơn 30 năm sau chiến tranh chấm dứt, người cộng sản vẫn trù dập những ai bất đồng quan điểm, không ngoan ngoãn cúi đầu làm một thứ lừa bị bịt mắt chỉ đi theo hướng của đảng đều bị tù đầy, sát hại mất mạng dù là những đồng chí đã từng sát cánh bên nhau trong chiến tranh như trường hợp Phạm Hùng, Hoàng Văn Thái, Chu Huy Mân, Lê Trọng Tấn v.v… và những kẻ công thần sau khi chanh vắt hết nước bị đào thải như Nguyễn Hộ, Nguyễn Văn Trấn, Trần Độ v.v… hoặc những người đã nhìn rõ bộ mặt thật của cộng sản nên đang ra sức đấu tranh cho dân chủ như Hoàng Minh Chính, Hoàng Tiến, Hà Sỹ Phu, Phạm Quế Dương, Trần Khuê, Nguyễn Khắc Toàn v.v… và v.v… cho thấy rằng chỉ cần đi chệch hướng của đảng đã vạch thì dù kẻ có công đến đâu cũng bị tiêu diệt và đảng vẫn là một nhúm người cấu kết chặt với nhau vì quyền lợi phe nhóm.

Nói như vậy để thấy cộng sản VN là những con người hẹp hòi, xảo quyệt, đê hèn, tàn ác với ngay cả đồng chí của chúng. Vì thế cho nên nếu qủa thật ông Đặng Quang Minh là một người thực tâm yêu nước như ông hằng ôm ấp mộng tưởng, nếu ông không bị chết sớm thì ngày nay ông cũng sẽ nhìn thấy rõ hơn bản chất của cộng sản và không chừng ông cũng sẽ bị đào thải như những người điển hình kể trên. Nhưng qua cách trình bầy của tác giả Đặng Mỹ Dung trong sách Nghìn Giọt Lệ Rơi và những lời đối đáp của ông, cho ta thấy ông là người trung kiên với đảng và lý tưởng cộng sản.

 

Chị Đặng Mỹ Dung là một người can đảm khi đã dứt bỏ tình riêng thân tộc để đứng hẳn về phiá chính nghĩa, để tiếp tay với cái tốt tiêu diệt cái xấu, kẻ ác và muốn làm như vậy chị đã hoạt động cho cơ quan tình báo trung ương của Hoa kỳ (CIA) là một điệp viên để xâm nhập vào tận hang ổ của chúng ở New York, Paris, Luân Đôn. Là một người phụ nữ, nhất là phụ nữ Việt, cái bản tính nhút nhát, và an phận thích lo việc trong nhà để phục vụ chồng con hơn là dấn thân trong những việc nguy hiểm ngoài xã hội. Nhưng trường hợp của chị phải chia đều tình nhà, nợ nước, phận làm con v.v…; chị vẫn chu toàn việc nhà lo cho chồng, nuôi nấng giao dục, dạy dỗ con nhưng vẫn hoạt động như một gián điệp nhị trùng xâm nhập vào những tổ chức của cộng sản VN để phá vỡ những ổ gián điệp của cộng sản. Cái ý chí cương quyết đứng hẳn về phiá “đại nghĩa thắng hung tàn” ấy phải là một quyết định can đảm và cứng rắn mới làm nổi. Những Đinh Bá Thi (đại sứ VC ở New York) đã bị chính quyền Hoa kỳ trục xuất, Trương Đình Hùng, Ronald L.Humphrey bị toà xử 15 năm tù; còn những tên cộng sản khác hoạt động ngụy danh dưới các tổ chức Việt Kiều Yêu Nước, Hội Liên Lạc Việt Kiều, Hội Đoàn Kết Việt Kiều v.v… như Huỳnh Trung Đồng, Phan Thanh Nam, Nguyễn Ngọc Giao, Nguyễn Thị Ngọc Thoa v.v… đều bị lộ diện và phải thay đổi điạ bàn hoạt động hoặc mai danh ẩn tích.

 

Hành động can đảm của chị Đặng Mỹ Dung cho ta thấy sự chọn lựa đúng đắn khi đứng hẳn về chiến tuyến của chính nghĩa tự do, dân chủ và nhân quyền để phá vỡ những ức chế, tàn ác và bất công mà cộng sản đã gieo rắc cho nhân loại nhiều chục năm qua cũng là một sự hy sinh lớn lao của cá nhân chị với thân tình ruột thịt là người cha ruột 21 năm xa cách của mình. Lần chia tay ở Luân đôn để tiễn ông về lại Việt Nam, chị đã thú nhận với ông là “Con chống cộng sản chứ con không chống Ba!” và đã nhận được câu trả lời lạnh tanh từ người cha: “Con là con. Ba là Ba. Ba không chịu trách nhiệm về những gì con làm.” (Giòng 21 và 22 Trang 395/ Chương 22).

Cuối cùng, người anh ruột của Mỹ Dung, Đặng Văn Khôi, một sĩ quan chuyên về hoả tiễn phòng không tốt nghiệp ở Nga, cũng đã thức tỉnh nhìn rõ mặt thật của cộng sản. Anh đã vượt thoát thiên đường đỏ của cộng sản vào năm 1986 và hiện định cư ở New York và sinh sống bằng nghề dạy đàn guitare. Ông Đặng Quang Minh cũng đã qua đời vì 1 cơn đau tim vào tháng 4 năm 1986 tại Việt Nam.

 

Cái hệ lụy của cuộc chiến tương tàn do cộng sản Việt Nam gây ra cho bao nhiêu gia đình nhân dân Việt đã khiến bao nhiêu “nghìn giọt lệ rơi” như trường hợp tác giả Mỹ Dung, nếu nhân lên chắc phải đến nhiều triệu triệu giọt lệ rơi trên khắp mọi nơi người Việt có mặt trên mặt hành tinh này vì họ phải lánh xa, thật xa thiên đường đỏ của đảng cộng sản mới được hít thở không khí tự do, dân chủ và nhân quyền mà không phải phập phồng lo âu vì bóng dáng của chiếc buá liềm cộng sản.

Chừng nào dân Việt mới không còn rơi lệ vì khổ đau hỡi những người vong bản cộng sản Việt Nam!

 

Vũ Uyên Giang

 

 

Friday, August 2, 2013

Dép râu, ngày về


 

 

 

"...trước mặt treo vắt ngang giữa hai cái lô cốt chằm chằm hai bên cửa ra vào, có hàng chữ màu vàng khè “Không có gì quý hơn Độc Lập Tự Do” phía trên hàng chữ “Trại Cải Tạo A30”. Mỗi lần như thế, hắn lại hình dung ra cảnh tú bà cho treo trước cửa nhà chứa của mụ, cái băng trắng chữ đỏ “Chữ Trinh đáng giá ngàn vàng”.

 

 

“Anh vừa từ trại Cải tạo ra, đang trên đường về, nên đành phải mang đôi dép này.”

 

Xin chuyển để quý hữu đọc lại "Dép râu, ngày về" - Nguyễn Bá Chổi.

 

Dép râu, ngày về

Sau ngày 30 tháng Tư năm 1975, hắn “được Cách Mạng khoan hồng nhân đạo tập trung để bảo vệ tính mạng cho, vì nếu để ở ngoài sẽ bị nhân dân trả thù”. Huyện Củng Sơn thuộc tỉnh Tuy Hòa là vùng hoạt động của “Cách Mạng” trước 75. Lúc mới “nhập môn” giữa vùng rừng núi này, mỗi lần đi ra ngoài “học tập lao động để sau này trở về không còn bóc lột như thời Mỹ Ngụy nữa, mà biết tự mình làm ra của cải vật chất hầu nuôi sống bản thân, gia đình và đóng góp cho xã hội”, hắn nơm nớp sợ đồng bào địa phương có tiếng là dân Cách Mạng, sẽ trả thù (thù gì thì hắn không biết), nếu họ bắt gặp và nhận ra hắn là “ngụy quân”.

Một hôm, trên đường đi “lao động là vinh quang” ngang qua khu chợ, có mấy người dân chạy theo đoàn tù binh. Hắn lo lo; đang lúc chuẩn bị tinh thần chịu trận “nhân dân trả thù” thì có người dí vào túi áo hắn gói thuốc lá Sông Cầu. Đó là một nhân dân hoàn toàn xa lạ. Hắn sững sờ, chưa kịp nói lời cảm ơn thì người đàn bà ân nhân đã lách vội vào đám đông như tìm đường chạy trốn. Từ đó về sau, nhiều người trong đám tù và hắn lâu lâu lại được “nhân dân trả thù” như thế; khi cục đường mía, lúc miếng kẹo lạc.

Lại một hôm, đám tù được thả lỏng phân tán mạnh ai nấy tự đi tìm... cỏ tranh để cắt (về lợp nhà). Hắn được một phụ nữ quần áo vá đùm vá đụp mặt hốc hác, chạy đến trước mặt, mắt dáo dác ngó trước ngó sau một vòng rồi dí vào tay cho cái bánh ú làm bằng bột củ sắn mì với nhân hột mít. Chị ta nói “Anh ăn cho đỡ đói. Bây giờ chúng tôi mới hiểu ra..., và thương các anh quá”.

Không thấy “Nhân dân trả thù” mà chỉ gặp nhân dân “Thương các anh quá”, nhưng Cách Mạng vẫn nhất quyết tiếp tục “Bảo vệ tính mạng cho Ngụy quân ngụy quyền, những kẻ có tội với nhân dân mà lấy hết trúc Trường Sơn làm bút, lấy sạch nước Biển Đồng làm mực cũng tả không xiết”. Tháng lại tháng. Năm qua năm. Đêm đêm nằm nêm cối đến ngộp thở trong những dãy nhà được bao bọc bởi nhiều lớp kẽm gai xen kẽ lớp xương rồng rồi lớp mìn bẫy, lớp hầm chông. Ngày ngày đi ra ngoài làm đủ thứ công việc của người tù khổ sai. Khi đi lẫn lúc về, đoàn tù binh phải dừng lại nơi cổng ra vào để lính gác đếm. Đi, đếm rất mau; về, vừa đếm vừa khám xét khắp người tù xem có lận theo trong túi áo thắt lưng con cóc con nhái, con rắn con rít, hay cọng rau nạm cỏ (Như cỏ sam heo ăn được là tù ăn được)... gọi chung là những thứ “Cải thiện linh tinh” bị cấm ngặt, nên trong khi chờ đợi, cứ phải ứa gan với cái bảng đỏ to tổ chảng trước mặt treo vắt ngang giữa hai cái lô cốt chằm chằm hai bên cửa ra vào, có hàng chữ màu vàng khè “Không có gì quý hơn Độc Lập Tự Do” phía trên hàng chữ “Trại Cải Tạo A30”. Mỗi lần như thế, hắn lại hình dung ra cảnh tú bà cho treo trước cửa nhà chứa của mụ, cái băng trắng chữ đỏ “Chữ Trinh đáng giá ngàn vàng”.

“Ngày như lá tháng như mây”, chỉ là với thế giới bên ngoài. Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại. Hắn thường bày tỏ rằng, nhờ Ơn Trên phù hộ hắn mới qua khỏi hơn 2500 cái “thiên thu tại ngoại”, để có ngày được “Cách mạng khoan hồng” cấp cho tờ “Giấy Ra trại”. Trên đường về với gia đình tận vùng Cao Nguyên, hắn phải ghé lại Nha Trang để chờ mua vé xe cho chặng đường cuối. Hắn đi lang thang để nhìn lại cảnh cũ người xưa nơi thành phố mà hắn đã qua nhiều thời kỳ gắn bó. Thuở nhỏ “du học”; lớn đi thi Tú Tài; mấy tháng học Không Trợ tại Trường Không Quân, và những lần “quá cảnh” trên đường đi đi về vê. Người thiếu nữ đầu tiên đi qua đời hắn cũng từ bãi thùy dương cát trắng này. Nha Trang đã là một phần đời hắn.

Hắn đi ngang quầy bán thuốc lá lẻ bên lề đường Nguyễn Hoàng. Bỗng dưng hắn nhớ và thèm một điếu thuốc CAPSTAN ngày nào. Sau khi tính nhẩm và chắc chắn số tiền Trại cải tạo cấp cho theo tiêu chuẩn nhà nước làm “của ăn đi đường” còn đủ để mua được hai điếu thuốc lá Song Long (hắn biết giá thuốc vì Trại thỉnh thoảng có mua giùm cho những ai có tiền cần mua), hắn mạnh bạo tiến đến phía quầy bán thuốc. Đã gần bảy năm, nay hắn mới được thấy lại nụ cười chào khách của những người bán thuốc lá bên đường mà trước kia hắn thường gặp. Hắn hân hoan như vừa tìm lại được một điều gì quý hóa đã mất từ lâu lắm. Nhưng bỗng dưng hắn chưng hửng khi thấy mặt cô gái bỗng nhiên tối sầm lại và tỏ vẻ dửng dưng với khách. Hắn ngạc nhiên trước thái độ thay đổi đột ngột của cô gái. Hắn kiểm điểm lại mình, và đinh ninh mình không hề có cử chỉ khiếm nhã nào hay nói năng gì khác ngoài lời hỏi mua thuốc lá. Hắn sực nhớ lúc nãy cô gái có liếc mắt xuống đôi chân hắn. Hắn chợt thoáng “lý đoán” ra nguyên nhân. Nhìn thẳng vào mặt cô bán thuốc, với vẻ nghiêm trang, hắn nói :

“Anh vừa từ trại Cải tạo ra, đang trên đường về, nên đành phải mang đôi dép này.”

Khi hắn vừa mới nói đến “Anh vừa từ trại cải tạo ra”, cặp mắt cô gái sáng lên và đôi má cô ửng hồng, nhếch lên để lộ ra cái núm đồng tiền. Hình như cô muốn nói điều gì mà không cất lên được. Cô luống cuống lấy trong hộc ra gói thuốc Hoa Mai còn nguyên rồi bằng hai tay đưa lên sát ngực hắn, với ánh mắt thương cảm trìu mến :

“Anh cầm lấy, em biếu anh. Rất tiếc không còn thuốc trước 75.”

Hắn đã bỏ hút thuốc từ lâu, nhưng vẫn nhớ mãi gói thuốc của ba mươi năm về trước. Mỗi tháng Tư về, hắn lại càng thấy món nợ hắn mắc mỗi to hơn. Không phải nợ cái gói thuốc lá cô gái biếu. Nhưng là nợ chính cuộc đời cô mà hắn đã không bảo vệ được. Để ít ra cô khỏi phải nhìn thấy những đôi dép Tháng Tư.


Nguyễn Bá Chổi

__

Thursday, August 1, 2013

CHÂN TƯỚNG BỌN DÂN BIỂU GIA NÔ ẤN QUANG VÀ VGCS NẰM VÙNG (1971-1975)


 

Date: Thu, 27 Jun 2013 13:32:16 -0700
Subject: Bọn Ăn Cơm Qu ốc Gia Th ờ Ma Cộng Sản C ô ng Kha i Xuất Đầu Lộ Diện T ại Hải Ng oại (Phương Nam 54)
From:
 

THƯ SỐ 1

CHÂN TƯỚNG BỌN DÂN BIỂU TAY SAI ẤN QUANG VÀ VGCS NẰM VÙNG

Gửi anh Cựu Dân biểu BS Đinh xuân Dũng,

Tôi là Bút Xuân Trần Đình Ngọc, GS, nguyên là Dân Biểu Hạ Nghị viện VNCH, Chủ tịch Ủy Ban Phát Triển Nông Thôn từ 1971-1975 xin có lời chào và thăm anh.

Đọc qua lá thư của anh và của anh Hồ ngọc Nhuận, nhất là của anh HNN, thú thực tôi muốn ói mấy lần.

Tôi tởm lợm các anh, những tên VGCS trá hình trong Hạ nghị viện 1971-1975 vì đến bây giờ, anh Dũng nói rằng anh sắp về với đất, nhưng anh vẫn mù lòa và đầu óc như đứa con nít, không nhìn ra những sai trái mà Khối Dân tộc Xã hội (Đối lập CP Nguyễn văn Thiệu) đã gieo tang thương cho miền Nam nói riêng và Dân tộc VN nói chung.

Tôi không phủ nhận rằng CP đệ nhất và đệ nhị VNCH có khuyết điểm, (ngay CP Hoa Kỳ, Nam Hàn và Nhật nhiều trào cũng đầy khuyết điểm, nói gì một nền Dân chủ tự do non trẻ  của miền Nam từ 7-7-1954, từ khi TT Ngô đình Diệm về nước chấp chính, du kích VGCS phá mỗi đêm, DB đối lập nhưng thực sự là tay sai VGCS nằm vùng trong Quốc hội là các anh phá mỗi ngày...) nhưng cái mà dân chúng miền Nam vẫn một lòng tin theo Chính Phủ VNCH miền Nam, là họ được sống cuộc đời tươi đẹp nhất trong 20 năm (1954-1975) so với các chế độ đã có ở VN từ 200 năm nay, nhà Nguyễn và thực dân Pháp, đâu cần phải so sánh với chế độ  nông nô thời Trung cổ như anh Dũng đã đưa ra trong cái nhà tù lớn là cả nước VN của VGCS. Dân miền Nam tới ngày nay vẫn còn thương mến chế độ VNCH và TT Ngô đình Diệm, một vị TT đặt quyền lợi của nhân dân và đất nước lên trên hết như mọi người và cả quốc tế nhìn nhận trong 9 năm làm việc của ông. Dù có quá nhiều khó khăn về mọi lãnh vực, lại nữa VGCS quấy rối từng giờ nhưng CP của TT Ngô đình Diệm đã long trọng ban bố Dân chủ, Tự do, Dân quyền trong đó hầu như mọi quyền của công dân các nước Dân chủ văn minh Tây phương được hưởng thì công dân miền Nam đều được hưởng bình đẳng và rộng khắp, không phân biệt giai cấp, giàu nghèo, già trẻ, tôn giáo, nam nữ.

Nếu không có thế, các anh và tôi không thể lọt vào Hạ Nghị Viện qua một cuộc bầu cử công bằng (ở đâu tôi không biết nhưng đơn vị tôi và với chính tôi thì rất công bằng và xứng đáng vì cử tri đưa tôi vào HNV, không ai khác. Riêng các anh, phần đông là do sư sãi tay sai VGCS tức Ấn Quang đưa vào chứ thực sự tự thân không vào được.)

Vì các anh (mắc nợ Ấn quang) và nghe theo bọn VGCS bán nước nên từ đầu tới cuối các anh phá nát Hạ Nghị Viện (HNV) và QLVNCH cũng như chính quyền miền Nam. Các anh đã chặt tay chân các anh mà không biết bởi nghe lời xúi dại của bọn VGCS. 

Tôi không có giờ để đưa ra hết chi tiết chỉ xin trưng một số, nhớ chừng nào viết ra chừng đó, tất nhiên còn nhiều thiếu sót (bổ túc bằng loạt bài Sau Bức Màn Nhung Hạ Nghị Viện VNCH, cùng tác giả).

- Bất cứ Đề luật (hay Dự luật)nào Hành pháp đưa qua HNV, bất biết phải trái các anh cũng chống đến cùng. Hành pháp muốn A để điều hành việc nước cho thuận tiện và dễ dàng, các anh biểu quyết B hoặc ngâm tôm đó không biểu quyết.

Những tên Dân biểu Ấn Quang như các Việt gian Cộng sản Hồ ngọc Nhuận, VGCS Phan xuân Huy, VGCS Đinh văn Đệ (tên đã giết 40 Địa phương quân và Nghĩa quân tỉnh Bình Thuận khi y là Tỉnh trưởng tại đó) VGCS Nguyễn văn Binh (trưởng Nhóm Dân biểu QG, bỏ phiếu theo Đối lập. Nhóm này gồm Nguyễn văn Binh, Đỗ sinh Tứ, Nguyễn trọng Nho (hỗn danh: vua biểu tình hồi còn SV, một tên mặt dày dựa vào Phật giáo quậy nát Sàigòn cùng với bọn VGCS tay sai các sư đầu trọc Ấn Quang như Huỳnh tấn Mẫm, Lê văn Nuôi, Đoàn văn Toại…), Trần văn Ân, Dương minh Kính, Nguyễn văn Kim, Nguyễn đức Cung, Nguyễn văn Cử (phi công bỏ bom Dinh Độc lập), Nguyễn minh Đăng, Nguyễn tuấn Anh, Đặng văn Tiếp (thực sự khi nói đến những tên này tôi muốn ói mật xanh mật vàng vì chúng thua súc vật. Hãy coi mấy đần tướng, như tên phản chủ Tôn thất Đính, chánh án, LS… mới đây theo lệnh VGCS tổ chức 50 năm chúng giết ông Thích Quảng Đức, rồi hô hán là tự thiêu, vào hùa với VGCS là biết lòng dạ chúng xưa nay ăn cơm QG mòn mõm nhưng đâm người QG lút cán.). 

Khối đối lập tay sai VGCS gọi là Khối Dân tộc Xã hội (cái tên đã thấy mùi tanh máu của CS) còn có Lê đình Duyên (sau này thay Trần văn Tuyên làm Trưởng Khối khi TVT xin nghỉ), Nguyễn ngọc Nghĩa, Trần văn Sơn, Trần văn Thung, Nguyễn văn Phước (2 tên), Đoàn văn Mại, Lý trường Trân, Kiều mộng Thu, Hồ văn Minh, Phan Thiệp, Hồ ngọc Cứ, Nguyễn công Hoan (tên đổ xăng giết sống TT Quảng Đức, hiện đang ở San Jose), Hồ văn Kỳ Trân (con cụ Hồ biểu Chánh (?), Trần văn Tuyên (VNQDĐ), Nguyễn Mậu, Lý quý Chung, Nguyễn hữu Chung (hai tên Chung này là cánh tay mặt của tướng Mặt thịt ngu đần Dương văn Minh, chăm chăm làm TT miền Nam để giao miền Nam cho VGCS) Trần cảnh Chung, Phạm Thái v.v...mà tôi nhớ không hết. Bọn Liếm đít Hồ chó minh này, quyết tâm quật ngã VNCH để dâng miền Nam cho Hồ chó đẻ, chúng làm mưa làm gió tại HNV vì ỷ vào quyền bất khả xâm phạm của DB mà Hiến pháp VNCH rất tôn trọng chứ nếu ở nước khác như Đài Loan, Indonesia, Nam Hàn v.v…thì dễ gì chúng  giở giói được và cũng bởi vì các CP nền đệ nhất và đệ nhị quá tôn trọng Dân quyền, Dân chủ nhất là TT Ngô đình Diệm. Một số tên như VGCS Hồ ngọc Nhuận, huỳnh tấn Mẫm, Lý chánh Trung… nay đang ở Sàigòn, VGCS bỏ tù người yêu nước như các cháu Phương Uyên, Đinh Nguyên Kha và nhiều anh hùng khác, những tên này câm, không há họng được một lời, đủ biết chúng chỉ bắt nạt CP Cộng hòa đã hết sức dân chủ với chúng và bọn trọc vô liêm sỉ đứng đầu là Quảng Độ, Nhất Hạnh, Minh Châu, Đôn Hậu, Hộ Giác… 

-Chính vì bọn phá hoại tay sai VGCS này mà hầu như không Đề luật nào ra được nếu không có lợi cho VGCS. Ngày đó, anh em DB QG chúng tôi đã coi chúng là cánh tay dài của VGCS và đề phòng rất gắt nhưng những tên Việt gian Võ long Triều, Việt Gian Lý quý Chung, và Việt gian Ngô công Đức đã dùng các tờ báo Đại dân tộc, Điện tín, Tin sáng để lái dư luận quần chúng miền Nam, vốn ngây thơ chưa từng biết bọn VGCS ác ôn ra sao cho đến sau 30-4-1975 mới bể mặt, mất hết tài sản cả tính mạng thì sự đã rồi.

Ngay Luật Ngân sách rất cần kíp cũng không được biểu quyết kịp thời vì chúng chuyên môn tẩy chay, theo lệnh của VGCS, nên không có tiền trả lương cho quân sĩ và công chức. Chúng muốn làm thế - theo lệnh từ Hà Nội - để gây khó cho các giới chức Hành Pháp và Quân đội. Nhiều binh sĩ bị chậm lương lại nghe bọn chúng xúi giục liền làm reo, không đi hành quân, không làm nhiệm vụ nữa, ấy là chúng đã thắng lợi. Chính tôi đã đọc những báo cáo âm mưu bỉ ổi này và nhiều báo cáo quan trọng khác khi tôi đang là Chủ tịch Ủy Ban Phát Triển Nông Thôn Hạ nghị Viện. Người binh sĩ chỉ mong tới đầu tháng lĩnh lương đưa cho vợ chi trả mọi thứ, bọn DB phản động đối lập VGCS trì hoãn, làm reo, tẩy chay… không chịu cùng ngồi thảo luận biểu quyết. Chúng phơi cái mặt dày bỉ ổi ra, không nghĩ đến dân chúng nhổ vào mặt  để "chơi" một ván bài ù lì, ngoan cố của những  tên tay sai Vẹm phá hoại  ngu đần và ương ngạnh đến nỗi có bạn đồng viện không thuộc phe nào tức quá phải gọi chúng là “bọn mất dạy  tay sai VGCS Hồ chó đẻ" (Danh từ chó đẻ đã có từ hồi đó).

Hồ ngọc Nhuận, Phan xuân Huy, Kiều mộng Thu, Nguyễn văn Binh, Nguyễn ngọc Nghĩa... chính là những tên phá hoại cuồng điên nhất. Hàng ngày, tại Diễn Đàn HNV, chúng thay nhau lên phát biểu chỉ trích, bôi bác QLVNCH và CP các cấp, người dân, vì trình độ dân trí còn thấp kém, một số đã tin theo những lời quỉ mị của chúng, theo chúng phá hoại miền Nam. Những trận đánh giữa QLVNCH và bọn VGCS Sinh Bắc tử Nam bị bọn thầy chùa Ấn Quang và bọn Dân biểu Đối lập này bóp méo, vu vạ, bôi bác để quốc tế và dân miền Nam luôn luôn thấy lỗi của QLVNCH còn bọn VGCS thì luôn có chính nghĩa và luôn thắng. Hỏi rằng DB Quốc Hội mà không yểm trợ QĐ của mình, lại ủng hộ giặc vào xâm lược, thế thì QĐ chiến thắng làm sao? Những tên khốn nạn thua súc vật này có tội lớn với miền Nam là nơi cưu mang chúng, hai nền Cộng hòa nuôi dưỡng chúng và gia đình, cho học hành thành tài mà chúng trả ơn như vậy. Nay sang đến ngoại quốc, chúng còn giở thói ăn cháo đái bát ra hỏi rằng người QG không lật mặt đểu cáng mất dạy của chúng thì hóa ra ngu xuẩn quá sao?   

- Chưa hết, bọn Dân biểu ác ôn Khối Đối lập HNV đứng đầu là VGCS Hồ ngọc Nhuận, Phan xuân Huy đã nhiều lần yểm trợ và đón tiếp ngay mặt tiền đình HNV bọn Huỳnh tấn Mẫm, Lê văn Nuôi, Ni sư Huỳnh Liên, con điếm Ngô bá Thành (do báo chí Saigon đặt),  bọn VGCS giả dạng thầy chùa trốn lính, xuất phát từ chùa Ấn Quang của tên VGCS Trí Quang và cả bọn ký giả CS cũng như thiên Cộng... làm loạn trong thành phố khiến Saigon trở nên một đấu trường loạn xà ngầu, dân chúng buôn bán không được nên oán trách CP và CP phải giới nghiêm, phải thi hành những biện pháp cứng rắn để bảo vệ công dân của họ vì họ có trách nhiệm nặng nề. Bọn DB đối lập dã man này đã làm cho CP miền Nam khg muốn bắt bớ mà phải bắt bớ rồi chúng ngoác họng la lên, gửi thư cho báo Mỹ, cho QH Mỹ tố cáo vi phạm Nhân quyền nhưng chính là từ mưu sâu của con cáo già Hồ tặc và thủ hạ mà bọn DB tay sai này tuân thủ hành động để có lợi về mặt tuyên truyền cho chúng.  

- Bọn DB Ấn quang tay sai VGCS này đã ỷ vào luật "Bất khả xâm phạm" của DB và Nghị sĩ làm những điều mà một Đại diện Dân, dù ở Mỹ, ở Pháp, không hề dám làm. Chúng dựa vào những tờ báo CS của các Việt gian DB Võ long Triều, Lý quý Chung, Ngô công Đức đánh phá CP miền Nam và QLVNCH khiến miền Nam phải cùng lúc đối đầu với nhiểu mũi xung kích: từ HNV là bọn DB đối lập, từ du kích và chính qui phá hoại cầu đường, đắp mô, bắn sẻ, pháo kích vào các đồn lũy của Quân sĩ VNCH hàng đêm, ban ngày chúng pháo cả vào chợ búa, trường học gây nên chết chóc đau thương, hỗn loạn, tang tóc không bút mực nào tả xiết. Nhưng bọn Dân Biểu khốn nạn này, ăn cơm QG thờ ma quỉ VGCS, chưa hề được một lời chia buồn, cảm thông với nỗi đau đớn của dân mà có lẽ chúng còn muốn VGCS tàn hại hơn nữa để chóng chấm dứt các nền CH miền Nam dâng miền Nam cho giặc Hồ chó đẻ. Những mũi xung kích này cũng từ báo chí thân CS hay đã là của CS như 3 tờ Đại Dân tộc của Việt gian Võ long Triều, Điện Tín của VGCS Lý quí Chung, và Tin Sáng của VGCS Ngô công Đức thi nhau đánh phá các DB QG có lòng yêu dân tộc đất nước, chúng chụp cho họ cái mũ gia nô phủ TT để họ “rét” mà câm miệng, mặc cho chúng đánh phá QLVNCH và Chính phủ. (Bọn văn nghệ sĩ miền Nam lúc đó có cây viết nhưng chỉ “chuyên trị” với Cậu Chó, Chú Tư Cầu, Vòng tay học trò, Ngựa Hồng, Mười đêm ngà ngọc, Chuyện chúng mình, Áo lụa Hà dông, Mèo đêm, Anh đợi em từ ba mươi năm, Lửa từ bi tào lao v.v…hưởng thụ rượu, thuốc phiện, ca ve, gái gọi, nhảy đầm, ngoại tình, hiện sinh, trốn lính, chửi bới CP gọi quân dịch, a dua với bọn tay sai VGCS như Vũ Hạnh và nhiều tên khác, không hề biết nước còn hay mất. Ngày nay Bút Xuân lôi những tên khốn nạn vô dụng này ra thì bọn Giaó điếm bảo là Bút Xuân nhục mạ cả nền Cộng hòa miền Nam. Thực là lưỡi không xương của bọn mất dạy đểu cáng tay sai VGCS.)

Trong khi đó, hàng chục SĐ quân BV vượt vĩ tuyến vào Nam cộng với 320,500 quân Trung cộng tấn xuống đánh hôi cho BV với 20 tỉ USD quân viện của riêng Trung cộng, lại còn của Liên Xô và các nước chư hầu. Chẳng phải ông TT Ngô đình Diệm và sau là TT Nguyễn văn Thiệu, chẳng phải QLVNCH gồm 1 triệu quân cả Nghĩa quân và Địa phương quân hãy cứ thử dùng toàn bộ Quân lực Hoa Kỳ (thời đó) và các ông TT Hoa Kỳ, đối phó với chiến tranh du kích phá hoại ngày đêm do VGCS chủ trương, thù trong giặc ngoài, không phải là dễ ăn! Và cũng bởi thế nên từ 1972, sau khi gặp Mao trạch Đông, TT Hoa Kỳ Richard Nixon, nghe theo lời cố vấn của TS giấy Henry Kissinger,  đã quyềt định bỏ VNCH cho kẻ thù.

Ở tình thế đó mà bọn đầu trọc dựa vào tôn giáo khích động phật tử đem bàn thờ Phật xuống đường phá rối trị an, nhà cầm quyền nào làm thinh cho chúng phá hoại như thế được. Chớ có gái đĩ già họng như bọn Giáo điếm mặt dày ngày nay! 

- Bọn Dân biểu Đối lập tay sai VGCS đã nhiều lần gửi thư cho TT và QH Mỹ yêu cầu ngưng viện trợ quân sự cho VNCH và yêu cầu quân Mỹ rút tức khắc. Hành động này phải gọi chúng là gì? Chắc hết danh từ vì chúng thua trâu chó, ngửa tay lấy sự sống cho chúng và gia đình từ miền Nam nhưng chúng chặt tay miền Nam, người thi ân cho chúng! 

- Bọn thờ ma VGCS này cũng đã gây mọi khó khăn về mặt Lập pháp, về uy tín của CP đối với quốc tế  bởi chúng chỉ cốt làm sao cho Mỹ rút cho nhanh và CP miền Nam đổ nhào, để chúng đón VGCS vào dâng miền Nam cho Hồ chó đẻ. 

-Bọn cùi hủi tởm lợm các anh đừng nói những chuyện lăng nhăng như tình tự dân tộc v.v...như lá thư thổ tả của tên Việt gian Hồ ngọc Nhuận kèm theo đây. Các anh đã quì mọp mà dâng miền Nam cho giặc và ngày nay thì thấy rõ: Hồ chó Minh mà các anh thờ phượng nhiều năm, có anh suốt một đời người, y đã dâng nước cho Tàu phù. Điều ấy đã quá rõ ràng không phải nghi ngờ gì nữa vì Tàu ở đầy khắp nước VN rồi. Về Bình dương, Hải phòng, Cao bằng Lạng sơn mà nhìn tận mắt. Trẻ em Mẫu giáo phải học tiếng Tàu và chữ Hán. Đời con các anh sẽ thấy Tàu đầy khắp, đời cháu các anh thì dân Tàu là đa số, dân Việt là thiểu số. Hãy chống mắt nhìn. Y như Tây Tạng. Khổ nhục hơn Tây Tạng gấp nhiều lần vì Tây Tạng còn nhiều nhà tu, họ coi cuộc đời như phù du. Người VN thì 70 năm nay học được cái vô đạo, vô luân, làm nghề đĩ điếm, cướp giật, đè hầu bóp cổ dân, tham lam ích kỷ, ăn cắp ăn trộm, tham nhũng thối nát hết thuốc chữa, gấp nghìn lần VNCH khi xưa,  chỉ muốn hưởng thụ và chửi tục cả ngày từ một đứa bé 6 tuổi, cả trai gái trong khi giáo dục xuống tới bãi sình: Tiến sĩ chưa xong trình độ tiểu học, cầu đường, đê đập chưa làm xong đã đổ sập vì nạn rút ruột của cán bộ lớn, tiền viện trợ của ngoại quốc (ODA) bị ăn cắp gần hết, các thế hệ mai sau còng lưng trả nợ chưa biết đời nào xong! 

-Các anh bảo lỗi tự ông TT Diệm, ông TT Thiệu, ai cũng có lỗi kể cả các anh. Các anh lu loa cho con nít nghe chứ nói phủi trách nhiệm như thế  chó không nghe được. Một ví dụ nhỏ: Các anh có nhớ ngày 19-1-1974 khi Hải quân VNCH  bị TC uy hiếp và chiếm Hoàng Sa, những người QG chúng tôi tổ chức họp hành, lên Diển đàn HNV phản đối, hô hào dân Saigon và các tỉnh xuống đường phản đối rầm rộ, làm Kiến nghị gửi lên LHQ nhưng không một người trong các anh tham gia. Mặt dơi phản quốc và xấu xa, bần tiện, thô bỉ, mất dạy đến thế là cùng! Cử tri nào muốn bầu cho các anh? 

Chuyện khác, khi chúng tôi phải lo chạy khỏi Saigon tránh bọn hiếu sát gian ác vì VGCS sắp vào tới nơi, các anh bình chân như vại, nhiều anh đeo băng đỏ làm việc cho VGCS trong đó có Nguyễn văn Phước xưng là Thượng Tá công an VGCS. Y bắt  anh em DB vào trình diện y, mặt vênh váo của kẻ tiểu nhân đắc chí. (Nhưng sau cũng đi tù cải tạo mờ người, VGCS vắt chanh bỏ vỏ, mụ Kiều mộng Thu hò hét cho đã sau 30-4-1975 phải làm bé thằng Xích điểu kiếm miếng cơm thừa. )

Chính anh Đinh xuân Dũng cũng ở lại làm việc cho VGCS mấy năm cho đến khi không còn ở được nữa, phải tháo chạy sang Hoa Kỳ. Có lẽ anh Dũng lạc quan nghĩ rằng sẽ được quyền cao chức trọng vì trước đây các anh đã dùng mõm bưng bô c. cho VGCS chứ khg ngờ múi chanh chúng vắt hết nước là quăng sọt rác. Rồi ĐX Dũng phải muối mặt đào thoát, hai ba lần bị bắt lại rồi mới trốn thoát, sang xin tị nạn nước Mỹ là nước khi xưa còn trong HNV, vì muốn lấy lòng VGCS, anh Dũng và cả bọn Đối lập các anh chửi Mỹ không còn thiếu danh từ bỉ ổi nào. Lẽ ra đầy tớ phải ở lại đồng cam cộng khổ với chủ là bọn VGCS, như con chó có nghĩa với chủ, dù chủ đối đãi mất dạy nó chũng không bỏ đi. Nhưng các anh đã thua giống chó mang cái mặt thớt sang xin tị nạn Hoa Kỳ là nước mà trước đây các anh chửi không còn chừa danh từ hạ cấp nào mà không biết nhục. Loại các anh, từ Hồ ngọc Nhuận, Phan xuân Huy, Trần văn Tuyên, Đinh văn Đệ, Nguyễn văn Binh, Hồ văn Minh, Lê đình Duyên, Nguyễn ngọc Nghĩa, Kiều mộng Thu, Ngô bá Thành, Ni Huỳnh Liên… cho đến anh cuối cùng Khối Đối Lập và Nhóm Dân biểu QG Hạ nghị viện của Nguyễn văn Binh, thua súc vật là vậy!

- Khối đối lập các anh mà những xú danh tởm lợm do Việt gian Hồ ngọc Nhuận viết dưới đây đã làm những điều ô nhục: sao không thẳng thắn ra đi như Nguyễn công Hoan mà lại núp bóng người QG rồi đâm sau lưng người QG một cách hèn hạ, tiểu nhân, ma cô đến thế. Chính anh LS Trần văn Tuyên, Trưởng Khối Đối lập của các anh, nguyên là VNQDĐ nhưng đã ngu và hèn, làm tay sai cho VGCS rốt cuộc chết vì quá uất ức trong lao tù CS.

LS Trần văn Tuyên nếu không ngu thì đã bị các anh cho vào xiếc, khi anh ta chết trong tù, chắc khg thiếu thành viên Khối Dân tộc Xã hội ngồi cười. 

-       Mất miền Nam khởi đầu là do tên Thích Trí Quang và bọn thầy chùa Ấn Quang thiêu sống ông TT Quảng Đức (Lâm văn Tức) âm mưu từ Hồ chó đẻ, Trí Quang và đồng bọn đạo diễn.

-       Từ cái chết đó, Hoa Kỳ nghi ngờ TT Ngô đình Diệm do bọn cận thần (entourage) báo cáo láo, TT Diệm lại quá cương với Hoa Kỳ nên gây ra  cuộc phản loạn 1-11-1963, bọn tướng tá khố đỏ khố xanh ngu dốt ươn hèn tham tiền tham chức  được Mỹ bật đèn xanh mà tên mạt tướng Dương văn Minh đứng đầu đã vì thù riêng sát hại anh em TT Diệm. Mỹ muốn loại bỏ TT Diệm  vì TT Ngô đình Diệm không nhượng bộ Mỹ, lại thêm bọn Thích trí Quang VGCS đội lốt thầy chùa kích động dân chúng quá ngây thơ biểu tình, xuống đường mà hóa ra miền Nam vô chính phủ cho đến khi TT Nguyễn văn Thiệu lên cầm quyền. Cá nhân tôi và nhiều người miền Nam không đồng ý với ông Thiệu nhiều điều nhưng quay đi ngó lại về nhà binh không còn ai hơn ông ta. Vả lại ông ta cũng chống VGCS hết mình và chẳng phải Thiệu, sự quậy phá của các DB đối lập tay sai VGCS, và VGCS có TC hỗ trợ mạnh mẽ, không chính phủ nào có thể chịu đựng được. Tôi đã nhiều lần biểu quyết tại HNV chống lại ông TT Thiệu, nhưng bảo tôi đi theo bọn ăn cơm QG thờ ma VGCS như đám Đối lập tởm lợm tay sai VGCS như các anh thì tôi khg làm. Ngược lại, tôi muốn nhổ toẹt vài bãi nước miếng vào mặt các anh, những tên Việt gian bán nước mang nhãn Dân biểu VNCH lừa dối và phản quốc, tội đáng tử hình.  

Thành ra tôi rất cô đơn trong Hạ Nghị Viện.

Bây giờ anh Đinh xuân Dũng, anh không còn than thở với ai được bởi chính các anh tự đâm vào tim các anh, tim vợ con các anh, đồng bào các anh. Lý quý Chung trước khi chết đã viết Hồi Ký vô đề, ăn năn sám hối vì trót theo VGCS. Trương như Tảng, Nguyễn hữu Thọ, Dương quỳnh Hoa sám hối ra sao, các anh đã biết. Anh nên đọc bài viết của Đoàn văn Toại, đồng chí của các anh thời đó ăn năn sám hối. Đoàn văn Toại sau này bị VGCS bỏ tù dã man. Một điều anh Toại mong muốn khi đang ở trong tù CS là anh ta chỉ mơ được ở nhà tù của Pháp (như bạn anh ta) chứ không dám mong về xum họp với vợ con. Thực dân Pháp mà Hồ tặc và bè lũ lớn tiếng chửi tàn tệ hút máu hút mủ dân VN, tàn ác dã man hơn beo sói thì cái nhà tù của thực dân Pháp lại là cái anh Toại và bạn anh ta mong được qua, thay vì ở nhà tù “quá êm ái nhân đạo” của VGCS như lời chúng tuyên truyền. Còn xã hội của Pháp thực dân khi xưa cai trị dân ta ngót 80 năm cho đến 1945 thì GS Nguyễn ngọc Huy bảo rằng hơn xã hội của Hồ tặc cả trăm lần.

Mikhail Gorbachev hối hận vì đã trót theo CS thế nào cũng như Boris Yeltsin cùng Gorbachev phản tỉnh và làm cuộc cách mạng Dân chủ thực sự cho dân Nga ra sao, các anh đều đã biết.

Cái đau là: các anh phá nát nghị trường của miền Nam rồi dâng miền Nam cho Hồ tặc chỉ để cho Lê Duẩn hạ bệ MTDTGPMN sau mấy tháng và ngày nay, hậu quả trong đó có sự cộng tác nỗ lực đêm ngày của các anh, Khối Dân tộc Xã hội HNV là: Tàu cai trị nuớc VN như nước ấy là của chúng rồi!

Dĩ nhiên lỗi không phải chỉ riêng các anh nhưng chính các anh, giới Lập Pháp,  đã góp phần không nhỏ vào việc dâng miền Nam cho Sói Hồ.

Chắc anh Dũng còn nhớ Họa sĩ Ớt tức Thượng tá công an CS Huỳnh bá Thành (HBT) thường vào HNV lấy tin cho Đại dân tộc và các báo khác. HBT ra Bắc được làm Đại biểu sau đó anh ta chết bất ưng một cách rất mờ ám. Việt gian Võ long Triều đã bao bọc cho HBT viết và vẽ biếm họa mỉa mai DB và Nghị Sĩ VNCH. Hồi ấy các anh hay gọi những DB, NS có tinh thần QG là gia nô. Hầu hết không phải như vậy nhưng các anh cố làm cho đồng bào khinh ghét DB có tinh thần Quốc Gia và chống VGCS để các anh được tiếng là Đối lập, ăn phiếu. Nhưng họ không biết rằng, giả sử gia nô nhưng không làm tay sai cho VGCS buôn dân bán nước thì vẫn hơn Đối lập. Đối lập đấy nhưng làm tay sai bưng bô bằng mõm một cách nhục nhã cho VGCS và có nhiều tên, bây giờ đang ở Hoa Kỳ hay Âu châu, làm những chức vụ như Đại tá, Chánh án, BS, Thẩm phán, Quận trưởng v.v…ban đêm vẫn rình cửa hậu chui vào lỗ chó đớp  tiền “pourboire” của phủ Tổng Thống, do Phụ tá Nguyễn Văn Ngân trao, để ngày hôm sau lặn, không bỏ phiếu, coi như vắng mặt. Những lúc khác chúng lại đưa cái mặt dày trâu chó lên Diễn Đàn HNV vỗ ngực xưng tên là DB đối lập, Nhóm này Khối kia, hươi hươi tự đắc mặt trơ trán bóng quá tởm. 

Các anh chính là một bọn mất dạy, vô nhân cách, đi theo những thằng giặc buôn dân bán nuớc không xứng đáng chức Đại biểu cho Dân. Các anh đã phản bội cử tri miền Nam vì cử tri không bầu cho các anh vào HNV để dâng miền Nam cho giặc. Ngày nay người  miền Nam vỡ lẽ ra thì đã mất hết: ruộng đất, nhà cửa, tiền bạc, vợ con và cả danh dự (coi bọn MTGPMN là rõ) Gái miền Tây đi làm điếm cả nửa triệu, không có gái Bắc. Người miền Bắc nay là chủ nhân ông các cơ sở đất đai, xí nghiệp, doanh thương, nhà phố ở Saigon và các thành phố lớn miền Nam mà khi xưa, những tài sản này của người Nam và người Trung. 

Tôi cứ nghĩ đến các anh trong Khối Đối lập Hạ Nghị Viện mà muốn ói mật xanh mật vàng. 

Đã 10 triệu dân Việt tức tưởi  nằm xuống cho cái lí tưởng khốn nạn tên xung kích gia nô quốc tế CS của Hồ tặc. Còn các anh thì làm gia nô cho hắn. Và sắp làm gia nô cho Tàu. Cháu trai các anh sẽ đi mò ngọc trai hay lên rừng tìm sừng tê giác. Các cháu gái thì sung vào phủ đệ của Tàu làm tì thiếp nếu có chút nhan sắc, già xấu thì làm ô sìn, tôi mọi, vài ngàn năm nữa. Dân tộc VN nguyền rủa các anh và tổ tiên các anh cũng như tên giặc Hồ dâm tặc chó đẻ và đồng bọn cho đến khi không còn một người Việt. Thế giới tận cùng!

Tôi nghĩ tới đâu gõ tới đó, nén giận mà gõ để giới trẻ đều biết cái bản mặt thổ tả dã man khốn kiếp bán nước của các anh, những DB đối lập tại HNV/VNCH trước 4-1975 nên câu văn không trau chuốt và còn nhiều thiếu sót, nhưng thực sự là lòng chân thành. (còn tiếp)

Chào anh BS Đinh xuân Dũng

GS Bút Xuân Trần Đình Ngọc

Cựu DB Hạ nghị viện VNCH 

Cựu Sĩ Quan QLVNCH (khóa 13 Thủ Đức)

 

---------- Forwarded message ----------
From: tanh nguyen <

Date: 2013/6/27
Subject: Re: Fwd: [ChinhNghiaViet] Bọn Ăn Cơm Quốc Gia Thờ Ma Cộng Sản C ô ng Khai Xuất Đầu Lộ Diện Tại Hải Ng oại (Phương Nam 54)

 

Cám Ơn Phương Nam 54 đã vạch mặt các tên Cộng Sản nằm vùng! Bây giờ chúng ta đã biết rõ bộ mặt của chúng thì phần còn lại sẽ là hành động của quý vị tỵ nạn cộng sản Việt Nam tại địa phương là làm sao dẹp sạch chúng?

 

From: San Le D. <sanduyle@yahoo.com>
Sent: Thursday, June 27, 2013 11:01 AM
Subject: Re: Fwd: [ChinhNghiaViet] Bọn Ăn Cơm Quốc Gia Thờ Ma Cộng Sản C ô ng Khai Xuất Đầu Lộ Diện Tại Hải Ng oại (Phương Nam 54)

  

KHONG VE VIET NAM NEU CON VIET CONG (KVVNNCVC)MUON CHONG TAU CONG PHAI DIET VIET CONG (MCTCPDVC)MUON DIET VIET CONG PHAI DIET VIET GIAN (MDVCPDVG)

 

Xin Nguyện Cầu:

*1/ Việt Cộng chết hết và chết một cách thảm khốc.

 *2/ Thân Cộng (ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng sản), VGCS chết hết và chết một cách thảm thương.

 *3/ Những kẻ có những lời nói, hành động đánh phá tôn giáo hoặc vô cớ mạ lỵ những ngưòi chống Cộng làm lợi cho Việt Cộng hay cố ý gây chia rẽ hàng ngũ người Việt Quốc Gia cũng chết hết và chết một cách thảm hại. 

 
----- Forwarded Message -----
From: Vie^.t Si~ <
Sent: Wednesday, June 26, 2013 10:55 PM
Subject: [diendanchinhtri] Bọn Ăn Cơm Quốc Gia Thờ Ma Cộng Sản Công Khai Xuất Đầu Lộ Diện Tại Hải Ngoại (Phương Nam 54)
 
Bọn Ăn Cơm Quốc Gia Thờ Ma Cộng Sản Công Khai Xuất Đầu Lộ Diện Tại Hải Ngoại. 
Thưa quí vị, 
Trước năm 1975. Bọn ăn cơm QG thờ ma CS không dám công khai xuất hiện trước mặt dân miền Nam. Chúng chui rúc trong nhiều vỏ bọc khác nhau nào là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, Phong Trào Tranh Đấu Cho Đạo Pháp của khối Ấn Quang và dưới nhiều danh xưng khác, chung qui cũng chỉ là hổ trợ cho bọn ma đầu ngu si rước con quỉ đỏ  CS Hà Nội  vào dày xéo, tàn phá Miền Nam Việt Nam.
Thực sự thì mọi người đều cảm thấy căm ghét khi các thế lực ngoại bang đến phóng uế lên đất nước, nhưng chúng ta không cảm thấy đau cho bằng khi có người cùng màu da chủng tộc, những con người đã từng hưởng ơn mưa móc của hai nền Cộng Hòa miền Nam , nhờ đó mới có được những mảng bằng cấp, được trọng vọng, được gọi là dân trí thức của QG mà lại tiếp tay cho CS tàn phá giang sơn gấm vóc, tàn phá đạo đức luân lý bao đời ông bà tổ tiên khổ công gầy dựng, việc làm vô lương tâm của bọn này làm di hại đời đời cho dân tộc Việt.
Thưa quí vị.
Một trong những nguyên nhân gây bất hạnh cho cả một miền Nam chính là sự vô liêm sĩ của bọn tự xưng là trí thức đầu trâu mặt ngựa này đây.
Hiện bây giờ, chúng ta đã thấy hàng ngũ  những kẻ phản bội không còn dấu tên che mặt dưới nhiều hình thức của đoàn thể QG như trước nữa mà chúng đang xuất đầu lộ diện.
 Căn bệnh phản bội của bọn trí thức khoa bảng và của bọn đầu trọc trong GHPGVNTN  được chúng ngang nhiên công khai cho mọi người nhìn thấy qua sự việc những tên như Thích Nguyên Trí, cựu phản tướng Tôn Thất Đính, đại tá lê Khắc Lý, Chánh án Nguyễn Trong Nho. Nhà báo Vũ Ánh, GS Trần Quang Thuận, Đào Văn Bình, GS Nguyễn Sâm, nhà Báo Nguyễn Thanh Huy v.v...bọn trí thức ngựa này sát vai cùng bọn đầu trọc  mày trơ trán bóng trong cái gọi là GHPGVNTN hải ngoại  trong  buổi lễ truy điệu  cho tên Thích Quảng Đức bị chúng đem ra đốt vào đầu năm 1963.
Bất hạnh cho quê hương đất nước là trước đây bọn người khoa bảng này đã dùng sự hiểu biết của mình để tiếp sức cho quỉ đỏ phương Bắc vào nuốt trọn miền Nam.
 Điều mai mĩa là bọn trí thức ngựa này không hề biết nhục nhã, muôn kiếp chúng không bao giờ biết xấu hổ .
Hiện nay hàng ngủ phản bội này dần dà công khai xuất hiện. Càng ngày càng nhiều. Trong đám này có người tuy đã qua cái tuổi thất thập cổ lai hy nhưng lữa dục vọng không hề tắt. Chúng vẫn tôn thờ miếng đỉnh chung. Thay vì lén lút như trước đây,  nay chúng công khai bạch hóa sự phản bội này qua việc nhịp nhàng tung hứng  đọc những bài diễn văn ca tụng công đức của Thích Quảng Đức và cùng với bọn đầu trọc trong GHPGVNTN hải ngoại, chúng ra công tô son trét phấn cho lũ ác quỉ trong nước nhờ số đông phật tử nhẹ dạ cả tin vào những thủ đoạn của bọn đầu trọc trong GHPGVNTN và đám phản tướng cùng lũ khoa bảng vô liêm sĩ kia... 
Thật chẳng còn ngôn từ nào đễ diễn tả cho chính xác cái vô liêm sĩ của  bọn khoa bảng và những ông bà “chủ tịch” của các cộng đồng Người Việt tị nạn CS khắp nơi trên thế giới khi họ ngậm tăm trước sự việc bọn đầu trọc  trong cái gọi là GHPGVNTN tại hải ngoại phỉ báng TT NGô Đình Diệm qua cái màn “suy tôn” Thích Quảng Đức , người bị chúng đem ra đốt để có cớ lật đổ nền đệ nhất Cộng Hòa.
 Phương Nam tôi lấy làm lạ  rằng ngày nay “ chế độ ngoại bang của TT Ngô Đình Diệm” đã cáo chung, sao bọn các người không ở lại VN để cùng đảng CS hưởng thanh bình tự do no ấm, để được ghi tên vào bảng nhà văn, nhà báo, giáo sư, chánh án của  cái gọi là xã hội chó ngựa mà các người từng thần tượng? Các người chạy theo chúng tôi ra hải ngoại làm gì?
Chúng tôi ra đi vì không muốn nhìn những bộ mặt phản phúc của những tên khốn nạn đâm sau lưng cha anh chúng tôi là những người Lính VNCH , chúng tôi ra đi vì chúng tôi bị đày đọa trong nghèo đói,  chúng tôi ra đi vì không chịu nỗi cảnh “ ngồi trên ăn trốc” của đảng viên CS. Chúng tôi bất mãn vì cung cách cư xữ với công nhân tàn tệ, ti tiện, tàn nhẫn của các “đồng chí giám đốc”ở các hảng xưởng, công ty xí nghiệp, chúng tôi ra đi, một sống chin chết liều mạng để ra đi vì không muốn con cái chúng tôi đói rách, thất học nghèo nàn. 
Phần các người thì sao: Ngụy tạo những màn kịch tranh đấu dổm, đem đồng đạo mình ra thiêu làm để làm  bàn đạp, bắc cầu xây cống cho CS phương bắc tràn vào giết hại dân lành của miền Nam. Cái gọi là “ cách mạng” của các người thành công vẻ vang rồi, sao các người không ở lại mà hưởng cái miếng đỉnh chung của bọn CS ban cho?
Quả thật các người quá ư khốn nạn. Ngày trước các người ẩn mình, núp dưới nhiều danh xưng ngụy tạo , các người giúp cho CS tạm thời che dấu nanh vuốt làm cho dân chúng không nhìn ra được bộ mặt gớm guốc của chủ nghĩa CS. Các người  là những tên phản tướng, các người là  những tên khoa bảng vô lương tâm tiếp tay cho bọn đầu trọc trong khối Ấn Quang, dùng sự mê muội của tín đố để giết chết vị nguyên thủ QG đã khó nhọc trăm chiều đễ mang cơm no áo ấm cho dân lành là cố TT Ngô Đình Diệm khả kính.
Ngày nay, bọn CS có tôn trọng quyền làm người không? Dân chúng có được sống mãy may được một ngày không lo đói lo  nghèo chưa? Có phải đầu óc của các người chứa toàn bả đậu hay cứt chó nên không hiểu, mắt các người đui rồi nên không nhìn thấy?
Ba mươi tám năm trôi qua kể từ khi mất miền Nam nhờ cái cái tấn tuồng nướng Thích Quảng Đức bỉ ổi của khối Ấn Quang năm 1963 đó đã làm nền cho CS ‘chiến thắng”..,  và cũng nhờ sự đóng góp không nhỏ của đám phản tướng và những tên khoa bảng vô liêm sĩ như các người nên ngày nay mới có một Việt Nam tụt hậu, nghèo đói, rách nát thảm thương tự vật chất tới tinh thần.
Cái chết của Thích Quảng Đức chính là một án mạng mà hung thủ là bọn  VC đầu trọc trong khối Ấn Quang không phải là các người không hiểu, không biết. Các người có ăn có học, có bằng cấp các người thừa biết sự việc Liên Hiệp Quốc đã đến VN điều tra và họ đã công tâm mà chứng minh rằng TT Ngô Đình Diệm không hề đàn áp Phật Giáo. 
Vậy cớ gì ngày nay các người đồng lòng với CS dựng lại vở kịch Thích Quảng Đức bị thiêu để phỉ báng một chính thể rất đáng được suy tôn của người dân miền Nam?
Nhìn bộ mặt bỉ ổi của những tên phản tướng Tôn Thất Đính, đại tá Lê Khắc Lý,  và những tên khoa bảng hiện diện buổi lễ suy tôn tên hòa thượng bị thiêu  năm 1963 mà thương  và tiếc cho dân miền Nam thưở  trước.Thương cho họ đổ mồ hôi, cực nhọc giải dầu mưa nắng, cày sâu cuốc bẩm đem hoa mầu cơm gạo nuôi một bọn phản bội Quốc Gia.
Thương cho người Lính Việt Nam Cộng Hòa đem máu xương tưới khắp non sông để che chở cho đám phản tướng phè phởn ở thành phố và một bọn khoa bảng nhưng lại có cái đầu trâu mặt đâm sau lưng họ.
Dân chúng miền Nam không hề lên tiếng chán ghét chê bai hai nền chính thể Cộng Hòa của họ ngày trước, nhưng bọn phản tướng, những tên trí thức ngựa, bọn đầu trọc của khối Án Quang vô lương tâm đã đặt vào miệng dân chúng những điều mà họ không hề nói. 
Người Lính Việt Nam Cộng Hòa không hề đánh thuê cho Mỹ như tên VC nằm vùng Thích Quảng Độ lên án, mà cha anh chúng tôi, những người Lính VNCH rất can đảm khi thi hành nhiệm vụ vì lý tưởng cao đẹp : Bảo Quốc An Dân.
Dù ngày nay. Quân đội VNCH không còn nữa nhưng tinh thần bất khuất và lòng dũng cảm hy sinh của người Lính VNCH vẫn sống, vẫn tồn lại trong lòng mọi người, qua không gian, qua thời gian, qua con cháu hậu duệ của họ.
Để những người Lính VNCH của chúng tôi đã qua đời hay còn đang đau buồn sống đời lưuvong ở hải ngoại hoặc còn sống lây lất đời tàn phế bên VN không tủi hổ. Chúng  tôi nhất định lên tiếng phản bác những tên phản tướng, những tên trí thức ngựa tại hải ngoại khi nhìn thấy họ trong các buổi suy tôn tên hòa thượng bị thiêu Thích Quảng Đức.
 Hành động này có nghĩa là họ đang công nhận bọn CS là có chính nghĩa! Là đâm vào tim những người Lính VNCH của miền Nam thân yêu!
Thưa quí vị,
 Bọn đầu trọc ngày nay trong chùa Điều Ngự và các chùa khắp nơi trên thế giới đang công khai vinh danh Thích Quảng Đức thì chẳng khác nào họ thừa nhận CS có quyền , họ muốn CS  tiếp tục lãnh đạo đất nước trong lúc ai ai cũng đã biết bàn tay của đảng CS bao phen đẩm máu đồng bào qua nhiều giai đoạn. Từ trước năm 54, Mậu Thân 68 và sau tháng tư đen 1975.
Đúng là một bọn đầu trọc  mày trơ trán bóng và một lũ đầu trâu mặt ngựa nhờ cơm áo của hai nền chính thể VHCH mà lại ăn cháo đái bát, bọn vô liêm sĩ..
Điều mà bọn người này nên làm khi sống được ở hải ngoại là dùng sự hiểu biết cuối đời của mình để tạ tội với Tổ Quốc, để chứng minh cho thế giới biết thế nào là bộ mặt thật ghê tỡm của CS, nhất là đảng CSVN. Chứng minh cho thế giới thấy rõ VNCH của chúng là Chính Nghĩa. Quân Đội VNCH của chúng ta chiến đấu cho Chính Nghĩa . Phải đánh tan cái luận điệu ba que xỏ lá của tên tội đồ dân tộc Vỏ Văn Ái và Thích Quảng Độ, Thích Nhất Hạnh tuyên truyền rằng  quân đội VNCH của chúng ta là lính đánh thuê cho ngoại bang.
Đã không làm được việc đó thì tốt hơn là im lặng. Im lặng còn đỡ tội lỗi hơn là vác mặt tới ngồi chung với những tên sư hổ mang, những tên ác tăng trong GHPGVNTN đễ cùng CS diễn lại vở kịch “nướng sư” năm xưa để cố tình phỉ báng chính thể VNCH của miền Nam trước kia.
Qủa thật là bọn người này đang công khai, lợi dụng bầu không khí tự do của các nước tự do để đưa cho chúng ta thấy bàn tay lông lá của chúng vẫn vươn dài về bên VN để tiếp tục chống đỡ cho đảng CSVN đứng vững muôn đời!
Chúng tôi, những người Việt tị nạn CS khắp nơi trên thế giới lấy làm ghê tởm khi nhìn thấy bộ mặt bỉ ổi của bọn này. Chúng tôi nhất định tẩy chay lên án những tên trí thức ngựa đang tàn nhẩn đùa cợt trên nổi đau mất nước của toàn dân trong nước và của cộng đồng người Việt tị nạn CS khắp nơi trên thế giới.
Ngày trước bọn người này đã giúp CS  dùng chiêu bài úp mỡ “ chống ngoại xâm, giải phóng dân tộc” đễ gán cho CS nhãn hiệu chính nghĩa.
Ngày nay  đa số tín đồ  trong nước  phải trả cái giá quá đắt vì sự cuồng tín của họ đã nghe theo bọn đầu trọc trong GHPGVNTN nên đã chuốc lấy cái họa CS và gây tai hại cho toàn dân miền Nam Việt Nam. Bọn đầu trọc này đã cho CS cái phần thưởng ghê gớm là một miền Nam bị phá hủy hoàn toàn kể cã luân lý, đạo đức suy đồi.
Tội ác này của các người con cháu đời sau không bao giờ tha thứ.
Chúng tôi chưa hề quên một quá khứ đau thương của người dân miền Nam nên không thể chấp nhận và tha thứ cho những phần tử, những đảng phái, nhất là những tên trí thức ngựa đang ngang nhiên coi thường cộng đồng Người Việt Tị Nạn CS qua việc hiện diện trong các buổi “ vinh danh” Thích Quảng Đức là một sự việc mà bọn CS mượn để khuấy động lòng cuồng tín của dân chúng hầu giật sập chính thể đệ nhất CH và phỉ báng TT Ngô Đình Diệm.
Ngày nay hầu hết mọi người trong và ngoài nước đều nhận rỏ đảng CS VN đã gây vô vàn tội ác cho toàn dân Việt. Đảng CS VN là tác giả của tất cả mọi thảm họa của dân tộc đã gánh chịu trong hơn 60 năm qua, vì vậy CS không còn lý do gì để tồn tại trên quê hương chúng ta, cần hợp sức nhau để vạch mặt lên án chúng, phải tìm mọi cách để triệt tiêu chúng.
Thay vì tiếp tay với Ủy Ban Truy Tố Tội Ác Đảng CS VN thu thập tài liệu chứng minh để lôi chúng ra trước tòa án Quốc Tế thì lại có một bọn người được gọi là nhà báo, nhà văn là giáo sư,  chánh án ngu xuẩn, tán tận lương tâm công khai ngồi chung với bọn VC đội lốt sư sãi trong GHPGVNTN hải ngoại để phỉ báng TT Ngô Đình Diệm người đã ban phát ơn mưa móc để cho họ trở thành những nhà khoa bảng...
Các tên phản tướng Tôn Thất Đính , Lê Khắc Lý, cùng những  chán án, nhà báo nhà văn, giáo sư : Nguyễn Trọng Nho, Vũ Ánh, Trần quang Ánh, Đào Văn Thuận v.v....và v.v...Nếu muốn vinh danh đảng CS thì hảy về VN đến trước tượng đài của "liệt sĩ " Thích Quảng Đức mà vinh danh. Hãy về VN tìm tới Thích trí Quang, Thích Quảng Độ để học cho thuộc cái bài học vắt chanh bỏ vỏ mà đảng CS dành cho những tên xanh vỏ đỏ lòng bán rẻ lương tâm phản bội quê hương.
Cho dù ở hải ngoại không ai đánh đổ nồi cơm của các người nhưng xin nhớ cho rằng : rắn chết để da, người ta chết để tiếng. Xú danh của các người sẽ lưu mãi thiên thu cho đến ngàn sau, hởi những tên trí thức ngựa và những tên phản tướng , những tên ác tăng ăn cơm QG thờ ma CS.
Chúng tôi và con cháu chúng tôi sẽ nguyền rủa các người cho đến muôn đời.
26-6-2013
Phương Nam 54.

 

 

Thư số 2

CHÂN TƯỚNG BỌN DÂN BIỂU GIA NÔ ẤN QUANG VÀ VGCS NẰM VÙNG (1971-1975)

Bài: GS Bút Xuân Trần Đình Ngọc

Cựu DB Quốc Hội VNCH

 

Thưa Bạn đọc,

Cùng anh BS cựu Dân Biểu Bình Thuận Đinh Xuân Dũng và các anh trong Khối Đối lập “Dân tộc xã hội”, các DB ngoài Khối nhưng bỏ phiếu theo Khối Gia nô Ấn Quang này. 

Trước hết tôi xin minh định là tôi chỉ nói lên Sự Thật, Lẽ phải và Dân tộc trên hết, không thù oán và cũng không lợi dụng Diễn đàn hay hoàn cảnh mà chửi bới cho đã nư như nhiều người thiếu hiểu biết kết luận.

Tôi thiển nghĩ trong tình hình tối quan trọng của nước nhà như hiện nay, giặc Tàu kẻ thù truyền kiếp của dân tộc VN đã chiếm gần hết đất nước cha ông truyền lại cho chúng ta, dù chỉ trùm chăn là đã có tội với tiền nhân, anh thư, anh hùng đem máu xương ra dựng nước và giữ nước. Hơn nữa, tôi cũng không muốn các con và cháu tôi sau này chúng xấu hổ vì có người cha, người ông đê hèn, làm tay sai cho giặc bán nước, danh xấu muôn thu. Như Hồ tặc, tướng cướp, không ai có cái may mắn như y, dù được hưởng mọi thứ sung sướng và gáí gẩm như thế - theo tôi là chẳng đáng - nhưng tiếng xấu bán nước muôn đời, thực là quá uổng phí một kiếp làm người! Năm 1945, y khéo gạt gẫm nên cả nước bị lừa, rồi cai trị bằng AK, mã tấu, hộ khẩu, chó săn công an và nhà tù gần 70 năm nay biến nước Việt thành một núi xương sông máu, với 2 cuộc chiến vô ích mà người chết về tay y đã cả 10 triệu để y dâng nước cho Tàu. Bọn người ở các thế hệ cha tôi, anh tôi và tôi cũng như trẻ hơn vào năm Hồ cướp chính quyền 1945, nhất là người miền Bắc, đã giúp dập Hồ, a dua với Hồ, phá hại nước Việt đến nỗi ngày nay, không một quốc gia nào trên thế giới nghèo đói, mất tự do, con người thua con thú như người Việt Nam.

Bọn Dân biểu gia nô Ấn Quang trong Hạ Nghị Viện (HNV 1971-1975) chính là một Nhóm người phản quốc này (trong nhiều triệu, là đảng viên đảng Vẹm, cao cấp như Võ nguyên Giáp, thấp nhất như một tên lính Sinh Bắc tử Nam) mà tôi đang đề cập với bạn đọc. Phải lật mặt chúng cho các thế hệ trẻ sau này không lầm lẫn, người có công với đất nước và những kẻ có tội kẻo bọn VGCS chuyên gian dối lừa gạt, và những kẻ chạy theo chúng vì chức vị, tiền bạc, nhẫn tâm bán nước cho Tàu phù. Cụ thể tại hải ngoại là bọn Sách Liếm (không phải Sách Hiếm) cũng là bọn Giáo điếm, theo lệnh VGCS Hà Nội, đã đánh phá người QG và chính nghĩa QG từ 22 năm nay. 

Bài này và bài số 1 đã trình bày với bạn đọc cũng là để gửi Việt gian CS Dân biểu gia nô Ấn Quang Đinh xuân Dũng (dân biểu Bình Thuận, hiện đang ở Hoa Kỳ) cùng tất cả bọn Dân biểu VGCS gia nô Ấn Quang trong HNV. Bọn này, đứng đầu là bốn tên VGCS Hồ ngọc Nhuận, Đinh văn Đệ, Nguyễn văn Binh và Phan xuân Huy, ỷ vào Hồ chó Minh, cả bọn đã làm mưa làm gió trong HNV trong suốt nhiệm kỳ DB Pháp nhiệm 2 từ 1971-1975. Trước đó, chúng đã quậy nát, nhưng tôi chỉ nghe mà chưa vào Quốc Hội nên không tường thuật lại đây vì không mục kích, chính mắt mình thấy.

Bọn DB VGCS nằm vùng phá miền Nam, dâng miền Nam cho giặc Hồ này có thể coi đây là một bản Kết án, Tố cáo Tội ác chúng đã làm khi xưa (và cả ngày nay, nếu có), khi chúng nhân danh là những Dân biểu bất khả xâm phạm theo Hiến Pháp VNCH. Mục tiêu của chúng cũng như bọn VGCS Ấn Quang giả sư ni, Phật tử dựa vào Phật giáo đánh phá hai nền Đệ nhất và Đệ nhị VNCH là:

-      Quân đội Mỹ phải rút tức khắc khỏi VNCH.

-      Chấm dứt các quân viện từ Mỹ cho VNCH, các DB gia nô này cũng như bọn đầu trọc Ấn Quang, tay sai VGCS, đã nhiều lần đăng báo Mỹ, riêng lẻ thuyết phục chính khách Mỹ cũng như lấy tư cách Khối Đối lập gửi Nghị quyết cho Tổng Thống và Quốc Hội Hoa Kỳ về việc này.

-      Gây hỗn loạn trong thủ đô Sàigòn , Huế đô hoặc các thành phố lớn bằng những cuộc biểu tình dùng sinh viên, học sinh phật tử làm thành phần nòng cốt, mang theo bàn thờ Phật bày la liệt trên đường, ngăn cản Cảnh sát hoặc Quân đội giải tán, mang micro phát thanh ngày đêm chửi rủa Chính quyền VNCH và chính quyền Mỹ, nêu đích danh các Tổng Thống VNCH ra chửi rủa như hàng tôm hàng cá, phá phách không cho dân chúng làm ăn buôn bán, rù quyến và đe dọa họ đi theo VGCS ủng hộ tiền bạc, tuyên truyền, công tác v.v…nếu không muốn bị làm khó dễ. Khi có Cảnh sát can thiệp thì những tên Dân biểu tay sai VGCS này là các anh nhào vào đánh nhau, níu kéo với Cảnh Sát để giải cứu đồng bọn (nếu bị Cảnh Sát bắt đi v.v…) vì bọn Dân biểu gia nô VGCS này tin vào cái quyền bất khả xâm phạm của chúng mà Hiến pháp VNCH qui định.

-      Rù quyến báo chí Sàigòn về phe viết bài có lợi cho VGCS, chính những DB khối đối lập này đã hoạt động không công vô cùng đắc lực cho VGCS vì tin vào những lời hứa suông, khi “cách mạng” thành công, chúng sẽ được trả công đích đáng.

-      Nhờ những cuộc biểu tình xuống đường này mà Ấn Quang chứa chấp được hàng ngàn tên thanh niên trốn quân dịch, tụ tập tại nhiều chùa chờ lệnh xuống đường cùng với biểu ngữ và loa phóng thanh, có rất đông ni chúng và nữ sinh là thành phần dễ tin thiếu hiểu biết,phá nát thành phố Sàigòn. Xin mở một dấu ngoặc: Tổng Thống, Thủ tướng nào có thể ngồi nhìn cho bọn phản loạn này dựa vào Phật giáo để làm loạn, gây mất an ninh cho đồng bào? Nếu có Tổng Thống hoặc Thủ tướng nhu nhược, đê hèn như thế, không dám dùng quyền để bảo vệ dân chúng, họ có xứng đáng là Tổng Thống hay Thủ tướng không, trong khi bọn nổi loạn rõ ràng là bọn VGCS, chỉ còn thiếu lá cờ máu? Nhưng đến nay một bọn thổ tả mặt dày viết bài lên án rằng tối ngày này, tối ngày kia chính quyền VNCH bắt đi bao nhiêu người biểu tình, bao tăng ni v.v…Chúng cào đầu ăn vạ mà không thấy rằng chỉ có vài thanh niên như Phương Uyên, Đinh nguyên Kha mà lực lượng Cảnh sát công an VGCS đã kéo tới cả dăm trăm tên để đàn áp vài người này! Nhưng Đào văn Bình, Vũ Ánh, Vũ Ngự Chiêu, Huỳnh tấn Lê vẫn câm như thóc không há mõm được một câu. Xem thế đủ biết chúng thuộc thành phần nào! 

Đó là hành động hàng ngày của bọn Hồ ngọc Nhuận, Phan xuân Huy, Nguyễn văn Binh, Đinh văn Đệ cùng bọn Dân biểu gia nô VGCS và Tàu cộng lạm dụng danh xưng Khối Đối lập Hạ Nghị Viện. 

Phải nói anh em DB Quốc gia rất tức giận với bọn trâu chó đàng điếm phản quốc này nhưng không làm sao được. Vì vậy mà trong những cuộc thảo luận, biểu quyết đã xẩy ra xô xát, tuy chưa có nhân mạng nhưng không khí đã quá găng. Những tên VGCS Hồ ngọc Nhuận, Phan xuân Huy, Đặng văn Tiếp, Nguyễn trọng Nho, Nguyễn văn Kim, Nguyễn ngọc Nghĩa, Nguyễn văn Phước…là những tên già họng cãi láo hơn ai hết.

Chúng không cần biết đến Quốc gia dân tộc, dân chúng đau khổ từng ngày vì VGCS mở mặt trận tứ tung, giật mìn xe đò, pháo khắp nơi bất kể số người chết. Chúng chỉ cần làm vừa lòng bọn Vẹm để mong sao cho chóng đến ngày VNCH sụp đổ, chúng được núp háng Cáo già!

Nhưng khi gặp phóng viên ngoại quốc thì bọn DB gia nô VGCS này đóng kịch rất hay. Chúng làm ra vẻ thương dân yêu nước, tôn trọng Dân chủ, tự do, Nhân quyền của mọi người, người ngoại quốc ngu ngơ chúng cho vào xiếc rất dễ. Chúng chỉ cần những phóng viên ngu ngơ này đăng báo có lợi cho VGCS. Trong quá khứ, chúng ta đã thấy việc này xẩy ra hà rầm. Một thí dụ nhỏ: Thích Nhất Hạnh thuê tờ Washington Post 50,000 đô la để đăng bản tin của tên này nói rằng, chỉ dăm ba du kích bắn máy bay trực thăng mà phi cơ Mỹ kéo đến bỏ bom Bến Tre làm chết 300,000 người, tài sản của họ ra tro.

Sự thực thì chỉ có dăm, ba nhà bị cháy, dăm ba người chết nhưng Nhất Hạnh phóng đại. Cả thị trấn Bến Tre chưa được vài chục ngàn người, lấy đâu ra 300,000 tử nạn vì phi cơ Mỹ? Nhưng bọn bồ câu Mỹ lúc đó như con đĩ Jane Fonda Hà nội (do báo chí đặt), John Kerry, Trung Úy, phục vụ tại VN thời gian rất ngắn, Joan Baez, Konkrite, Dan Rather v.v…vì trúng tim đen chúng nên quảng bá không công cho VGCS. 

 Bây giờ các anh, bọn DB đối lập gia nô cho Hồ chó đẻ trong HNV đã biết rõ cái kết quả khốc hại mà các anh (là một thành phần) đã làm trong gần 4 năm đó để dâng miền Nam cho giặc VGCS vào cướp bóc tài sản của dân chúng và giết chóc, bỏ tù quân dân miền Nam từ ngày Quốc Hận 30-4-1975.

Chỉ riêng số thuyền nhân, bộ nhân bị sát hại, bị hải tặc giết, cưỡng hiếp, bắt đi, bị tầu chết máy trôi dạt phải ăn thịt lẫn nhau để kéo dài sự sống, đã là từ 700,000-800,000 người dân miền Nam vô tội. Quân, cán, chính phục vụ lá cờ Vàng ba sọc đỏ đồng thời là Chính Nghĩa QG với Dân chủ, Tự Do, Dân quyền và Hạnh phúc toàn dân, bị chết trong tù cải tạo vì Việt Gian Cộng Sản   trả thù, vì đói khổ, vì lao động khổ sai, vì VGCS đem ra bắn ngay khi cưỡng chiếm là khoảng 225,000 người (theo tài liệu GS John Turner: “Hậu quả người Mỹ bỏ miền Nam”.

Dù vô tâm cách mấy, thú vật cách mấy, lòng dạ ti tiện độc ác cách mấy thì sau ngày 30-4-1975, cho đến tận nay 2013, nhìn VGCS tịch thu ruộng đất, nhà cửa, doanh thương, dụng cụ làm ăn, tất tật mọi thứ của người miền Nam nói chung, các anh nếu còn là người cũng phải nhìn ra một miền Nam nhân ái văn minh, đối đãi với lính CS chiêu hồi như huynh đệ (hỏi hàng trăm ngàn cán bộ CS chiêu hồi là rõ. Cấp tá có những anh Bùi quang Triết (Xuân Vũ), Tám Hà v.v…) và đối lại là một miền Bắc tàn bạo, dã man, mọi rợ, cướp giật hết mọi thứ đến nỗi Nhà văn Dương thu Hương, ngay ngày VGCS vào  Sàigòn, phải ngồi vệ đường Saìgòn, khóc mà than rằng: “Cái mọi rợ lại thắng cái văn minh, cái phi luân lại thắng cái luân lý đạo đức.” 

Một chuyện ai cũng biết. Mười sáu (16) tấn vàng ròng, vốn liếng của VNCH trải qua bao đời lãnh đạo thay đổi từ ông Tổng Thống thương dân như con Ngô đình Diệm đến TT Nguyễn văn Thiệu, một võ biền nhưng cũng có những điểm son, không ai tơ hào một ly trong 16 tấn vàng ròng ấy cho đến khi bộ hạ của Minh Râu (HCM) là Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm văn Đồng, Võ văn Kiệt …mà Khối Dân tộc xã hội các anh thờ phượng như Thượng Đế, bọn này đã lấy ngay 16 tấn vàng này chia nhau ngay từ mấy ngày đầu sau 30-4-1975. 

Số vàng này là của miền Nam hằng trân trọng, lúc có nguy biến lắm mới lấy ra tiêu mà chưa dám tiêu dù thiếu đạn dược để chống trả quân BV xâm lược thì đã bị thủ hạ tên giặc Minh Râu cướp trắng. Lẽ ra phải đem chia cho người nghèo hoặc đúng hơn, dùng nó mua vật liệu tu bổ hay xây cầu đường mới cho dân chúng thuận tiện đi lại, xây những khu nhà rẻ tiền bán lại cho công chúng làm giảm nỗi đau khổ thiếu thốn của họ chứ ai lại cướp sống trốc tay như thế.

Tên sát nhân, DB Đinh văn Đệ (giết hơn 40 Địa phương quân) cũng ở lại làm được một thời gian ngắn rồi VGCS cho về vườn. Giờ này y năn nỉ các Hiền tài tại Tòa Thánh Cao đài Tây ninh thương xót cho y tá túc tu hành ăn năn hối lỗi đã giết quá nhiều người vô tội vì muốn lập công với Vẹm. Nhưng với tội ác tày trời của y, dù y có tu 1000 kiếp cũng vẫn bị đọa xuống 9 tầng địa ngục A tì bởi không Phật nào có thể tha thứ cho y. Còn rất nhiều trường hợp, kể cả cái chết tức tưởi của LS Trần văn Tuyên, VNQDĐ, trong trại tù Hà Tây, đã là Trưởng Khối đầu tiên Khối Đối lập của các anh nhưng bài báo này không đủ chỗ để lột trần hết những xấu xa đê tiện, ngu si đần độn và phản quốc do các anh gây ra.    

Sau khi gửi anh lá thư số 1, tôi bị bệnh ít ngày, bệnh do cao tuổi, nên mãi đến hôm nay mới trả lời lá thư của anh được.

Lá thư của anh ở ngay bên dưới đây nên rất thuận tiện cho tôi nhìn vào từng mục mà trả lời. Tôi đề nghị không phải nêu lại câu anh viết cho đỡ tốn thì giờ và xin bạn đọc, để hiểu rõ câu chuyện, nên đọc lá thư của anh Đinh xuân Dũng trước khi đọc lá thư này. . 

Việt Nam Cộng Hòa đã ra đi lâu lắm rồi. Đúng, anh Dũng, gần 38 năm rồi nhưng anh có biết rằng ngay cá nhân anh, với cái bằng BS Y khoa và chức vụ Dân Biểu Hạ nghị Viện, cũng chính là nhờ nền Cộng hòa VN miền Nam mà có.

Hàng chục triệu dân Miền Nam cũng nhờ hai Nền đệ nhất và đệ nhị CH mà ăn nên làm ra, có ruộng nương, trâu bò, nhà cửa, tầu bè, xe cộ, con cái được học hành và mọi thứ khác. Như  anh, nếu không có nền CH miền Nam này – thí dụ ở ngoài Bắc với chế độ CS - thì chắc chắn là có nằm mơ cũng không thấy những bằng cấp, tài sản, chức vị Dân biểu.

Trong vòng 200 năm nay, chưa chế độ nào ở nước VN nâng đỡ người dân, dân sống sung sướng thoải mái với nền Dân chủ pháp trị tuy còn non trẻ nhưng rất hữu hiệu, với Tự do, Dân quyền và Nhân quyền như chế độ Dân chủ của miền Nam Việt Nam từ ngày 7-7-1954 cho đến 30-4-1975.  

Nếu từ 1954, thay vì được sống tại miền Nam Dân chủ, Tự Do, Nhân quyền, được học hành ra BS và đắc cử Dân biểu Quốc Hội (dù rằng với giả thiết là chức vụ DB của anh là do Ấn Quang lợi dụng Phật giáo đưa vào) từ ngày 29-8-1971; nếu anh ở miền Bắc Xã hội chủ nghĩa, chắc đâu anh còn sống với quốc sách  Sinh Bắc Tử Nam của tặc Minh Râu, bởi anh phải leo đèo vượt suối ở Trường Sơn Đông, Trường sơn Tây như mọi thanh niên BV mà xác lính VGCS chết như ngả rạ phải tính hàng trăm ngàn, hoặc hàng triệu bởi chính Lê Duẩn phát biểu với Phóng viên BBC rằng: “Chúng tôi đánh giặc Mỹ cho Nga-Tàu và chúng tôi đã hi sinh 10 triệu người. Nếu Trung quốc chi viện thêm cho chúng tôi thì chúng tôi đỡ vất vả bằng không, chúng tôi hi sinh thêm vài triệu (nhân mạng) nữa, chúng tôi cũng thắng đế quốc Mỹ!”

Độc ác thay là lãnh đạo VGCS! Chúng coi mạng người thua con heo con chó. Ấy thế mà các anh thờ phượng chúng và làm tay sai cho chúng phá hoại VNCH mỗi ngày, phá hoại ngay tại cơ quan đại diện Dân cao nhất nước tức HNV là nơi các anh làm việc cho đồng bào! Các anh đúng là những thằng mù và ngu hèn thua loài trư khuyển! 

Anh Đinh xuân Dũng cũng biết ngoài Bắc thiếu thốn từ cái kim sợi chỉ và đói kém đến thế nào kể từ ngày tên tội đồ Minh Râu (tức Hồ tặc) tuyên chiến với Pháp là ngày 26-12-1946 (cuộc chiến tranh hoàn toàn không cần thiết), dân đói suốt, thiếu thốn thê thảm với chế độ tem phiếu và hộ khẩu cho đến ngày 30-4-1975, người Bắc được dịp vào vơ vét vội vàng về mà vẫn đói vì chính sách bức tường sắt của các nước CS xưa nay cho đến hơn chục năm sau phải mở cửa cho mau không chết cả lũ thì các nước tư bản mới vào đầu tư và dân VN mới hoàn hồn lại được một chút, nhưng người nghèo vẫn chưa hết đói mà chỉ gọi là tạm cầm hơi cho khỏi chết mà thôi. 

Người ta nói: Kẻ vô ơn là kẻ đã chặt bàn tay bố thí bát cơm, chén nước cho mình lúc đói khát. Tôi có cảm tưởng anh DB Dũng chính là kẻ đã cầm dao chặt tay ân nhân là miền Nam, xưa kia đã cưu mang cha mẹ ông bà, anh chị em anh, nuôi ăn học có bằng cấp, có chức phận nhưng nay mở mồm ra giống như một kẻ ăn cháo đái bát, trả ơn cho ân nhân giống y như tặc Minh Râu mà khối Dân tộc Xã hội Việt gian Hạ Nghị Viện (trong đó có anh) tôn thờ. Tặc Minh Râu đã bắn bà Nguyễn thị Năm (Cát hanh Long), đại ân nhân của y và đàn em, bà nuôi chúng trong nhà, phục dịch hơn cha đẻ, tuần lễ Vàng cúng hàng trăm lượng vàng, hàng ngàn mẫu tư điền và có hai con trai đi lính cho Minh Râu, đang là Trung đoàn trưởng ngoài mặt trận giao chiến với Pháp lúc ấy. Hai người con này về cứu mẹ nhưng mẹ vẫn bị bắn! Anh Dũng có lẽ đã ảnh hưởng cái vô ơn của tên  Minh Râu dâm tặc này nên mới thở ra những ngọn lời bội bạc “qua sông đấm bòi vào sóng” với VNCH như thế. Tôi nói thật, tôi không khinh ai bằng tởm lợm những kẻ vô ơn bởi ơn nghĩa cao dày như vậy mà chúng coi như miếng giẻ lau thì không còn gì cho chúng trọng nữa, kể cả cha mẹ chúng. Tên Trường Chinh Tổng Bí Thư đảng Vẹm từng đưa cha mẹ ra đấu tố cho đến chết chỉ vì cha mẹ y có vài sào ruộng tư điền! Hàng ngàn đứa khác cũng vì chút bổng lộc do đảng ban đã nhẫn tâm giết cha mẹ chúng trong Cải cách ruộng đất. Con gái Nguyễn văn Đô, tên cán bộ cao cấp cỡ huyện ủy của VGCS, tại ngoại thành Hà Nội, vì nghe lời VGCS, nỡ chỉ mặt cha nó bảo: “Ông có nhớ ông đã hiếp tôi 187 lần?” Nguyễn văn Đô trả lời:” Phải, tôi nhớ chứ, nhưng bà còn quên rằng tôi đã hiếp mẹ bà đẻ ra bà!” Đứa con gái khốn nạn theo Mác xít này gầm lên nhào lại tát bốp bốp vào mặt cha nó. Đó là luân lý đạo đức của Minh Râu mà bọn chó điếm gia nô Ấn Quang, Dân biểu đối lập các anh bắt chước và thuộc nằm lòng!Và chính vì thế mà ngày nay mới có cái nước VN quái dị toàn ma cô đĩ điếm công an giết người như chưa bao giờ từ thượng cổ tới nay có như thế! Ai đã sống qua đều thấy xã hội VN dưới thời Pháp thuộc người dân sống sung sướng và tự do hạnh phúc gấp ngàn lần hơn thời Minh Râu cai trị! Chính tôi đã sống và đã biết!

Vụ Cải Cách Ruộng Đất, nửa triệu người đã tan thây đa số là cán bộ của Minh Râu, từng vào sinh ra tử chống Pháp thực dân và đưa Minh Râu lên tầng cao chót vót lãnh đạo. Nhưng y chỉ cần giết thật nhiều theo chỉ tiêu của Nga-Tàu (5% dân số). Khi dân chúng ta thán quá, tiếng khóc thấu trời xanh, Minh Râu cho Trường Chinh lên đài xin lỗi nói rằng chính sách (giết người) là đúng 100% nhưng cán bộ làm sai. Bọn lãnh đạo không dám nói chúng sai mà đổ cho cán bộ! Chúng quá hèn! Mà nào địa chủ có tội lỗi gì cho cam. Trái lại, nhiều người dâng cúng Vẹm gần hết gia tài. Chúng theo Quyết định của Nga-Tàu giết là vì chúng muốn tịch thu hết mọi thứ của địa chủ, phú nông, trung nông. Có 3 sào ruộng, chúng đã khép vào địa ác rồi. Chưa từng thấy bọn cai trị nào vô luân và để cáng như thế. Nhiều đảng viên đảng Vẹm biết nhưng không dám xin ra. Chúng tìm cách trả thù dã man. Hơn nữa, như ngày nay chúng ban phát nhiều ân huệ, kể cả sổ đỏ nhà đất, sổ hưu, nhiều người không dám bỏ mất những lợi nhuận đó vì đang cần thiết cho gia đình. Hồng hơn Chuyên với chúng là bất di bất dịch cho dù dân trí có xuống tới bãi sình, chúng không cần. Chính vì thế mà 1 triệu quân đội “anh hèn” ngày nay bất động, dù thấy giặc Tàu lộng hành tại khắp nơi, giặc Tàu coi dân VN như bọn nô lệ thời Trung cổ. Không ai dám dây với chúng vì chúng bề hội đồng đánh giết hay cưỡng hiếp đến chết! Kiện lên trên cũng huề vì chính bọn lãnh đạo cũng rét Tàu. 

 Trở lại, những kẻ không có giáo dục và vô liêm sỉ như bọn DB gia nô Ấn Quang ngu hèn trong Khối Dân tộc Xã hội HNV/ VNCH thì mới trở thành những kẻ vô ơn. Bọn mạt tướng Trần thiện Khiêm, Tôn thất Đính, Dương văn Minh, Đỗ Mậu, Trần văn Đôn…xưa chịu ơn ông TT Ngô đình Diệm đến thế mà chỉ vì vài ngàn đô la, chúng giết nhà lãnh đạo dân cử hợp pháp và yêu nước đem tang tóc đến cho 20 triệu người miền Nam từ ngày 2-11-1963 rồi xẩy ra ngày 30-4-1975, cái giá phải trả cho cuộc phản loạn ô nhục của đám tướng tá khố xanh khố đỏ vô học du côn du kề (thugs) như TT Hoa Kỳ Nixon đã gọi chúng. Cùng cộng tác và khởi xướng là tên VGCS Thích trí Quang cùng một số thầy chùa khác như Thích Quảng Độ, Huyền Quang, Nhất Hạnh, Thích Hộ Giác, Thích Minh Châu, Thích Thiện Minh, Thích đôn Hậu v.v…đã thiêu sống ông TT Quảng Đức, làm cái cớ để giật sập nền Dân chủ tự do mà Hồ tặc rất khiếp sợ. Chúng đã lợi dụng nền Dân chủ, Dân quyền và Tự do non trẻ của miền Nam làm những điều xằng bậy, phản loạn, có đám Dân biểu gia nô Ấn quang là các anh hỗ trợ hết mình. Chúng khích động Phật tử là những người ngây thơ chưa hiểu VGCS và bọn giặc trọc, đem bàn thờ Phật xuống đường gây ra muôn ngàn thảm cảnh cho người dân miền Nam.

Cuộc tàn sát hơn 12,000 dân do Minh Râu chủ trương xé Hiệp định hưu chiến ngưng bắn trong 3 ngày Tết Mậu Thân (1968), riêng dân Huế thảm tử trên 7,000 xác chôn trong nhiều hố tập thể, nhưng các anh trong Khối dân tộc Xã hội vẫn câm, vẫn mù không nhìn thấy gì, vẫn làm tay sai cho VGCS phá ngay chính cái nhà của các anh, ngay chính gia đình các anh, vợ con các anh, cha mẹ, anh em các anh và tài sản các anh. Khi bỏ của chạy lấy người trốn sang đây, anh Dũng còn bỏ lại bao nhiêu tài sản? Bao nhiêu anh trong các anh Khối Đối lập đã mất vợ vì vợ lấy cán bộ CS hoặc khi các anh đi tù thì các chị ấy non lòng nhẹ dạ, hoặc vì sinh kế để nuôi con, bị đe dọa, bị mua chuộc v.v…đã ôm cầm thuyền khác (như cựu Quận Trưởng Cảnh Sát quận 5 Sàigòn Dân Biểu khối Đối lập Trần Cảnh Chung và nhiều tên khác không tiện viết ra đây.)

Cán bộ VGCS cao cấp Nguyễn Hộ nói một câu mà người ta tởm lợm y như con chó ghẻ:

“Bây giờ nhà chúng bay, chúng tao ở, con chúng bay chúng tao sai, vợ chúng bay, chúng tao ôm.”

Đúng, thằng giặc già Nguyễn Hộ này nói rất đúng. Bọn giặc cướp chúng bay đã làm tất cả những việc trời không tha, đất không dung, cưỡng thiên, nghịch địa không còn chút nhân tính.

Và bọn Dân biểu Đối lập HNV làm gia nô cho Ấn Quang và VGCS để quậy cho nát miền Nam xưa kia đã cưu mang, giúp đỡ chúng và gia đình của chúng. Đó là một bọn mặt người nhưng cái cốt là thú vật, bày heo chó không xứng đáng được gọi là người chứ chưa nói đến tước hiệu cao quí Dân biểu! 

BS Dương quỳnh Hoa, vô đảng Vẹm từ 1956, sau là  Bộ trưởng Y tế Chính Phủ dỏm MTGPMN  cũng mất hết, cả con cái. Cuối đời là thân tàn ma dại, phản tỉnh xé thẻ đảng nhưng Lê Duẩn đe dọa rằng phải câm họng trong 10 năm nếu bép xép đừng trách đảng (giết). Bà Dương quỳnh Hoa chết trong ân hận và đau đớn. BT Tư pháp MTGPMN Trương như Tảng phải trốn như một boat people mai danh ẩn tích, quá sợ cái chủ nghĩa tam vô: vô gia đình, vô tổ quốc, vô tôn giáo. LS Nguyễn hữu Thọ trong MTGPMN, trước khi chết giối giăng cho con là đời cha có một cái sai lầm lớn nhất là đã đi theo VGCS.   

Năm 1954, dân Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An đứng lên đòi được di cư vào Nam theo đúng Hiệp Định Paris ngày 20-7-1954 nhưng Minh Râu cho Văn tiến Dũng đưa cả Sư đoàn tới làm cỏ Quỳnh lưu, giết sạch cả ông bà già con nít không còn để một mống. Từ 1954 đến khi các anh vào QH là 17 năm, các anh mù sao không nhìn thấy cái gương Quỳnh lưu mà vẫn còn phạm vào trọng tội đối với Dân tộc là làm tay sai cho VGCS? Cho dù là những tên CS chính cống như Hồ ngọc Nhuận, Phan xuân Huy, Đinh văn Đệ, Nguyễn văn Binh, Kiều mộng Thu, Thich Trí Quang Thích minh Châu, Thích hộ Giác, Thích thiện Minh Ni Huỳnh Liên, “con điếm” Ngô bá Thành, Huỳnh tấn Mẫm, Thích đôn Hậu v.v..…khuyến dụ nhưng nếu các anh tỉnh táo, đề phòng và có tinh thần QG thì chúng không làm gì được các anh. Như bọn hơn chục DB trong Nhóm DB Quốc Gia do tên đại VGCS Nguyễn văn Binh cầm đầu chỉ huy: Trần văn Ân, Nguyễn trọng Nho, Nguyễn văn Cử, Đỗ sinh Tứ, Nguyễn tuấn Anh, Nguyễn văn Kim, Đặng văn Tiếp, Nguyễn minh Đăng, Nguyễn đức Cung, Đỗ sinh Tứ,  v.v…đã vào hùa với Khối Đối lập quyết phá nát chính thể VNCH đến tận gốc rễ. Thực là một bọn ăn cơm QG thờ ma VGCS, mỗi tháng ngửa tay lấy tiền lương do dân miền Nam đóng thuế mà lại phản bội đồng bào. Tôi không còn danh từ nào bỉ ổi xấu xa dành cho bọn heo chó này chứ không phải người bởi người không ai có liêm sỉ mà làm thế!   

Những cái gương tầy liếp trước mắt như Mậu Thân, Quỳnh Lưu, Thanh Bồ, Đức Lợi, Phùng quang Thanh tàn sát 200 thanh niên BV ở bờ đê sông Hồng Hà vì phản đối Sinh Bắc Tử Nam, Cải Cách Ruộng Đất giết 586,000 người, vụ án Nhân Văn - Giai Phẩm v.v...…mà sao các anh, lấy cớ là đối lập, lại vẫn đi theo bọn giết người bán nước cho Tàu Chệt, thế thì đầu óc các anh chỉ toàn là phân bón thôi sao?

Các anh toàn là những người có học, tốt nghiệp Đại học, BS, GS, Kỹ sư, Chánh án, LS…chứ có phải bố cu mẹ đĩ đầu đường xó chợ mà sao hành xử y như bọn đầu đường xó chợ, mất dạy, lưu manh du đãng cầu Muối? Con chó còn biết phân biệt miếng ăn được và cái bả người ta thuốc nó cho chết, nó ngửi rồi tránh xa chứ khg ăn. Không lẽ Phan xuân Huy, Hồ ngọc Nhuận, Đinh văn Đệ, Nguyễn văn Binh, những tên có tuổi đảng, chúng bảo các anh ăn kít cho chúng các anh cũng ăn sao? Thực là nhục nhã với chính vợ con các anh, đồng bào và đất nước! Các anh không xứng đáng là một Dân Biểu của Nhân Dân!

(còn tiếp)

GS Bút Xuân Trần Đình Ngọc

Cựu Dân Biểu  Quốc  Hội /VNCH

 

Bài của BS Dan Bieu/BS DinhXuanDũng

Suy Nghĩ Cuả Tôi Lúc Gần Đất Xa Trời Về Đất Nước. 

Quảng Thuận.

Thưa qúy anh chị trong và ngoài nước. 

Việt Nam Cọng Hoà đã ra đi lâu lắm rồi, hận thù giửa phe nhóm, đảng phái, tôn giáo, cá nhân vẫn chồng chất, không hoá giải được.   Sống ở một đất nước tự do được  tự do nói lên ý kiến của mình, bù lại nó cũng có những mặt trái của nó. 

Qúy anh chị hô hào đừng gởi tiền về Việt Nam, tiếng kêu giửa sa mạc, vì kiều hối gởi về Việt Nam càng năm càng tăng, chứng tỏ lời kêu gọi cuả qúy anh chị là thiểu số. 

Lổi lầm để mất Miền Nam :  Chúng ta đều có lổi : Từ các vị lảnh đạo Miền Nam: Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, Tổng Thống Trần Văn hương và Tổng Thống Dương Văn Minh, Quý Vị Lảnh Đạo các tôn giáo lớn như Phật 

Giáo, Thiên Chuá Giáo, qúy vị chính khách thân chính, đối lập, những người đưa ra chính sách cuả Mỷ ở Việt Nam trong quá khứ, và ngay cả cá nhân chúng ta đa số đều có lổi, lẻ cố nhiên những yếu tố tích cực vì dân vì nước tôi đều trân trọng. 

Từ trước đến giờ Việt Nam đã có chế độ nào tương đối hoàn hảo đâu?  . Trải qua cuộc sống, mình có cảm tình với chế độ Việt Nam Cọng Hoà ví nó khá hơn chế độ Cọng Sản Miền Bắc, vì vậy mới có DI Cư 54 và Di Tản 75 và hiện có trên 3 triệu Người 

Việt Hải Ngoại.   Việt Nam Cọng Hoà cũng không phải là một chế độ trong sáng như các nước thực sự tự do, vì so sánh hai chế độ, luyến tiếc thì có nhưng tôi cũng không mong nó trở lại như xưa, mà lại càng không muốn là công dân CHXHCNVN, vì vậy 

chúng ta cố gắng đấu tranh đóng góp giúp chế độ hiện tại lột xác đễ con cháu Việt có một cuộc sống tự do như con cháu các nước văn minh trên thế giới. 

Đất Nước đã có hoà bình , thống nhất từ lâu nhưng dân chủ , tự do còn tụt hậu so với lân bang và cộng đồng thế giới , vì vậy :  Mong mỏi cuả tôi là có Một Ngọn Cờ Tổ Quốc, ngọn cờ đó không phải là Cờ Đỏ Sao Vàng mà cũng không phải là Cờ Vàng Ba 

Sọc Đỏ vì những chế độ đó đã có tì vết, rạn nứt, mục nát trầm trọng không thể sửa chửa mà cần được thay thế.  Tôi ước mong có một lá cờ mới, đại diện cho một chế độ mới do đa số dân chúng Việt Nam tự do chọn lựa, đáp ứng hạnh phúc mong mỏi của toàn dân. 

Chống Cọng, xưa rồi ! vì còn Cọng đâu mà chống, nó đã biến chất thành những chế độ độc tài maphia đãng trị rồi! vì vậy chúng ta cần đấu tranh cho chế độ ấy lột xác , như Miến Điện đang từng bước thực hiện. Những nhà bình luận , muốn được thuyết phục, cần khách quan, đừng chủ quan ẩn ý .

 Chế độ chính trị đâu có tồn tại mải , nhất là chướng khí, cuồng phong thì lại chóng tàn, chỉ có tình dân tộc là bất diệt. 

Kính

Đinh Xuân Dũng. 

Danh sách thành viên Khối Đối Lập Hạ Nghị Viện (1971-1975 tay sai VGCS nằm vùng)

 

Bài này của Việt gian CS Hồ ngọc Nhuận

Phó Chủ Tịch Mặt Trận Tổ Quốc Sàigòn

Thân chuyển đến các bạn tôi : “VỀ MỘT NƯỚC VIỆT NAM MỚI”

Quảng Thuận Đinh Xuân Dũng.

   Các bạn nào từng ở miền Nam Việt Nam  trước đây đều biết tên anh Đinh Xuân Dũng,bác sĩ,  người gốc Quảng Bình, Dân Biểu QH VNCH ( Hạ Nghị Viện ) đơn vị Bình Thuận suốt hai nhiệm kỳ,từ 1967 đến 1975. Cùng  với các anh chị Trần văn Tuyên, Phan Thiệp, Kiều Mộng Thu,Hồ văn Minh, Nguyễn Mậu, Trần văn Sơn, Lê Đình Duyên, Ngô công Đức, Phan xuân Huy, Trần Cao Đễ,Phạm Ngọc Giao, Nguyễn văn Hàm, Lý Trường Trân,Đoàn Mại,Nguyễn Công Hoan,Trần văn Thung ,Nguyễn Tấn Thời, Nguyễn phúc Liên Bão,Tư Đồ Minh, Mai Ngọc Dược ,Nguyễn văn Thanh, Huỳnh ngọc Diêu, Mã Xái, và vài anh nữa mà tôi xin lỗi không nhớ đủ,và tôi (Hồ ngọc Nhuận) , từ nhiều miền đất nước, từ nhiều gốc độ chánh trị, cả từ nhiều tôn giáo khác nhau,với tuổi đời chênh lệch nhau không nhỏ, chúng tôi đã tập hợp nhau lại trong Khối Đối Lập, tại Hạ Nghị Viện Quốc Hội VNCH, khối  Dân Tộc Xã Hội, trong nhiều năm liền không ít sóng gió của đất nước. Một khối đối lập tại Hạ nghị Viện, một khối đối lập tại Thượng nghị Viện, cùng với đủ thứ tổ chức , hiệp hội, nghiệp đoàn,phong trào… đấu tranh công khai và nhiều lúc quyết liệt, như giỡn mặt với chánh quyền, cho mọi mặt đời sống của đồng bào, của mọi giai tầng xã hội, trong hoàn cảnh một đất nước bị chia cắt và chiến tranh liên miên, một tình hình không thể nào có được nếu không có được một tối thiểu tự do dân chủ, một tình hình khó có thể xảy ra ở một nơi khác  với một hoàn cảnh tương tự,điều mà không ai có thể phủ nhận.   

   Cùng với anh em chúng tôi, anh Đinh Xuân Dũng  đã từng đấu tranh vì hòa bình,hòa giải hòa hợp dân tộc, chống chiến tranh, từng bị đàn áp. Sau 1975,anh đã ở lại Sài Gòn hành nghề y  trong mấy năm,rồi sang định cư ở Mỹ,vẫn với nghề cũ, nay đã nghỉ hưu.

   Tôi không nghĩ chỉ có một mình anh  Quảng Thuận Đinh Xuân Dũng nghĩ như vậy về Đât Nước Việt Nam, mà phải có nhiều người Việt nghĩ như anh.

    Vì những gì anh nghĩ, anh  nói là xuất phát từ đáy lòng,một tấm lòng của “một người gần đất xa trời”, mà cuộc đời, như bao nhiêu cuộc đời người  Việt Nam khác,từ những năm 20-30 của thế kỷ trước trở lại đây, là điển hình phản ảnh, mỗi người một kiểu, gần như trọn vẹn những bi kịch của đất nước.Và những người có lòng không lòng nào mà không hòa đồng tiếng nói với anh.    

   Vì, theo tôi, đó là giấc mơ, là khát vọng  chung của mọi người Việt Nam yêu nước, thương nòi, muốn sống hòa hợp với tất cả  đồng bào ruột thịt của mình, hòa bình với đồng loại. Nếu thật sự được tự do phát biểu, tự do lựa chọn, mà không bị khống chế, đàn áp.Hay dù có bị khống chế, đàn áp.

    Vì tôi thành thật nghĩ rằng mọi người Việt Nam, dù ở đâu, dù làm gì,dù ở đây trong nước hay đang ở nước ngoài,dù khoát áo đội nón  màu gì, hay dù lòng lo lòng giận thế nào… thì đều mở mắt chào đời là người Việt Nam, và khi sắp sữa  lìa  đời,nếu còn chút tĩnh táo, đều nghĩ nhớ tới ông bà tổ tiên thân nhân con cháu Việt Nam mình trước hết, và sau hết. 

    Mong rằng mọi người Việt Nam, đặc biệt giới trẻ Việt Nam, trong và ngoài nước, sẽ tận tình, tận lực vun quén cho tình tự dân tộc nầy, để khát vọng về một nước Việt Nam Mới của một Quảng Thuận, của nhiều Quảng Thuận, như anh,như chị, như bạn, như tôi, như mọi người con nước Việt… sớm thành hiện thực. Một khát vọng, một ước mơ cuối đời của một người Việt Nam cao tuổi yêu nước, mà tôi mong, mà tôi tin sẽ là giấc mơ đầu đời của nhiều thế hệ tuổi trẻ Việt Nam Mới, yêu nước./.

Hồ ngọc Nhuận  

Đúng là miệng lưỡi VGCS nhưng ngày nay không ai còn mắc lừa chúng bay nữa!

Featured Post

BẠN TÔI: ĐẠI ÚY TRẦN QUANG HIỆP

 https://www.facebook.com/groups/160591528349491/permalink/723350692073569/ https://www.youtube.com/watch?v=oqhFQFR2-JM Chuyện Xứ Xã Nghĩa r...

Popular Posts

Popular Posts

My Blog List