CHỮ NGHĨA-VĂN HỌC, TÀI LIỆU ĐẶC BIỆT
Bạo Lực và Tha Hoá Trong Cánh Đồng Bất Tận của Nguyễn Ngọc Tư
Lưu Nguyễn Đạt, TS, LS
November 26, 2013
November 26, 2013
Bạo Lực và Tha Hoá
Trong Cánh Đồng Bất Tận của Nguyễn Ngọc Tư
Trong Cánh Đồng Bất Tận của Nguyễn Ngọc Tư
Cánh Đồng Bất Tận
Cánh Đồng Bất Tận[1] là một thế giới động, biến hoá dưới nhiều sắc thái tương tự, phản ánh và bổ túc lẫn nhau, theo chiều hướng phát động biểu lộ bạo lực tới tha hoá nhân bản. Cảnh và hoàn cảnh dồn dập phá hủy con người. Trong Cánh Đồng
Bất Tận, những tiết đoạn, giai thoại, tích, dấu hiệu, được tách-nối và lồng ghép vào nhau,
ngay trong lòng tác phẩm để tạo thành một thế giới đa nguyên, đa diện, càng lúc càng phức tạp, càng lúc càng
sâu thẳm, tăng triển phản ảnh soi lồng. Phép sáng
tạo lồng ghép truyện trong truyện, tích trong truyện, đã được văn hào Pháp
André Gide[2]gọi là “mise en abyme“,[3] một thành ngữ do ông sáng chế để tả phép cấu tạo lồng ghép tạo chiều sâu cho tác
văn. Lucien Dällenbach[4] bổ túc và gọi tường thuật đó là “récit
spéculaire”, để so sánh thuật trước tác phản ánh lồng chiếu với tác động soi rọi “bất tận” của các mặt gương đối chiếu lẫn nhau.
Tên tác phẩm, Cánh Đồng Bất Tận, tự nó mô tả và tiên liệu một không
gian mở, khuyếch xung theo chiều ngang qua những mô hình tiếp nối đồng dạng,
bất tận. Trong tám phân đoạn của truyện, không lúc nào không nhắc tới
“Cánh Đồng”.
- Chỗ này:
“Con kinh nhỏ nằm vắt qua một cánh đồng rộng…Những cây lúa chết non trên
đồng, thân đã khô cong như tàn nhang chưa rụng, nắm vào bàn tay là nát
vụn…” (Phần-1);
- chỗ kia:
“Cánh đồng không có tên…một cánh đồng vắng ngắt…một xóm nhỏ bên bờ sông
mênh mang. Mỉa mai, người ở đây lại không có nước để dùng…Ngay cả
nước để chúng tắm táp cũng chua lét vì phèn…” (Phần-2);
- chỗ khác:
“Đàn vịt đưa chúng tôi đi hết cánh đồng này đến cánh đồng khác…(Phần-3).
- Có lúc:
“Mưa giăng bốn bề, những rặng vườn trở nên xa xôi, mờ mịt…mùa du mục của
chúng tôi kéo dài liên tục từ mùa mưa sang nắng, rồi lại mưa…” (Phần-4).
- Có lúc:”Có
ai chờ chúng tôi, trên những cánh đồng khơi?” (Phần-5).
- Rồi: “Chị
em chúng tôi nảy ra nỗi thèm muốn, khao khát được trồng cây… mà đến chưa
nóng chỗ đã phải dời đi nơi khác…Ước gì đây là đất-của-mình…Sống đời du
đồng, chúng tôi buộc mình đừng yêu thương, quyến luyến bất cứ ai, để khỏi
ngậm ngùi…khi cuốn lều, nhổ sào đi sang cánh đồng khác, dòng kinh khác…
Một cánh đồng miên viễn…Đường chân trời mờ mờ xa ngái…Cảnh không đổi,
người cũng không, cứ ngồi ngoáy mãi vết thương cũ… ” (Phần-6).
- Rồi: “Tôi
đã chờ nó đến khi mùa mưa đổ xuống cánh đồng Chia Cắt (tôi tạm gọi vậy)
một trời sao…một cái rốn nước sâu hoáy, điên cuồng hút tôi vào…(Phần-7).
- Và cuối
cùng: “Bây giờ, gió chướng non xập xoè trên khắp cánh đồng Bất Tận (tên
này tôi tự dưng nghĩ ra)…làm dịu lại mảng rực vàng của lúa. Rất
thính nhạy, (như kên kên ngửi được mùi xác chết), đám thợ gặt đánh hơi kéo
đến, những người nuôi vịt chạy đồng lục tục ở đằng sau… Đơn giản là ngay
bây giờ, trên cánh đồng này, cũng đang lảng vảng những thằng…thất học,
hung hãn….cướp vịt ở các bầy khác… đem hết những bản năng hoang dã của
mình ra để giành lại miếng ăn…(Phần-8).
Ngần ấy khung cảnh,
sắc thái để tả một môi trường sinh sống tạm bợ, xa vắng, sơ khai, nghèo nàn,
nghiệt ngã, nguy hiểm, mà con người vẫn phải bám víu để sống còn. Đặc biệt
là thế giới mở, di động này bao gồm những cánh đồng tiếp nối nhau bằng những
con đường sông ngòi, vừa chia tách, vừa nối buộc. Mở vì tạm bợ, luân lưu
trong cô lập, thiếu bóng dáng người, thiếu cuộc sống cố định, nuôi dưỡng của
làng ấp, cầy bừa, trồng trọt. Đó là những mảnh đất hoang dã, ngoài lề xã
hội bình thường, tại một vùng đất cùng nước biên tế, nơi mà con người lẩn chốn,
lang bạt trong cảnh du mục, sinh sống nhờ vào bốc hái, lượm nhặt, chăn nuôi di
động, ăn thừa, hoặc du thủ du thực, cướp bóc, ăn giật, hãm hiếp. Một thế
giới hoang vu với cảnh sống theo “bản năng hoang dã”, mộc mạc, chân thật, đồng
thời trắng trợn, táo bạo, kinh dị, khi tới cảnh đường cùng.
Cánh Đồng Bất Tận đã trực tiếp nhắc tới miệt vườn, sông nước tại Miền Nam, của mảnh đất Cà Mâu, nơi sinh
sống của tác giả Nguyễn Ngọc Tư, một khu vực hoang dả mới mở mang từ thời Vua Gia Long, đầu thế kỷ 19. Phải chăng, hợp từ “Cánh Đồng Bất Tận” còn ám chỉ một vùng đất bao la, bát
ngát hơn thế nữa, trong dòng lịch sử xa xưa, cách đây cả chục ngàn năm về trước, khi cả vùng Đông Nam Á,
trước thời văn minh Hoà
Bình, nối liền với Nam Dương quần đảo, với Úc Châu, khi nước biển thấp hơn cả trăm thước.[5] Cái gì đã xẩy ra khi nước biển dâng lên cao? Người Cổ-Việt lúc đó phải lãnh nạn lụt, kéo lên phía Bắc định cư, và tồn tại tới ngày nay tại vùng Nam Trung
Hoa, với những dấu tích văn hoá và
ngôn ngữ đặc thù của Dân Tộc Việt: lập làng ấp, trồng lúa tại những vùng mà ngữ vựng ngày nay vẫn khác với hệ thống Hán Tộc, nhưng gần với hệ thống ngôn ngữ, dinh dưỡng Việt Nam. Đó là
những địa danh như Vân Nam,
Quảng Đông, Quảng Tây, Phúc Kiến, v.v. Nếu thuộc “gốc” Hoa/Hán Tộc, những địa danh đó phải được gọi ngược là Nam Vân, Đông
Quảng, Tây Quảng v.v. như Trung
Hoa, Trung Quốc vậy… Và người thổ dân ở đó ắt phải ăn Mỳ chứ không ăn cơm-lúa-gạo như người dân “Nam Hoa” và
Người Việt ngày nay.
Di tích còn lại về nền Văn Minh Hoà Bình,[6] ngoài các hang đá còn sót hạt thóc gạo dự trữ, xương cốt súc vật nhỏ, loại gia súc do người chăn nuôi, còn có
các Trống Đồng Đông Sơn, với những hoa văn ghi rõ
chim Lạc, Rồng và Thuyền. Đó cũng là
giai đoạn của huyền sử tổ tông Người Việt ngày nay, với ám ảnh ly biệt, chia tách năm
mươi con theo Mẹ Âu Cơ lên núi,
phía Bắc, năm mươi con
theo Cha Lạc Long Quân, xuống vùng biển, phía Nam.
nguyễn Ngọc Tư
Chắc tác giả Nguyễn Ngọc
Tư, khi sáng tác Cánh Đồng Bất Tận, đã bị ám ảnh bởi
những dấu tích thời tiền sử trên, để mang máng đổ lên mảnh đất
bát ngát sông ngòi Cà Mâu, nơi tận cùng Đất Nước ngày nay, cái vẻ
hoang dã, cùng cảnh thế ly tán “nguyên thủy”, chia tách cổ truyền, ẩn sâu trong
máu mủ, trong tiềm thức Người Việt. Cái nghịch lý là ở chỗ, Dân Tộc Việt
đã trai qua nhiều giai đoạn mở mang, canh tân xứ sở, đi từ cảnh sống thô sơ tới
các sắc thái văn minh tiến bộ, trong truyền thống văn hoá nhân bản, tổ chức đời
sống ngăn nắp, hài hoà, mà đến ngày nay, sang thế kỷ 21, miệt vườn, sông nước của
mảnh đất Cà Mâu, qua Cánh Đồng Bất Tận, vẫn lạc lõng, lùi
bước vào cảnh hoang dã tiền sử.
Theo chiều dọc, Cánh Đồng Bất Tận phản ánh qua những hình ảnh
sinh sống của các tác nhân, lồng chiếu tương tự, đồng tâm, đồng cảnh. Việc
xuất hiện của Sương, một gái giang hồ “làm đĩ” du thực, ngay phần 1, mở đâu cho một hệ thống vai vế phản
ánh đời sống mộc mạc, chân thật, hoang dã, với cả những sắc thái nghiệt ngã, trắng
trợn, thô bạo, tai quái. Sương vừa là thủ phạm vừa là nạn nhân trên mảnh
miệt vườn, sông nước này. Thủ phạm, vì Sương thuộc loại đàn bà tàn tạ, phế
thải từ vùng đô thị, chạy xuống miệt quê giả đò buôn bán, nhưng thực sự để hành
nghề “bán trôn nuôi miệng”, hầu moi tiền mồ hôi nước mắt của nhóm thợ du mục giữ
lúa, thợ gặt, thợ chăn vit. Là nạn nhân, khi Sương bị nhóm người điên cuồng,
ghen ghét, hiếu kỳ, ùa đánh hội đồng, cắt tóc, hành hạ “đổ keo dán sắt vào cửa
mình của chị”. Cái bộ phận kín đáo nhất của người đàn bà, thường dành cho
những cuộc giao hợp tình tứ, chân quý, lúc đó trở thành một bộ phận vô tri vô
giác, một bộ phận máy móc, có thể cắt bỏ, phá hủy, đục nối, dán bịt như một vật
dụng vụn vặt. Sự trừng phạt của đám đông này không những tàn ác quá đáng
mà còn có tính cách dã man, coi người đàn bà phạm lỗi không bằng con vật.
Sau Đệ Nhị Thế Chiến,
khi nước Pháp được giải phóng, dân chúng cũng đem cạo trọc những người đàn
bà “bán trôn nuôi miệng”, thân thiện, hợp tác với địch — quân đội nazi Đức–, vì
thế bị gọi là “collaboratrices”. Dân chúng trừng phạt họ như vậy, cốt vạch mặt chỉ
tên kẻ vô luân phản bội đất nước. Nhưng nếu, như trong truyện Cánh Đồng Bất Tận, dân chúng còn đánh đập, hành hạ, “đổ
keo dán sắt vào cửa mình” của người đàn bà tội lỗi, thì cách trừng phạt này
không những có tính cách bạo lực, thuộc luật pháp rừng rú, trả thù dã man, mà
còn là một hành vi vô ý thức, vô cảm của kẻ phi nhân phản ứng máy móc, khi họ
tha hoá nhân cách, gạt bỏ nhân bản, coi con người “thất sủng”, kẻ thù, chỉ
ngang với một đồ vật phế thải, vô dụng, có thể hủy bỏ, phá hủy một cách vô
cảm. Cái mức độ phá cách nhân tính của hệ thống trừng phạt con người là cực
điểm của hành hạ và bạo lực.
Như trong cốt truyện một
nữ điệp viên Tây Âu, trước khi thi hành công tác đặc nhiệm, đã được giải phẫu một
bộ phận trong não óc để làm tê liệt cảm giác đau đớn. Khi bị Cơ Quan An
Ninh Mật Vụ Nga KGB bắt, điệp viên bị tra tấn dữ dội, nhưng không hề khai bí mật
quốc phòng. Nhân viên hỏi cung, sau khi đoán được trường hợp giải phẫu đặc
biệt của điệp viên, đã đem người đàn bà ra cạo đầu, cạo lông mày, nhổ răng và
làm mọi tác động để điệp viên không còn nhận diện được mình là con người.
Điệp viên tuy không còn đau đớn thể xác, nhưng thất vọng tới cùng cực, đã khai
báo, vì thấy chả còn lý do gì để tranh đấu nữa, khi mất tư cách và hình dạng con
người.
Ở giai đoạn Sương xuất
hiện, hai biểu tượng đất và nước xung đột, chia tách một cách rõ rệt. Đất
liền là thế đứng, bàn đạp của số người ghen ghét, thô bạo, căm hờn, điên cuồng.
Họ trừng phạt Sương, người có tội, không căn cứ vào luật pháp, hay luân thường
đạo lý, mà phẫn nộ theo “bản năng hoang dã” bằng hành động võ đoán, rừng rú, kiểu
“Toà Án Nhân Dân” đấu tố và thủ tiêu thành phần địa chủ, phú nông thời “Cải Cách Ruộng Đất” tại Miền Bắc Việt Nam.[7] Trái lại con sông là dòng cứu độ, là cửa ngõ thoát
thân, tách khỏi hận thù, đầy đọa.
Không biết tác giả Nguyễn
Ngọc Tư có ám chỉ tới cảnh huống của nhữngThuyền Nhân, mà sau này toàn thế giới gọi là
“Boat
People”,[8] những người dân Việt, “ngụy” có, đói có, khổ có, thất
vọng có, từ những năm 1977, đã thí mạng nhẩy xả vào biển cả để thoát cảnh hành
hạ, tù đày của chế độ Cộng sản Việt Nam.
Với thân phận người đàn
bà sa đoạ, Sương hành nghề làm đĩ một cách công khai, không ngượng ngùng, như một
nghiệp chướng bất khả cưỡng, nên an phận, chịu đựng. Cái nghiệp chướng
hèn hạ của Sương cũng phản chiếu tới nhiều nhân vật khác, xuất hiện như những tấm
ảnh tương tự, “giống” na ná như nhau. Họ bất đắc dĩ trở nên hư hỏng, và
khi có cơ hội, lập tức bỏ chồng bỏ con, bỏ nhà bỏ cửa, “đánh đĩ, theo
trai”. Họ hành động theo phản xạ có điều kiện, dưới áp lực của xa xỉ phẩm,
lời dụ dỗ ngon ngọt.
Đó là hình ảnh của người
vợ chán chường, của những người đàn bà bị bỏ bê, quên miệt, của những tâm hồn
thiếu thốn, từ vật chất tới tinh thần, sẵn sàng thay lòng đổi dạ, để giải đáp
nhu cầu và thoát cảnh tù túng, luẩn quẩn của một kiếp sống thiếu kém, buồn
tênh. Tới đường cùng, họ vụng trộm bán thân, để tạm bợ hưởng thụ những cảm
giác ve vuốt, tô điểm hời hợt. Trong những hoàn cảnh thiếu thốn cùng cực, luân
lý, trách nhiệm, liêm sỉ không mấy tồn tại. Tất cả chỉ còn vài nhu cầu
sinh tồn hoang dã, vụn vặt, phù phiếm. Như thèm thuồng từng gáo nước ngọt,
trong mát, đổ xối trên thân thể một lần, trước khi chết mãn nguyện; như khoác
những tấm vải “rực rỡ trên da thịt… đổi được (không phải bằng tiền hay lúa)” (Phần-3).
Do đó, những hình ảnh
làm tình, giao hợp/giao cấu giũa con người, giữa súc vật đều được liệt kê
một cách tự nhiên, đồng đều, đồng loã với “bản năng hoang dã”. Và khi
hành vi ngoại tình vụng trộm bị lộ trước cặp mắt đau đớn của con cái, người đàn
bà tội lỗi chỉ còn cách chạy trốn, bỏ chồng, bỏ con.
Trong Cánh Đồng Bất Tận, hình như tác động bỏ chạy là một giải
pháp tự vệ, lỉnh trốn nguy biến, tránh đương đầu với khó khăn, từ bỏ thách đố,
nhưng đồng thời cũng là từ bỏ lấy thân phận mình. Mỗi lần quyết liệt bỏ
ra đi như vậy, tác nhân đều chết trong lòng. Cánh Đồng Bất Tận thường là khung cảnh của những
trường hợp “tận cùng” (cas-limites) khiến người trong cuộc phải lựa chọn giữa tù túng và giải
thể, giữa nguyên vẹn và đập phá, giũa sống và chết, giưa nhân cách và tha hoá.
Người chồng bị phản bội,
một cách bất ngờ, trong truyền thống sẵn trọng nam khinh nữ, đã chọn từ bỏ quá
khứ đau đớn và quyết định giải thể bằng cách “cắt cầu” với đất liền, đốt nhà, bỏ
xứ theo cuộc sống di động, sống trên ghe và chăn vịt du mục, nay đây mai
đó. Ông cũng chọn đập phá ý niệm nguyên vẹn của gia đình, hủy bỏ cái
trung tâm điểm hạnh phúc do người đàn bà gìn giữ, và miệt mài xoá bỏ nhân cách
và giá trị của đàn bà, bằng cách trả thù khai dụng họ, khinh miệt họ, ruồng bỏ
họ như những đồ vật dư thừa, vô giá trị.
Ông cũng lần lần từ
bỏ cảm giác sống để nghiêng về coi chết, sống dở, chết dở, vô tri, vô giác, vô
cảm, vô luân.
Cách trả thù đàn bà, bỏ
bê lẽ sống chân thật đã khuếch xung nơi kẻ lưu đày tới độ bạo lực hận thù giảm
thiểu nhân cách, mỗi lúc thêm tha hoá, phi nhân: “Má cưng ác một, nhưng người
cha này của cưng ác tới mười”. Thật ra ông không ác, lòng căm thù đã làm
ông bất nhân, không còn là con người nữa. Bạo động khi tha hoá nhân bản
không còn gì để so sánh.
Nhưng hệ thống sông
ngòi đưa đẩy trong Cánh Đồng Bất Tận cũng tiếp tục buộc trói thân phận người với dòng khổ
nạn khác, như những khúc quanh của vòng luân hồi. Thoát khỏi những cuộc
hành hạ hủy hại thể xác bởi đám người trên bờ, Sương lại lọt vào vòng hành hạ
tinh thần của người chủ ghe chăn vịt, qua những trạng thái vô tình, coi thường,
hắt hủi, khinh bỉ. Với tư duy và hành động của người đàn ông khinh bỉ và
trả thù đàn bà tội lỗi, thất thế, bạo lực có tính cách hành hạ tinh thần, mà cứu
cánh là sự tha hoá của con người dù là nạn nhân hay chính kẻ trừng phạt.
Giữa hai vai vế, bên
hành động và bên thụ nhận, đều khiếm khuyết giá trị nhân phẩm, vì đối xử bằng
những phản ứng máy móc, trắng trợn, mất hẳn cảm xúc, trí tuệ và liêm sỉ.
Họ coi thường nhau, “giao cấu” như cái máy dập, không ngượng nghịu, day dứt,
không thắc mắc, đo lường hậu quả, không một chút xót xa. Ít ra, Sương
cũng còn là một con người có liêm sỉ, biết phải trái, cam chịu, biết nhận trách
nhiệm, đồng thời còn lãnh nạn cho kẻ khác, như khi phải bán thân để cứu vớt đàn
vịt khỏi bị cán bộ y tế hủy diệt, giúp gia đình chăn vịt khỏi bị phá sản.
Phải chăng Sương tiêu
biểu cho thân phận chìm nổi “bất tận” của toàn dân, đưa đẩy trong cuộc đời bất
hạnh, nhiều thay đổi, bất trắc?
Cũng như đất nước quấn
quyện, vô bờ, vỡ bờ…
May 12, 2008 — Cập
nhật November 26, 2013
Lưu Nguyễn Đạt, Ph.D
Michigan State University
Michigan State University
www.vietthuc.org
CHÚ THÍCH
[1] Cánh Đồng Bất Tận, Nguyễn Ngọc Tư, NxbTrẻ, 2005 -- mời đọc qua link:
http://www.viet-studies.info/NNTu/NNTu_CanhDongBatTan.htm
http://www.viet-studies.info/NNTu/NNTu_CanhDongBatTan.htm
[2] André Paul Guillaume
Gide (22 tháng 11 năm 1869–19 tháng 2 năm 1951) là một trong những nhà văn
Pháp xuất chúng của TK 20, người đoạt giải Nobel Văn học năm
1947. Đặc biệt trong tác phẩm Les Faux-monnayeurs (Những kẻ làm bạc giả, 1926),
tiểu thuyết, André gide ứng dụng phép sáng tạo theo thuật “Mise en abyme”,
mà Gide đã nhắc tới từ na9m 1893, trong Journal :
«J’aime assez qu’en une œuvre d’art
on retrouve ainsi transposé, à l’échelle des personnages, le sujet même de
cette œuvre par comparaison avec ce procédé du blason qui consiste, dans le
premier, à mettre le second en abyme. »
[3] “mise en abyme“, một thành ngữ mới do văn hào Pháp
André Gide sáng chế để tả “phép cấu tạo lồng ghép theo chiều sâu” trong một
tác văn nói chung. Đọc thêm “Note: La Mise En Abyme” ghi cưới bài —
endnote [3]
[4] Lucien Dällenbachmột nhà biên
khảo văn học, còn gọi là “récit spéculaire” để so sánh thuật trước tác phản ánh lồng chiếu với hệ thống
mặt gương đối chiếu, mà đối tượng soi sáng càng lúc càng phân hoá, tái hiện “bất
tận”.
[5] Thời đại Văn Minh Hoà Bình.
[6] Văn hóa Hoà Bình thuộc thời Đồ đá
cũ sang Đồ đá mới (cách ngày nay 15.000 năm, kéo dài đến 2.000 năm trước công
nguyên). Trên vùng đất xen núi đá vôi, thuộc phía Tây châu thổ ba con sông lớn
thuộc Bắc Bộ Việt Nam, và với không gian rộng lớn, tiêu biểu cho cả vùng Đông
Nam Á và Nam Trung Quốc.
Dựa vào các di chỉ tìm
thấy và niên đại của chúng, các nhà khảo cổ chia Văn hóa Hòa Bình thành ba thời
kỳ nối tiếp nhau:
- Hòa Bình sớm, hay Tiền Hòa Bình,
có niên đại tiêu biểu là di chỉ Thẩm Khuyên (32.100 ± 150 trước Công
Nguyên), Mái Đá Điều, Mái Đá Ngầm (23.100 ± 300 TrCN).
- Hòa Bình giữa, hay Hòa Bình
chính thống, tiêu biểu bởi di chỉ Xóm Trại (18.000 ± 150 TrCN), Làng Vành
(16.470 ± 80 TrCN).
- Hòa Bình muộn, tiêu biểu bằng di
chỉ ở Thẩm Hoi (10.875 ± 175), Sũng Sàm (11.365 ± 80 BP, BLn – 1541/I).
[7] “Cải Cách Ruộng Đất” tại Miền Bắc
Việt từ 1953 tới 1956. Căn cứ vào “Nguồn tài liệu:
Cục lưu trử quốc gia Nga”: http://www.rusarchives.ru/evants/exhibitions/vietnam1/22.shtml,
chương trình “cải cách ruộng đất” đã gây thảm sát tập thể khoảng hai trăm
ngàn người dân, quy vào thành phần địa chủ và phú nông, dưới sách động trực tiếp
của Trường Chinh, Tổng bí thư Đảng, nhưng minh thị dưới quyền chỉ đạo và chủ
mưu của thủ lãnh Hồ Chí Minh, rập khuôn Nga Xô và Trung Cộng. Ngay trong bản
Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản (Manifesto), Karl Marx đã tuyên bố: “cách mạng ruộng đất là điều kiện
để giải phóng dân tộc”… bằng cách thủ tiêu và sát hại dân oan.
[8] Thuyền Nhân, mà sau này toàn thế giới là “Boat People”, những người dân Việt, “ngụy” có,
đói có, khổ có, thất vọng có, từ những năm 1977, đã thí mạng nhẩy xả vào biển cả
để thoát cảnh hành hạ, tù đày, phá cách nhân tính của chế độ và guồng máy Cộng
sản Việt Nam.
NOTE: LA MISE EN ABYME [3]
La mise en abyme
désigne la relation de similitude qu’entretient tout élément, tout fragment
avec l’œuvre qui l’inclut, principe souvent décrit de façon imagée comme un effet de miroir. Cet emboîtement s’apparente à une auto-citation.
Le concept, qui s’est
imposé à grande échelle depuis sa prise en charge par le Nouveau Roman,
appartient à la vaste problématique de la réflexivité(autoreprésentation, autoréférence) et est un des outils de base de lamétafiction, cette écriture littéraire qui intériorise
un commentaire sur son écriture mais aussi sur sa lecture (ou sur sa
représentation dans le cas dumétathéâtre).
André Gide illustre son
emprunt à l’héraldique par un exemple littéraire principal, la scène des
comédiens dans Hamlet (II, 3), une scène de théâtre dans le théâtre, et
par des exemples picturaux, quand apparaissent dans les tableaux des jeux de
miroirs reflétant la scène déjà représentée.
Victor Hugo avait
cependant en 1864 décrit cette intuition dans son William Shakespeare : « trente-quatre pièces
sur trente-six offrent à l’observation (…) une double action qui traverse le
drame et le reflète en petit ».
Selon Lucien Dällenbach
à qui l’on doit la description la plus précise du procédé (Le Récit spéculaire, 1977), la mise en abyme se
caractérise par son « objet », son « amplitude » et sa
« portée ».
En ce qui concerne
d’abord l’objet, deux éléments du texte peuvent être mis en abyme. La réflexion de l’énoncé est le retour, le rappel du
« résultat d’un acte de production ». La mise en abyme est fictionnelle (« dimension référentielle
d’histoire racontée ») ou textuelle (« aspect littéral d’organisation
signifiante »). Au contraire, la réflexion de l’énonciationconsiste dans « la mise en abyme
du contexte ou des acteurs de la production et / ou de la réception ».
Deuxièmement, il existe
trois figures essentielles de l’amplitude : laréduplication simple, qui consiste en un rapport de
similitude élémentaire ; la réduplication à l’infini, dans laquelle le fragment inclus
inclut lui-même un fragment ayant cette relation de similitude ; et la réduplication répétéeou spécieuse, dans laquelle le fragment est censé
inclure l’œuvre qui l’inclut.
Quant à la portée, il
existe trois sortes de mises en abyme, reflétant trois formes de discordance entre l’ordre de l’histoire (diégèse) et celui du récit (narration) : la mise en abyme prospective, qui « réfléchit avant terme
l’histoire à venir » ; la mise en abyme rétrospective, qui « réfléchit après coup
l’histoire accomplie » ; la mise en abyme rétro-prospective, qui « réfléchit l’histoire en
découvrant les événements antérieurs et postérieurs à son point d’ancrage dans
le récit ».
Jean Ricardou décrivait
à l’aide de plusieurs exemples la mise en abyme dans Problèmes du Nouveau
Roman (1967) et Le Nouveau Roman (1973). Dans Problèmes du Nouveau
Roman il posait les
bases de ses réflexions ultérieures sur le sujet dans trois paragraphes :
« La mise en abyme », « Contestations par la mise en
abyme », « Révélations par la mise en abyme ». Mais dans la
nouvelle édition de Le Nouveau Roman parue en 1990, il précise que les
« rectifications minimes » qu’il tenait à apporter sont
« principalement, au chapitre trois, à la suite des remarques d’un
spécialiste, davantage de précautions dans le diagnostic de “mise en abyme”
(…). »
En effet, entre temps,
en 1977, est paru l’ouvrage de Lucien Dällenbach, qui comprenait également un
panorama historique intitulé *Variations sur un concept+, une *Typologie du
récit spéculaire+ et quelques «Perspectives diachroniques» consacrées au
Nouveau Roman et au Nouveau Nouveau Roman.
Jean Ricardou ouvre
d’un jeu de mots (abymé : « mis en abyme » et abîmé, au sens de l’anglais spoiled) sa propre description, qu’il
intitule « le récit abymé ». C’est en effet dans le chapitre de son
ouvrage sur Le Nouveau Roman consacré au « récit en procès » qu’il
place sa description. Pour lui la mise en abyme relève de deux fonctions
principales : la révélation etl’antithèse. La fonction de révélation fonctionne « d’une part
de fonction générale (répétition) ; d’autre part selon des traits
distincts (condensation, anticipation) ». La fonction antithétique, elle,
est cette force qui « tend à briser l’unité métonymique du récit selon une
stratification de récits métaphoriques. »
Lucien Dällenbach
décrit la mise en abyme comme un « procédé de surcharge sémantique permettant au
récit de se prendre pour thème ». Le résultat est la production d’un métatexte.
Mais comment peut-on
caractériser une telle relation ? Selon Jean Ricardou, c’est un rapport d’opposition qui caractérise la relation
entre l’enchâssant et l’enchâssé puisque la mise en relief de l’autoreprésentation produit
l’affaiblissement du système de représentation : « Là où le sens domine,
le texte tend à l’évanescence ; là où le texte domine, le sens tend au
problématique. » (Nouveaux problèmes du roman, 1978). Jean Ricardou et Lucien
Dällenbach perçoivent aussi le procédé en termes de contestation, surtout de la
tradition mimétique de l’art. Jean Ricardou analyse la mise en abyme comme
« la révolte structurelle d’un fragment du récit contre l’ensemble qui le
contient » (Problèmes du Nouveau Roman).
Chloé Conant
Université de Limoges
Université de Limoges
XIN BẤM VÀO LINK-NỐI www.vietthuc.org
ĐỌC BÀI MỚI NHẤT
TRONG TU
ẦN
[VÀ NHIỀU BÀI KHÁC...]
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết