QUỐC HẬN 30 THÁNG 4

Image result for Tháng Tư năm 1975 -----

==== ====



Saturday, November 30, 2013

TỪ NHỮNG VIỆC LÀM CHUYỆN “THAY TÊN, ĐỔI NGHĨA” NHỮNG NGÀY LỊCH SỬ CỦA ĐẢNG VIỆT TÂN ĐẾN NHỮNG LỜI KHẮC TRÊN TƯỢNG ĐÀI Ở SAN JOSÉ


From: Nghiem Nguyen <
Date: 2013/11/29
Subject: Fw: TỪ NHỮNG VIỆC LÀM CHUYỆN “THAY TÊN, ĐỔI NGHĨA” NHỮNG NGÀY LỊCH SỬ CỦA ĐẢNG VIỆT TÂN ĐẾN NHỮNG LỜI KHẮC TRÊN TƯỢNG ĐÀI Ở SAN JOSÉ **LÃO MÓC
To: "


 

On Friday, November 29, 2013 1:37 PM, nhan nguyen <> wrote:

TỪ NHỮNG VIỆC LÀM CHUYỆN “THAY TÊN, ĐỔI NGHĨA” NHỮNG NGÀY LỊCH SỬ CỦA ĐẢNG VIỆT TÂN ĐẾN NHỮNG LỜI KHẮC TRÊN TƯỢNG ĐÀI Ở SAN JOSÉ

 

        LÃO MÓC

 

          Tháng 9 năm 2004, Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam (MT) có trụ sở chính ở Bắc California ra “cáo phó” khai tử “Mặt Trận” và đăng “cáo tồn” khai sinh Đảng Việt Tân (VT) tuốt bên Berlin, Đức Quốc.

 

          Vừa ra đời, đảng Việt Tân đã giở trò “treo đầu dê, bán thịt chó” bằng cách dùng tổ chức ngoại vi của mình là tổ chức VPAC liên kết với Tập Thể Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa Hải Ngoại (từ nay viết tắt là “Tập Thể”), (một tổ chức mà dư luận cho rằng do MT giật dây thành lập để lợi dụng màu cờ, sắc áo của những cựu quân nhân đã từng hy sinh trong cuộc chiến chống lại Cộng sản miền Bắc, bảo vệ chế độ tự do miền Nam) tổ chức “Ngày Tự Do Việt Nam” để thay thế “Ngày Quốc Hận 30-4”. Bị dư luận khắp nơi lên tiếng phản đối, đảng Việt Tân bèn phải đổi thành “Ngày Tranh Đấu Tự Do Cho Việt Nam.” Và, Tập Thể, qua cô Lữ Anh Thư, Trung Tâm Phó Đặc Trách Hậu Duệ và ông Đoàn Hữu Định, Tổng Thư Ký Văn Phòng Thường Trực Trung Ương đã từng đứng tên chung với ông Võ An Bình trong Ban tổ chức “Ngày Tự Do Việt Nam” tuyên bố rút tên khỏi ban Tổ chức của ngày này, và Tập Thể tuyên bố sẽ tổ chức Lễ Tưởng Niệm Chiến Sĩ Việt Mỹ tại Bức Tường Đá Đen cũng cùng ngày, giờ và cách điạ điểm đảng Việt Tân tổ chức “Ngày Tự Do Việt Nam” không xa. Việc làm “không mấy trong sáng” này của Tập Thể đã bị cựu Trung Tướng Phạm Quốc Thuần phê bình mà những người lãnh đạo của Tập Thể đã không thể trả lời được.

 

          Vì bị dư luận khắp nơi phản đối về việc làm có dụng ý “chạy tội” cho Việt Cộng khi biến “Ngày Quốc Hận 30-4” thành “Ngày Tự Do Việt Nam”, đảng Việt Tân đã không được sự công tác của Ban Đại Diện Cộng Đồng Việt Nam tại Hoa Thịnh Đốn do ông Nguyễn Văn Tần làm chủ tịch, nên “Ngày Tự Do Việt Nam” đã bị thất bại thê thảm dù đảng Việt Tân đã khua chiêng, gióng trống quảng cáo rầm rộ từ nửa năm trước. Sau khi bị thất bại, Việt Tân lại giở trò ma giáo mà MT đã từng làm trong quá khứ là tung tiền ra báo chợ “SV” tự ca tụng “thành tích” của đảng mình và bịa chuyện đánh phá ông Nguyễn Văn Tần, chủ tịch Ban đại diện Cộng Đồng Hoa Thịnh Đốn và vùng phụ cận.

*

          Năm 2005, người ta lại thấy trên internet, trên các báo chí, đài phát thanh Tiếng Nước Tôi có phổ biến “Thư Mời Tham Gia Ý Kiến Chọn Ngày Tỵ Nạn Việt Nam” của Nhóm “Vì Tự Do”. “Nhóm” này, nhân việc nhà cầm quyền Indonesia và Malaysia phá hủy bia tưởng niệm những người tỵ nạn Việt Nam trên hai đảo Galang và Bidong, đề nghị những người Việt Quốc Gia Tỵ nạn Cộng sản “Trưng Cầu Dân Ý” chọn “Ngày Tỵ Nạn Việt Nam”.

 

          Thoạt nghe hoặc mới đọc trên báo “Thư Mời Tham Gia Ý Kiến Chọn Ngày Tỵ Nạn Việt Nam” của Nhóm “Vì Tự Do” ít ai thấy có “dụng ý” gì trong việc làm này. Nhóm “Vì Tự Do” lại tỏ ra  rất có tinh thần cởi mở và tôn trọng dân chủ khi đưa ra 4 ngày (do Lão Móc in đậm) để được “trưng cầu ý kiến” của tất cả những ngườì Việt Quốc Gia tỵ nạn cộng sản trên toàn thế giới.

 

          Theo ông Hoàng Thế Dân, Chủ tịch Hội Đồng Điều hành Cộng đồng Người Việt Bắc California (lúc đó) thì tới nay “con số 4 ngày được đề nghị lúc khởi cuộc đã thay đổi”. (Thời Báo San Jose số 4208, 20-12-2005). Theo ông Hoàng Thế Dân thì đến nay có tới 5 ngày, gồm các ngày: 14-11, ngày 20-6, ngày 20-7, ngày 12-6, ngày 30-4 được nhóm “Vì Tự Do” đưa ra “trưng cầu ý kiến” để chọn một trong các ngày này là “Ngày Tỵ Nạn Việt Nam” hay “Ngày Dân Việt Tỵ Nạn Cộng Sản”.

 

          Trả lời phóng viên Võ Triều Sơn phóng viên của hãng Thông tấn VNN (là hãng thông tấn của MT trước kia và là đảng Việt Tân hiện nay) về câu hỏi:

 “Kính thưa ông chủ tịch với 4 ngày được quý vị trong nhóm “Vì Tự Do” đưa ra để Trưng cầu ý kiến trong tinh thần cởi mở và rất dân chủ đóng góp ý kiến, xin ông chủ tịch cho biết, cá nhân ông chọn ngày nào? Tại sao?”

thì ông Hoàng Thế Dân, chủ tịch Ban Đại diện Người Việt Bắc Cali (kế nhiệm bà Lan Hải, Chủ tịch Ban Đại diện Cộng Đồng thứ 2 do Mặt Trận và Chính Phủ Việt Nam Tự Do thành lập tại Bắc Cali) đã trả lời rất “lăng ba vị bộ” và rất văn chương… tản mạn như sau:

 “… Thưa anh, cá nhân chúng tôi đã có dịp thổ lộ quyết định chọn lựa của mình trong những buổi họp của Nhóm: Ngày đó có tên là Ngày Dân Việt Tỵ Nạn Cộng Sản, và ngày đó nói lên sự liên kết nhiệm mầu của lương tâm thế giới đối với sự chọn lựa ra đi tỵ nạn, vì tự do, của người Việt, bằng bất cứ giá nào, hàng triệu người đã khoác lên mình định danh căn cước tỵ nạn chính trị.

Ở đây sự quan trọng là ngày nào, tên gì nhận được số phiếu kết quả thăm dò nhiều nhất của đồng hương tham dự. Trong những ngày này, ngày nào cũng nhân bản cả, ngày nào cũng nói lên ý nghĩa của hai chữ tỵ nạn. Chúng ta chờ xem, sáu tháng nữa sẽ có kết quả chung cuộc.”  [do Lão Móc gạch đít](Thời Báo San Jose, số báo đã dẫn).

 

          Trong khi đó thì ông Hoàng Cơ Định, một “cán lớn” khác của đảng Việt Tân đã viết hẳn một bài để “cổ động” cho “Ngày Dân Việt Tỵ Nạn Cộng Sản” văn chương rất là đao to, búa lớn và đầy bí hiểm!.

 

          Theo ông Hoàng Cơ Định thì “Việc đồng bào cùng nhau ấn định một “Ngày Dân Việt Tỵ Nạn Cộng Sản” là một sự xác định lập trường chính trị của cộng đồng người Việt, đó là một cộng đồng tỵ nạn, không chấp nhận chế độ Cộng sản hiện nay tại Việt Nam… Khi Ngày Tỵ Nạn được chọn lựa và được tổ chức hàng năm ở khắp nơi, các thế hệ tương lai của cộng đồng sẽ luôn luôn được nhắc nhở về nguồn gốc của mình và hiểu được tại sao các thế hệ cha anh đã kiên trì tranh đấu để chấm dứt cái nguyên nhân đã gây ra thảm trạng tỵ nạn Dân Tộc.

 

          Việc làm vô vị lợi của tập hợp “Vì Tự Do” cần được sự hậu thuẫn của mọi người, mọi giới vì đây là việc làm nhân nghĩa, đối với những người Việt đã chết cũng như đối với những ai đang tranh đấu vì hai chữ Tự Do. Việc làm này cũng góp phần tạo nên sự đoàn kết, tinh thần hợp tác trong cộng đồng và sự gắn bó của các thế hệ trẻ với Tổ Quốc.

          Đây không phải chỉ là một việc làm Vì Tự Do, mà còn là cả Vì Đất Nước Hôm Nay và Ngày Mai.” (Thời Báo số 4205, ngày 15-12-2005).

*

          Về việc nhóm “Vì Tự Do” đưa ra lá “Thư Mời Tham Gia Ý Kiến Chọn Ngày Tỵ Nạn Việt Nam”, ông Pham Thanh Phương ở Úc Châu đã đưa ra ý kiến với những lập luận rất vững chắc như sau:

 “… Trong sự kiện này chúng tôi mạn phép đưa ra một số nhận xét về hai lãnh vực ý nghĩa lịch sử và “phương pháp trưng cầu dạn ý” như một sự quan tâm, chia sẻ.

Về phần ý nghĩa lịch sử, theo cạn nghĩ của chúng tôi, ngày 20-7 là ngày mang những ý nghĩa đặc biệt phi không gian và thời gian, với tất cả những ấn tích chia ly, tan tác, hận thù. Không ai có thể phủ nhận, ngày ấy đã cưu mang cả một sự kiện lịch sử của dân tộc, không hề mang một ý nghĩa tỵ nạn cho 3 triệu người tại hải ngoại. Hơn nữa, ngày 20-7 còn là ngày đau thương, uất hận, và nó đã được hình thành bởi sự man trá, bịp bợm, phản bội của tên tội đồ Hồ Chí Minh. Do đó, chúng ta không thể xoá bỏ.

Riêng ngày 30-4 thì lại càng quan trọng hơn, đây mới chính là ngày đen tối của dân tộc. Ngoài những đau thương, ly tán như ngày 20-7, nó còn là ngày CSVN đã đưa toàn thể dân tộc vùi sâu trong vũng lầy đen tối nhất của nhân loại. Ngày 30-4 cũng đánh dấu một ngày toàn dân miền Nam đã bị cướp trắng tay, dắt díu nhau đi vào một nhà tù vĩ đại không cửa sổ của CSVN ròng rã đã 30 năm qua.

Trong ý nghĩa của những ngày 20-7 và 30-4-1975 đã là một sự hiển nhiên, bất khả chối từ. Do đó, hai ngày lịch sử 20-7 và 30-4 không dành riêng cho những người tỵ nạn mà nó đã thuộc về toàn dân. Không thể vì một lý do gì lại có thể xóa bỏ hay bóp méo ý nghĩa lịch sử của nó…

Như vậy, việc đề nghị hai ngày 20-7 và 30-4, không hội đủ điều kiện cả tình lẫn lý. Ngược lại, rất bất lợi cho công cuộc đấu tranh chung của toàn dân trong hiện tại nói chung và cộng đồng người Việt tại hải ngoại nói riêng. Không biết vô tình hay cố ý, nhóm “Vì Tự Do” đã đưa ra một đề nghị khá nguy hiểm trong việc chọn ngày và cả phương pháp “Trung Cầu Dân Ý”. Nếu cuộc “Trưng Cầu Dân Ý” được thực hiện bằng internet và bưu điện. Thử hỏi ai có thể kiểm soát tất cả các danh sách trên web và thư của người Việt tỵ nạn hay của bọn VC nằm vùng và du sinh phải làm theo lệnh đảng. Riêng trên phần “bỏ phiếu online” thì lại phức tạp hơn rất nhiều, phương pháp này đã vô tình tạo cơ hội rất thuận lợi cho tất cả cán bộ đảng CSVN có thể tham gia, lèo lái, “đóng đinh” ngày 30-4 làm “Ngày Tỵ Nạn”, hầu xóa bỏ tội ác mà chúng đã  đè lên đầu toàn thể dân tộc từ hơn nửa thế kỷ qua. Nó cũng không khác hành động bỉ ổi khi chúng áp lực Nam Dương và Mã Lai để tiêu hủy những tấm bia tưởng niệm trên hai đảo Galang và Bidong trong mấy tháng trước đây. Vì vậy, chúng ta không nên vì bất cứ vì lý do gì để Vc được toại nguyện trong thế “Bất Chiến Tự Nhiên Thành” với mưu đồ xoá bỏ tội ác của chúng trước lịch sử bằng cách biểu quyết thay tên, đổi nghĩa của một trong hai ngày lịch sử (20-7 và 30-4).

Sự kiện nhóm “Vì Tự Do” đề nghị tìm một ngày để làm “Ngày Tỵ Nạn”, thực ra cũng không có gì cần phải bàn. Tuy nhiên, nếu muốn lấy một ngày mang nhiều ấn tích máu xương của lịch sử như ngày 20-7 và 30-4 là một điều tối kỵ, không có lợi mà chỉ có hại. Nó có thể hiểu như là một sự kiện bóp méo lịch sử, trong âm mưu nhằm hậu thuẫn cho phong trào Hoà Hợp Hoà Giải đầy bịp bợm trong nghị quyết 36 lừa bịp của CSVN…”

*

          Không biết các ông Hoàng Thế Dân, Hoàng Cơ Định khi khua môi, múa mép trả lời phỏng vấn, khi vung tay, phóng bút viết bài ca tụng cuộc “Trưng Cầu Dân Ý” về “Ngày Tỵ Nạn Việt Nam” đã có xem qua ý kiến của ông Phạm Thanh Phương với những lập luận rất sắc bén mà ông Phương đã trình bày trong bài viết của ông ta?

 

          Thực ra thì câu hỏi này quá thừa với các ông “cán lớn” của đảng Việt Tân như các ông Hoàng Thế Dân, Hoàng Cơ Định. Chuyện chủ tịch các ông ấy chết mà các ông ấy còn “bắt” chủ tịch của các ông ấy “sống” cho tới 14 năm sau mới cho chết thì có chuyện gì mà các ông ấy không làm được. Chuyện bà doctor-to-be Trần Diệu Chân “bắt” hương linh cố Đề Đốc Hoàng Cơ Minh đứng tên với bà trong đơn thưa đài phát thanh Quê Hương với Tổng đài và cơ quan FCC mà bà ta còn dám làm thì chuyện thay tên,đổi nghĩa những ngày lịch sử của dân tộc để bàu chữa tội ác cho bọn Việt Cộng thì có nhằm nhò gì ba cái lẻ tẻ mà họ không dám làm.

 

          Trong quá khứ, MT đã từng biến “Ngày Quốc Hận 30-4” thành “Tháng Tư Xanh”, “Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ” thành “Lá Cờ Việt Nam Tự Do”. MT trước kia (đảng Việt Tân hiện nay) đã len lỏi vào cộng đồng, tìm mọi cách gây chia rẽ, khống chế - như trường hợp Phạm Quốc Hùng, một cán bộ cao cấp của đảng Việt Tân, đã len lỏi vào hàng ngũ Quốc Gia chống Cộng, leo lên chức Chủ tịch Ủy Ban Bảo vệ Chính Nghĩa Quốc Gia Bắc California, và sau đó đã nắm chức Chủ tịch Ban Đại diện Cộng Đồng Việt Nam Bắc California nhiệm kỳ 3, đã tìm mọi cách gây chia rẽ, phân hóa cộng đồng. Sau đó, đã tìm mọi cách sáp nhập hai Ban Đại diện Cộng Đồng làm một là một bằng chứng rõ ràng nhất.

          Năm ngoái, âm mưu lợi dụng Tập Thể biến “Ngày Quốc Hận 30-4” thành “Ngày Tự Do Việt Nam” bị bễ mánh, năm nay đảng Việt Tân lại cho các tổ chức ngoại vi lợi dụng cộng đồng người Việt Tỵ nạn Cộng sản “trưng cầu dân ý” để thay tên, đổi nghĩa “Ngày Quốc Hận 30-4” thành “Ngày Tỵ Nạn Việt Nam” để lại tiếp tục bàu chữa tội ác cho mấy anh lớn bên nhà là chuyện chẳng làm ai ngạc nhiên.

          Có điều đảng Việt Tân có làm được những chuyện mờ ám này hay không lại là một vấn đề khác.

          Ai trong chúng ta cũng biết là chuyện tìm một ngày để tượng trưng cho “Ngày Tỵ Nạn Việt Nam” không phải là cứu cánh cho công cuộc tranh đấu hiện nay nhưng tại sao đảng Việt Tân, trong mấy tháng qua, đã làm rùm beng lên về chuyện này. Chắc chắn dụng ý của họ không gì khác hơn là tìm mọi cách thay tên, đổi nghĩa “Ngày Quốc Hận 30-4” để chạy tội cho bọn tội đồ của dân tộc là đảng Cộng Sản Việt Nam - một việc làm mà đảng Việt Tân đã theo đuổi từ bấy lâu nay.

*

          Tám năm sau, tháng 9 năm 2013, tại San José Bắc California, ông nhà văn Giao Chỉ tức cựu Đại Tá Vũ Văn Lộc đã gây xáo động dư luận về chuyện mà ông ta gọi là “Tượng đài trăn trở”.

 

          Núp sau lưng bà ca sĩ kịch sĩ Hoàng Mộng Thu của Biệt Đoàn Văn nghệ Lam Sơn, ông ta đã viết trong bài “Tượng đài trăn trở” và theo ông ta, cũng là những hàng chữ ông ta sẽ ghi lên “Bia Đá” ở cạnh Việt Musuem do ông ta thành lập:

 “Anh chị em Lam Sơn muốn tôi cùng khắc lên bia đá những lời đáng ghi lại. Tôi chọn đoạn sau đây:

Trưa 30 tháng Tư-75 tướng Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng tại Sàigòn. Những lời nói sau cùng của thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam tại Cần Thơ. Chiều ngày 30 tháng 4, 1975, Một thương binh tại quân y viện nói: “Xin thiếu tướng đừng bỏ tụi em. Ông Nam nói: “Không, qua không bỏ tụi em.” Trở về dinh, sĩ quan tùy viên báo cáo các sĩ quan đã bỏ đi rồi. Ông Nam nói: “Đi để làm gì?”Tối ngày 30 tháng 4, 1975, sĩ quan tùy viên báo cáo: “Thưa tướng Hưng đã chết rồi.” Ông Nam: “Chết để làm gì?” Sáng 1 tháng 5, 1975, tướng Nguyễn Khoa Nam tự tử.” (Nguyên văn, kể cả các hàng chữ in đậm trích từ bài viết “Tượng Đài Trăn Trở” Giao Chỉ Vũ Văn Lộc - Thời Báo số 6146 Thứ Bảy, Chủ Nhật ngày 7&8-9-2013).

 

          Đọc những hàng chữ mà ông Vũ Văn Lộc tuyên bố là sẽ khắc trên bia đá, nhiều người đã lên tiếng đây là những hàng chữ không phải để vinh danh Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam; mà trái lại là để bêu rếu vị Tướng này vì đã hoảng loạn mà tự tử! Trong những người lên tiếng có cả cựu Đại úy Nguyễn Hữu Luyện là Phó Giám Đốc Viện bảo tàng VietMuseum mà ông Vũ Văn Lộc là Giám Đốc. 

 

          Để biện bạch, ông Vũ Văn Lộc đã viết bài “Chết để làm gì?” xấc xược thách thức dư luận; nhưng chính ông ta cũng không biện bạch được điều gì.

 

          Ông Vũ Văn Lộc quả xứng mặt “một tay đơm đó” khi láu cá ngụy biện ra cái mà ông ta gọi là “di ngôn tự vấn” của cố Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam bằng 4 chữ “chết để làm gì”!

*

          Trong bao nhiêu năm trời, đảng Việt Tân đã bỏ ra không biết bao nhiêu công sức để làm chuyện “thay tên, đổi nghĩa” những ngày lịch sử để chạy tội cho Việt Cộng mà không thể làm được.

 

          Chỉ cần vài tháng núp sau lưng bà ca kịch sĩ Hoàng Mộng Thu, ông nhà văn Giao Chỉ Vũ Văn Lộc đã có thể công khai khắc những hàng chữ bêu rếu cái chết của cố Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam trên bia đá mà bà ca kịch sĩ này đã tổ chức gây quỹ để thực hiện!

 

          Ông nhà văn Giao chỉ Vũ Văn Lộc quả xứng danh một trong hai Nhạc Bất Quần thời đại: “Đông Sơn Tùng, Tây Giao Chỉ” - như “Biệt Động Quân” Đoàn Trọng Hiếu đã xưng tụng.

 

        LÃO MÓC

          tieng-dan-weekly.blogspot.com

 

 

 

17 Năm Trong Các Trại Cải Tạo Của CSVN (tiếp theo và hết)


 

On , Phao Thu HT <> wrote:

 

 fyi

image

 

On Thursday, November 28, 2013 6:02 PM, CCT/> wrote:

 

 17 Năm Trong Các Trại Cải Tạo Của CSVN (tiếp theo và hết)

Hồi Ký Kale


0907TraiTuCS

Chương 48. Đợt Thả Năm 1988.


trong trại cải tạo thì quả thật không có gì buồn cho bằng mỗi lần thấy bạn bè được thả ra mà chính mình thì vẫn còn tiếp tục ở lại.  Niềm vui nhìn thấy bạn được ra về không thế nào bù đắp cho được nỗi buồn cho thân phận mình không biết ngày mai sẽ ra sao.

Gần mười ba năm tù đã trôi qua với không biết bao nhiêu lần ngồi trong hàng để nghe đọc tên những người được ra khỏi trại.  Bao nhiêu lần hồi hộp chỉ mong có tên mình trong danh sách ấy, rồi cũng bao nhiêu lần thất vọng lủi thủi đi theo đội xuất trại lao động trong khi những người được ra về thì vui cười trở vào phòng dọn dẹp đồ đạc trước khi rời trại!  Mười ba năm qua từ Nam ra Bắc rồi lại từ Bắc vào Nam, tôi không thể nào nhớ nỗi đã có bao nhiêu lần như vậy đã xãy ra.  Có lần dăm mười người, cũng có lần vài chục người.  Lúc đầu còn thấy chán nản, xôn xao, còn có những đêm nằm suy tư mất ngủ, nhưng dần dần chỉ còn thấy một chút gì đó xao xuyến rồi đâu lại vào đấy!  Cuộc sống hàng ngày trong trại vẫn phải tiếp tục, phải cố gắng phấn đấu để sinh tồn.

Có người bảo rằng khi ở tù quá lâu thì con người bị chai lỳ đi, nhưng tôi lại nghĩ đó không phải là sự chai lỳ mà là sự chấp nhận, chấp nhận những cái gì xảy đến ngoài tầm tay mình, cho dù điều đó tốt hay xấu.  Ở tù không thể là một sự chai lỳ, không phải là một thói quen, mà là một sự chấp nhận hoàn cảnh.

Khi trở về miền Nam, được gặp gia đình thường xuyên hơn, được nghe gia đình kể về cuộc sống của những người bạn đã được thả ra.  Có người kết luận rằng họ được ra khỏi cái nhà tù nhỏ là trại cải tạo để sống trong một nhà tù lớn hơn, đó là xã hội của những người Cộng Sản.  Thậm chí còn có người cho rằng ra ngoài “xã hội” họ thấy còn “mệt” hơn là ở trong “trại cải tạo”!  Nói thì nói thế thôi chứ có mấy ai không thấy vui mừng khi được nghe tên mình rời khỏi trại cải tạo, và có ai lại muốn đánh đổi cuộc sống ở bên ngoài để vào trở lại trại cải tạo?

Từ năm 1985, trại Z30D cũng có những chuyển biến khác lạ.  Từ khi Nhu bắt đầu nắm quyền hành thì chúng tôi thấy nhiều dấu hiệu khác thường!  Ngoài việc phải lao động vất vã hơn thì có nhiều điều trước kia rất cấm kỵ mà lúc này lại trở nên rất thông thường.  Hát  “nhạc vàng” trước đó có thể coi như một là một trọng tội.  Khi chúng tôi muốn nghe anh Nghiêm Phú Phát hát cho nghe mấy bản “nhạc hải ngoại” như bản “Một chút quà cho quê hương” của Việt Dzũng hoặc bản “Sài Gòn vĩnh biệt” của Nam Lộc thì chúng tôi phải cắt người canh chừng hai đầu nhà và lại còn phải lựa chọn “thính giả” nữa.  Những người hát nhạc vàng mà bị báo cáo hay bắt gặp là vào ngay nhà kỷ luật.  Thế mà khi Nhu lên nắm quyền, vào những đêm lao động đào hồ thủy điện, những băng cát sét nhạc vàng và nhạc hải ngoại lại được hát một cách công khai cho mọi người nghe để lấy “khí thế” lao động!  Những bộ phim chưởng Trung Hoa lại biến thành những buổi chiếu bóng “bồi dưởng” cho trại viên đi lao động đêm.  Tiếp theo đó thì đội văn nghệ được phép chọn một số những bản nhạc vàng để trình diễn kèm với nhạc “cách mạng”.

Các gia đình lên thăm nuôi cũng cho biết rằng những hiện tượng này cũng là những điều đang xãy ra ở ngoài xã hội.  Những bản nhạc gọi là “nhạc cách mạng” và những phim có tính cách tuyên truyền không còn được dân chúng ủng hộ nửa.  Ngay cả những người làm cho VC cũng không muốn thưởng thức chúng nửa mà mọi người bây giờ lại bắt đầu trở lại với “nhạc vàng” và “phim chưởng”.

Thêm vào đó thì nền kinh tế của đất nước hiện đi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng.  Sau khi chính sách “ngăn sông cấm chợ” của nhà nước VC bị thất bại, họ bắt đầu cho nới rộng việc giao thương buôn bán, tuy nhiên vẫn không thể cứu vản nỗi một nền kinh tế vốn đã suy tàn của đất nước.  Cuộc chiến tranh với Trung Quốc ở các tỉnh ở biên giới phía bắc Việt Nam đã biến Việt Nam và Trung Quốc trở thành hai “kẻ thù trước mắt”.  Trung Quốc không còn là một hậu thuẩn vững mạnh của Việt Nam nữa.  Liên Sô và các nước Đông Âu bắt đầu giai đoạn đổi mới để mong hồi phục phần nào nền kinh tế đang què quặt của các nước ấy, do đó họ cũng không còn có thể giúp cho Việt Nam được.  Trong nước thì chính sách hợp tác xã nông nghiệp hoàn toàn thất bại.  Nông dân rời bỏ ruộng vườn lên thành phố để kiếm ăn.  Các vùng “kinh tế mới” không thể phát triển được và những người đi “kinh tế mới” lục tục kéo về lại thành phố tạo nên một thành phố ăn không ngồi rồi.  Nền kinh tế của Việt Nam dựa vào nông nghiệp mà ruộng đất thì lại bỏ hoang, thành phố thì phi sản xuất.

Cùng lúc ấy thì chính sách cấm vận của Mỹ đối với Việt Nam càng làm cho nền kinh tế tồi tệ hơn.  Việt Nam giờ đây chỉ còn dựa vào số hàng hóa và ngoại tệ cung cấp bởi những người di tản gởi về cho thân nhân trong nước.  Xã hội lúc ấy thì ngoài hai giai cấp thống trị (những người Cộng Sản cao cấp) và giai cấp bị trị, thì bắt đầu sản sinh một giai cấp mới, đó là những người có thân nhân nước ngoài gởi về để “viện trợ”.   Kinh tế đất nước trở thành một nền kinh tế “ăn bám”.

Ngoài ra thì thân nhân trại viên cũng cho biết rằng Mỹ đang có những đợt đàm phán với VC về vấn đề “tù binh chiến tranh” (P.O.W.) và “những người Mỹ mất tích” ở Việt Nam (M.I.A.).  Củ “cà rốt” của “Chú Sam” là việc bải bỏ cấm vận đối với Việt Nam.  Trong những cuộc hội đàm này, họ cũng có đề cập đến những người tù “cải tạo” của Việt Nam Cộng Hòa.  Một lần nửa, chúng tôi lại có một chút hy vọng; hy vọng ở những người “đồng minh” đã bỏ rơi mình suốt mười mấy năm trong lao tù Cộng Sản.

Quả thật thì chúng tôi không còn gì để mong đợi.  Mười mấy năm qua chúng tôi không còn một tổ chức nào để làm chổ dựa, không còn một chính quyền nào để mà trông chờ.  Có một chút hy vọng cho dù mong manh vẫn còn hơn không có gì cả.  Tôi vẫn luôn nhớ lời của anh bạn Muông, người tù thời “Nhân văn giai phẫm” ở miền Bắc Việt Nam rằng “ở tù Cộng Sản mà không có án tức là không bao giờ có ngày về ngoại trừ có một phép lạ”, và chúng tôi đang trông chờ cái phép lạ ấy.  Vẫn biết rằng người Mỹ chỉ nghĩ đến quyền lợi của họ hơn là số phận của chúng tôi, nhưng ít ra đó cũng là một chút bám víu để mong một “phép lạ” xãy đến.  Có còn hơn không!

Những ngày tháng vẽ tranh với Điệp, bạn tôi, trong phòng vẽ cũng là những ngày tháng mà tôi cãm thấy bơ vơ và lạc lõng nhất.  Mặc dù lúc ấy quả thật tôi rất nhàn hạ, nhưng cứ mỗi lần anh bạn mình được vợ con vào thăm rồi lại được ở lại qua đêm thì tôi lại thấy hụt hẩng làm sao!  Tôi vẫn thường tự nhũ rằng “đất nước mất vào tay Cộng Sản là mất tất cả”, cũng như tôi vẫn tự an ủi rằng tôi không còn là “vật cản đường tiến” của vợ tôi nữa.  Nhưng cứ mỗi khi nhìn cảnh đầm ấm của người rồi nhìn lại mình tôi vẫn cãm thấy có một điều gì đó đau lòng và chán nản.  Nhiều khi tôi tự hỏi tại sao trong cùng một hoàn cảnh mà người thế này kẻ lại thế kia?  Tôi không ganh tị với hạnh phúc của người khác mà chỉ cãm thấy buồn cho thân phận của mình mà thôi.  Dù thế nào thì cũng phải chấp nhận hoàn cảnh.  Chấp nhận rồi lại đổ cho “phần số”, đó là phương cách dể dàng nhất để tự an ủi mình.

Đầu năm 1988, những tin tức về một đợt phóng thích rộng rãi càng lúc càng dồn dập.  Trại Z30D lúc ấy là trại cải tạo duy nhất ở miền Nam còn giam giữ các trại viên thuộc “chế độ cũ”.  Tất cả các trại viên thuộc dạng này ở trại Z30C đều đã được chuyển sang trại Z30D, và trại Z30C chỉ còn giam giữ phạm nhân hình sự.  Con số trại viên thuộc dạng “chế độ cũ” trong hai phân trại K1 và K2 của trại Z30D lúc ấy lên đến con số trên một ngàn người.  Tôi nghĩ chắc phải có một biến chuyển nào đó thì VC mới chịu thả chúng tôi ra để mà “đóng cửa trại” như chúng tôi vẫn thường nói.

Những ngày cận Tết có một phái đoàn Bộ Nội Vụ của VC vào trại và gọi nhiều trại viên lên để “làm việc”.  Qua thời gian ở các trại cải tạo, chúng tôi đã biết rằng đó là giai đoạn gặp gỡ sau cùng ở trong trại để “họ” có dịp dụ dỗ, hăm doạ ngõ hầu những người ra về sẽ cộng tác với họ sau này.

Tối ngày 18 (?) tháng giêng năm 1988, Điệp và tôi còn phải ở lại trễ trong phòng vẽ vì Nhu đang ở đó để xem chúng tôi làm việc.  Đột nhiên, hắn hỏi tôi: “Không biết trước kia mày làm gì mà các ông ấy nhất định không chịu thả mày mặc dù tao đã đề nghị nhiều lần?”  “Mày tao” là cách nói chuyện của Nhu với các trại viên.  Tôi ngạc nhiên và cũng có hơi ngỡ ngàng trả lời hắn: “Tôi làm gì thì chắc là ban cũng đã biết vì tất cả đều nằm trong hồ sơ!  Tôi nghĩ chắc là ban chưa đề nghị đúng mức mà thôi!”

Hắn không nói gì thêm mà cũng không đề cập gì đến Điệp dù lúc ấy thì Điệp cũng đứng gần đó.  Tuy nhiên lời nói của hắn đã đủ cho tôi biết rằng lần này cũng sẽ không có tên của tôi trong danh sách ra trại.  Đó là lần đầu tiên trong trại cải tạo tôi biết trước số phận của mình, và cũng là lần đầu tiên mà tôi cãm thấy buồn vì mình sẽ không được ra về cùng với bạn bè.

Đêm ấy trong phòng giam, tôi không ngủ được ngồi đàn hết bản nhạc này đến bản nhạc khác, tất cả mọi bản nhạc cổ điển mà tôi đã học được trong thời gian ở trại Z30D.  Những bản nhạc Việt Nam soạn riêng cho Tây Ban Cầm cũng như những bản nhạc Tristesse của Chopin, Serenade của Schubert, hợp khúc cung đô trưởng của Paganini vân vân đã được tôi đàn đi đàn lại nhiều lần.  Tôi không biết hôm ấy tiếng đàn của tôi có buồn bã lắm hay không, hoặc là mọi người đều đang hồi hộp mong chờ ngày mai, nhiều người trong phòng giam cũng đang nằm thao thức.  Thỉnh thoảng tôi nghe đâu đó có tiếng thở dài.

Buổi sáng hôm sau, sân tập họp lao động có không khí khác lạ, các cán bộ hiện diện đông hơn mọi khi.  Sau khi các đội nữ xuất trại, một số cán bộ mang cặp giấy vào và bắt đầu gọi tên những người được “tha ra khỏi trại.”

Mặc dù biết trước sẽ không có tên mình, nhưng khi nghe họ đọc tên từng người một, tôi vẫn cảm thấy hồi hộp.  Danh sách thả quá dài!  Hầu như mọi người đều được đọc tên.  Tôi bàng hoàng cả người, chẳng lẽ họ thả nhiều như thế mà cũng vẫn không có tên mình?  Điệp ngồi cạnh tôi được đọc tên lúc nào tôi cũng không hay, và anh ta cũng không có dấu hiệu gì khiến tôi nhận ra.  Bạn bè ai được về ai ở lại tôi cũng không biết.  Tôi chỉ cố nghe xem có tên mình hay không; tôi chỉ mong Nhu đã nhớ lầm!  Đến lúc chấm dứt cũng vẫn không nghe tên mình, tôi thẩn thờ đứng dậy đi vào buồng.  Lúc đó mới biết mọi người hầu như được thả ra, số không có tên quá ít ỏi so với số ra khỏi trại.

Những người được ra về gọi nhau ơi ới, chuẩn bị đồ đạc để chia chác cho những người ở lại, hoặc cho các trại viên có án mà họ quen biết trong trại, hay gởi qua ban thi đua để cho các trại viên nữ.  Tôi ngồi nhìn mọi người ra về mà không có một phản ứng nào hết.  Điệp và các bạn đến giao đồ đạc lại cho tôi mà tôi cũng không hay biết gì.

Cuối cùng thì tất cả đã ra văn phòng cơ quan để làm thủ tục ra khỏi trại.  Số còn lại chưa tới hai mươi người.  Chúng tôi giật mình nhìn nhau.  Tại sao lại thế này, tại sao họ có thể thả gần hết mọi người mà chỉ giữ lại một số ít ỏi như thế này?  Họ đang làm gì đây?

Chúng tôi, số còn lại được dồn vào buồng số 1 của khu A để trống các buồng khác cho Thường Trực Thi Đua điều động các trại viên quét dọn để đón các tù mới.  Chiều hôm ấy thì lệnh từ trại trưởng Nhu đưa chúng tôi ra các nhà lô để ở.  Các người thuộc đội mộc như Hùng, Diễm, và tôi thì ra nhà lô đội mộc.  Các người làm ở bếp như Cang, Nghi thì qua nhà bếp.  Các người ở phân trại K2 thì ở lại bên ấy để chăn bò và gà vì sau đó phân trại K2 được bỏ trống và biến thành trại chăn nuôi bò và gà vịt của trại Z30D.

Đêm đầu tiên ngủ ngoài trại, tôi nằm một mình trong phòng vẽ thao thức nghe tiếng ếch nhái và côn trùng rên rỉ mà suy nghĩ về số phận của mình.  Giờ này chắc là Điệp đã về đến nhà, và chắc gia đình tôi cũng đã biết tôi vẫn còn ở lại trong trại.  Không biết gia đình tôi nghĩ ra sao khi thấy tôi không thể “tiến bộ” được mặc dù đã gần mười ba năm cải tạo?

Sau đó khoảng hai tuần thì số còn lại ở trại Nam Hà được đưa vào trại Z30D để nhập chung với chúng tôi.  Tổng số trại viên còn lại trong trại cải tạo sau đợt thả năm 1988 là 210 người, trong số có một số cấp tướng lãnh như: Đảo, Tất, Trường, Thân, Sang, Giai, một số cấp đại tá như Xảo, Của, Hản, Tấn, Phô, vân vân.  Số còn lại đa số thuộc các thành phần An Ninh Quân Đội, Cảnh Sát Đặc Biệt, Trung Ương Tình Báo của VNCH.  Chúng tôi bước vào giai đoạn bốn năm cuối của mình trong trại cải tạo Z30D.

Đài phát thanh Hà Nội sau đó loan báo rằng họ đã thả hầu hết những người của “chế độ cũ”.  Số rất ít còn lại là thành phần “có nợ máu với nhân dân và không chịu cải tạo nên không thể thả ra được”.  Cách nói này của Cộng Sản đã quá quen thuộc đối với chúng tôi, do đó không làm chúng tôi suy nghĩ nhiều.  Chỉ có một điều mà chúng tôi không hiểu là họ có dự định gì đối với chúng tôi, số rất nhỏ còn lại này!

 

Chương 49. Tôi Đi Lâm Sản.


Sau đợt về tháng giêng năm 1988, tôi ra ở và làm việc tại phòng vẽ.  Đáng lý ra thì tôi phải ngủ chung với các bạn thuộc đội mộc của tôi ở một phòng nằm cuối láng mộc, nhưng vì trong phòng vẽ cũng có một chiếc giường nên tôi ngủ một mình ở đó cho tiện.  Hàng ngày tôi làm việc theo giờ giấc của đội mộc, trưa và tối thì thường thả dọc theo bờ suối để câu cá.  Rất ít khi tôi vào trong trại, chỉ khi nào có ngày nghỉ thì tôi mới vào để gặp gỡ bạn bè số mới từ trại Nam Hà về.

Thời gian sống một mình trong phòng vẽ, tôi đi lại và làm việc chỉ cần phải để ý có một mình Nhu mà thôi.  Có đêm dù không đi lao động nhưng tôi vẫn có thể đi xem phim “chưởng” mà Nhu chiếu để “bồi dưỡng” cho các đội làm đêm, sáng hôm sau có thể ngủ dậy trễ một chút cũng được vì Nhu cũng ít khi nào dậy sớm!  Khi mẹ tôi và con tôi lên thăm, tôi có thể gặp nó riêng ở phòng vẽ khi nó vừa đến nơi, tôi có thể nói với cán bộ phụ trách nhà thăm gặp để ra gặp gia đình trước giờ thăm, hoặc có thể gặp nhau ngay bờ suối trong lúc tôi câu cá!  Ở ngoài sân kế bên phòng vẽ, tôi nuôi cả mấy con vịt xiêm và gà để lấy trứng.

Đến đầu năm 1990, Lập, một phạm nhân hình sự, được đưa ra làm chung trong phòng vẽ.  Tôi nghe nói Lập nguyên là một công an của VC có nhiệm vụ đặc trách việc tổ chức vượt biên giả mạo để bắt những người vượt biên.  Anh ta lại có ý định vượt biên thật sự nên đã giết chết đồng bọn để đi.  Việc không thành nên bị bắt và lãnh án tù chung thân.  Chuyển đến trại Z30D, anh ta bị thương ở mắt vì bị mìn nổ trong khi khai phá một đồn địa phương quân cũ ở phía bên kia quốc lộ số 1 để trồng cây bạch đàn.  Sau khi đi bệnh viện về thì anh ta được Nhu đưa ra phòng vẽ để làm chung với tôi vì anh ta cũng biết chút ít về trang trí.

Khoảng một tuần sau khi Lập ra thì có lệnh dời phòng vẽ vào trong trại.  Họ sợ Lập trốn trại vì anh ta mới ở trại không bao lâu mà án lại quá dài.  Phòng vẽ được dời vào chiếm một căn phòng đầu nhà số 1 của khu A, nằm gần văn phòng Thường Trực Thi Đua.  Vào trong trại, tôi không có nhiều việc phải làm vì tất cả đều lệ thuộc vào đội mộc như đóng khung, làm pa-nen.  Lập thì làm cho ban thi đua còn tôi thì thỉnh thoảng chỉ phụ với đội văn nghệ để vẽ phong màn, làm trang trí sân khấu.  Tranh lúc này cũng được vẽ rất ít vì trại cũng không cần nhiều như trước.  Các khu nhà đã xây cất quá nhiều, bây giờ chỉ còn đập phá để xây cái mới.  Tranh thì cứ dời nơi này đến nơi khác.  Lúc này thì trại cũng đang khai phá khu mới ở tận khu vực của trại Z30C, bấy giờ đã trở thành phân trại K2 của trại Z30D.  Thỉnh thoảng tôi cũng phải đi theo đội vào đó để sơn nhà, vẽ tranh tường vân vân.  Về sau thì họ cho Lập đi còn tôi thì đôi lúc không làm gì cả.

Mặc dù làm ở phòng vẽ nhưng tôi vẫn thuộc đội mộc và ở chung phòng với đội này.  Đội mộc lúc ấy chỉ toàn phạm nhân hình sự.  Nhiều lần, tôi yêu cầu cán bộ Tư, trưởng phân trại K1 chuyển tôi về đội 20 với các bạn ở Hà Nam Ninh về, nhưng không được.  Một hôm trong lúc điểm số để nhập buồng, tôi được gọi đi họp với số trại viên “chế độ cũ” nên đứng riêng một bên.  Tên cán bộ vũ trang không biết nên đã đánh tôi vì lý do tôi không chịu vào buồng.  Tôi ra báo cáo với cán bộ trực trại và sau đó chính Nhu phải xin lỗi trước buổi họp với các trại viên.  Vài hôm sau tôi được đưa về chung buồng với đội 20.

Trong một lần đi vẽ ở căn tin nằm bên lề quốc lộ số 1, Nhu bảo tôi phải vá lại tấm tranh đã bị rách.  Tôi bảo hắn ta là để tôi vẽ tấm khác thế vào vì tấm cũ bị rách quá nhiều khó có thể vá và sửa lại được.  Thế là hắn ta la lối om sòm rồi gọi tên cán bộ đứng gần đó đưa tôi vào trại nhốt vào phòng kỷ luật!

Tôi nghĩ đây là hành động mà hắn ta trả thù về việc phải xin lỗi tôi trước mặt các trại viên, và cũng là cái cớ để dẹp phòng vẽ vì lúc đó cũng hết cần thiết.

Khi bị đưa về nhốt vào phòng biệt giam, điều đầu tiên tôi suy nghĩ là không biết mình sẽ phải ở trong đó bao lâu.  Đối với Nhu thì không cần phải thắc mắc lý do bị nhốt vì hắn nhốt bất cứ ai mà hắn không thích, không cần nêu lý do và cũng không cần đọc lệnh phạt.  Còn thời gian ở trong đó bao lâu thì tuỳ theo hắn mà thôi.

Tên cán bộ trực trại trước khi đưa tôi vào phòng biệt giam đã cho tôi biết rằng theo điều lệ ở đó thì tôi chỉ được mặc một cái quần đùi mà không được mặc áo vì họ muốn tránh trại viên dùng vãi áo để kết thành dây thắt cổ tự tử.  Tuy nhiên đối với tôi thì hắn ta “nhân nhượng” cho phép tôi được mặc áo vì trong đó rất nhiều muỗi!  Suốt 15 năm ở các trại cải tạo, tôi đã cố tránh việc phải bị giam vào nhà “kỷ luật” bởi vì điều ấy rất dể dẩn đến sự suy sụp tiếp theo.  Lần này thì tôi cũng không thể thoát được.

Nhà “kỷ luật” là một căn nhà xây rất kiên cố, trông giống như một lô-cốt bề ngang khoảng sáu thước dài khoảng mười thước nằm phía sau hội trường.  Nó được ngăn cách với hội trường bởi một bức tường cao và ngăn cách hai khu A và B bởi tường rào khu.  Có hai cửa nhỏ ở hai đầu nhà với cánh cửa được khoá kín ngoại trừ lúc cán bộ hay ban thi đua đưa cơm nước vào hoặc đưa người vào làm vệ sinh.  Phía sau cánh cổng là một lối đi rộng khoảng một thước dẩn vào một lối đi ở giữa rộng khoảng một thước rưỡi.  Hai bên lối đi này là hai dãy phòng biệt giam với những cánh cổng bằng sắt khép kín.

Phòng “biệt giam” là một phòng kín dài khoảng hai thước ngang một thước không có một cửa sổ nào cả mà chỉ có cửa cái nhỏ và thấp, khi đi vào phải cúi mình xuống.  Trên cánh cửa cái còn có một lỗ nhỏ với một cánh cửa được đóng chốt ở phía ngoài để đưa thức ăn vào.  Ánh sáng chỉ được cung cấp bằng một bóng đèn điện trần treo trên cao, bóng đèn này cũng ít khi được thắp sáng do đó căn buồng luôn tối tăm.

Đi qua cửa buồng, về phía bên trái là bệ nằm xây bằng xi măng cao khoảng năm tấc và ngang cũng khoảng năm tấc.  Phía bên phải là khoảng trống có để một cái sô nhỏ bằng nhựa cho trại viên tiêu tiểu tiện vào đó.  Trại viên bị nhốt trong phòng biệt giam phải nằm đưa chân về phía cửa vì phía đó có một thanh sắt dài luồn qua các phòng.  Chân trại viên thì được còng bằng một còng sắt hình chữ U dính vào thanh sắt ấy.  Nếu chỉ bị còng một chân thì trại viên có thể chọn chân mặt hay chân trái.  Chân bị còng phải gác lên thanh sắt dài và rất khó xoay trở vì chiếc còng rất chật.  Ở tư thế này thì người bị còng chỉ có thể nằm ngửa hay nghiêng về một bên tuỳ theo chân bị còng hay có thể ngồi lên nằm xuống để vận động cho đỡ bị cóng chứ không thể đứng dậy được.

Căn phòng rất ẩm mốc và hôi thúi vì chẳng những không có ánh sáng bên ngoài lọt vào mà trại viên còn phải ăn ngủ ỉa đái tại chổ và lại không có gì để lau rửa ngoài một ít giấy báo phát hàng ngày và một ca nước khoảng một lít để vừa uống vừa làm vệ sinh cá nhân.  Vì phòng rất tối tăm nên không có ruồi, nhưng muỗi thì bay cùng khắp cả ngày lẫn đêm!  Mặc dù mới lần đầu bước chân vào nhà kỷ luật nhưng tôi đã nghe nói đến điều này.  Để tránh phần nào bệnh sốt rét, tôi đã uống trước hai viên quinine khi được cho về thay quần áo trước khi đi vào đấy.  Chưa quen với muỗi bay vo ve bên tai nên suốt ngày đêm hôm ấy tôi không hề chợp mắt; tay thì cứ đuổi muỗi không ngớt

Nằm trong phòng biệt giam, tôi chẳng thấy buồn mà chỉ thấy tức cười và thấy lo.  Tức cười bởi vì một duyên cớ không đâu mà lại bị đi kỷ luật.  Còn lo vì không biết bao giờ mới ra và khi ra thì thân thể sẽ ra sao đây?  Bất cứ ai khi đã bị Nhu nhốt rồi thì ít ra cũng phải hai ba tháng mới được cho ra dù với bất kỳ một lý do nào, và khi ra khỏi nhà biệt giam thì cũng thân tàn ma dại, đi đứng vật vờ như bóng ma, thân hình thì giống như một bộ xương biết cử động! 
 
Đó là chưa kể đến những bệnh hoạn này nọ.  Muỗi, rệp, cùng những đêm mất ngủ, những khẩu phần ăn ngày hai bữa chỉ một chén nhỏ cơm độn khoai với một ít nước muối và một lon nước vừa uống vừa rửa ráy hàng ngày.  Con người dù khoẻ mạnh hay có sức chịu đựng tới đâu cũng không thể chịu nỗi một điều kiện sống như vậy!  Tôi vẫn nhớ những lúc chính mình phải mua chuộc cán bộ hay ban thi đua để gởi được một cục đường hay một chút mắm ruốc cho các bạn trong nhà kỷ luật trước đây.  Giờ đây tới phiên mình không biết có ai làm việc ấy hay không?

Tôi lại nghĩ không biết làm sao nhắn được cho gia đình đừng lên thăm nuôi trong lúc này bởi vì họ sẽ không cho gặp mặt trong lúc đang bị giam trong nhà kỷ luật.  Đủ thứ suy nghĩ diễn ra trong đầu óc trong khi tay tôi thì cứ phải xua muỗi không ngớt bám vào chân tay, vào mặt, vào mình mẩy và đốt xuyên qua cả áo!  Cuối cùng thì tôi phải ngồi dậy xé một cánh tay áo ra để làm đồ đuổi muỗi, vậy mà hôm sau dấu muỗi đốt cũng đầy khắp người.

Sáng sớm có tiếng lanh canh mở cửa.  Thật ra nằm trong đó thì không biết ngày đêm là gì cả, chỉ khi ra ngoài thì mới biết trời đã sáng tỏ!  Tên cán bộ trực trại vào mở khoá cho tôi và nói với tôi rằng “Ban bảo thả anh ra và đưa anh đi theo đội lâm sản ngay tức khắc!”

Tôi có hơi ngạc nhiên nhưng không trả lời gì cả mà chỉ theo hắn về phòng để chuẩn bị đồ đạc đi “lâm sản”.  Đội ấy đã xuất trại chỉ còn cán bộ quản giáo đứng đợi để dẩn tôi ra nhà lô của đội ở khu vực K3 cũ.  Đội lâm sản lúc bấy giờ gồm toàn những phạm nhân hình sự, chỉ mình tôi lạc lõng trong đó mà lại là người “già” nhất đội!

Giống như những trại viên khác thuộc đội lâm sản, tôi phải trang bị một con dao đi rừng.  Không có thắt lưng đeo dao, tôi phải dùng dây lá buông cột quanh hông rồi treo lủng lẳng con dao một bên còn bên kia thì đeo bi đông đựng nước uống.  Trang bị xong xuôi, tôi theo các đội viên khác bắt đầu vào rừng.

Mặc dù đã nhiều lần đi rừng từ Bắc vô Nam , nhưng tôi chưa hề đi rừng với mục đích lấy gỗ.  Ở đội mộc trại Tân Lập, tôi chỉ đi vào bìa rừng để cưa cây về làm cột nhà.  Trong thời gian ở trại Z30D này thì tôi chỉ đi rừng để đo khối lượng của cây gỗ mà đội lâm sản hạ sẳn. Lần này thì chính tôi phải hạ những cây gỗ ấy!  Không biết phải làm thế nào đây?

Khoảng 9 giờ sáng, chúng tôi bắt đầu rời nhà lô đội lâm sản.  Rừng ở Z30D đã bị khai phá đến tận chân núi; chúng tôi phải đi bộ về phía Z30C, lúc ấy đã là phân trại K2 của trại Z30D.  Ngang qua những ruộng bắp, các đội viên lâm sản khác rẽ vào để hái một vài trái bắp ngon mang theo mình, họ còn đi thăm những chiếc bẩy cò ke mà họ đặt vào hôm trước.

Lâm sản là một đội thuộc “diện rộng” đi không có cán bộ quản chế, do đó trông họ rất có vẽ tự do!  Hấu hết đội viên lâm sản là những người sắp mãn án tù nên không ai có ý định trốn trại.  Vì chưa biết đường nên tôi phải đi theo anh nuôi của đội, số khác thì đã rẽ ra để đi thăm bẩy hay đi đến những điểm hẹn riêng của họ.  Hiện trường lao động của đội lúc ấy là một khu rừng rậm cách nhà lô khoảng 15 cây số.

Khi đến nơi thì đã trưa, tôi phụ với anh nuôi nấu cơm cho đội và chia sẳn ra từng phần cho mỗi người.  Các đội viên khác cũng lần lượt đến nơi, ăn uống xong thì bắt tay vào việc.  Hôm đó họ hạ những cây trắc, gõ, cẩm lai, thao lao mà họ đã chọn sẵn.  Chỉ tiêu là mỗi người một cây.  Tôi thuộc nhóm cắt ngọn và cành cây.

Đầu tiên, một số người leo lên cây chặt hết những dây leo quấn quanh các cây với nhau để đề phòng cây bị vướng hay bị treo khi được cắt đứt.  Giai đoạn này có lẽ là giai đoạn khó khăn nhất.  Tiếp theo thì từng hai người một cưa “mở miệng” ở gốc cây bằng loại cưa giống cưa khung nhưng lớn hơn và răng cưa cũng to hơn, các cưa này vẫn thường được mài ở đội mộc. 
 
Họ phải chọn hướng để cây ngã.  Sau đó thì cưa ngang phía đối diện bằng loại cưa “cá mập”.  Khi cây đã ngã thì đến giai đoạn cắt ngọn và cắt cành cây, dọn đường cho xe vào kéo gỗ.  Giai đoạn này được coi là công việc nhẹ nhàng nhất và dành cho những người chưa quen việc hay những người “già yếu” trong đội.  Tôi thuộc toán này!  Nói là “nhẹ nhàng” nhất, nhưng khi làm xong thì mồ hôi tôi cũng ướt cả áo quần và tay chân thì mỏi nhừ. 
 
Đêm ấy vào trại tôi ngủ như chết, một ngày đêm không ngủ trong nhà kỷ luật và một bửa lao động nặng khiến tôi không còn biết trời đất gì nữa hết!  Cũng may là họ cho tôi về phòng của đội 20 chứ không ngủ chung với đội lâm sản.  Đã từng ở chung với các phạm nhân hình sự ở đội mộc, tôi cũng không lạ gì cách sống của chúng.  Được cái là họ cũng vị nể chúng tôi nên cũng không đến nỗi nào.

Sau vài hôm đi theo đội lâm sản, tôi bắt đầu trổ tài đánh bẫy.  Họ rất ngạc nhiên là tôi luôn luôn bắt được nhiều thú hơn mọi người khác.  Mỗi loại thú có một thói quen của chúng, do đó tôi đã áp dụng phương pháp mưu sinh để đánh bẫy.  Tất cả những thứ bắt được tôi đều giao cho anh nuôi cùng với gia vị của riêng tôi để nấu ăn chung cho cả đội.  Nhờ thế mà các đội viên đội lâm sản bắt đầu thích tôi, họ làm dùm chỉ tiêu cho tôi để tôi có thời gian đi “cải thiện” cho đội.  Ngoài việc bẫy thú ra thì rừng còn có rất nhiều thứ có thể ăn được như măng tre, nấm, cua cá ở các dòng suối nhỏ, vân vân.  Lần lần tôi trở thành phụ tá cho “anh nuôi” của đội.  Một số khác trong đội thấy vậy cũng bắt đầu góp chung vài thứ họ thu nhặt được để ăn chung vào bữa ăn trưa.

Ngoài việc thực hiện chỉ tiêu của trại ra, một số đội viên lâm sản còn kiếm được tiền bằng cách cắt lá buông cho dân đi lấy lá, hạ cây gỗ và cắt sẳn thành đoạn ngắn cho những người dân đi lấy gỗ.  Số tiền này họ phải chia với các cán bộ phụ trách đội lâm sản.  Chỉ một số có sức khoẻ mới làm được việc này.  Thường đó là số chuyên hạ cây, sau khi hạ xong cây thì họ đi làm thêm kiếm tiền.  Đây là phương cách sinh sống của tù và của cả cán bộ thuộc đội lâm sản!

Bên cạnh việc lấy gỗ cho toán xẽ, đội lâm sản còn có nhiệm vụ lấy đọt lá buông cung cấp cho tổ chằm nón lá của trại, lấy tre cho đội xây dựng, lấy măng cung cấp cho bếp cơ quan, và lấy củi đốt cho bếp trại và bếp cơ quan.

Việc lấy lá buông tương đối nhẹ nhàng hơn nên thường dành cho các trại viên yếu.  Chúng tôi dùng câu liêm để cắt những đọt lá buông xuống rồi chất lên xe bò chở về trại.  Riêng việc đi lấy tre thì rất mới lạ đối với tôi vì nó không đơn giản như tôi nghĩ từ đầu.

Tre rừng là loại tre gai, thân và cành đầy gai nhọn.  Không thể chặt đứt gốc tre rồi kéo cây tre ra khỏi bụi vì cành đầy gai vướng chằng chịt vào nhau.  Đầu tiên chúng tôi phải dùng câu liêm để dọn một “cái thang” leo lên trên bụi tre.  Đó là một khoảng trống với những cành tre ngang làm bậc thang.  Tiếp theo thì người chặt tre phải leo lên đến nơi nào mà họ dự định cắt ngọn, dùng dao chặt đứt ngọn tre ném qua một phía.  Từ nơi ấy họ phải róc cành tre từ trên xuống dưới, và phải róc nhiều cây cùng một lúc để có thể dọn sạch các cành tre.  Khi các cây tre đã trơ trụi, họ leo xuống bên dưới chặt đứt gốc tre và lúc ấy mới kéo được cây tre ra vì chúng không còn vướng vào nhau nữa.

Khi chặt tre như vậy thì hầu như phải chặt cả bụi tre cùng một lúc chứ không chỉ chặt vài cây trong một bụi, do đó phải chọn những bụi tre đủ độ già để lấy được nhiều cây.  Khu vực quanh trại đã phát quang hết nên không còn tre, mỗi lần đi lấy tre thì chúng tôi phải đi rất xa, thường thì phải có xe chở chúng tôi đi và chở cây tre về.

Tôi chỉ đi theo đội lâm sản khoảng hai tháng thì được trở về đội 20 với các bạn.  Tuy nhiên thời gian này có thể nói là thời gian mà tôi đi nhiều nhất khắp các khu vực quanh trại và cả ngoài dân chúng và đó cũng là thời gian tự do nhất trong cuộc đời cải tạo của tôi.

 

Chương 50. Trại Z30D Tiếp Tục Thay Đổi.


Đợt thả đầu năm 1988 đã khiến trại Z30D giãm hẳn con số trại viên xuống, do đó phân trại K2 đã được loại bỏ và trở thành một trại nuôi bò và gà vịt.  Số bò trước đó được nhốt ở chuồng bò trong phân trại K3 cũ được chuyển hết sang K2.  Các phạm nhân hình sự lần lượt được điều về lấp đầy phân trại K1 và trở thành lực lượng lao động chính của trại.  Nhu đã nắm giữ chức vụ trại trưởng sau khi loại trừ được Ý.  Tất cả các “đối thủ” khác đều bị Nhu tìm cách này hay cách khác loại ra khỏi trại.  Hắn ta đưa người của mình lên nắm các chức vụ then chốt trong trại.  Một nữ cán bộ tên là Phúc được đưa lên làm trại phó, trưởng phân trại K1 lúc đầu là Binh sau đó là Tư, mới chỉ là trung úy.  Mọi quyền bính thật sự đều nằm trong tay của Nhu; hắn ta tha hồ làm mưa làm gió ở trại Z30D.

Hai lãnh vực lớn mà Nhu nhắm tới vẫn là lâm sản và xây dựng.  Đập thủy điện sau khi hoàn tất đã cung cấp được điện cho trại và khu cơ quan trong mùa mưa và một phần trong mùa nắng.  Tuy nhiên lòng hồ cứ cạn dần, do đó trại viên phải ra công để vét và nới rộng lòng hồ không lúc nào ngưng.

Các phạm nhân hình sự đa số trẽ, vào trại chưa bao lâu nên lao động có năng suất hơn so với chúng tôi, những trại viên lớn tuổi.  Khu đất phía bên kia bờ suối đã hoàn toàn khai phá, Nhu cho làm một con đường đất đi từ K1 vào tới khu vực K3 cũ.  Đất khu này đều được trồng ớt để “xuất khẩu” và trồng mía để nấu đường chén ở lò đường của trại.

Một khu vực thăm nuôi được thành lập mới ở bên kia bờ suối, phía dưới láng mộc.  Khu thăm nuôi gồm một nhà thăm gặp chính và nhiều nhà khác dùng làm nhà thăm gặp qua đêm.  Lúc đầu việc thăm gặp qua đêm chỉ giới hạn một số ít trại viên, về sau Nhu ra lệnh rộng rãi hơn và thân nhân muốn ở lại qua đêm phải đóng tiền phòng, ngoài việc “lót đường” cho các cán bộ phụ trách thăm nuôi, cho cán bộ ký giấy cho phép và quà cáp cho chính Nhu nữa!  Từ khi ấy, có nhiều trại viên và thân nhân được ở lại không những một đêm mà có khi cả tuần lễ hay mười ngày.  Thân nhân thì không những là vợ, mà mẹ con hay bất cứ ai cũng có thể xin ở lại.  Nhà thăm gặp lúc đó trở thành nơi tiệc tùng cho các cán bộ với gia đình trại viên.  Các chiếc xe đò chở người đi thăm nuôi lúc đầu còn ngừng ở nhà đón khách bên cạnh quốc lộ số 1 rồi trại cho xe ra đón vào, sau đó được chạy thẳng vào tới góc căn tin gần đập thủy điện.

Căn tin này lúc đầu chỉ bán một ít đồ đạc và nước uống, chủ yếu là phục vụ các trại viên lao động đêm.  Dần dần nó biến thành địa điểm buôn bán cho các thân nhân trại viên đến thăm nuôi và ở lại.  Nước đá, nước ngọt, thịt heo, gà vịt, trứng, chuối, vân vân được mua về bán tại đây.  Căn tin khi ấy được nới rộng ra sát bờ suối với một sàn gác ở phía trên làm ve ra khỏi bờ suối.  Trại viên sau khi gặp thân nhân ở nhà thăm gặp thì được dẩn ra căn tin để ngồi uống nước và nói chuyện tiếp.  Mọi thứ đều nhằm mục đích kiếm tiền!

Bãi đất trống giữa láng mộc với căn tin được sửa lại thành công viên với cầu nổi, vườn hoa, tượng và băng đá.  Một con đường nhỏ chạy dọc theo bờ suối từ nhà thăm gặp đến căn tin được thành hình để thân nhân trại viên đi mua sắm.  Đá được đem về lát dọc theo bờ suối và trong các vườn hoa cũng như trên các con đường đi.  Các công việc này tốn rất nhiều công sức của trại viên.  Đá được đập từ núi chuyển về rồi lại phải đẻo ra theo hình dáng kích thước để lát xuống lòng suối.  Nước lũ vào mùa mưa dâng lên cuốn đi rồi lại phải làm lại nhiều lần.

Càng ngày càng có nhiều trại viên được thăm gặp ở lại nhiều ngày, Nhu cho làm một số căn nhà lá nằm riêng rẽ dọc theo con đường phía bên kia đập thủy điện hướng về phân trại K3 cũ.  Mỗi căn nhà lá này chỉ có một phòng, nằm cách xa nhau và chỉ được dùng cho một số trại viên chọn lựa vì khu ấy rất khó kiểm soát nếu trại viên có ý định trốn trại.

Gần khu thăm nuôi đặc biệt này là khu “nhà lô” của đội 23, đội của các “bác già” như Nhu vẫn thường gọi.  Đó là đội của các trại viên nguyên là các tướng lãnh và các cấp đại tá và một số trung tá thuộc quân lực VNCH; đội do tướng Lê Minh Đảo làm đội trưởng.  Vì nằm gần nên khu thăm nuôi này cũng được các “bác già” chăm sóc cẩn thận.  Đường đi luôn luôn được quét dọn sạch sẽ, nhà cửa luôn luôn được dọn dẹp ngăn nắp, cây cối chăm bón tươi tốt.  Đa số những người thuộc đội 23 này khi thăm gặp qua đêm thường được ưu tiên ở khu vực ấy.  Nhu cũng thường dẩn khách đến thăm trại đi qua khu vực ấy để “giới thiệu”.

Khu rừng dọc theo bờ suối lần lượt được khai hoang sạch sẽ.  Cây bạch đàn được trồng thay vào đó.  Tiếp theo thì Nhu cho trồng thuốc lá vàng loại giống Virginia để bán ra ngoài.  Trong trại thì hắn ta cũng tổ chức một tổ làm các loại thuốc lá mang những nhản hiệu giả mạo thuốc ngoại quốc như Jet, 555, Dunhill, Craven A, vân vân.  Tổ làm thuốc này do các phạm nhân bị bắt vào về tội làm thuốc lá giả mạo.  Các phạm nhân này muốn sống thoải mái trong trại thì phải cung cấp vật liệu và công sức để làm những cái mà họ đã bị kết án để rồi Nhu lại có dịp tung những thứ này ra trở lại thị trường.  Quả thật là một điều “khôi hài đen!”

Quanh trại còn được đào nhiều ao nuôi cá trắm cỏ và cá rô phi mà các cá giống đều do các phạm nhân cung cấp nếu họ muốn được làm công việc nuôi cá ở trại thay vì đi lao động cực nhọc.

Bên cạnh Quốc Lộ Số 1, Nhu cho xây dựng một “khách sạn” và quán cà phê do Dũng và gia đình làm quản lý.  Dũng là một phạm nhân trẽ bị án chung thân vì tội bắn chết công an ở Sài Gòn.  Gia đình của hắn ta cũng rất có thế lực trong nhà nước Cộng Sản nên Dũng đã tránh khỏi tội tử hình.  Vào trại hắn ta lại được hưởng nhiều ưu đãi nữa.  Khách sạn và quán cà phê này cũng là nơi mà Nhu và các khách của hắn ta làm địa điểm “ăn chơi”.  Ngoài ra, một quán “cà phê nhạc” cũng được lập ở thị xã Long Khánh do các phạm nhân nữ làm chiêu đãi viên.  Hầu hết những nơi này tôi đều có dịp đến để thực hiện công việc gọi là “trang trí nội thất”: sơn và vẽ bảng hiệu cùng treo tranh ảnh.

Căn nhà “bát giác” nơi trước kia Nhu xây cho riêng hắn ta bên bờ suối gần với láng mộc đã được dành cho một nữ phạm nhân mà chúng tôi thường gọi là “bà trời!”  Nữ phạm nhân này bị bắt về tội truyền bá đạo giáo mê tín.  “Bà trời” biến nơi này thành nơi “tu hành” và cũng là nơi để chụp hình cho khách, nhất là thân nhân đến thăm trại viên.

Sau khi nhập chung hai trại Z30D và Z30C thành một, Nhu bắt đầu nới rộng địa bàn sang Z30C lúc đó là phân trại K2 của trại Z30D.  Hắn ta cho cất nhà và lập bản doanh riêng ở bên ấy.  Máy cưa cũng được dời sang và bắt đầu khai phá rừng để lấy gỗ khu vực này.

Sự thay đổi trong trại cũng được thực hiện một cách nhịp nhàng.  Kể từ khi có sự trộn lẩn giữa hai thành phần trại viên “có án” và “tập trung cải tạo” thuộc chế độ cũ, cơ cấu của Ban Thi Đua trại viên cũng được thay đổi.  Lân, Nuôi, Phò, vân vân là những trại viên ở trại Tiên Lãnh miền Trung bị xử án trong trại vì tội làm và nghe lén đài phát thanh ngoại quốc.  Người ráp máy thu thanh thì bị án tử hình.  Lân thì lãnh án chung thân còn Nuôi, Phò, Sang vân vân thì từ mười lăm đến hai mươi năm.  Khi được chuyển về trại Z30D thì Nhu đã dẹp Ban Thi Đua cũ để cho Lân, Nuôi và Phò vào thế chổ.  Theo tôi thì hắn ta đã bước một bước khéo léo trong việc này.  Hắn ta đã xữ dụng thành phần này như một trung gian giữa số trại viên thuộc chế độ cũ và số bị kết án để dể điều hành công việc trong trại.  Về phía trại viên nữ thì hắn ta đưa Tâm lên làm Thi Đua.  Tâm có người cha đã bị giết chết trong cuộc tấn công ngày 30 tháng tư năm 1975 của VC, sau đó cô ta lấy một cán bộ VC rồi lại “chiêu hồi” chồng tham gia tổ chức chống lại Cộng Sản.  Bị bắt và bị kết án 20 năm còn chồng thì bị tử hình.

Khi phạm nhân hình sự chiếm đa số trong trại thì một lần nữa Nhu lại thay đổi Ban Thi Đua.  Lân vẫn ở nhiệm vụ trưởng ban, nhưng Nuôi và Phò được thay thế bằng Hạnh, một phạm nhân hình sự.  Châu, một phạm nhân nữ mang tội phạm về kinh tế thay cho Tâm được thả ra khỏi trại.  Nhu cũng thường xuyên “bồi dưởng” cho các thành viên trong Ban Thi Đua, do đó theo tôi thấy thì đây là một Ban Thi Đua làm được việc nhất mà lại ít gây căm thù nhất trong trại viên và phạm nhân.

Một thay đổi lạ lùng nhất ở trong trại là việc thành lập cái gọi là “Khu Vui Chơi”.  Trong thời gian đầu của việc xây dựng đập thủy điện thì vào những đêm lao động để đào hồ, các trại viên trước khi ra về thường được ghé qua “căn tin” ở gần đập để ngồi nghe nhạc và uống nước.  Đôi lúc cũng có những buổi chiếu vidéo phim chưởng Trung Quốc nhưng chỉ ở khu cơ quan.  Năm 1988, Nhu bắt đầu cho thành lập “Khu Vui Chơi” trong trại.  Khu trồng bạch đàn ở hai bên con đường đi vào hội trường được trang bị những băng ghế ngồi và bàn nhỏ làm bằng bìa gỗ xẽ lấy từ đội mộc.  Các bàn và băng ghế này được chôn cố định.  Ở đầu đường vào hội trường được dựng một cổng với tấm bảng “Khu Vui Chơi”; hai bên cổng là hai ki-ốt bán nước uống và bánh kẹo, thuốc lá vân vân.  Ngoài việc được phục vụ nước uống, thường là sửa đậu nành, trại viên ra khu vui chơi còn được phép ngồi nói chuyện tiếp xúc nhau dù là khác phái!  Sau đó tất cả được vào hội trường để xem vidéo phim chưởng hay ca nhạc, nhất là các băng nhạc vidéo hải ngoại như “Thúy Nga Paris”.  Đôi khi trại còn tổ chức ca nhạc ngoài trời do các trại viên lên ca với sự đệm nhạc của các trại viên trong đội văn nghệ.  Các trại viên khác thì tự do khiêu vũ.  Nhạc vàng lúc này được ca hát không còn cấm đoán trong trại nữa.

Có ba thành phần trại viên được ra khu vui chơi.  Thứ nhất là những người bỏ tiền ra mua vé; khi đóng cửa buồng thì những người này được đứng riêng ra để ra khu vui chơi, số còn lại thì vào buồng và khóa cửa phòng lại.  Thứ hai là những trại viên trong toán lao động đêm, nhóm này thường nhập trại khi các trại viên trong khu vui chơi đã vào hội trường để xem phim.  Thành phần thứ ba là “các bác già”, ở nhà số 1 khu A, các trại viên thuộc thành phần “chế độ cũ” không bị khóa cửa cho đến sau khi tan buổi chiếu phim.  Mặc dù được tự do đi ra khu vui chơi, nhưng thành phần này cũng ít khi tham dự ngoài những buổi chiếu vidéo ca nhạc hải ngoại mà các băng nhạc này thường do gia đình mang lên để “ủng hộ” cho trại.

Khu vui chơi lần lần biến thành chổ hẹn hò cho các cặp “nhân tình” trong trại!  Không chỉ những đêm văn nghệ mà cả những ngày nghỉ hay buổi trưa đi lao động về, các cặp “quan hệ nam nữ” này thường ra đó để gặp nhau.  Sự quan hệ nam nữ giữa các trại viên với nhau lúc đầu còn lén lút dần dần trở nên công khai từ khi thành lập cái gọi là “khu vui chơi”.

Để tận dụng “tài nguyên”, các hào nước sát hàng rào trại được cho vét lại và cho đấu thầu nuôi cá rô phi và cá trắm cỏ.  Trại viên nào muốn ở trong trại nuôi cá thì phải cung cấp cá giống và nuôi cá cho trại.  Mọi phương tiện đều dẩn đến việc đầu tư để lấy thêm tiền “gây quỷ”, như các cán bộ giải thích. Thực hiện kế hoạch “tự túc” do nhà nước VC đề ra cho các cơ quan, đơn vị, trại cải tạo dần dần biến thành một cơ sở kinh doanh dưới mọi hình thức.

 

Chương 51. CT: Cải Tạo hay Con Tin?


Chúng tôi, một số rất nhỏ còn lại sau đợt thả đầu năm 1988 quả thật đã bị một cú sốc khá nặng.  Hàng ngàn trại viên được ra về mà chỉ có trên dưới hai mươi người bị giữ lại!  VC đang suy tính gì đây?  Mỗi người chúng tôi đều có trong đầu một suy nghĩ.  Ngay ngày hôm ấy, thay vì nhốt kỹ chúng tôi để đề phòng việc trốn trại thì họ lại “thả lỏng” chúng tôi ra, đưa chúng tôi ra ngủ bên ngoài trại mà không cần một sự canh giữ nào.  Thật là một điều nghịch thường!  Chúng tôi bảo nhau rằng sau Tết có thể họ sẽ thả chúng tôi vì theo chúng tôi nghĩ thì cũng chẳng có một lý do gì để họ giữ lại một số quá ít như thế này trong khi có thể thả hầu hết mọi người khác.  Thêm vào đó, nếu so sánh số còn lại với số ra về thì cũng chẳng có gì khác biệt nhau mấy.  Chúng tôi đành chuẩn bị một cái Tết điều hiu nhất từ trước tới nay ở trong trại cải tạo với một hy vọng mong manh là chúng tôi sẽ ra về sau Tết.

Hùng và Diễm làm ở láng mộc, một mình tôi ở phòng vẽ.  Phải làm công việc hàng ngày nhưng tôi không còn đầu óc đâu mà suy nghĩ tới việc làm.  Tôi vẽ giống như một người máy, cứ tô màu cho kín khung vải chứ chẳng để tâm đến những gì mình đang vẽ.  Chỉ mong cho tới giờ nghỉ là thả rong xuống suối câu cá và suy nghĩ vẩn vơ.  Vì không còn Điệp làm “ông từ” giử chùa nên tôi phải khép cửa phòng vẽ lại mà đi.  Nhu cũng không thường xuyên ghé qua như trước; có lẽ hắn ta cũng biết tôi đang bị xáo trộn đầu óc nên không muốn gặp tôi trong tình trạng này.

Đội mộc bắt đầu bổ sung các phạm nhân hình sự.  Bạn bè đã về hết nên tôi thường ăn uống sinh hoạt chung với Thực, một người bị bắt về tội vượt biên và ở đội mộc cũng đã khá lâu.  Thực hàng ngày đi làm và nhập trại cùng với đội mộc.  Những con cá câu được vào đêm hôm trước tôi rộng vào một thùng nước để hôm sau giao lại cho Thực tùy nghi nấu nướng, và chúng tôi ăn trưa và chiều với nhau.  Ngoài ra còn có Nam cũng thường hay lui tới phòng vẽ với tôi.  Nam là người bị bắt vì tội tổ chức vượt biên, làm ở lò đường và là chuyên viên về âm thanh và ánh sáng của đội văn nghệ.  Cũng nhờ Nam mà không bao giờ tôi thiếu số đường dự trử.  Sau này, Nam tự tử chết bằng thuốc rầy vì tình yêu vô vọng với một tù nữ tên là Tú, bán ở căn tin.

Tin tức từ những người mới ra về cho biết rằng họ không còn bị quản chế như những đợt thả trước kia mà được nhập “hộ khẩu” với gia đình ngay sau khi trình diện.  Về cuộc sống ở ngoài xã hội thì họ cũng cho biết ngoài số những người có thân nhân ở ngoại quốc chi viện về thì số còn lại đa số sống cũng rất vất vã.  Công việc làm không có mà sức khỏe cũng không đủ để cáng đáng những công việc nặng nề như đạp xe xích lô, xe ba gác, hay làm phu khuân vác vân vân.  Điều này không chỉ xảy ra đối với những người cải tạo về mà cũng là tình trạng chung của mọi người dân trong nước.

VC thường nói rằng đất nước ta nếu có khó khăn thì cũng chỉ là “tạm thời”, còn thuận lợi mới là “cơ bản”.  Đã mười ba năm qua kể từ ngày chấm dứt chiến tranh, thế mà tình trạng đất nước ngày càng khó khăn hơn.  Không biết cái gọi là “tạm thời” này bao giờ mới chấm dứt?

Khoảng hai tuần sau, số trại viên còn lại ở trại Hà Nam Ninh được chuyển về nhập chung với chúng tôi nâng tổng số trại viên còn giử lại trong trại cải tạo lên con số khoảng hai trăm mười người.  Sau đó ít lâu họ lại thả một vài người mà họ cho rằng “già yếu bệnh tật”.  Số còn lại bước vào một giai đoạn cải tạo hoàn toàn mới.

Không lâu sau đó, đài phát thanh Hà Nội loan báo rằng họ đã thả hầu hết số “ngụy quân và ngụy quyền” ở trong các trại cải tạo.  Họ còn nói rằng số rất ít còn giử lại vì lý do những người này thuộc thành phần “có nợ máu với nhân dân và không chịu cải tạo” nên không thể thả ra được!  Như vậy là rõ ràng rằng chúng tôi sẽ không thể nào ra về ngoại trừ có một “phép lạ” nào đó.  Không biết họ sẽ đối xử với chúng tôi như thế nào đây?  Đưa ra tòa án “nhân dân” để xử, đưa đi đày ở những hải đảo nào đó, hay đưa đi những nông trường để sống ở nơi ấy trọn đời?  Chúng tôi nghĩ rằng đúng lý ra thì họ phải đưa chúng tôi ra trở lại miền Bắc để “gần với trung ương” cho dể thi hành các biện pháp chế tài chứ tại sao họ làm ngược lại là đưa vào miền Nam.

Cùng lúc ấy thì cũng có những tin tức về các cuộc hội đàm của phái đoàn Mỹ do tướng Vessy dẩn đầu với phái đoàn Hà Nội về vấn đề “Người Mỹ Mất Tích” và “Tù Binh Chiến Tranh”, trong đó có đề cập đến những “quân nhân và nhân viên của chính quyền Nam Việt Nam” đang ở trong các trại cải tạo.  Thế là một bên tung một bên hứng.  Vô hình chung chúng tôi cũng như những “tù binh chiến tranh” và “người Mỹ mất tích” lại trở thành những món hàng để ngã giá, một thứ “con tin” trong cuộc mua bán giữa Mỹ và VC!

Riêng cuộc sống của chúng tôi trong trại cải tạo thì hoàn toàn thay đổi.  Không biết vì chúng tôi đã trở thành một nhóm “thiểu số và già nua” hay vì lý do gì khác mà những công việc lao động nặng nhọc không có mặt chúng tôi nữa.  Ngoài số chăn bò và gà vịt ở K2 cũ và vài người ở đội mộc và đội bếp, số mới về từ trại Hà Nam Ninh được biên chế thành hai đội: đội 20 và đội 23.

Đội 23 gồm những cựu tướng lãnh của quân lực VNCH cũ như các tướng Đão, Giai, Trường, Tất, Sang (tướng Thân làm ở Bệnh Xá) và các người thuộc cấp đại tá như Hản, Xảo, Của, Phô, Tấn vân vân cùng vài người cấp trung tá.  Số còn lại thuộc đội 20, đa số thuộc các thành phần: An Ninh Quân Đội, Cảnh Sát Đặc Biệt và Trung Ương Tình Báo.

Công việc của hai đội này chỉ làm lao động quanh khu vực nhà lô của đội.  Nhà lô đội 23 nằm gần bờ suối phía bên kia đập thủy điện từ cầu hướng về phía K3.  Nhà lô của đội 20 nằm cách trại khoảng bốn cây số hướng về phía Quốc Lộ Số 1.  Mặc dù trại Z30D lúc ấy đang lao động rất vất vã cả ngày lẫn đêm với các công việc như đào ao, vét lòng hồ thủy điện, xây dựng, vân vân, nhưng hai đội 20 và 23 thì chỉ sáng đi chiều về chứ không hề đi lao động đêm như các đội khác.

Ngoài ra mỗi buổi tối các phòng của nhà số 1 khu A dành cho hai đội này được mở cửa cho đến khi các đội làm đêm vào nhập buồng hoặc đến khi khu vui chơi chấm dứt.  Riêng các trại viên nguyên cấp tướng thì được ở riêng một căn nhà nằm cuối sân của nhà 1 và các trại viên cấp đại tá thì được ở một buồng nhỏ ở đầu nhà, hai nơi này không bị khóa cửa về đêm và có giường riêng cho mỗi người.  Chúng tôi còn được xem truyền hình ở một phòng TV nằm ở góc cuối bệnh xá.  Những khi có trận đá bóng quốc tế hay có những chương trình đặc biệt còn có thể xem cho đến khi chấm dứt, có lúc đến sau nửa đêm, miển là “biết điều” với cán bộ trực trại và có gói thuốc lá 555 để hắn ta “xông muỗi”!

Đến thời gian này thì những tin tức không còn bị che dấu hoàn toàn như trước kia.  Một số sách báo ngoại quốc được mang vào trại như các tuần báo “Times”, “Newsweek” của Mỹ hay tạp chí “Le Monde” của Pháp.  Tin về việc đổi mới ở Liên Sô và các nước Đông Âu không thể bị bưng bít được.  Ngay cả hôm mà người dân Đông Đức giật sập bức tường Bá Linh, ngày 9 tháng 11 năm 1989, chúng tôi cũng được xem trên truyền hình ở căn tin với một số cán bộ!

Tôi thấy hình như họ không còn quan tâm nhiều đến những vấn đề chính trị nữa mà chỉ chú ý đến việc “kiếm ăn”.  Những tô “mì tôm có người lái” (mì ăn liền nấu với thịt hay trứng) quan trọng hơn tin về sự sụp đổ của bức tường Bá Linh hay của cả Đông Đức.  Những gói thuốc “ba số có cán” (thuốc lá 555 đầu lọc) cần thiết hơn sự tồn tại của nhà nước Cộng Sản Liên Sô!

Đầu năm 1990, việc lập thủ tục HO cho những người tù cải tạo đã được thả ra để đi sang Mỹ trở nên rầm rộ.  Tin tức về những người bạn này đã ra đi, người bạn kia thì đang chờ chuyến bay khiến chúng tôi ở trong trại sốt ruột hơn lúc nào hết.  Chúng tôi nghĩ rằng cái “phép lạ” đang xãy ra, nhưng bao giờ thì đến với chúng tôi?  Một số người lại tỏ ra lạc quan cho rằng có thể chúng tôi sẽ không được thả để đi theo diện HO mà sẽ được đi thẳng từ trong trại cải tạo.  Mỗi tối thường có những nhóm nhỏ ngồi bàn tán và phóng đại những tin tức do gia đình đưa lên.  Người nào đi thăm nuôi vào cũng cố gắng moi cho được những “thang thuốc bổ” (những tin tức có lợi cho chúng tôi).  Thậm chí có người còn cho rằng khi sang đến Hoa Kỳ, chúng tôi sẽ được lãnh “ráp ben” nữa!  Quả là một sự “lạc quan tếu!”  Tôi thì nghĩ rằng cho dù đó là những phóng đại sai lệch sự thật, nhưng chính chúng lại thật sự là những “liều thuốc bổ” giúp những người còn lại như chúng tôi vượt qua được một chặng đường đầy dẫy những thử thách và chán nản trong thời gian ấy!

Từ khi các trại viên ở trại Hà Nam Ninh chuyển về, phong trào thăm nuôi trở nên mạnh mẽ hẳn lên.  Lúc đầu thì gia đình vợ con lên thăm còn ở lại một đêm.  Dần dần thời gian thăm gặp kéo dài hàng tuần lễ, mười ngày.  Nhất là kể từ lúc trại cho phép trại viên được ở lại dể dàng miễn là “đóng tiền phòng” và “biết điều” với các cán bộ ký giấy và cán bộ phụ trách nhà thăm gặp.  Nhiều người nhờ có thân nhân ở ngoại quốc gởi tiền về sống một cách rất sung túc, họ không ăn cả phần ăn của trại nữa.

Đến giữa năm 1990, có những người trung gian lên giới thiệu các phụ nữ cho các trại viên còn độc thân hoặc đã bị vợ bỏ với hy vọng sẽ được gán ghép vào danh sách “đi Mỹ”.  Những người tù thì vì nhu cầu sinh lý và vật chất còn những người phụ nữ kia thì lại muốn ra đi.  Hai đối tượng này kết hợp nhau giống như một khế ước tạm thời!  Tình cãm chỉ là một sự gượng ép, giả dối.

Tương lai của những người tù cải tạo chúng tôi khi ấy là gì?  Có phải chăng là cái vé để đi đến một chân trời xán lạn của xứ Hoa Kỳ vàng son?  Quả thật là một sự mĩa mai!  Đối với chúng tôi thì chỉ mong điều ấy là một “phép lạ” để cứu chúng tôi ra khỏi trại giam mà thôi.  Mười mấy năm khổ sở, có những lúc xuống tận cùng địa ngục của trần gian, chúng tôi chỉ mong thoát khỏi nơi ấy để nhìn thấy lại gia đình, để sống bên những người thân cho hết phần đời còn lại của mình.

Quả thật chưa bao giờ trong lịch sử Việt Nam mà người dân lại có giấc mơ “đào tẩu” lớn như vậy!  Ngoài xã hội cũng như trong trại giam, đàn ông, đàn bà, trẽ em, tất cả chỉ muốn bằng mọi cách rời khỏi cái đất nước có đầy những bậc “anh hùng, bất khuất, trung hậu, đãm đang” này.  Thật là một điều lạ lùng.  Có ai đó đã nói một câu rất cay đắng “nếu cái cột đèn mà biết đi thì nó cũng đi khỏi đất nước này nữa!”  Một câu nói đùa, nhưng chắc cũng không xa với thật tế.  Vậy thì chúng ta có nên đặt lại câu hỏi mà VC thường dùng trong những ngày chúng mới vào miền Nam rằng “ai thắng ai giữa chủ nghĩa Cộng Sản và chủ nghĩa Tư Bản” hay không?

Riêng cá nhân tôi thì giống như nhiều người khác, cuối cùng dục tính trong con người tôi cũng không thể khắc phục được, tôi đã bước chân vào “cái vòng lẩn quẩn” với một người phụ nữ.  Mặc dù mỗi người có một trường hợp khác nhau nhưng tựu chung thì cũng là vấn đề sinh lý và nhu cầu vật chất.

Cô ta là con gái của một trại viên ở trại Hà Nam Ninh chuyển về.  Lúc ấy tôi còn đang ở phòng vẽ bên ngoài trại.  Cô ấy và hai đứa con trai thường lên thăm ba và ông ngoại.  Mỗi lần như vậy thì con của cô ta hay đến phòng vẽ chơi với tôi.  Thỉnh thoảng cậu con mang cho tôi món này món nọ.  Tôi nghĩ đó cũng là một sự cư xử thường tình của một người dân đi thăm nuôi đối với một người tù.  Ngoài cô ấy ra thì cũng có nhiều người khác biếu quà cho tôi.  Do đó tôi chỉ nhận và cãm ơn về lòng tốt của mọi người.

Tháng 11 năm 1989, ba cô ấy được thả ra với lý do già yếu bệnh tật, và sau đó thì phòng vẽ của tôi cũng được dời vào trong trại.  Tôi không có gì để nhớ!  Đến đầu năm 1990, trong lúc thăm gặp tôi thì mẹ tôi cho biết rằng có một người nào đó muốn thay thế bà lên thăm nuôi tôi.  Tôi rất ngạc nhiên nhưng lại bảo mẹ tôi từ chối dùm.

Tháng 8 năm 1990, trong lúc phong trào các phụ nữ được giới thiệu lên thăm các trại viên nỗi lên rầm rộ thì cô ấy lại lên.  Một lần, hai lần, rồi nhiều lần liên tiếp cho đến khi cô ấy xin được ở lại.  Trong hoàn cảnh ấy tôi không biết đối phó ra sao, thêm vào đó vì đã “ăn chay” quá lâu lại tự nhiên có một người đàn bà dâng hiến cho mình, tôi không thể cưởng lại được dục vọng.  Cô ấy lại là một người đàn bà rất đòi hỏi về xác thịt!  Thế là tôi đã nhắm mắt xuôi tay cho “cuộc thế xoay vần!”  Đến khi nhận ra được rằng mình đang đùa với lửa thì mọi việc đã muộn màng, tôi không làm thế nào để bước lui được nữa.

Vào tháng 11 năm 1990, chỉ mới hơn ba tháng sau lần đầu tiên cô ấy lên thăm tôi thì trại có lệnh cho chúng tôi khai báo những thân nhân sẽ đi theo với chúng tôi sang Mỹ!  Các cán bộ thì bắn tin rằng việc này là do phía của phái đoàn Mỹ yêu cầu.  Nghe tin này tôi nghĩ ngay đến vợ con tôi; thế là tôi đã viết thư gửi về yêu cầu vợ tôi cho tôi được ghi tên hai mẹ con vào danh sách thân nhân rồi sau này ra sao tôi cũng chấp nhận.  Nói là nói vậy thôi chứ tôi biết trong thâm tâm tôi vẫn còn yêu vợ tôi, tôi chỉ có một hy vọng duy nhất là sẽ nối lại tình xưa!  Vợ tôi đã từ chối đề nghị này và bảo rằng hãy để yên cho vợ tôi mà chỉ nên lo cho mẹ và con tôi mà thôi.

Không biết tại sao cô ấy biết được việc làm này của tôi.  Thế là một “trận giặc” đã xãy ra ở nhà thăm nuôi đêm hôm đó.  Cô ấy chỉ muốn chiếm đoạt cả linh hồn lẫn thể xác tôi cho một mình cô ấy.  Cô ấy còn nói với tôi rằng “con cái thì muốn đẻ lúc nào mà không được!”  Cô ta không muốn tôi lo cho cả con tôi nữa.  Tôi rất bực mình bảo cô ta đừng bao giờ lên gặp tôi nữa nhưng rồi cô ta vẫn cứ lên.  Ở trong hoàn cảnh của trại cải tạo thì tôi không còn cách nào khác hơn là phải ra gặp.  Một phần vì chán nản bởi lời từ chối của vợ, một phần vì dục tính, câu chuyện cứ kéo dài mãi cho đến ngày tôi ra khỏi trại, rắc rối mãi cho đến ngày tôi rời khỏi đất nước.

Đây là trường hợp của cá nhân tôi; tôi không biết các trường hợp khác xãy ra như thế nào.  Nhưng có điều tôi nghĩ chắc ít ai có thể giử được lâu dài cái chuyện mua bán tình cãm như vậy!

Vào thời gian này thì ngoài việc đi lao động cầm chừng và đợi đi thăm nuôi, chúng tôi có thêm một sinh hoạt khác, đó là học tiếng Anh.  Có lẽ mọi người đang chuẩn bị để đi Mỹ!  Từ trước việc này bị cấm đoán rất chặc chẽ trong các trại cải tạo.  Bất cứ một tài liệu sách báo nào viết bằng tiếng ngoại quốc như Anh, Pháp vân vân mà bị khám phá đều bị tịch thu, người lưu trử thì bị giam kỷ luật.  Nội quy của trại cũng có nói rằng “không được nói tiếng nước ngoài” vì họ cho rằng điều đó là việc truyền bá một nền văn hóa “phản động và đồi trụy”.  Đến giờ thì họ lại “bỏ ngỏ”, chẳng những không cấm đoán mà còn nhờ cả trại viên dạy cho họ tiếng Anh nữa.

Học tiếng Anh trong trại thì chỉ học qua sách vở, tạp chí và tự điển.  Tuy nhiên lúc ấy có một trại viên nguyên là một giáo sư Anh ngữ ở Sài Gòn trước đây tên là Việt Huy, hay Nguyễn Đình Huy.  Và rồi ông Huy đã trở thành “ông thầy” cho nhiều người.  Sau này khi được thả ra ông Huy đã ở lại nước hoạt động tiếp và lại bị bắt vào trong trại.

Đầu năm 1991, lần đầu tiên chúng tôi được nhận mỗi người một gói quà do các bạn đã sang Mỹ góp nhau gởi về làm quà Tết cho chúng tôi.  Những món quà mà đã bao lâu rồi tôi không thấy, trong đó có cả những lon bia Budweiser, những gói thuốc lá Marlboro.  Họ còn gởi cho chúng tôi cả tiền dollar nửa, nhưng phải đổi ra tiền Việt Nam để xài.  Thế là các cán bộ lại có dịp vào ăn Tết với trại viên!  Giờ đây họ lại đề cập cả việc “xuất cảnh” đối với chúng tôi.  Họ mong rằng khi sang Mỹ rồi thì chúng tôi hãy “nhớ” đến họ -nghĩa là nhớ gởi cho họ những món quà như vậy!  Thật là một sự “duy vật” hơn bất cứ một sự duy vật nào.

Thêm vào đó thì thời gian này là lúc mà Liên Sô và các nước Đông Âu bắt đầu tan rã.  Những cán bộ VC lúc ấy rất lo lắng không biết số phận của nước Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa và số phận của chính họ rồi sẽ ra sao.  Tôi vẫn nhớ vào tháng tám năm 1991, khi các đơn vị Cộng Sản bao vây điện Cẫm Linh, các cán bộ trong trại đã tỏ ra rất vui mừng.  Họ đến phòng chúng tôi và “cá” với chúng tôi rằng Gorbachev sẽ thất bại và Liên Sô sẽ trở lại với chủ nghĩa Cộng Sản.  Nhìn thấy hoàn cảnh chúng tôi, họ liên tưởng đến tình cảnh của chính họ; họ lo sợ một khi Cộng Sản Việt Nam sụp đổ thì số phận của họ sẽ ra sao.  Tên cán bộ trực trại còn nói với tôi sau khi nghe tin Yeltsin làm chủ trở lại tình hình ở Liên Sô rằng: “Các anh đi cải tạo còn có Mỹ nhận đi, đến phiên chúng tôi không biết ai sẽ nhận chúng tôi đây?

Từ khi mới bước chân vào trại luôn luôn nghe những lời sắt máu, chửi bới, nào là “Đế Quốc Mỹ là quân xâm lược”, nào là “lũ ngụy quyền là bọn tay sai” đến bây giờ thì tất cả đều xoay ngược chiều.  Chúng tôi nghĩ đó quả thật là một phép lạ!  Nếu không có cái “phép lạ” này có lẽ là chúng tôi đã rũ xương ở chốn rừng thiêng nước độc của miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa rồi.  Tôi nghĩ rằng dù cho có cố gắng bóp méo lịch sử tới đâu đi nữa thì rồi họ cũng không thể thoát được sự đào thải của định luật phát triển tự nhiên.  Con người vẫn mãi mãi là con người chứ không bao giờ là những con khỉ biến thành người, càng không thể là những rô bô được điều khiển bởi những nút bấm!

 

Chương 52. Ngày về.


Sau gần hai tháng đi lâm sản với các phạm nhân hình sự rồi cuối cùng thì tôi cũng về với các bạn của tôi.  Nhu ra điều kiện là trước khi cho về đội 20 thì tôi phải vẽ cho hắn ta mười lăm bức tranh để trang trí trong khu vực mới ở Z30C, tức là K2 của trại Z30D.  Tôi thấy đó không phải là một điều kiện mà là một mệnh lệnh.  Hắn ta là trại trưởng mà tôi là tù, vậy thì tôi phải làm những gì mà hắn ta ra lệnh.

Trước đó thì Lê Minh Đão, đội trưởng đội 23, có cho tôi biết là Nhu có ý định trả tôi về với nhóm của chúng tôi.  Ngẫm nghĩ, tôi thấy rất tức cười về việc này.  Nhu là ông vua trong trại, muốn làm gì thì có mọi quyền hành để làm có gì mà phải đánh tiếng trước?  Tuy nhiên tôi biết hắn ta muốn tôi phải có lời “xin xỏ” với hắn để tôi được hắn ban “đặc ân”!  Do đó tôi nói với anh Đão rằng anh ấy hãy nói với Nhu để tôi được về đội 20.  Thế là sau thời gian khoảng hai tháng để hoàn tất 15 bức tranh, tôi được chuyển về đội 20 và đi lao động với đội này.

Lúc còn ở phòng vẽ bên ngoài trại, mỗi buổi trưa tôi vẫn thường đi câu cá ở khu vực gần nhà lô của đội 23 gần bờ suối, tuy nhiên tôi không biết rõ đội này làm lao động như thế nào.  Đội 20 có nhiệm vụ chính là chăm sóc một vườn trồng điều nằm cách trại khoảng bốn cây số về hướng Quốc Lộ Số 1.  Mỗi buổi sáng, chúng tôi xuất trại như thường lệ để đi đến nhà lô của đội.  Hơn năm năm kể từ ngày bắt đầu đi vẽ tranh, tôi chỉ làm việc có một mình hoặc với Điệp, bây giờ đi lao động chung với các bạn bè, tôi cãm thấy vui hơn.  Công việc làm của chúng tôi cũng không có gì là vất vã, chỉ làm cỏ vun gốc những cây điều hay trồng một ít bắp.  Chính yếu là có hoạt động ngoài trời cho bớt cuồng chân tay trong trại giam.  Buổi trưa thì treo võng nằm ngủ một giấc trong nhà lô cho đến lúc báo thức để làm lao động tiếp tục.  Chiều về ghé tắm ở bờ suối hay tắm ở giếng nước trong nhà lô rồi nhập trại.

Vì tương đối gần Quốc Lộ nên chúng tôi có cơ hội thuận tiện để mua sắm các thứ cần thiết.  Hàng ngày cán bộ quản giáo cho phép Hòa hay một vài người khác đi chợ mua sắm cho chúng tôi.  Có lúc có những người dân ghé qua nhà lô để bán cho chúng tôi thịt rừng mà họ đánh bẩy được hoặc chuối, bánh vân vân.  Đôi khi các cán bộ còn làm “thịt cầy” và mua rượu về nhậu với trại viên nữa!

Các cán bộ quản giáo và vũ trang đi theo đội 20 thường có những bữa ăn đặc biệt vì hầu như ngày nào trong đội cũng có người đi thăm nuôi.  Một chút ít quà cáp để mua lấy sự thoải mái cũng là chuyện thường tình.

Vào lúc này thì Nhu đang chú tâm vào việc khai thác khu vực mới ở Z30C, nếu có dịp thì hắn chỉ ghé qua đội 23 chứ không khi nào đến khu vực của đội 20.  Vì thế chúng tôi không phải lo việc đối phó với hắn.  Đây cũng là lúc mà tôi tránh gặp mặt Nhu để khỏi phải bị hắn nhắc nhở tới việc vẽ tranh nữa.  Những thời gian đi lao động vất vã thì làm công việc vẽ tranh là một cách để tránh né lao động, còn lúc này tôi không thích làm việc ấy một chút nào!

Hàng ngày đi lao động với đội; tối về tôi tập thể dục ở ngoài sân khu nhà số 1.  Nếu thích thì vào xem truyền hình hay ghé qua khu vui chơi để đấu láo với các nữ tù ở đội văn nghệ, hoặc vào hội trường xem vidéo.  Có lúc thì vào phòng ngồi trò chuyện với bạn bè, nghe những tin tức “sốt dẽo” hay uống vài thang “thuốc bổ” để mà hy vọng.  Cứ thế mà thời gian trôi qua!

Sáng ngày 16 tháng giêng năm 1992, chỉ còn hơn mười ngày nữa đến Tết thì tôi được thả ra khỏi trại!  Có khoảng phân nữa chúng tôi được thả trong một đợt trước Tết, số còn lại thì được thả ra sau Tết năm ấy.

Nhiều lúc tôi suy nghĩ rằng khi được nghe tên mình trong lệnh phóng thích chắc là tôi sẽ rất vui mừng, nhưng thật tế thì không có như vậy.  Tôi hoàn toàn dững dưng khi nghe tên mình được ra khỏi trại cải tạo.  Xem đó như là một điều tất nhiên.

Trở vào buồng để dọn dẹp đồ đạc trước khi ra về, tôi giao cho Uy một vài món cần thiết còn bao nhiêu thì cho Lập, phạm nhân hình sự làm chung với tôi trong phòng vẽ.  Tôi chỉ mang về chiếc ba-lô đã cũ và cái mùng là hai thứ mà tôi mang theo từ lúc vào trường Chu Văn An, tôi cũng không quên mang về một bộ đồ tù còn mới để ghi nhớ.  Tôi lại phải dìu anh Sỹ ra cổng trại để nhận giấy ra trại.  Anh ấy quá yếu vì bị bệnh.  Số tiền trại phát để đi đường thì hầu hết chúng tôi góp nhau gữi vào cho Lân, đang là trưởng ban Thi Đua, là một trại viên cải tạo đã bị xữ án chung thân ở trại Tiên Lãnh.

Cầm tờ giấy ra trại trên tay, tôi lững thững đi bộ ra tới con đường đất hướng về phía Quốc Lộ Số 1 thì nghe có tiếng xe gắn máy ở phía sau lưng.  Tư, lúc ấy là trưởng phân trại K1 của trại Z30D ngừng xe lại bảo tôi leo lên để anh ta đưa tôi ra tới đường cái đón xe đò về nhà.  Tư đã từng là cán bộ quản giáo của đội “mía” lúc tôi mới về trại Z30D, người đã giúp tôi gặp vợ tôi qua đêm để giải quyết chuyện gia đình vào năm 1983, là cán bộ quản giáo đội mộc vào thời gian tôi còn làm ở đội này, và cũng thường lén Nhu ghé vào phòng vẽ để nhờ tôi vẽ dùm những bức tranh cho vợ anh ta dạy học trường cấp một ở thị xã.  Bên cạnh Nhu giống như một hung thần thì Tư lại là một con người có cách cư xữ rất nhã nhặn.

Một chủ thuyết sai lầm không nhất thiết phải sản sinh những con người xấu, tôi nghĩ.

Trên chuyến xe đò, mọi người nhìn tôi dò hỏi.  Họ đều biết tôi vừa mới được ra khỏi trại cải tạo.  Tất cả đều rất ngạc nhiên khi biết rằng tôi đã đi cải tạo từ năm 1975, sau gần 17 năm trường.  Họ cứ tưởng rằng không còn chúng tôi trong các trại cải tạo nữa!  Anh tài xế và anh lơ xe từ chối không nhận tiền mà tôi trả anh ấy lại còn bảo rằng tôi vừa mới được ra trại thì tiền đâu mà trả!

Ngồi trên xe đò, tôi suy nghĩ về hoàn cảnh của mình khi về đến nhà rồi bỗng nhiên tôi lẫm nhẫm bài thơ “Ngày về” của Tố Hữu, một thi sĩ của Bắc Việt:

“Rồi một hôm nào cổi áo xanh,

“Hết cùm, hết xích, hết roi canh.

“Nghiêng vai trút nhẹ đời giam cấm,

“Anh trở về anh của gia đình.

      “Đây nẽo làng quen tự bé thơ,

      “Tre non ngoặt ngọn ý mong chờ.

      “Nóc nhà ai khói lam lên đó,

      “Có phải nhà anh tự thuở xưa?

“Có lẽ con anh lớn lắm rồi?

“Chúng đương đùa nghịch hét vang cươi.

“Anh về nên chúng ngừng vui lại,

“Bỡ ngỡ rồi la: Cha, cha ơi!

      “Và vợ anh đương thổi lữa chiều,

      “Rung mừng quẳng đủa, bỏ nồi niêu.

      “Đôi hàng tóc xõa tung không búi,

      “Ôm lấy anh mà khóc, giận, yêu!

“Nhưng ngỏ nhà xưa đã tới đây,

“Cột sơn còn đó, liếp tre gầy.

“Bảng mờ ai khắc tên lên đó,

“Anh thấy sao như kẻ lạc loài.

      “Chân muốn vô song lại ngập ngừng.

      “Chó nhà đâu đã sủa người dưng?

      “Anh nhìn len lén vườn cau mới,

       “Và tấm bình phong đứng lạnh lùng.

“Vâng chính xưa anh ở chốn này.

“Tre già còn đó, miếu còn đây.

“Lòng bâng khuâng mãi ôn ngày cũ,

“Chợt tiếng người đâu: Chú hỏi ai?

      “Anh hỏi nhà anh? Không phải đây!

      “Rồi thôi quay đóng cửa then cài.

      “Để ngoài sương gió chiều se lạnh.

      “Bên khóm tre già, khách đứng ngây!”

Bao nhiêu giấc mơ “tương phùng” thế mà giờ đây trên đường về tôi lại cãm thấy bơ vơ, lạc lỏng làm sao!  Làm gì có được cái cảnh “Rung mừng quẳng đủa bỏ nồi niêu, đôi hàng tóc xõa tung không búi, ôm lấy anh mà khóc giận yêu!”  Phải chăng chính vì vậy mà khi nghe tên ra về tôi chẳng thấy một chút gì là vui mừng hớn hở?

“Anh sẽ về, em ơi, anh sẽ về.

“Dù đêm khôn cùng, hay mất hết người thân yêu,

“Hay em không còn như thiên đường xưa,

“Cũng gắng trở về chết nơi ra đời!”

Vâng, rồi cũng đến ngày tôi phải về mà thôi, dù về để mà nhìn thấy cảnh đau lòng, để nhìn thiên đường hạnh phúc đã đổ vỡ, thì cũng phải về để “chết nơi ra đời!”  Lời của bài hát sao mà đúng với tâm trạng của tôi quá như vậy!

Xe đã đến Ngã Tư Hàng Xanh.  Con đường Xa Lộ Sài Gòn – Biên Hòa ở đoạn này quá tấp nập hơn cả những ngày tháng trước năm 1975.  Xe xích lô rất nhiều, họ bu quanh chiếc xe đò để mời khách.  Tôi định đi bộ về nhà, nhưng rồi không hiểu tại sao tôi lại bước lên một chiếc xích lô và nói với anh phu xe: “Anh cho tôi về Ngã Tư Bình Hòa.”

Anh ta vừa đạp xe vừa hỏi chuyện:

- “Có phải anh mới ra trại cải tạo không?”

- “Sao anh biết?”

- “Thì nhìn cách ăn mặc và cái ba lô của anh là biết ngay mà!”

- “Chắc anh đã đón nhiều người như tôi rồi phải không?”

- “Cũng khá khá!”  Anh ta cười  “Tôi cũng đi cải tạo hết gần một năm, trước là trung sĩ Thủy Quân Lục Chiến.  Còn anh sao mà về trễ quá vậy?”

- “Tôi cũng không biết sao, có lẽ không tiến bộ nên họ cứ giữ mãi!”

- “Chắc các cha khai báo thành khẩn quá chứ gì?”

Tôi cười với anh ta mà không trả lời.  Tôi đã nghe quá nhiều cách nói này.  Thành khẩn hay không thành khẩn.  Tiến bộ hay không tiến bộ.  Tại sao có những người trước kia có cấp bậc và chức vụ cao mà vẫn được thả ra sớm hơn những người có cấp bậc và chức vụ thấp?  Tại sao chúng tôi phải ở lại thêm bốn năm trong khi hầu như mọi người đã được ra về từ năm 1988?  Tất cả những điều đó đối với tôi giờ này không có gì là quan trọng cả.  Điều mà tôi đang suy nghĩ chính là tôi đang trên đường về nhà và tôi sẽ phải chứng kiến một số phận hẫm hiu mà tôi đã biết trước!

Con đường từ Hàng Xanh qua Bà Chiểu đông nghẹt xe cộ.  Chiếc xích lô đạp với chiếc càng xe cao ngóc lên khác hẳn với những chiếc xích lô đạp trước kia cứ ủi vào những chiếc xe đạp và xe gắn máy để tiến tới khiến tôi phát khiếp.  Sài Gòn không còn là Sài Gòn nữa.  Sài Gòn bây giờ là Thành Phố Hồ Chí Minh.  Cũng vì vậy mà tôi không còn nhận ra một nét quen thuộc nào của Sài Gòn ngày xưa.  Đường xá nhộn nhịp hơn, cái nhộn nhịp bừa bãi!  Hàng quán đầy dẫy khắp mọi nơi, mọi nhà, mọi ngõ ngách.  Những con đường trông chật hẹp hẳn lại vì nhà cửa lấn ra tới tận lề đường, nhiều căn nhà còn bao luôn cột đèn đường vào bên trong.  Xe cộ chạy ngang dọc không theo một trật tự nào hết.  Đúng là họ đã “giải phóng” Sài Gòn và giải phóng luôn cái “ý thức” của người dân Sài Gòn!

Chiếc xích lô quẹo phải qua đường Lê Quang Định.  Khu chợ Bà Chiểu với cái tên chợ vẫn còn kia, nhưng ngôi trường “Nam Tỉnh Lỵ” và “Trường Trung Học Hồ Ngọc Cẩn” không nhìn thấy được.  Hàng quán đã che lấp cổng trường và hàng rào quanh trường.  Bao nhiêu kỷ niệm thời ấu thơ của tôi đang hiện về khi xe chạy trên đoạn đường này; một đoạn đường mà không biết bao nhiêu năm tháng từ thời bắt đầu cắp sách đến trường cho đến năm cuối của bậc trung học tôi đã lê bước đi qua.  Tôi đã thuộc lòng gần như từng viên đá, từng bậc thềm.  Thế mà giờ đây nó hiện ra trước mắt tôi lạ lẫm làm sao!  Chỉ còn có con đường nằm trơ trọi còn hai bên lề đường thì không còn đâu nữa.  Bộ hành và xe cộ cùng chia xẽ lòng đường vốn đã quá nhỏ hẹp này!

Xe đã đến Ngã Tư Bình Hòa.  Con đường cắt ngang là con đường gì đó nhỉ?  Tôi rất ngỡ ngàng khi nhìn thấy cái tên rất kỳ khôi trên tấm bảng chỉ tên đường: “Nơ Trang Long!”  Tôi không thể nào quên được tên của con đường này.  Cái tên Nguyễn Văn Học mà ngôi mộ vẫn nằm trong một công viên ở góc đường ấy với đường Chi Lăng, đối diện với “Trường Vẽ”.  Giờ đây nó đã đổi thành con đường Nơ Trang Long, một cái tên rất xa lạ.  Thôi cũng phải như vậy mà thôi; bởi vì Sài Gòn đã là Thành Phố Hồ Chí Minh thì đường Nguyễn Văn Học trở thành đường Nơ Trang Long cũng quá đúng với lý lẽ của nó.

Tim tôi bắt đầu đập nhanh hơn, tôi cố hướng mắt nhìn về phía căn nhà của mình, nơi mà tôi đã sống suốt quảng đời thơ ấu.  Quang cảnh đã hoàn toàn thay đổi.  Những bải đất trống phía bên kia đường không còn nữa.  Những cái sân nằm yên lặng sau những hàng rào phía trước các căn nhà cũng không còn thấy đâu.  Thay vào đó là những kiến trúc tạp nhạp lấn ra tới tận mặt đường.  Dẫu sao thì tôi vẫn không quên được vị trí của nhà mình; tôi ra dấu cho anh phu xích lô dừng lại.

Bỗng tôi nghe có tiếng la lớn ở nhà bên cạnh: “A!  Tụi bây ơi, anh Hai về kìa!”

Quay lại nhìn người vừa nói, tôi không thể nhận ra được là ai.  Ngày tôi đi thì những cô gái này chỉ là những đứa bé mà giờ đây thì chúng đã tay bồng tay mang.  Hai đứa em tôi đang bán hàng trong nhà chạy ra, và rồi mẹ tôi cũng ra đón tôi vào.  Tôi đã trở về nhà sau mười sáu năm bảy tháng hai ngày!

 

Princess City, Indiana

Mùa Xuân năm 2002.


KALE


 

 

(CCT/VNCH)

 

 

Featured Post

BẠN TÔI: ĐẠI ÚY TRẦN QUANG HIỆP

 https://www.facebook.com/groups/160591528349491/permalink/723350692073569/ https://www.youtube.com/watch?v=oqhFQFR2-JM Chuyện Xứ Xã Nghĩa r...

Popular Posts

Popular Posts

My Blog List