On , Phao Thu HT <> wrote:
fyi
On Thursday, November 28, 2013 6:02 PM, CCT/> wrote:
17 Năm Trong Các Trại Cải Tạo Của CSVN (tiếp theo và hết)
Hồi Ký Kale
Chương 48. Đợt Thả Năm 1988.
Ở trong trại cải tạo thì quả thật không có gì
buồn cho bằng mỗi lần thấy bạn bè được thả ra mà chính mình thì vẫn còn tiếp
tục ở lại. Niềm vui nhìn thấy bạn được ra về không thế nào bù đắp cho
được nỗi buồn cho thân phận mình không biết ngày mai sẽ ra sao.
Gần mười ba năm tù đã trôi qua với không biết bao nhiêu lần ngồi
trong hàng để nghe đọc tên những người được ra khỏi trại. Bao nhiêu lần
hồi hộp chỉ mong có tên mình trong danh sách ấy, rồi cũng bao nhiêu lần thất
vọng lủi thủi đi theo đội xuất trại lao động trong khi những người được ra về
thì vui cười trở vào phòng dọn dẹp đồ đạc trước khi rời trại! Mười ba năm
qua từ Nam ra Bắc rồi lại từ Bắc vào Nam, tôi không thể nào nhớ nỗi đã có bao
nhiêu lần như vậy đã xãy ra. Có lần dăm mười người, cũng có lần vài chục
người. Lúc đầu còn thấy chán nản, xôn xao, còn có những đêm nằm suy tư
mất ngủ, nhưng dần dần chỉ còn thấy một chút gì đó xao xuyến rồi đâu lại vào
đấy! Cuộc sống hàng ngày trong trại vẫn phải tiếp tục, phải cố gắng phấn
đấu để sinh tồn.
Có người bảo rằng khi ở tù quá lâu thì con người bị chai lỳ đi,
nhưng tôi lại nghĩ đó không phải là sự chai lỳ mà là sự chấp nhận, chấp nhận
những cái gì xảy đến ngoài tầm tay mình, cho dù điều đó tốt hay xấu. Ở tù
không thể là một sự chai lỳ, không phải là một thói quen, mà là một sự chấp
nhận hoàn cảnh.
Khi trở về miền Nam, được gặp gia đình thường xuyên hơn, được nghe
gia đình kể về cuộc sống của những người bạn đã được thả ra. Có người kết
luận rằng họ được ra khỏi cái nhà tù nhỏ là trại cải tạo để sống trong một nhà
tù lớn hơn, đó là xã hội của những người Cộng Sản. Thậm chí còn có người
cho rằng ra ngoài “xã hội” họ thấy còn “mệt” hơn là ở trong “trại cải tạo”!
Nói thì nói thế thôi chứ có mấy ai không thấy vui mừng khi được nghe tên mình
rời khỏi trại cải tạo, và có ai lại muốn đánh đổi cuộc sống ở bên ngoài để vào
trở lại trại cải tạo?
Từ năm 1985, trại Z30D cũng có những chuyển biến khác lạ. Từ
khi Nhu bắt đầu nắm quyền hành thì chúng tôi thấy nhiều dấu hiệu khác thường!
Ngoài việc phải lao động vất vã hơn thì có nhiều điều trước kia rất cấm kỵ mà
lúc này lại trở nên rất thông thường. Hát “nhạc vàng” trước đó có
thể coi như một là một trọng tội. Khi chúng tôi muốn nghe anh Nghiêm Phú
Phát hát cho nghe mấy bản “nhạc hải ngoại” như bản “Một chút quà cho quê hương”
của Việt Dzũng hoặc bản “Sài Gòn vĩnh biệt” của Nam Lộc thì chúng tôi phải cắt
người canh chừng hai đầu nhà và lại còn phải lựa chọn “thính giả” nữa. Những
người hát nhạc vàng mà bị báo cáo hay bắt gặp là vào ngay nhà kỷ luật. Thế
mà khi Nhu lên nắm quyền, vào những đêm lao động đào hồ thủy điện, những băng
cát sét nhạc vàng và nhạc hải ngoại lại được hát một cách công khai cho mọi
người nghe để lấy “khí thế” lao động! Những bộ phim chưởng Trung Hoa lại
biến thành những buổi chiếu bóng “bồi dưởng” cho trại viên đi lao động đêm.
Tiếp theo đó thì đội văn nghệ được phép chọn một số những bản nhạc vàng để
trình diễn kèm với nhạc “cách mạng”.
Các gia đình lên thăm nuôi cũng cho biết rằng những hiện tượng này
cũng là những điều đang xãy ra ở ngoài xã hội. Những bản nhạc gọi là
“nhạc cách mạng” và những phim có tính cách tuyên truyền không còn được dân
chúng ủng hộ nửa. Ngay cả những người làm cho VC cũng không muốn thưởng
thức chúng nửa mà mọi người bây giờ lại bắt đầu trở lại với “nhạc vàng” và
“phim chưởng”.
Thêm vào đó thì nền kinh tế của đất nước hiện đi vào tình trạng
khủng hoảng trầm trọng. Sau khi chính sách “ngăn sông cấm chợ” của nhà
nước VC bị thất bại, họ bắt đầu cho nới rộng việc giao thương buôn bán, tuy
nhiên vẫn không thể cứu vản nỗi một nền kinh tế vốn đã suy tàn của đất nước.
Cuộc chiến tranh với Trung Quốc ở các tỉnh ở biên giới phía bắc Việt Nam đã biến
Việt Nam và Trung Quốc trở thành hai “kẻ thù trước mắt”. Trung Quốc không
còn là một hậu thuẩn vững mạnh của Việt Nam nữa. Liên Sô và các nước Đông
Âu bắt đầu giai đoạn đổi mới để mong hồi phục phần nào nền kinh tế đang què
quặt của các nước ấy, do đó họ cũng không còn có thể giúp cho Việt Nam được.
Trong nước thì chính sách hợp tác xã nông nghiệp hoàn toàn thất bại. Nông
dân rời bỏ ruộng vườn lên thành phố để kiếm ăn. Các vùng “kinh tế mới”
không thể phát triển được và những người đi “kinh tế mới” lục tục kéo về lại
thành phố tạo nên một thành phố ăn không ngồi rồi. Nền kinh tế của Việt
Nam dựa vào nông nghiệp mà ruộng đất thì lại bỏ hoang, thành phố thì phi sản
xuất.
Cùng lúc ấy thì chính sách cấm vận của Mỹ đối với Việt Nam càng
làm cho nền kinh tế tồi tệ hơn. Việt Nam giờ đây chỉ còn dựa vào số hàng
hóa và ngoại tệ cung cấp bởi những người di tản gởi về cho thân nhân trong
nước. Xã hội lúc ấy thì ngoài hai giai cấp thống trị (những người Cộng
Sản cao cấp) và giai cấp bị trị, thì bắt đầu sản sinh một giai cấp mới, đó là
những người có thân nhân nước ngoài gởi về để “viện trợ”. Kinh tế
đất nước trở thành một nền kinh tế “ăn bám”.
Ngoài ra thì thân nhân trại viên cũng cho biết rằng Mỹ đang có
những đợt đàm phán với VC về vấn đề “tù binh chiến tranh” (P.O.W.) và “những
người Mỹ mất tích” ở Việt Nam (M.I.A.). Củ “cà rốt” của “Chú Sam” là việc
bải bỏ cấm vận đối với Việt Nam. Trong những cuộc hội đàm này, họ cũng có
đề cập đến những người tù “cải tạo” của Việt Nam Cộng Hòa. Một lần nửa,
chúng tôi lại có một chút hy vọng; hy vọng ở những người “đồng minh” đã bỏ rơi
mình suốt mười mấy năm trong lao tù Cộng Sản.
Quả thật thì chúng tôi không còn gì để mong đợi. Mười mấy
năm qua chúng tôi không còn một tổ chức nào để làm chổ dựa, không còn một chính
quyền nào để mà trông chờ. Có một chút hy vọng cho dù mong manh vẫn còn
hơn không có gì cả. Tôi vẫn luôn nhớ lời của anh bạn Muông, người tù thời
“Nhân văn giai phẫm” ở miền Bắc Việt Nam rằng “ở tù Cộng Sản mà không có án tức
là không bao giờ có ngày về ngoại trừ có một phép lạ”, và chúng tôi đang trông
chờ cái phép lạ ấy. Vẫn biết rằng người Mỹ chỉ nghĩ đến quyền lợi của họ
hơn là số phận của chúng tôi, nhưng ít ra đó cũng là một chút bám víu để mong
một “phép lạ” xãy đến. Có còn hơn không!
Những ngày tháng vẽ tranh với Điệp, bạn tôi, trong phòng vẽ cũng
là những ngày tháng mà tôi cãm thấy bơ vơ và lạc lõng nhất. Mặc dù lúc ấy
quả thật tôi rất nhàn hạ, nhưng cứ mỗi lần anh bạn mình được vợ con vào thăm
rồi lại được ở lại qua đêm thì tôi lại thấy hụt hẩng làm sao! Tôi vẫn
thường tự nhũ rằng “đất nước mất vào tay Cộng Sản là mất tất cả”, cũng như tôi
vẫn tự an ủi rằng tôi không còn là “vật cản đường tiến” của vợ tôi nữa. Nhưng
cứ mỗi khi nhìn cảnh đầm ấm của người rồi nhìn lại mình tôi vẫn cãm thấy có một
điều gì đó đau lòng và chán nản. Nhiều khi tôi tự hỏi tại sao trong cùng
một hoàn cảnh mà người thế này kẻ lại thế kia? Tôi không ganh tị với hạnh
phúc của người khác mà chỉ cãm thấy buồn cho thân phận của mình mà thôi. Dù
thế nào thì cũng phải chấp nhận hoàn cảnh. Chấp nhận rồi lại đổ cho “phần
số”, đó là phương cách dể dàng nhất để tự an ủi mình.
Đầu năm 1988, những tin tức về một đợt phóng thích rộng rãi càng
lúc càng dồn dập. Trại Z30D lúc ấy là trại cải tạo duy nhất ở miền Nam
còn giam giữ các trại viên thuộc “chế độ cũ”. Tất cả các trại viên thuộc
dạng này ở trại Z30C đều đã được chuyển sang trại Z30D, và trại Z30C chỉ còn
giam giữ phạm nhân hình sự. Con số trại viên thuộc dạng “chế độ cũ” trong
hai phân trại K1 và K2 của trại Z30D lúc ấy lên đến con số trên một ngàn người.
Tôi nghĩ chắc phải có một biến chuyển nào đó thì VC mới chịu thả chúng tôi ra
để mà “đóng cửa trại” như chúng tôi vẫn thường nói.
Những ngày cận Tết có một phái đoàn Bộ Nội Vụ của VC vào trại và
gọi nhiều trại viên lên để “làm việc”. Qua thời gian ở các trại cải tạo,
chúng tôi đã biết rằng đó là giai đoạn gặp gỡ sau cùng ở trong trại để “họ” có
dịp dụ dỗ, hăm doạ ngõ hầu những người ra về sẽ cộng tác với họ sau này.
Tối ngày 18 (?) tháng giêng năm 1988, Điệp và tôi còn phải ở lại
trễ trong phòng vẽ vì Nhu đang ở đó để xem chúng tôi làm việc. Đột nhiên,
hắn hỏi tôi: “Không biết trước kia mày làm gì mà các ông ấy nhất định
không chịu thả mày mặc dù tao đã đề nghị nhiều lần?” “Mày
tao” là cách nói chuyện của Nhu với các trại viên. Tôi ngạc nhiên và
cũng có hơi ngỡ ngàng trả lời hắn: “Tôi làm gì thì chắc là ban cũng đã
biết vì tất cả đều nằm trong hồ sơ! Tôi nghĩ chắc là ban chưa đề
nghị đúng mức mà thôi!”
Hắn không nói gì thêm mà cũng không đề cập gì đến Điệp dù lúc ấy
thì Điệp cũng đứng gần đó. Tuy nhiên lời nói của hắn đã đủ cho tôi biết
rằng lần này cũng sẽ không có tên của tôi trong danh sách ra trại. Đó là
lần đầu tiên trong trại cải tạo tôi biết trước số phận của mình, và cũng là lần
đầu tiên mà tôi cãm thấy buồn vì mình sẽ không được ra về cùng với bạn bè.
Đêm ấy trong phòng giam, tôi không ngủ được ngồi đàn hết bản nhạc
này đến bản nhạc khác, tất cả mọi bản nhạc cổ điển mà tôi đã học được trong
thời gian ở trại Z30D. Những bản nhạc Việt Nam soạn riêng cho Tây Ban Cầm
cũng như những bản nhạc Tristesse của Chopin, Serenade của Schubert, hợp khúc
cung đô trưởng của Paganini vân vân đã được tôi đàn đi đàn lại nhiều lần.
Tôi không biết hôm ấy tiếng đàn của tôi có buồn bã lắm hay không, hoặc là mọi
người đều đang hồi hộp mong chờ ngày mai, nhiều người trong phòng giam cũng
đang nằm thao thức. Thỉnh thoảng tôi nghe đâu đó có tiếng thở dài.
Buổi sáng hôm sau, sân tập họp lao động có không khí khác lạ, các
cán bộ hiện diện đông hơn mọi khi. Sau khi các đội nữ xuất trại, một số
cán bộ mang cặp giấy vào và bắt đầu gọi tên những người được “tha ra khỏi
trại.”
Mặc dù biết trước sẽ không có tên mình, nhưng khi nghe họ đọc tên
từng người một, tôi vẫn cảm thấy hồi hộp. Danh sách thả quá dài! Hầu
như mọi người đều được đọc tên. Tôi bàng hoàng cả người, chẳng lẽ họ thả
nhiều như thế mà cũng vẫn không có tên mình? Điệp ngồi cạnh tôi được đọc tên
lúc nào tôi cũng không hay, và anh ta cũng không có dấu hiệu gì khiến tôi nhận
ra. Bạn bè ai được về ai ở lại tôi cũng không biết. Tôi chỉ cố nghe
xem có tên mình hay không; tôi chỉ mong Nhu đã nhớ lầm! Đến lúc chấm dứt
cũng vẫn không nghe tên mình, tôi thẩn thờ đứng dậy đi vào buồng. Lúc đó
mới biết mọi người hầu như được thả ra, số không có tên quá ít ỏi so với số ra
khỏi trại.
Những người được ra về gọi nhau ơi ới, chuẩn bị đồ đạc để chia
chác cho những người ở lại, hoặc cho các trại viên có án mà họ quen biết trong
trại, hay gởi qua ban thi đua để cho các trại viên nữ. Tôi ngồi nhìn mọi
người ra về mà không có một phản ứng nào hết. Điệp và các bạn đến giao đồ
đạc lại cho tôi mà tôi cũng không hay biết gì.
Cuối cùng thì tất cả đã ra văn phòng cơ quan để làm thủ tục ra
khỏi trại. Số còn lại chưa tới hai mươi người. Chúng tôi giật mình
nhìn nhau. Tại sao lại thế này, tại sao họ có thể thả gần hết mọi người
mà chỉ giữ lại một số ít ỏi như thế này? Họ đang làm gì đây?
Chúng tôi, số còn lại được dồn vào buồng số 1 của khu A để trống
các buồng khác cho Thường Trực Thi Đua điều động các trại viên quét dọn để đón
các tù mới. Chiều hôm ấy thì lệnh từ trại trưởng Nhu đưa chúng tôi ra các
nhà lô để ở. Các người thuộc đội mộc như Hùng, Diễm, và tôi thì ra nhà lô
đội mộc. Các người làm ở bếp như Cang, Nghi thì qua nhà bếp. Các
người ở phân trại K2 thì ở lại bên ấy để chăn bò và gà vì sau đó phân trại K2
được bỏ trống và biến thành trại chăn nuôi bò và gà vịt của trại Z30D.
Đêm đầu tiên ngủ ngoài trại, tôi nằm một mình trong phòng vẽ thao
thức nghe tiếng ếch nhái và côn trùng rên rỉ mà suy nghĩ về số phận của mình.
Giờ này chắc là Điệp đã về đến nhà, và chắc gia đình tôi cũng đã biết tôi vẫn
còn ở lại trong trại. Không biết gia đình tôi nghĩ ra sao khi thấy tôi
không thể “tiến bộ” được mặc dù đã gần mười ba năm cải tạo?
Sau đó khoảng hai tuần thì số còn lại ở trại Nam Hà được đưa vào
trại Z30D để nhập chung với chúng tôi. Tổng số trại viên còn lại trong
trại cải tạo sau đợt thả năm 1988 là 210 người, trong số có một số cấp tướng
lãnh như: Đảo, Tất, Trường, Thân, Sang, Giai, một số cấp đại tá như Xảo, Của,
Hản, Tấn, Phô, vân vân. Số còn lại đa số thuộc các thành phần An Ninh
Quân Đội, Cảnh Sát Đặc Biệt, Trung Ương Tình Báo của VNCH. Chúng tôi bước
vào giai đoạn bốn năm cuối của mình trong trại cải tạo Z30D.
Đài phát thanh Hà Nội sau đó loan báo rằng họ đã thả hầu hết những
người của “chế độ cũ”. Số rất ít còn lại là thành phần “có nợ máu với
nhân dân và không chịu cải tạo nên không thể thả ra được”. Cách nói
này của Cộng Sản đã quá quen thuộc đối với chúng tôi, do đó không làm chúng tôi
suy nghĩ nhiều. Chỉ có một điều mà chúng tôi không hiểu là họ có dự định
gì đối với chúng tôi, số rất nhỏ còn lại này!
Chương 49. Tôi Đi Lâm
Sản.
Sau đợt về tháng giêng
năm 1988, tôi ra ở và làm việc tại phòng vẽ. Đáng lý ra thì tôi phải ngủ
chung với các bạn thuộc đội mộc của tôi ở một phòng nằm cuối láng mộc, nhưng vì
trong phòng vẽ cũng có một chiếc giường nên tôi ngủ một mình ở đó cho tiện.
Hàng ngày tôi làm việc theo giờ giấc của đội mộc, trưa và tối thì thường thả
dọc theo bờ suối để câu cá. Rất ít khi tôi vào trong trại, chỉ khi nào có
ngày nghỉ thì tôi mới vào để gặp gỡ bạn bè số mới từ trại Nam Hà về.
Thời gian sống một mình trong phòng vẽ, tôi đi lại và làm việc chỉ
cần phải để ý có một mình Nhu mà thôi. Có đêm dù không đi lao động nhưng
tôi vẫn có thể đi xem phim “chưởng” mà Nhu chiếu để “bồi dưỡng” cho các đội làm
đêm, sáng hôm sau có thể ngủ dậy trễ một chút cũng được vì Nhu cũng ít khi nào
dậy sớm! Khi mẹ tôi và con tôi lên thăm, tôi có thể gặp nó riêng ở phòng
vẽ khi nó vừa đến nơi, tôi có thể nói với cán bộ phụ trách nhà thăm gặp để ra
gặp gia đình trước giờ thăm, hoặc có thể gặp nhau ngay bờ suối trong lúc tôi
câu cá! Ở ngoài sân kế bên phòng vẽ, tôi nuôi cả mấy con vịt xiêm và gà
để lấy trứng.
Đến đầu năm 1990, Lập, một phạm nhân hình sự, được đưa ra làm
chung trong phòng vẽ. Tôi nghe nói Lập nguyên là một công an của VC có
nhiệm vụ đặc trách việc tổ chức vượt biên giả mạo để bắt những người vượt
biên. Anh ta lại có ý định vượt biên thật sự nên đã giết chết đồng bọn để
đi. Việc không thành nên bị bắt và lãnh án tù chung thân. Chuyển
đến trại Z30D, anh ta bị thương ở mắt vì bị mìn nổ trong khi khai phá một đồn
địa phương quân cũ ở phía bên kia quốc lộ số 1 để trồng cây bạch đàn. Sau
khi đi bệnh viện về thì anh ta được Nhu đưa ra phòng vẽ để làm chung với tôi vì
anh ta cũng biết chút ít về trang trí.
Khoảng một tuần sau khi Lập ra thì có lệnh dời phòng vẽ vào trong
trại. Họ sợ Lập trốn trại vì anh ta mới ở trại không bao lâu mà án lại
quá dài. Phòng vẽ được dời vào chiếm một căn phòng đầu nhà số 1 của khu
A, nằm gần văn phòng Thường Trực Thi Đua. Vào trong trại, tôi không có nhiều
việc phải làm vì tất cả đều lệ thuộc vào đội mộc như đóng khung, làm pa-nen.
Lập thì làm cho ban thi đua còn tôi thì thỉnh thoảng chỉ phụ với đội văn nghệ
để vẽ phong màn, làm trang trí sân khấu. Tranh lúc này cũng được vẽ rất
ít vì trại cũng không cần nhiều như trước. Các khu nhà đã xây cất quá
nhiều, bây giờ chỉ còn đập phá để xây cái mới. Tranh thì cứ dời nơi này
đến nơi khác. Lúc này thì trại cũng đang khai phá khu mới ở tận khu vực
của trại Z30C, bấy giờ đã trở thành phân trại K2 của trại Z30D. Thỉnh
thoảng tôi cũng phải đi theo đội vào đó để sơn nhà, vẽ tranh tường vân vân.
Về sau thì họ cho Lập đi còn tôi thì đôi lúc không làm gì cả.
Mặc dù làm ở phòng vẽ nhưng tôi vẫn thuộc đội mộc và ở chung phòng
với đội này. Đội mộc lúc ấy chỉ toàn phạm nhân hình sự. Nhiều lần,
tôi yêu cầu cán bộ Tư, trưởng phân trại K1 chuyển tôi về đội 20 với các bạn ở
Hà Nam Ninh về, nhưng không được. Một hôm trong lúc điểm số để nhập
buồng, tôi được gọi đi họp với số trại viên “chế độ cũ” nên đứng riêng một bên.
Tên cán bộ vũ trang không biết nên đã đánh tôi vì lý do tôi không chịu vào
buồng. Tôi ra báo cáo với cán bộ trực trại và sau đó chính Nhu phải xin
lỗi trước buổi họp với các trại viên. Vài hôm sau tôi được đưa về chung
buồng với đội 20.
Trong một lần đi vẽ ở căn tin nằm bên lề quốc lộ số 1, Nhu bảo tôi
phải vá lại tấm tranh đã bị rách. Tôi bảo hắn ta là để tôi vẽ tấm khác
thế vào vì tấm cũ bị rách quá nhiều khó có thể vá và sửa lại được. Thế là
hắn ta la lối om sòm rồi gọi tên cán bộ đứng gần đó đưa tôi vào trại nhốt vào
phòng kỷ luật!
Tôi nghĩ đây là hành động mà hắn ta trả thù về việc phải xin lỗi
tôi trước mặt các trại viên, và cũng là cái cớ để dẹp phòng vẽ vì lúc đó cũng
hết cần thiết.
Khi bị đưa về nhốt vào phòng biệt giam, điều đầu tiên tôi suy nghĩ
là không biết mình sẽ phải ở trong đó bao lâu. Đối với Nhu thì không cần
phải thắc mắc lý do bị nhốt vì hắn nhốt bất cứ ai mà hắn không thích, không cần
nêu lý do và cũng không cần đọc lệnh phạt. Còn thời gian ở trong đó bao
lâu thì tuỳ theo hắn mà thôi.
Tên cán bộ trực trại trước khi đưa tôi vào phòng biệt giam đã cho
tôi biết rằng theo điều lệ ở đó thì tôi chỉ được mặc một cái quần đùi mà không
được mặc áo vì họ muốn tránh trại viên dùng vãi áo để kết thành dây thắt cổ tự
tử. Tuy nhiên đối với tôi thì hắn ta “nhân nhượng” cho phép tôi được mặc
áo vì trong đó rất nhiều muỗi! Suốt 15 năm ở các trại cải tạo, tôi đã cố
tránh việc phải bị giam vào nhà “kỷ luật” bởi vì điều ấy rất dể dẩn đến sự suy
sụp tiếp theo. Lần này thì tôi cũng không thể thoát được.
Nhà “kỷ luật” là một căn nhà xây rất kiên cố, trông giống như một
lô-cốt bề ngang khoảng sáu thước dài khoảng mười thước nằm phía sau hội trường.
Nó được ngăn cách với hội trường bởi một bức tường cao và ngăn cách hai khu A
và B bởi tường rào khu. Có hai cửa nhỏ ở hai đầu nhà với cánh cửa được
khoá kín ngoại trừ lúc cán bộ hay ban thi đua đưa cơm nước vào hoặc đưa người
vào làm vệ sinh. Phía sau cánh cổng là một lối đi rộng khoảng một thước
dẩn vào một lối đi ở giữa rộng khoảng một thước rưỡi. Hai bên lối đi này
là hai dãy phòng biệt giam với những cánh cổng bằng sắt khép kín.
Phòng “biệt giam” là một phòng kín dài khoảng hai thước ngang một
thước không có một cửa sổ nào cả mà chỉ có cửa cái nhỏ và thấp, khi đi vào phải
cúi mình xuống. Trên cánh cửa cái còn có một lỗ nhỏ với một cánh cửa được
đóng chốt ở phía ngoài để đưa thức ăn vào. Ánh sáng chỉ được cung cấp
bằng một bóng đèn điện trần treo trên cao, bóng đèn này cũng ít khi được thắp
sáng do đó căn buồng luôn tối tăm.
Đi qua cửa buồng, về phía bên trái là bệ nằm xây bằng xi măng cao
khoảng năm tấc và ngang cũng khoảng năm tấc. Phía bên phải là khoảng
trống có để một cái sô nhỏ bằng nhựa cho trại viên tiêu tiểu tiện vào đó.
Trại viên bị nhốt trong phòng biệt giam phải nằm đưa chân về phía cửa vì phía
đó có một thanh sắt dài luồn qua các phòng. Chân trại viên thì được còng
bằng một còng sắt hình chữ U dính vào thanh sắt ấy. Nếu chỉ bị còng một
chân thì trại viên có thể chọn chân mặt hay chân trái. Chân bị còng phải
gác lên thanh sắt dài và rất khó xoay trở vì chiếc còng rất chật. Ở tư
thế này thì người bị còng chỉ có thể nằm ngửa hay nghiêng về một bên tuỳ theo
chân bị còng hay có thể ngồi lên nằm xuống để vận động cho đỡ bị cóng chứ không
thể đứng dậy được.
Căn phòng rất ẩm mốc và hôi thúi vì chẳng những không có ánh sáng
bên ngoài lọt vào mà trại viên còn phải ăn ngủ ỉa đái tại chổ và lại không có
gì để lau rửa ngoài một ít giấy báo phát hàng ngày và một ca nước khoảng một
lít để vừa uống vừa làm vệ sinh cá nhân. Vì phòng rất tối tăm nên không
có ruồi, nhưng muỗi thì bay cùng khắp cả ngày lẫn đêm! Mặc dù mới lần đầu
bước chân vào nhà kỷ luật nhưng tôi đã nghe nói đến điều này. Để tránh
phần nào bệnh sốt rét, tôi đã uống trước hai viên quinine khi được cho về thay
quần áo trước khi đi vào đấy. Chưa quen với muỗi bay vo ve bên tai nên
suốt ngày đêm hôm ấy tôi không hề chợp mắt; tay thì cứ đuổi muỗi không ngớt
Nằm trong phòng biệt giam, tôi chẳng thấy buồn mà chỉ thấy tức
cười và thấy lo. Tức cười bởi vì một duyên cớ không đâu mà lại bị đi kỷ
luật. Còn lo vì không biết bao giờ mới ra và khi ra thì thân thể sẽ ra
sao đây? Bất cứ ai khi đã bị Nhu nhốt rồi thì ít ra cũng phải hai ba
tháng mới được cho ra dù với bất kỳ một lý do nào, và khi ra khỏi nhà biệt giam
thì cũng thân tàn ma dại, đi đứng vật vờ như bóng ma, thân hình thì giống như
một bộ xương biết cử động!
Đó là chưa kể đến những bệnh hoạn này nọ.
Muỗi, rệp, cùng những đêm mất ngủ, những khẩu phần ăn ngày hai bữa chỉ một chén
nhỏ cơm độn khoai với một ít nước muối và một lon nước vừa uống vừa rửa ráy
hàng ngày. Con người dù khoẻ mạnh hay có sức chịu đựng tới đâu cũng không
thể chịu nỗi một điều kiện sống như vậy! Tôi vẫn nhớ những lúc chính mình
phải mua chuộc cán bộ hay ban thi đua để gởi được một cục đường hay một chút
mắm ruốc cho các bạn trong nhà kỷ luật trước đây. Giờ đây tới phiên mình
không biết có ai làm việc ấy hay không?
Tôi lại nghĩ không biết làm sao nhắn được cho gia đình đừng lên
thăm nuôi trong lúc này bởi vì họ sẽ không cho gặp mặt trong lúc đang bị giam
trong nhà kỷ luật. Đủ thứ suy nghĩ diễn ra trong đầu óc trong khi tay tôi
thì cứ phải xua muỗi không ngớt bám vào chân tay, vào mặt, vào mình mẩy và đốt
xuyên qua cả áo! Cuối cùng thì tôi phải ngồi dậy xé một cánh tay áo ra để
làm đồ đuổi muỗi, vậy mà hôm sau dấu muỗi đốt cũng đầy khắp người.
Sáng sớm có tiếng lanh canh mở cửa. Thật ra nằm trong đó thì
không biết ngày đêm là gì cả, chỉ khi ra ngoài thì mới biết trời đã sáng tỏ!
Tên cán bộ trực trại vào mở khoá cho tôi và nói với tôi rằng “Ban bảo thả
anh ra và đưa anh đi theo đội lâm sản ngay tức khắc!”
Tôi có hơi ngạc nhiên nhưng không trả lời gì cả mà chỉ theo hắn về
phòng để chuẩn bị đồ đạc đi “lâm sản”. Đội ấy đã xuất trại chỉ còn cán bộ
quản giáo đứng đợi để dẩn tôi ra nhà lô của đội ở khu vực K3 cũ. Đội lâm
sản lúc bấy giờ gồm toàn những phạm nhân hình sự, chỉ mình tôi lạc lõng trong
đó mà lại là người “già” nhất đội!
Giống như những trại viên khác thuộc đội lâm sản, tôi phải trang
bị một con dao đi rừng. Không có thắt lưng đeo dao, tôi phải dùng dây lá
buông cột quanh hông rồi treo lủng lẳng con dao một bên còn bên kia thì đeo bi
đông đựng nước uống. Trang bị xong xuôi, tôi theo các đội viên khác bắt
đầu vào rừng.
Mặc dù đã nhiều lần đi rừng từ Bắc vô Nam , nhưng tôi chưa hề đi
rừng với mục đích lấy gỗ. Ở đội mộc trại Tân Lập, tôi chỉ đi vào bìa rừng
để cưa cây về làm cột nhà. Trong thời gian ở trại Z30D này thì tôi chỉ đi
rừng để đo khối lượng của cây gỗ mà đội lâm sản hạ sẳn. Lần này thì chính tôi
phải hạ những cây gỗ ấy! Không biết phải làm thế nào đây?
Khoảng 9 giờ sáng, chúng tôi bắt đầu rời nhà lô đội lâm sản.
Rừng ở Z30D đã bị khai phá đến tận chân núi; chúng tôi phải đi bộ về phía Z30C,
lúc ấy đã là phân trại K2 của trại Z30D. Ngang qua những ruộng bắp, các
đội viên lâm sản khác rẽ vào để hái một vài trái bắp ngon mang theo mình, họ
còn đi thăm những chiếc bẩy cò ke mà họ đặt vào hôm trước.
Lâm sản là một đội thuộc “diện rộng” đi không có cán bộ quản chế,
do đó trông họ rất có vẽ tự do! Hấu hết đội viên lâm sản là những người
sắp mãn án tù nên không ai có ý định trốn trại. Vì chưa biết đường nên
tôi phải đi theo anh nuôi của đội, số khác thì đã rẽ ra để đi thăm bẩy hay đi
đến những điểm hẹn riêng của họ. Hiện trường lao động của đội lúc ấy là
một khu rừng rậm cách nhà lô khoảng 15 cây số.
Khi đến nơi thì đã trưa, tôi phụ với anh nuôi nấu cơm cho đội và
chia sẳn ra từng phần cho mỗi người. Các đội viên khác cũng lần lượt đến
nơi, ăn uống xong thì bắt tay vào việc. Hôm đó họ hạ những cây trắc, gõ,
cẩm lai, thao lao mà họ đã chọn sẵn. Chỉ tiêu là mỗi người một cây.
Tôi thuộc nhóm cắt ngọn và cành cây.
Đầu tiên, một số người leo lên cây chặt hết những dây leo quấn
quanh các cây với nhau để đề phòng cây bị vướng hay bị treo khi được cắt đứt.
Giai đoạn này có lẽ là giai đoạn khó khăn nhất. Tiếp theo thì từng hai
người một cưa “mở miệng” ở gốc cây bằng loại cưa giống cưa khung nhưng lớn hơn
và răng cưa cũng to hơn, các cưa này vẫn thường được mài ở đội mộc.
Họ
phải chọn hướng để cây ngã. Sau đó thì cưa ngang phía đối diện bằng loại
cưa “cá mập”. Khi cây đã ngã thì đến giai đoạn cắt ngọn và cắt cành cây,
dọn đường cho xe vào kéo gỗ. Giai đoạn này được coi là công việc nhẹ
nhàng nhất và dành cho những người chưa quen việc hay những người “già yếu” trong
đội. Tôi thuộc toán này! Nói là “nhẹ nhàng” nhất, nhưng khi làm
xong thì mồ hôi tôi cũng ướt cả áo quần và tay chân thì mỏi nhừ.
Đêm ấy
vào trại tôi ngủ như chết, một ngày đêm không ngủ trong nhà kỷ luật và một bửa
lao động nặng khiến tôi không còn biết trời đất gì nữa hết! Cũng may là
họ cho tôi về phòng của đội 20 chứ không ngủ chung với đội lâm sản. Đã
từng ở chung với các phạm nhân hình sự ở đội mộc, tôi cũng không lạ gì cách
sống của chúng. Được cái là họ cũng vị nể chúng tôi nên cũng không đến
nỗi nào.
Sau vài hôm đi theo đội lâm sản, tôi bắt đầu trổ tài đánh bẫy.
Họ rất ngạc nhiên là tôi luôn luôn bắt được nhiều thú hơn mọi người khác.
Mỗi loại thú có một thói quen của chúng, do đó tôi đã áp dụng phương pháp mưu
sinh để đánh bẫy. Tất cả những thứ bắt được tôi đều giao cho anh nuôi
cùng với gia vị của riêng tôi để nấu ăn chung cho cả đội. Nhờ thế mà các
đội viên đội lâm sản bắt đầu thích tôi, họ làm dùm chỉ tiêu cho tôi để tôi có
thời gian đi “cải thiện” cho đội. Ngoài việc bẫy thú ra thì rừng còn có
rất nhiều thứ có thể ăn được như măng tre, nấm, cua cá ở các dòng suối nhỏ, vân
vân. Lần lần tôi trở thành phụ tá cho “anh nuôi” của đội. Một số
khác trong đội thấy vậy cũng bắt đầu góp chung vài thứ họ thu nhặt được để ăn
chung vào bữa ăn trưa.
Ngoài việc thực hiện chỉ tiêu của trại ra, một số đội viên lâm sản
còn kiếm được tiền bằng cách cắt lá buông cho dân đi lấy lá, hạ cây gỗ và cắt
sẳn thành đoạn ngắn cho những người dân đi lấy gỗ. Số tiền này họ phải
chia với các cán bộ phụ trách đội lâm sản. Chỉ một số có sức khoẻ mới làm
được việc này. Thường đó là số chuyên hạ cây, sau khi hạ xong cây thì họ
đi làm thêm kiếm tiền. Đây là phương cách sinh sống của tù và của cả cán
bộ thuộc đội lâm sản!
Bên cạnh việc lấy gỗ cho toán xẽ, đội lâm sản còn có nhiệm vụ lấy
đọt lá buông cung cấp cho tổ chằm nón lá của trại, lấy tre cho đội xây dựng,
lấy măng cung cấp cho bếp cơ quan, và lấy củi đốt cho bếp trại và bếp cơ quan.
Việc lấy lá buông tương đối nhẹ nhàng hơn nên thường dành cho các
trại viên yếu. Chúng tôi dùng câu liêm để cắt những đọt lá buông xuống
rồi chất lên xe bò chở về trại. Riêng việc đi lấy tre thì rất mới lạ đối
với tôi vì nó không đơn giản như tôi nghĩ từ đầu.
Tre rừng là loại tre gai, thân và cành đầy gai nhọn. Không
thể chặt đứt gốc tre rồi kéo cây tre ra khỏi bụi vì cành đầy gai vướng chằng
chịt vào nhau. Đầu tiên chúng tôi phải dùng câu liêm để dọn một “cái
thang” leo lên trên bụi tre. Đó là một khoảng trống với những cành tre
ngang làm bậc thang. Tiếp theo thì người chặt tre phải leo lên đến nơi
nào mà họ dự định cắt ngọn, dùng dao chặt đứt ngọn tre ném qua một phía. Từ
nơi ấy họ phải róc cành tre từ trên xuống dưới, và phải róc nhiều cây cùng một
lúc để có thể dọn sạch các cành tre. Khi các cây tre đã trơ trụi, họ leo
xuống bên dưới chặt đứt gốc tre và lúc ấy mới kéo được cây tre ra vì chúng
không còn vướng vào nhau nữa.
Khi chặt tre như vậy thì hầu như phải chặt cả bụi tre cùng một lúc
chứ không chỉ chặt vài cây trong một bụi, do đó phải chọn những bụi tre đủ độ
già để lấy được nhiều cây. Khu vực quanh trại đã phát quang hết nên không
còn tre, mỗi lần đi lấy tre thì chúng tôi phải đi rất xa, thường thì phải có xe
chở chúng tôi đi và chở cây tre về.
Tôi chỉ đi theo đội lâm sản khoảng hai tháng thì được trở về đội
20 với các bạn. Tuy nhiên thời gian này có thể nói là thời gian mà tôi đi
nhiều nhất khắp các khu vực quanh trại và cả ngoài dân chúng và đó cũng là thời
gian tự do nhất trong cuộc đời cải tạo của tôi.
Chương 50. Trại Z30D
Tiếp Tục Thay Đổi.
Đợt thả đầu năm 1988 đã
khiến trại Z30D giãm hẳn con số trại viên xuống, do đó phân trại K2 đã được loại
bỏ và trở thành một trại nuôi bò và gà vịt. Số bò trước đó được nhốt ở
chuồng bò trong phân trại K3 cũ được chuyển hết sang K2. Các phạm nhân
hình sự lần lượt được điều về lấp đầy phân trại K1 và trở thành lực lượng lao
động chính của trại. Nhu đã nắm giữ chức vụ trại trưởng sau khi loại trừ
được Ý. Tất cả các “đối thủ” khác đều bị Nhu tìm cách này hay cách khác
loại ra khỏi trại. Hắn ta đưa người của mình lên nắm các chức vụ then
chốt trong trại. Một nữ cán bộ tên là Phúc được đưa lên làm trại phó,
trưởng phân trại K1 lúc đầu là Binh sau đó là Tư, mới chỉ là trung úy. Mọi
quyền bính thật sự đều nằm trong tay của Nhu; hắn ta tha hồ làm mưa làm gió ở
trại Z30D.
Hai lãnh vực lớn mà Nhu nhắm tới vẫn là lâm sản và xây dựng.
Đập thủy điện sau khi hoàn tất đã cung cấp được điện cho trại và khu cơ quan
trong mùa mưa và một phần trong mùa nắng. Tuy nhiên lòng hồ cứ cạn dần,
do đó trại viên phải ra công để vét và nới rộng lòng hồ không lúc nào ngưng.
Các phạm nhân hình sự đa số trẽ, vào trại chưa bao lâu nên lao
động có năng suất hơn so với chúng tôi, những trại viên lớn tuổi. Khu đất
phía bên kia bờ suối đã hoàn toàn khai phá, Nhu cho làm một con đường đất đi từ
K1 vào tới khu vực K3 cũ. Đất khu này đều được trồng ớt để “xuất khẩu” và
trồng mía để nấu đường chén ở lò đường của trại.
Một khu vực thăm nuôi được thành lập mới ở bên kia bờ suối, phía
dưới láng mộc. Khu thăm nuôi gồm một nhà thăm gặp chính và nhiều nhà khác
dùng làm nhà thăm gặp qua đêm. Lúc đầu việc thăm gặp qua đêm chỉ giới hạn
một số ít trại viên, về sau Nhu ra lệnh rộng rãi hơn và thân nhân muốn ở lại
qua đêm phải đóng tiền phòng, ngoài việc “lót đường” cho các cán bộ phụ trách
thăm nuôi, cho cán bộ ký giấy cho phép và quà cáp cho chính Nhu nữa! Từ
khi ấy, có nhiều trại viên và thân nhân được ở lại không những một đêm mà có
khi cả tuần lễ hay mười ngày. Thân nhân thì không những là vợ, mà mẹ con
hay bất cứ ai cũng có thể xin ở lại. Nhà thăm gặp lúc đó trở thành nơi
tiệc tùng cho các cán bộ với gia đình trại viên. Các chiếc xe đò chở
người đi thăm nuôi lúc đầu còn ngừng ở nhà đón khách bên cạnh quốc lộ số 1 rồi
trại cho xe ra đón vào, sau đó được chạy thẳng vào tới góc căn tin gần đập thủy
điện.
Căn tin này lúc đầu chỉ bán một ít đồ đạc và nước uống, chủ yếu là
phục vụ các trại viên lao động đêm. Dần dần nó biến thành địa điểm buôn
bán cho các thân nhân trại viên đến thăm nuôi và ở lại. Nước đá, nước
ngọt, thịt heo, gà vịt, trứng, chuối, vân vân được mua về bán tại đây. Căn
tin khi ấy được nới rộng ra sát bờ suối với một sàn gác ở phía trên làm ve ra
khỏi bờ suối. Trại viên sau khi gặp thân nhân ở nhà thăm gặp thì được dẩn
ra căn tin để ngồi uống nước và nói chuyện tiếp. Mọi thứ đều nhằm mục
đích kiếm tiền!
Bãi đất trống giữa láng mộc với căn tin được sửa lại thành công
viên với cầu nổi, vườn hoa, tượng và băng đá. Một con đường nhỏ chạy dọc
theo bờ suối từ nhà thăm gặp đến căn tin được thành hình để thân nhân trại viên
đi mua sắm. Đá được đem về lát dọc theo bờ suối và trong các vườn hoa
cũng như trên các con đường đi. Các công việc này tốn rất nhiều công sức
của trại viên. Đá được đập từ núi chuyển về rồi lại phải đẻo ra theo hình
dáng kích thước để lát xuống lòng suối. Nước lũ vào mùa mưa dâng lên cuốn
đi rồi lại phải làm lại nhiều lần.
Càng ngày càng có nhiều trại viên được thăm gặp ở lại nhiều ngày,
Nhu cho làm một số căn nhà lá nằm riêng rẽ dọc theo con đường phía bên kia đập thủy
điện hướng về phân trại K3 cũ. Mỗi căn nhà lá này chỉ có một phòng, nằm
cách xa nhau và chỉ được dùng cho một số trại viên chọn lựa vì khu ấy rất khó
kiểm soát nếu trại viên có ý định trốn trại.
Gần khu thăm nuôi đặc biệt này là khu “nhà lô” của đội 23, đội của
các “bác già” như Nhu vẫn thường gọi. Đó là đội của các trại viên
nguyên là các tướng lãnh và các cấp đại tá và một số trung tá thuộc quân lực
VNCH; đội do tướng Lê Minh Đảo làm đội trưởng. Vì nằm gần nên khu thăm
nuôi này cũng được các “bác già” chăm sóc cẩn thận. Đường đi luôn luôn
được quét dọn sạch sẽ, nhà cửa luôn luôn được dọn dẹp ngăn nắp, cây cối chăm
bón tươi tốt. Đa số những người thuộc đội 23 này khi thăm gặp qua đêm
thường được ưu tiên ở khu vực ấy. Nhu cũng thường dẩn khách đến thăm trại
đi qua khu vực ấy để “giới thiệu”.
Khu rừng dọc theo bờ suối lần lượt được khai hoang sạch sẽ. Cây
bạch đàn được trồng thay vào đó. Tiếp theo thì Nhu cho trồng thuốc lá
vàng loại giống Virginia để bán ra ngoài. Trong trại thì hắn ta cũng tổ
chức một tổ làm các loại thuốc lá mang những nhản hiệu giả mạo thuốc ngoại quốc
như Jet, 555, Dunhill, Craven A, vân vân. Tổ làm thuốc này do các phạm
nhân bị bắt vào về tội làm thuốc lá giả mạo. Các phạm nhân này muốn sống
thoải mái trong trại thì phải cung cấp vật liệu và công sức để làm những cái mà
họ đã bị kết án để rồi Nhu lại có dịp tung những thứ này ra trở lại thị trường.
Quả thật là một điều “khôi hài đen!”
Quanh trại còn được đào nhiều ao nuôi cá trắm cỏ và cá rô phi mà
các cá giống đều do các phạm nhân cung cấp nếu họ muốn được làm công việc nuôi
cá ở trại thay vì đi lao động cực nhọc.
Bên cạnh Quốc Lộ Số 1, Nhu cho xây dựng một “khách sạn” và quán cà
phê do Dũng và gia đình làm quản lý. Dũng là một phạm nhân trẽ bị án
chung thân vì tội bắn chết công an ở Sài Gòn. Gia đình của hắn ta cũng
rất có thế lực trong nhà nước Cộng Sản nên Dũng đã tránh khỏi tội tử hình.
Vào trại hắn ta lại được hưởng nhiều ưu đãi nữa. Khách sạn và quán cà phê
này cũng là nơi mà Nhu và các khách của hắn ta làm địa điểm “ăn chơi”. Ngoài
ra, một quán “cà phê nhạc” cũng được lập ở thị xã Long Khánh do các phạm nhân
nữ làm chiêu đãi viên. Hầu hết những nơi này tôi đều có dịp đến để thực
hiện công việc gọi là “trang trí nội thất”: sơn và vẽ bảng hiệu cùng treo tranh
ảnh.
Căn nhà “bát giác” nơi trước kia Nhu xây cho riêng hắn ta bên bờ
suối gần với láng mộc đã được dành cho một nữ phạm nhân mà chúng tôi thường gọi
là “bà trời!” Nữ phạm nhân này bị bắt về tội truyền bá đạo giáo mê tín.
“Bà trời” biến nơi này thành nơi “tu hành” và cũng là nơi để chụp hình cho
khách, nhất là thân nhân đến thăm trại viên.
Sau khi nhập chung hai trại Z30D và Z30C thành một, Nhu bắt đầu
nới rộng địa bàn sang Z30C lúc đó là phân trại K2 của trại Z30D. Hắn ta
cho cất nhà và lập bản doanh riêng ở bên ấy. Máy cưa cũng được dời sang
và bắt đầu khai phá rừng để lấy gỗ khu vực này.
Sự thay đổi trong trại cũng được thực hiện một cách nhịp nhàng.
Kể từ khi có sự trộn lẩn giữa hai thành phần trại viên “có án” và “tập trung
cải tạo” thuộc chế độ cũ, cơ cấu của Ban Thi Đua trại viên cũng được thay đổi.
Lân, Nuôi, Phò, vân vân là những trại viên ở trại Tiên Lãnh miền Trung bị xử án
trong trại vì tội làm và nghe lén đài phát thanh ngoại quốc. Người ráp
máy thu thanh thì bị án tử hình. Lân thì lãnh án chung thân còn Nuôi,
Phò, Sang vân vân thì từ mười lăm đến hai mươi năm. Khi được chuyển về
trại Z30D thì Nhu đã dẹp Ban Thi Đua cũ để cho Lân, Nuôi và Phò vào thế chổ.
Theo tôi thì hắn ta đã bước một bước khéo léo trong việc này. Hắn ta đã
xữ dụng thành phần này như một trung gian giữa số trại viên thuộc chế độ cũ và
số bị kết án để dể điều hành công việc trong trại. Về phía trại viên nữ
thì hắn ta đưa Tâm lên làm Thi Đua. Tâm có người cha đã bị giết chết
trong cuộc tấn công ngày 30 tháng tư năm 1975 của VC, sau đó cô ta lấy một cán
bộ VC rồi lại “chiêu hồi” chồng tham gia tổ chức chống lại Cộng Sản. Bị
bắt và bị kết án 20 năm còn chồng thì bị tử hình.
Khi phạm nhân hình sự chiếm đa số trong trại thì một lần nữa Nhu
lại thay đổi Ban Thi Đua. Lân vẫn ở nhiệm vụ trưởng ban, nhưng Nuôi và
Phò được thay thế bằng Hạnh, một phạm nhân hình sự. Châu, một phạm nhân
nữ mang tội phạm về kinh tế thay cho Tâm được thả ra khỏi trại. Nhu cũng
thường xuyên “bồi dưởng” cho các thành viên trong Ban Thi Đua, do đó theo tôi
thấy thì đây là một Ban Thi Đua làm được việc nhất mà lại ít gây căm thù nhất
trong trại viên và phạm nhân.
Một thay đổi lạ lùng nhất ở trong trại là việc thành lập cái gọi
là “Khu Vui Chơi”. Trong thời gian đầu của việc xây dựng đập thủy
điện thì vào những đêm lao động để đào hồ, các trại viên trước khi ra về thường
được ghé qua “căn tin” ở gần đập để ngồi nghe nhạc và uống nước. Đôi lúc
cũng có những buổi chiếu vidéo phim chưởng Trung Quốc nhưng chỉ ở khu cơ quan.
Năm 1988, Nhu bắt đầu cho thành lập “Khu Vui Chơi” trong trại. Khu
trồng bạch đàn ở hai bên con đường đi vào hội trường được trang bị những băng
ghế ngồi và bàn nhỏ làm bằng bìa gỗ xẽ lấy từ đội mộc. Các bàn và băng
ghế này được chôn cố định. Ở đầu đường vào hội trường được dựng một cổng
với tấm bảng “Khu Vui Chơi”; hai bên cổng là hai ki-ốt bán nước uống và bánh
kẹo, thuốc lá vân vân. Ngoài việc được phục vụ nước uống, thường là sửa
đậu nành, trại viên ra khu vui chơi còn được phép ngồi nói chuyện tiếp xúc nhau
dù là khác phái! Sau đó tất cả được vào hội trường để xem vidéo phim
chưởng hay ca nhạc, nhất là các băng nhạc vidéo hải ngoại như “Thúy Nga Paris”.
Đôi khi trại còn tổ chức ca nhạc ngoài trời do các trại viên lên ca với sự đệm
nhạc của các trại viên trong đội văn nghệ. Các trại viên khác thì tự do
khiêu vũ. Nhạc vàng lúc này được ca hát không còn cấm đoán trong trại
nữa.
Có ba thành phần trại viên được ra khu vui chơi. Thứ nhất là
những người bỏ tiền ra mua vé; khi đóng cửa buồng thì những người này được đứng
riêng ra để ra khu vui chơi, số còn lại thì vào buồng và khóa cửa phòng lại.
Thứ hai là những trại viên trong toán lao động đêm, nhóm này thường nhập trại
khi các trại viên trong khu vui chơi đã vào hội trường để xem phim. Thành
phần thứ ba là “các bác già”, ở nhà số 1 khu A, các trại viên thuộc thành phần
“chế độ cũ” không bị khóa cửa cho đến sau khi tan buổi chiếu phim. Mặc dù
được tự do đi ra khu vui chơi, nhưng thành phần này cũng ít khi tham dự ngoài
những buổi chiếu vidéo ca nhạc hải ngoại mà các băng nhạc này thường do gia
đình mang lên để “ủng hộ” cho trại.
Khu vui chơi lần lần biến thành chổ hẹn hò cho các cặp “nhân tình”
trong trại! Không chỉ những đêm văn nghệ mà cả những ngày nghỉ hay buổi
trưa đi lao động về, các cặp “quan hệ nam nữ” này thường ra đó để gặp
nhau. Sự quan hệ nam nữ giữa các trại viên với nhau lúc đầu còn lén lút
dần dần trở nên công khai từ khi thành lập cái gọi là “khu vui chơi”.
Để tận dụng “tài nguyên”, các hào nước sát hàng rào trại được cho
vét lại và cho đấu thầu nuôi cá rô phi và cá trắm cỏ. Trại viên nào muốn
ở trong trại nuôi cá thì phải cung cấp cá giống và nuôi cá cho trại. Mọi
phương tiện đều dẩn đến việc đầu tư để lấy thêm tiền “gây quỷ”, như các cán bộ
giải thích. Thực hiện kế hoạch “tự túc” do nhà nước VC đề ra cho các cơ quan,
đơn vị, trại cải tạo dần dần biến thành một cơ sở kinh doanh dưới mọi hình
thức.
Chương 51. CT: Cải Tạo
hay Con Tin?
Chúng tôi, một số rất nhỏ
còn lại sau đợt thả đầu năm 1988 quả thật đã bị một cú sốc khá nặng. Hàng
ngàn trại viên được ra về mà chỉ có trên dưới hai mươi người bị giữ lại!
VC đang suy tính gì đây? Mỗi người chúng tôi đều có trong đầu một suy
nghĩ. Ngay ngày hôm ấy, thay vì nhốt kỹ chúng tôi để đề phòng việc trốn
trại thì họ lại “thả lỏng” chúng tôi ra, đưa chúng tôi ra ngủ bên ngoài trại mà
không cần một sự canh giữ nào. Thật là một điều nghịch thường! Chúng
tôi bảo nhau rằng sau Tết có thể họ sẽ thả chúng tôi vì theo chúng tôi nghĩ thì
cũng chẳng có một lý do gì để họ giữ lại một số quá ít như thế này trong khi có
thể thả hầu hết mọi người khác. Thêm vào đó, nếu so sánh số còn lại với
số ra về thì cũng chẳng có gì khác biệt nhau mấy. Chúng tôi đành chuẩn bị
một cái Tết điều hiu nhất từ trước tới nay ở trong trại cải tạo với một hy vọng
mong manh là chúng tôi sẽ ra về sau Tết.
Hùng và Diễm làm ở láng mộc, một mình tôi ở phòng vẽ. Phải
làm công việc hàng ngày nhưng tôi không còn đầu óc đâu mà suy nghĩ tới việc
làm. Tôi vẽ giống như một người máy, cứ tô màu cho kín khung vải chứ
chẳng để tâm đến những gì mình đang vẽ. Chỉ mong cho tới giờ nghỉ là thả
rong xuống suối câu cá và suy nghĩ vẩn vơ. Vì không còn Điệp làm “ông từ”
giử chùa nên tôi phải khép cửa phòng vẽ lại mà đi. Nhu cũng không thường
xuyên ghé qua như trước; có lẽ hắn ta cũng biết tôi đang bị xáo trộn đầu óc nên
không muốn gặp tôi trong tình trạng này.
Đội mộc bắt đầu bổ sung các phạm nhân hình sự. Bạn bè đã về
hết nên tôi thường ăn uống sinh hoạt chung với Thực, một người bị bắt về tội
vượt biên và ở đội mộc cũng đã khá lâu. Thực hàng ngày đi làm và nhập
trại cùng với đội mộc. Những con cá câu được vào đêm hôm trước tôi rộng
vào một thùng nước để hôm sau giao lại cho Thực tùy nghi nấu nướng, và chúng
tôi ăn trưa và chiều với nhau. Ngoài ra còn có Nam cũng thường hay lui
tới phòng vẽ với tôi. Nam là người bị bắt vì tội tổ chức vượt biên, làm ở
lò đường và là chuyên viên về âm thanh và ánh sáng của đội văn nghệ. Cũng
nhờ Nam mà không bao giờ tôi thiếu số đường dự trử. Sau này, Nam tự tử
chết bằng thuốc rầy vì tình yêu vô vọng với một tù nữ tên là Tú, bán ở căn tin.
Tin tức từ những người mới ra về cho biết rằng họ không còn bị
quản chế như những đợt thả trước kia mà được nhập “hộ khẩu” với gia đình ngay
sau khi trình diện. Về cuộc sống ở ngoài xã hội thì họ cũng cho biết
ngoài số những người có thân nhân ở ngoại quốc chi viện về thì số còn lại đa số
sống cũng rất vất vã. Công việc làm không có mà sức khỏe cũng không đủ để
cáng đáng những công việc nặng nề như đạp xe xích lô, xe ba gác, hay làm phu
khuân vác vân vân. Điều này không chỉ xảy ra đối với những người cải tạo
về mà cũng là tình trạng chung của mọi người dân trong nước.
VC thường nói rằng đất nước ta nếu có khó khăn thì cũng chỉ là
“tạm thời”, còn thuận lợi mới là “cơ bản”. Đã mười ba năm qua kể từ ngày
chấm dứt chiến tranh, thế mà tình trạng đất nước ngày càng khó khăn hơn. Không
biết cái gọi là “tạm thời” này bao giờ mới chấm dứt?
Khoảng hai tuần sau, số trại viên còn lại ở trại Hà Nam Ninh được
chuyển về nhập chung với chúng tôi nâng tổng số trại viên còn giử lại trong
trại cải tạo lên con số khoảng hai trăm mười người. Sau đó ít lâu họ lại
thả một vài người mà họ cho rằng “già yếu bệnh tật”. Số còn lại bước vào
một giai đoạn cải tạo hoàn toàn mới.
Không lâu sau đó, đài phát thanh Hà Nội loan báo rằng họ đã thả
hầu hết số “ngụy quân và ngụy quyền” ở trong các trại cải tạo. Họ còn nói
rằng số rất ít còn giử lại vì lý do những người này thuộc thành phần “có nợ
máu với nhân dân và không chịu cải tạo” nên không thể thả ra được! Như
vậy là rõ ràng rằng chúng tôi sẽ không thể nào ra về ngoại trừ có một “phép lạ”
nào đó. Không biết họ sẽ đối xử với chúng tôi như thế nào đây? Đưa
ra tòa án “nhân dân” để xử, đưa đi đày ở những hải đảo nào đó, hay đưa đi những
nông trường để sống ở nơi ấy trọn đời? Chúng tôi nghĩ rằng đúng lý ra thì
họ phải đưa chúng tôi ra trở lại miền Bắc để “gần với trung ương” cho dể thi
hành các biện pháp chế tài chứ tại sao họ làm ngược lại là đưa vào miền Nam.
Cùng lúc ấy thì cũng có những tin tức về các cuộc hội đàm của phái
đoàn Mỹ do tướng Vessy dẩn đầu với phái đoàn Hà Nội về vấn đề “Người Mỹ Mất
Tích” và “Tù Binh Chiến Tranh”, trong đó có đề cập đến những “quân nhân và nhân
viên của chính quyền Nam Việt Nam” đang ở trong các trại cải tạo. Thế là
một bên tung một bên hứng. Vô hình chung chúng tôi cũng như những “tù
binh chiến tranh” và “người Mỹ mất tích” lại trở thành những món hàng để ngã
giá, một thứ “con tin” trong cuộc mua bán giữa Mỹ và VC!
Riêng cuộc sống của chúng tôi trong trại cải tạo thì hoàn toàn
thay đổi. Không biết vì chúng tôi đã trở thành một nhóm “thiểu số và già
nua” hay vì lý do gì khác mà những công việc lao động nặng nhọc không có mặt
chúng tôi nữa. Ngoài số chăn bò và gà vịt ở K2 cũ và vài người ở đội mộc
và đội bếp, số mới về từ trại Hà Nam Ninh được biên chế thành hai đội: đội 20
và đội 23.
Đội 23 gồm những cựu tướng lãnh của quân lực VNCH cũ như các tướng
Đão, Giai, Trường, Tất, Sang (tướng Thân làm ở Bệnh Xá) và các người thuộc cấp
đại tá như Hản, Xảo, Của, Phô, Tấn vân vân cùng vài người cấp trung tá. Số
còn lại thuộc đội 20, đa số thuộc các thành phần: An Ninh Quân Đội, Cảnh Sát
Đặc Biệt và Trung Ương Tình Báo.
Công việc của hai đội này chỉ làm lao động quanh khu vực nhà lô
của đội. Nhà lô đội 23 nằm gần bờ suối phía bên kia đập thủy điện từ cầu
hướng về phía K3. Nhà lô của đội 20 nằm cách trại khoảng bốn cây số hướng
về phía Quốc Lộ Số 1. Mặc dù trại Z30D lúc ấy đang lao động rất vất vã cả
ngày lẫn đêm với các công việc như đào ao, vét lòng hồ thủy điện, xây dựng, vân
vân, nhưng hai đội 20 và 23 thì chỉ sáng đi chiều về chứ không hề đi lao động
đêm như các đội khác.
Ngoài ra mỗi buổi tối các phòng của nhà số 1 khu A dành cho hai
đội này được mở cửa cho đến khi các đội làm đêm vào nhập buồng hoặc đến khi khu
vui chơi chấm dứt. Riêng các trại viên nguyên cấp tướng thì được ở riêng
một căn nhà nằm cuối sân của nhà 1 và các trại viên cấp đại tá thì được ở một
buồng nhỏ ở đầu nhà, hai nơi này không bị khóa cửa về đêm và có giường riêng
cho mỗi người. Chúng tôi còn được xem truyền hình ở một phòng TV nằm ở
góc cuối bệnh xá. Những khi có trận đá bóng quốc tế hay có những chương trình
đặc biệt còn có thể xem cho đến khi chấm dứt, có lúc đến sau nửa đêm, miển là
“biết điều” với cán bộ trực trại và có gói thuốc lá 555 để hắn ta “xông muỗi”!
Đến thời gian này thì những tin tức không còn bị che dấu hoàn toàn
như trước kia. Một số sách báo ngoại quốc được mang vào trại như các tuần
báo “Times”, “Newsweek” của Mỹ hay tạp chí “Le Monde” của Pháp. Tin về
việc đổi mới ở Liên Sô và các nước Đông Âu không thể bị bưng bít được. Ngay
cả hôm mà người dân Đông Đức giật sập bức tường Bá Linh, ngày 9 tháng 11 năm
1989, chúng tôi cũng được xem trên truyền hình ở căn tin với một số cán bộ!
Tôi thấy hình như họ không còn quan tâm nhiều đến những vấn đề
chính trị nữa mà chỉ chú ý đến việc “kiếm ăn”. Những tô “mì tôm có người
lái” (mì ăn liền nấu với thịt hay trứng) quan trọng hơn tin về sự sụp đổ của
bức tường Bá Linh hay của cả Đông Đức. Những gói thuốc “ba số có cán”
(thuốc lá 555 đầu lọc) cần thiết hơn sự tồn tại của nhà nước Cộng Sản Liên Sô!
Đầu năm 1990, việc lập thủ tục HO cho những người tù cải tạo đã
được thả ra để đi sang Mỹ trở nên rầm rộ. Tin tức về những người bạn này
đã ra đi, người bạn kia thì đang chờ chuyến bay khiến chúng tôi ở trong trại
sốt ruột hơn lúc nào hết. Chúng tôi nghĩ rằng cái “phép lạ” đang xãy ra,
nhưng bao giờ thì đến với chúng tôi? Một số người lại tỏ ra lạc quan cho
rằng có thể chúng tôi sẽ không được thả để đi theo diện HO mà sẽ được đi thẳng
từ trong trại cải tạo. Mỗi tối thường có những nhóm nhỏ ngồi bàn tán và
phóng đại những tin tức do gia đình đưa lên. Người nào đi thăm nuôi vào cũng
cố gắng moi cho được những “thang thuốc bổ” (những tin tức có lợi cho chúng
tôi). Thậm chí có người còn cho rằng khi sang đến Hoa Kỳ, chúng tôi sẽ
được lãnh “ráp ben” nữa! Quả là một sự “lạc quan tếu!” Tôi thì nghĩ
rằng cho dù đó là những phóng đại sai lệch sự thật, nhưng chính chúng lại thật
sự là những “liều thuốc bổ” giúp những người còn lại như chúng tôi vượt qua
được một chặng đường đầy dẫy những thử thách và chán nản trong thời gian ấy!
Từ khi các trại viên ở trại Hà Nam Ninh chuyển về, phong trào thăm
nuôi trở nên mạnh mẽ hẳn lên. Lúc đầu thì gia đình vợ con lên thăm còn ở
lại một đêm. Dần dần thời gian thăm gặp kéo dài hàng tuần lễ, mười ngày.
Nhất là kể từ lúc trại cho phép trại viên được ở lại dể dàng miễn là “đóng tiền
phòng” và “biết điều” với các cán bộ ký giấy và cán bộ phụ trách nhà thăm gặp.
Nhiều người nhờ có thân nhân ở ngoại quốc gởi tiền về sống một cách rất sung
túc, họ không ăn cả phần ăn của trại nữa.
Đến giữa năm 1990, có những người trung gian lên giới thiệu các
phụ nữ cho các trại viên còn độc thân hoặc đã bị vợ bỏ với hy vọng sẽ được gán
ghép vào danh sách “đi Mỹ”. Những người tù thì vì nhu cầu sinh lý và vật
chất còn những người phụ nữ kia thì lại muốn ra đi. Hai đối tượng này kết
hợp nhau giống như một khế ước tạm thời! Tình cãm chỉ là một sự gượng ép,
giả dối.
Tương lai của những người tù cải tạo chúng tôi khi ấy là gì?
Có phải chăng là cái vé để đi đến một chân trời xán lạn của xứ Hoa Kỳ vàng son?
Quả thật là một sự mĩa mai! Đối với chúng tôi thì chỉ mong điều ấy là một
“phép lạ” để cứu chúng tôi ra khỏi trại giam mà thôi. Mười mấy năm khổ
sở, có những lúc xuống tận cùng địa ngục của trần gian, chúng tôi chỉ mong
thoát khỏi nơi ấy để nhìn thấy lại gia đình, để sống bên những người thân cho hết
phần đời còn lại của mình.
Quả thật chưa bao giờ trong lịch sử Việt Nam mà người dân lại có
giấc mơ “đào tẩu” lớn như vậy! Ngoài xã hội cũng như trong trại giam, đàn
ông, đàn bà, trẽ em, tất cả chỉ muốn bằng mọi cách rời khỏi cái đất nước có đầy
những bậc “anh hùng, bất khuất, trung hậu, đãm đang” này. Thật là một
điều lạ lùng. Có ai đó đã nói một câu rất cay đắng “nếu cái cột đèn mà
biết đi thì nó cũng đi khỏi đất nước này nữa!” Một câu nói đùa, nhưng
chắc cũng không xa với thật tế. Vậy thì chúng ta có nên đặt lại câu hỏi
mà VC thường dùng trong những ngày chúng mới vào miền Nam rằng “ai thắng ai
giữa chủ nghĩa Cộng Sản và chủ nghĩa Tư Bản” hay không?
Riêng cá nhân tôi thì giống như nhiều người khác, cuối cùng dục
tính trong con người tôi cũng không thể khắc phục được, tôi đã bước chân vào
“cái vòng lẩn quẩn” với một người phụ nữ. Mặc dù mỗi người có một trường
hợp khác nhau nhưng tựu chung thì cũng là vấn đề sinh lý và nhu cầu vật chất.
Cô ta là con gái của một trại viên ở trại Hà Nam Ninh chuyển về.
Lúc ấy tôi còn đang ở phòng vẽ bên ngoài trại. Cô ấy và hai đứa con trai
thường lên thăm ba và ông ngoại. Mỗi lần như vậy thì con của cô ta hay
đến phòng vẽ chơi với tôi. Thỉnh thoảng cậu con mang cho tôi món này món
nọ. Tôi nghĩ đó cũng là một sự cư xử thường tình của một người dân đi
thăm nuôi đối với một người tù. Ngoài cô ấy ra thì cũng có nhiều người
khác biếu quà cho tôi. Do đó tôi chỉ nhận và cãm ơn về lòng tốt của mọi
người.
Tháng 11 năm 1989, ba cô ấy được thả ra với lý do già yếu bệnh tật,
và sau đó thì phòng vẽ của tôi cũng được dời vào trong trại. Tôi không có
gì để nhớ! Đến đầu năm 1990, trong lúc thăm gặp tôi thì mẹ tôi cho biết
rằng có một người nào đó muốn thay thế bà lên thăm nuôi tôi. Tôi rất ngạc
nhiên nhưng lại bảo mẹ tôi từ chối dùm.
Tháng 8 năm 1990, trong lúc phong trào các phụ nữ được giới thiệu
lên thăm các trại viên nỗi lên rầm rộ thì cô ấy lại lên. Một lần, hai
lần, rồi nhiều lần liên tiếp cho đến khi cô ấy xin được ở lại. Trong hoàn
cảnh ấy tôi không biết đối phó ra sao, thêm vào đó vì đã “ăn chay” quá lâu lại
tự nhiên có một người đàn bà dâng hiến cho mình, tôi không thể cưởng lại được
dục vọng. Cô ấy lại là một người đàn bà rất đòi hỏi về xác thịt! Thế
là tôi đã nhắm mắt xuôi tay cho “cuộc thế xoay vần!” Đến khi nhận ra được
rằng mình đang đùa với lửa thì mọi việc đã muộn màng, tôi không làm thế nào để
bước lui được nữa.
Vào tháng 11 năm 1990, chỉ mới hơn ba tháng sau lần đầu tiên cô ấy
lên thăm tôi thì trại có lệnh cho chúng tôi khai báo những thân nhân sẽ đi theo
với chúng tôi sang Mỹ! Các cán bộ thì bắn tin rằng việc này là do phía
của phái đoàn Mỹ yêu cầu. Nghe tin này tôi nghĩ ngay đến vợ con tôi; thế
là tôi đã viết thư gửi về yêu cầu vợ tôi cho tôi được ghi tên hai mẹ con vào
danh sách thân nhân rồi sau này ra sao tôi cũng chấp nhận. Nói là nói vậy
thôi chứ tôi biết trong thâm tâm tôi vẫn còn yêu vợ tôi, tôi chỉ có một hy vọng
duy nhất là sẽ nối lại tình xưa! Vợ tôi đã từ chối đề nghị này và bảo
rằng hãy để yên cho vợ tôi mà chỉ nên lo cho mẹ và con tôi mà thôi.
Không biết tại sao cô ấy biết được việc làm này của tôi. Thế
là một “trận giặc” đã xãy ra ở nhà thăm nuôi đêm hôm đó. Cô ấy chỉ muốn
chiếm đoạt cả linh hồn lẫn thể xác tôi cho một mình cô ấy. Cô ấy còn nói
với tôi rằng “con cái thì muốn đẻ lúc nào mà không được!” Cô ta
không muốn tôi lo cho cả con tôi nữa. Tôi rất bực mình bảo cô ta đừng bao
giờ lên gặp tôi nữa nhưng rồi cô ta vẫn cứ lên. Ở trong hoàn cảnh của
trại cải tạo thì tôi không còn cách nào khác hơn là phải ra gặp. Một phần
vì chán nản bởi lời từ chối của vợ, một phần vì dục tính, câu chuyện cứ kéo dài
mãi cho đến ngày tôi ra khỏi trại, rắc rối mãi cho đến ngày tôi rời khỏi đất
nước.
Đây là trường hợp của cá nhân tôi; tôi không biết các trường hợp
khác xãy ra như thế nào. Nhưng có điều tôi nghĩ chắc ít ai có thể giử
được lâu dài cái chuyện mua bán tình cãm như vậy!
Vào thời gian này thì ngoài việc đi lao động cầm chừng và đợi đi
thăm nuôi, chúng tôi có thêm một sinh hoạt khác, đó là học tiếng Anh. Có
lẽ mọi người đang chuẩn bị để đi Mỹ! Từ trước việc này bị cấm đoán rất
chặc chẽ trong các trại cải tạo. Bất cứ một tài liệu sách báo nào viết
bằng tiếng ngoại quốc như Anh, Pháp vân vân mà bị khám phá đều bị tịch thu,
người lưu trử thì bị giam kỷ luật. Nội quy của trại cũng có nói rằng “không
được nói tiếng nước ngoài” vì họ cho rằng điều đó là việc truyền bá một nền
văn hóa “phản động và đồi trụy”. Đến giờ thì họ lại “bỏ ngỏ”,
chẳng những không cấm đoán mà còn nhờ cả trại viên dạy cho họ tiếng Anh nữa.
Học tiếng Anh trong trại thì chỉ học qua sách vở, tạp chí và tự
điển. Tuy nhiên lúc ấy có một trại viên nguyên là một giáo sư Anh ngữ ở
Sài Gòn trước đây tên là Việt Huy, hay Nguyễn Đình Huy. Và rồi ông Huy đã
trở thành “ông thầy” cho nhiều người. Sau này khi được thả ra ông Huy đã
ở lại nước hoạt động tiếp và lại bị bắt vào trong trại.
Đầu năm 1991, lần đầu tiên chúng tôi được nhận mỗi người một gói
quà do các bạn đã sang Mỹ góp nhau gởi về làm quà Tết cho chúng tôi. Những
món quà mà đã bao lâu rồi tôi không thấy, trong đó có cả những lon bia
Budweiser, những gói thuốc lá Marlboro. Họ còn gởi cho chúng tôi cả tiền
dollar nửa, nhưng phải đổi ra tiền Việt Nam để xài. Thế là các cán bộ lại
có dịp vào ăn Tết với trại viên! Giờ đây họ lại đề cập cả việc “xuất
cảnh” đối với chúng tôi. Họ mong rằng khi sang Mỹ rồi thì chúng tôi hãy
“nhớ” đến họ -nghĩa là nhớ gởi cho họ những món quà như vậy! Thật là một
sự “duy vật” hơn bất cứ một sự duy vật nào.
Thêm vào đó thì thời gian này là lúc mà Liên Sô và các nước Đông
Âu bắt đầu tan rã. Những cán bộ VC lúc ấy rất lo lắng không biết số phận
của nước Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa và số phận của chính họ rồi sẽ ra sao.
Tôi vẫn nhớ vào tháng tám năm 1991, khi các đơn vị Cộng Sản bao vây điện Cẫm
Linh, các cán bộ trong trại đã tỏ ra rất vui mừng. Họ đến phòng chúng tôi
và “cá” với chúng tôi rằng Gorbachev sẽ thất bại và Liên Sô sẽ trở lại với chủ
nghĩa Cộng Sản. Nhìn thấy hoàn cảnh chúng tôi, họ liên tưởng đến tình
cảnh của chính họ; họ lo sợ một khi Cộng Sản Việt Nam sụp đổ thì số phận của họ
sẽ ra sao. Tên cán bộ trực trại còn nói với tôi sau khi nghe tin Yeltsin
làm chủ trở lại tình hình ở Liên Sô rằng: “Các anh đi cải tạo còn có Mỹ nhận
đi, đến phiên chúng tôi không biết ai sẽ nhận chúng tôi đây?”
Từ khi mới bước chân vào trại luôn luôn nghe những lời sắt máu,
chửi bới, nào là “Đế Quốc Mỹ là quân xâm lược”, nào là “lũ ngụy quyền
là bọn tay sai” đến bây giờ thì tất cả đều xoay ngược chiều. Chúng
tôi nghĩ đó quả thật là một phép lạ! Nếu không có cái “phép lạ” này có lẽ
là chúng tôi đã rũ xương ở chốn rừng thiêng nước độc của miền Bắc Xã Hội Chủ
Nghĩa rồi. Tôi nghĩ rằng dù cho có cố gắng bóp méo lịch sử tới đâu đi nữa
thì rồi họ cũng không thể thoát được sự đào thải của định luật phát triển tự
nhiên. Con người vẫn mãi mãi là con người chứ không bao giờ là những con
khỉ biến thành người, càng không thể là những rô bô được điều khiển bởi những
nút bấm!
Chương 52. Ngày về.
Sau gần hai tháng đi lâm
sản với các phạm nhân hình sự rồi cuối cùng thì tôi cũng về với các bạn của
tôi. Nhu ra điều kiện là trước khi cho về đội 20 thì tôi phải vẽ cho hắn
ta mười lăm bức tranh để trang trí trong khu vực mới ở Z30C, tức là K2 của trại
Z30D. Tôi thấy đó không phải là một điều kiện mà là một mệnh lệnh. Hắn
ta là trại trưởng mà tôi là tù, vậy thì tôi phải làm những gì mà hắn ta ra
lệnh.
Trước đó thì Lê Minh Đão, đội trưởng đội 23, có cho tôi biết là
Nhu có ý định trả tôi về với nhóm của chúng tôi. Ngẫm nghĩ, tôi thấy rất
tức cười về việc này. Nhu là ông vua trong trại, muốn làm gì thì có mọi
quyền hành để làm có gì mà phải đánh tiếng trước? Tuy nhiên tôi biết hắn
ta muốn tôi phải có lời “xin xỏ” với hắn để tôi được hắn ban “đặc ân”! Do
đó tôi nói với anh Đão rằng anh ấy hãy nói với Nhu để tôi được về đội 20.
Thế là sau thời gian khoảng hai tháng để hoàn tất 15 bức tranh, tôi được chuyển
về đội 20 và đi lao động với đội này.
Lúc còn ở phòng vẽ bên ngoài trại, mỗi buổi trưa tôi vẫn thường đi
câu cá ở khu vực gần nhà lô của đội 23 gần bờ suối, tuy nhiên tôi không biết rõ
đội này làm lao động như thế nào. Đội 20 có nhiệm vụ chính là chăm sóc
một vườn trồng điều nằm cách trại khoảng bốn cây số về hướng Quốc Lộ Số 1.
Mỗi buổi sáng, chúng tôi xuất trại như thường lệ để đi đến nhà lô của đội.
Hơn năm năm kể từ ngày bắt đầu đi vẽ tranh, tôi chỉ làm việc có một mình hoặc
với Điệp, bây giờ đi lao động chung với các bạn bè, tôi cãm thấy vui hơn.
Công việc làm của chúng tôi cũng không có gì là vất vã, chỉ làm cỏ vun gốc
những cây điều hay trồng một ít bắp. Chính yếu là có hoạt động ngoài trời
cho bớt cuồng chân tay trong trại giam. Buổi trưa thì treo võng nằm ngủ
một giấc trong nhà lô cho đến lúc báo thức để làm lao động tiếp tục. Chiều
về ghé tắm ở bờ suối hay tắm ở giếng nước trong nhà lô rồi nhập trại.
Vì tương đối gần Quốc Lộ nên chúng tôi có cơ hội thuận tiện để mua
sắm các thứ cần thiết. Hàng ngày cán bộ quản giáo cho phép Hòa hay một
vài người khác đi chợ mua sắm cho chúng tôi. Có lúc có những người dân
ghé qua nhà lô để bán cho chúng tôi thịt rừng mà họ đánh bẩy được hoặc chuối,
bánh vân vân. Đôi khi các cán bộ còn làm “thịt cầy” và mua rượu về nhậu
với trại viên nữa!
Các cán bộ quản giáo và vũ trang đi theo đội 20 thường có những
bữa ăn đặc biệt vì hầu như ngày nào trong đội cũng có người đi thăm nuôi.
Một chút ít quà cáp để mua lấy sự thoải mái cũng là chuyện thường tình.
Vào lúc này thì Nhu đang chú tâm vào việc khai thác khu vực mới ở
Z30C, nếu có dịp thì hắn chỉ ghé qua đội 23 chứ không khi nào đến khu vực của
đội 20. Vì thế chúng tôi không phải lo việc đối phó với hắn. Đây
cũng là lúc mà tôi tránh gặp mặt Nhu để khỏi phải bị hắn nhắc nhở tới việc vẽ
tranh nữa. Những thời gian đi lao động vất vã thì làm công việc vẽ tranh
là một cách để tránh né lao động, còn lúc này tôi không thích làm việc ấy một
chút nào!
Hàng ngày đi lao động với đội; tối về tôi tập thể dục ở ngoài sân
khu nhà số 1. Nếu thích thì vào xem truyền hình hay ghé qua khu vui chơi
để đấu láo với các nữ tù ở đội văn nghệ, hoặc vào hội trường xem vidéo. Có
lúc thì vào phòng ngồi trò chuyện với bạn bè, nghe những tin tức “sốt dẽo” hay
uống vài thang “thuốc bổ” để mà hy vọng. Cứ thế mà thời gian trôi qua!
Sáng ngày 16 tháng giêng năm 1992, chỉ còn hơn mười ngày nữa đến
Tết thì tôi được thả ra khỏi trại! Có khoảng phân nữa chúng tôi được thả
trong một đợt trước Tết, số còn lại thì được thả ra sau Tết năm ấy.
Nhiều lúc tôi suy nghĩ rằng khi được nghe tên mình trong lệnh
phóng thích chắc là tôi sẽ rất vui mừng, nhưng thật tế thì không có như vậy.
Tôi hoàn toàn dững dưng khi nghe tên mình được ra khỏi trại cải tạo. Xem
đó như là một điều tất nhiên.
Trở vào buồng để dọn dẹp đồ đạc trước khi ra về, tôi giao cho Uy
một vài món cần thiết còn bao nhiêu thì cho Lập, phạm nhân hình sự làm chung
với tôi trong phòng vẽ. Tôi chỉ mang về chiếc ba-lô đã cũ và cái mùng là
hai thứ mà tôi mang theo từ lúc vào trường Chu Văn An, tôi cũng không quên mang
về một bộ đồ tù còn mới để ghi nhớ. Tôi lại phải dìu anh Sỹ ra cổng trại
để nhận giấy ra trại. Anh ấy quá yếu vì bị bệnh. Số tiền trại phát
để đi đường thì hầu hết chúng tôi góp nhau gữi vào cho Lân, đang là trưởng ban
Thi Đua, là một trại viên cải tạo đã bị xữ án chung thân ở trại Tiên Lãnh.
Cầm tờ giấy ra trại trên tay, tôi lững thững đi bộ ra tới con
đường đất hướng về phía Quốc Lộ Số 1 thì nghe có tiếng xe gắn máy ở phía sau
lưng. Tư, lúc ấy là trưởng phân trại K1 của trại Z30D ngừng xe lại bảo
tôi leo lên để anh ta đưa tôi ra tới đường cái đón xe đò về nhà. Tư đã
từng là cán bộ quản giáo của đội “mía” lúc tôi mới về trại Z30D, người đã giúp
tôi gặp vợ tôi qua đêm để giải quyết chuyện gia đình vào năm 1983, là cán bộ
quản giáo đội mộc vào thời gian tôi còn làm ở đội này, và cũng thường lén Nhu
ghé vào phòng vẽ để nhờ tôi vẽ dùm những bức tranh cho vợ anh ta dạy học trường
cấp một ở thị xã. Bên cạnh Nhu giống như một hung thần thì Tư lại là một
con người có cách cư xữ rất nhã nhặn.
Một chủ thuyết sai lầm không nhất thiết phải sản sinh những con
người xấu, tôi nghĩ.
Trên chuyến xe đò, mọi người nhìn tôi dò hỏi. Họ đều biết
tôi vừa mới được ra khỏi trại cải tạo. Tất cả đều rất ngạc nhiên khi biết
rằng tôi đã đi cải tạo từ năm 1975, sau gần 17 năm trường. Họ cứ tưởng
rằng không còn chúng tôi trong các trại cải tạo nữa! Anh tài xế và anh lơ
xe từ chối không nhận tiền mà tôi trả anh ấy lại còn bảo rằng tôi vừa mới được
ra trại thì tiền đâu mà trả!
Ngồi trên xe đò, tôi suy nghĩ về hoàn cảnh của mình khi về đến nhà
rồi bỗng nhiên tôi lẫm nhẫm bài thơ “Ngày về” của Tố Hữu, một thi sĩ của
Bắc Việt:
“Rồi một hôm nào cổi áo xanh,
“Hết cùm, hết xích, hết roi canh.
“Nghiêng vai trút nhẹ đời giam cấm,
“Anh trở về anh của gia đình.
“Đây nẽo làng quen tự bé thơ,
“Tre non ngoặt ngọn ý mong chờ.
“Nóc nhà ai khói lam lên đó,
“Có phải nhà anh tự thuở xưa?
“Có lẽ con anh lớn lắm rồi?
“Chúng đương đùa nghịch hét vang cươi.
“Anh về nên chúng ngừng vui lại,
“Bỡ ngỡ rồi la: Cha, cha ơi!
“Và vợ anh đương thổi lữa chiều,
“Rung mừng quẳng đủa, bỏ nồi niêu.
“Đôi hàng tóc xõa tung không búi,
“Ôm lấy anh mà khóc, giận, yêu!
“Nhưng ngỏ nhà xưa đã tới đây,
“Cột sơn còn đó, liếp tre gầy.
“Bảng mờ ai khắc tên lên đó,
“Anh thấy sao như kẻ lạc loài.
“Chân muốn vô song lại ngập ngừng.
“Chó nhà đâu đã sủa người dưng?
“Anh nhìn len lén vườn cau mới,
“Và tấm bình phong đứng lạnh
lùng.
“Vâng chính xưa anh ở chốn này.
“Tre già còn đó, miếu còn đây.
“Lòng bâng khuâng mãi ôn ngày cũ,
“Chợt tiếng người đâu: Chú hỏi ai?
“Anh hỏi nhà anh? Không phải đây!
“Rồi thôi quay đóng cửa then cài.
“Để ngoài sương gió chiều se lạnh.
“Bên khóm tre già, khách đứng
ngây!”
Bao nhiêu giấc mơ “tương phùng” thế mà giờ đây trên đường về tôi
lại cãm thấy bơ vơ, lạc lỏng làm sao! Làm gì có được cái cảnh “Rung
mừng quẳng đủa bỏ nồi niêu, đôi hàng tóc xõa tung không búi, ôm lấy anh mà khóc
giận yêu!” Phải chăng chính vì vậy mà khi nghe tên ra về tôi chẳng
thấy một chút gì là vui mừng hớn hở?
“Anh sẽ về, em ơi, anh sẽ về.
“Dù đêm khôn cùng, hay mất hết người thân yêu,
“Hay em không còn như thiên đường xưa,
“Cũng gắng trở về chết nơi ra đời!”
Vâng, rồi cũng đến ngày tôi phải về mà thôi, dù về để mà nhìn thấy
cảnh đau lòng, để nhìn thiên đường hạnh phúc đã đổ vỡ, thì cũng phải về để “chết
nơi ra đời!” Lời của bài hát sao mà đúng với tâm trạng của tôi quá
như vậy!
Xe đã đến Ngã Tư Hàng Xanh. Con đường Xa Lộ Sài Gòn – Biên
Hòa ở đoạn này quá tấp nập hơn cả những ngày tháng trước năm 1975. Xe
xích lô rất nhiều, họ bu quanh chiếc xe đò để mời khách. Tôi định đi bộ
về nhà, nhưng rồi không hiểu tại sao tôi lại bước lên một chiếc xích lô và nói
với anh phu xe: “Anh cho tôi về Ngã Tư Bình Hòa.”
Anh ta vừa đạp xe vừa hỏi chuyện:
- “Có phải anh mới ra trại cải tạo không?”
- “Sao anh biết?”
- “Thì nhìn cách ăn mặc và cái ba lô của anh là biết ngay mà!”
- “Chắc anh đã đón nhiều người như tôi rồi phải không?”
- “Cũng khá khá!” Anh ta cười “Tôi cũng đi cải tạo hết
gần một năm, trước là trung sĩ Thủy Quân Lục Chiến. Còn anh sao mà về trễ
quá vậy?”
- “Tôi cũng không biết sao, có lẽ không tiến bộ nên họ cứ giữ
mãi!”
- “Chắc các cha khai báo thành khẩn quá chứ gì?”
Tôi cười với anh ta mà không trả lời. Tôi đã nghe quá nhiều
cách nói này. Thành khẩn hay không thành khẩn. Tiến bộ hay không
tiến bộ. Tại sao có những người trước kia có cấp bậc và chức vụ cao mà
vẫn được thả ra sớm hơn những người có cấp bậc và chức vụ thấp? Tại sao
chúng tôi phải ở lại thêm bốn năm trong khi hầu như mọi người đã được ra về từ
năm 1988? Tất cả những điều đó đối với tôi giờ này không có gì là quan
trọng cả. Điều mà tôi đang suy nghĩ chính là tôi đang trên đường về nhà
và tôi sẽ phải chứng kiến một số phận hẫm hiu mà tôi đã biết trước!
Con đường từ Hàng Xanh qua Bà Chiểu đông nghẹt xe cộ. Chiếc
xích lô đạp với chiếc càng xe cao ngóc lên khác hẳn với những chiếc xích lô đạp
trước kia cứ ủi vào những chiếc xe đạp và xe gắn máy để tiến tới khiến tôi phát
khiếp. Sài Gòn không còn là Sài Gòn nữa. Sài Gòn bây giờ là Thành
Phố Hồ Chí Minh. Cũng vì vậy mà tôi không còn nhận ra một nét quen thuộc
nào của Sài Gòn ngày xưa. Đường xá nhộn nhịp hơn, cái nhộn nhịp bừa bãi!
Hàng quán đầy dẫy khắp mọi nơi, mọi nhà, mọi ngõ ngách. Những con đường
trông chật hẹp hẳn lại vì nhà cửa lấn ra tới tận lề đường, nhiều căn nhà còn
bao luôn cột đèn đường vào bên trong. Xe cộ chạy ngang dọc không theo một
trật tự nào hết. Đúng là họ đã “giải phóng” Sài Gòn và giải phóng luôn
cái “ý thức” của người dân Sài Gòn!
Chiếc xích lô quẹo phải qua đường Lê Quang Định. Khu chợ Bà Chiểu
với cái tên chợ vẫn còn kia, nhưng ngôi trường “Nam Tỉnh Lỵ” và “Trường Trung
Học Hồ Ngọc Cẩn” không nhìn thấy được. Hàng quán đã che lấp cổng trường
và hàng rào quanh trường. Bao nhiêu kỷ niệm thời ấu thơ của tôi đang hiện
về khi xe chạy trên đoạn đường này; một đoạn đường mà không biết bao nhiêu năm
tháng từ thời bắt đầu cắp sách đến trường cho đến năm cuối của bậc trung học
tôi đã lê bước đi qua. Tôi đã thuộc lòng gần như từng viên đá, từng bậc
thềm. Thế mà giờ đây nó hiện ra trước mắt tôi lạ lẫm làm sao! Chỉ
còn có con đường nằm trơ trọi còn hai bên lề đường thì không còn đâu nữa.
Bộ hành và xe cộ cùng chia xẽ lòng đường vốn đã quá nhỏ hẹp này!
Xe đã đến Ngã Tư Bình Hòa. Con đường cắt ngang là con đường
gì đó nhỉ? Tôi rất ngỡ ngàng khi nhìn thấy cái tên rất kỳ khôi trên tấm
bảng chỉ tên đường: “Nơ Trang Long!” Tôi không thể nào quên được
tên của con đường này. Cái tên Nguyễn Văn Học mà ngôi mộ vẫn nằm trong
một công viên ở góc đường ấy với đường Chi Lăng, đối diện với “Trường Vẽ”.
Giờ đây nó đã đổi thành con đường Nơ Trang Long, một cái tên rất xa lạ. Thôi
cũng phải như vậy mà thôi; bởi vì Sài Gòn đã là Thành Phố Hồ Chí Minh thì đường
Nguyễn Văn Học trở thành đường Nơ Trang Long cũng quá đúng với lý lẽ của nó.
Tim tôi bắt đầu đập nhanh hơn, tôi cố hướng mắt nhìn về phía căn
nhà của mình, nơi mà tôi đã sống suốt quảng đời thơ ấu. Quang cảnh đã
hoàn toàn thay đổi. Những bải đất trống phía bên kia đường không còn nữa.
Những cái sân nằm yên lặng sau những hàng rào phía trước các căn nhà cũng không
còn thấy đâu. Thay vào đó là những kiến trúc tạp nhạp lấn ra tới tận mặt
đường. Dẫu sao thì tôi vẫn không quên được vị trí của nhà mình; tôi ra
dấu cho anh phu xích lô dừng lại.
Bỗng tôi nghe có tiếng la lớn ở nhà bên cạnh: “A! Tụi bây
ơi, anh Hai về kìa!”
Quay lại nhìn người vừa nói, tôi không thể nhận ra được là ai.
Ngày tôi đi thì những cô gái này chỉ là những đứa bé mà giờ đây thì chúng đã
tay bồng tay mang. Hai đứa em tôi đang bán hàng trong nhà chạy ra, và rồi
mẹ tôi cũng ra đón tôi vào. Tôi đã trở về nhà sau mười sáu năm bảy tháng
hai ngày!
Princess City, Indiana
Mùa Xuân năm 2002.
KALE
(CCT/VNCH)