Câu
chuyện Di cư vào miền Nam của tôi
Bài viết nhân kỷ
niệm 60 năm Di cư vào miền Nam (1954 – 2014)
Hồi tưởng của
Đoàn Thanh Liêm
*
* Năm 1954, tôi vừa tốt nghiệp văn bằng Tú tài II qua kỳ thi vào tháng 6
tại Hà nội, thì được tin quân đội quốc gia đã rút khỏi miền quê tôi tại Huyện
Xuân Trường Tỉnh Nam Định để ra Hải phòng bằng đường thủy. Và một số bà con
ruột thịt của tôi cũng tìm cách kiếm được thuyền bè để mà đi theo đoàn quân tới
được thành phố cảng này. Tôi lại có ông anh cả thuộc đơn vị quân đội trú đóng ở
Quảng Yên sát với mỏ than Hòn Gai. Nên vào đầu tháng 7, tôi đã tìm cách đi từ
Hà nội đến Hải phòng để tìm gặp bà con và đi thăm gia đình ông anh luôn thể.
Trước khi rời Hà nội,
tôi phải đến nhà Thầy Nguyễn Ngọc Cư là Phó Trưởng Ban Giám Khảo kỳ thi Tú Tài,
để xin Thầy cấp cho một Giấy Chứng Nhận Đã Thi Đậu Tú Tài, để nộp kèm theo hồ
sơ ghi danh vào Đại học. Dù đã biết rõ tôi là học trò của Thầy tại trường Chu
Văn An, mà đã thi đậu trong kỳ thi vừa qua, Thầy vẫn phải cẩn thận rà lại danh
sách các thí sinh trúng tuyển, rồi mới cấp cho tôi một “Giấy Chúng Nhận
Tạm Thời” để tùy nghi sử dụng. Thầy nói : Giấy Chứng Nhận Chính Thức phải do
Nha Học Chánh thuộc Bộ Giáo Dục cấp phát, chứ Ban Giám Khảo chỉ có thể cấp Giấy
Chứng Nhận Tạm Thời mà thôi. Biết tôi có ý định vào miền Nam, Thầy cầu chúc tôi
lên đường gặp nhiều may mắn.
Ở vào tuổi 20 lúc đó,
tôi nhìn cuộc đời với nhiều lạc quan tin tưởng, nên chẳng hề e ngại trước cuộc phiêu
lưu phải rời xa quê hương đất Bắc, để mà đi tới miền Nam xa xôi cả mấy ngàn cây
số. Một phần đó là do tính ưa thích đi đây đi đó xông pha mạo hiểm của tuổi trẻ
– như cụ Nguyễn Công Trứ nói : “Chí làm trai Nam Bắc Đông Tây – Cho phỉ sức vãy
vùng trong bốn bể”. Nhưng phần lớn chính là do động cơ thúc đảy bởi cái chuyện
“phải tránh thoát khỏi cái nạn cộng sản độc tài nham hiểm “, mà đang sắp sửa
bủa vây, bao trùm xuống khắp miền Bắc.
Tôi phải ở lại thành phố
Hải phòng đến hơn một tháng, thì mới tìm được phương tiện chuyên chở vào đến
Sài gòn hồi giữa tháng 8. Đó là nhờ một ông chú là cháu của bà nội tôi, tên là
chú Nhân. Chú làm việc tại cơ quan hành chánh phụ trách về việc sắp xếp tàu bè
đi vào Nam, nên đã xin cấp trên ưu tiên cấp phát giấy tờ di chuyển cho tôi và
một bà cô là Cô Nguyệt để leo lên được chiếc tàu khá lớn của quân đội Pháp có
tên là Gascogne. Con tàu này chuyên môn chở quân trang quân dụng cho quân đội,
nên không có đủ tiện nghi như là tàu chở hành khách thông thường. Nhưng mà lúc đó,
lớp người di cư tỵ nạn chúng tôi đâu còn có sự lựa chọn nào khác, miễn là đi thoát
khỏi miền Bắc cộng sản là được may mắn lắm rồi. Số lượng hành khách trên tàu
lúc đó có đến 7 - 800 người, phần đông là từ các tỉnh xa thuộc đồng bằng sông
Hồng mà sớm ra được tới Hải phòng để kịp đi vào Nam trong mấy chuyến đầu tiên
được tổ chức cấp tốc sau ngày ký kết Hiệp Định Geneva 20 Tháng Bảy 1954, chia
đôi đất nước. Mãi mấy tháng sau, thì mới có loạt các tàu của Mỹ với các tiện
nghi thoải mái hơn để chuyên chở số lượng rất đông đảo người di cư từ Bắc vào
Nam.
Con tàu chạy trong chừng
ba ngày, thì đến Cap Saint Jacques, tức là cảng Vũng Tàu bây giờ, để chuẩn bị
vào cửa sông đi đến bến Nhà Rồng của thành phố Sài gòn. Sau khi tàu cập bến ít
lâu, thì chúng tôi được xe chuyên chở đưa tới nơi tạm cư là trường Tiểu học Tôn
Thọ Tường trên đường Trần Hưng Đạo bây giờ (mà hồi đó vẫn còn mang tên Pháp là Boulevard
Galliéni) cũng gần với Chợ Bến Thành.
Lúc đó bên phía
đối diện với ngôi trường, thì có một tòa nhà lớn đang được xây cất, mà sau này
chính là rạp chiếu phim Đại Nam. Bà con di cư chúng tôi được các công nhân ở
đây thật là hào phóng cấp cho một số gỗ ván gỡ ra từ giàn “cốt pha”(coffrage),
để dùng làm củi đun cơm, nấu nước. Đó thật là một nghĩa cử đầu tiên của người
dân Sài gòn đối với lớp người mới chân ướt chân ráo từ ngòai Bắc vào miền Nam –
chuyện này khiến cho tôi cứ nhớ hoài.
Chúng tôi được mấy bà
con đến được Sài gòn vài ba tuần lễ trước, nên họ tìm đến để chỉ dẫn đường đi
nước bước tại cái thành phố rộng mênh mông này. Riêng tôi thì gặp lại một số
bạn bè cũng từ Hà nội hay từ Nam Định mà đến đây trước như Võ Thế Hào, Trần
Ngọc Vân, Nguyễn Phi Hùng . Các bạn cũng giúp tôi việc này chuyện nọ trong bước
đầu còn nhiều bỡ ngỡ.
I – Những kỷ niệm khó
quên của Sinh viên Di cư.
Sau vài bữa, thì
tôi làm xong thủ tục ghi danh ở Đại học Saigon và được nhận vào ở trong Trường
Gia Long là nơi được dành riêng cho các sinh viên di cư. Tại đây, sinh viên
chúng tôi được cư ngụ trong khu ký túc xá, nên có đày đủ tiện nghi về nơi ăn
chốn ở, nhà vệ sinh, phòng tắm giặt thật là đàng hoàng tươm tất. Ban tiếp cư
còn lo cho chúng tôi mỗi ngày ba bữa ăn đày đủ. Và mỗi tháng chúng tôi còn được
cấp phát cho một số tiền nho nhỏ để chi tiêu lặt vặt.
Cũng tại nơi tạm
cư này, có lần chúng tôi lại được tiếp đón cả Thủ Tướng Ngô Đình Diệm cùng phái
đoàn chánh phủ đến thăm nom và úy lạo sinh viên nữa. Nói chung, thì sự chăm sóc
của nhà nước đối với lớp người di cư đầu tiên trong mấy tháng cuối năm 1954 rõ
ràng là đã được tổ chức hết sức chu đáo, gọn gàng. Đặc biệt là mấy trăm sinh
viên từ Hanoi như tôi đã được hưởng một chế độ ưu đãi quá tốt đẹp, vượt xa
ngoài sự mong ước của nhiều người trong hàng ngũ chúng tôi.
Nhưng rồi đến lúc các
học sinh tựu trường, thì sinh viên chúng tôi phải di rời ra cư ngụ tại khu lều
vải được dựng lên trên nền đất của Khám lớn Sài gòn cũ sát bên Tòa Án, để trả
lại trường ốc cho nữ sinh Gia Long. Vào cuối năm, trời Saigon nắng nực nên vào
ban trưa nhiều anh em chúng tôi phải tìm cách chạy đến các công sở lân cận, nơi
có nhiều bóng cây che rợp cho bớt nóng. Và chúng tôi đã ăn cả hai cái Tết Tây
và Tết Ta đầu năm 1955, tại khu lều vải tạm trú này.
II – Vài chuyện ngộ
nghĩnh tại Khu Lều Khám Lớn.
Xin vắn tắt ghi
lại vài chuyện vui vui ngộ nghĩnh trong dịp vui xuân năm Ất Mùi 1955 tại Khu
Lều Khám Lớn như sau đây.
1 - Một nhà báo người
Pháp của tờ “Le Parisien libéré” đến chụp hình và phỏng vấn sinh viên chúng
tôi. Anh chụp ảnh lia lịa về cái cảnh anh Lưu Trung Khảo viết mấy câu đối Tết
bằng chữ Hán. Từ đó mà sinh viên chúng tôi tặng cho anh Khảo cái biệt danh “Ông
Đồ Khảo”.
Hồi đó sinh viên
chúng tôi đều nói rành tiếng Pháp, nên đã trả lời các câu hỏi của anh nhà báo
này một cách suôn sẻ thỏai mái. Tôi còn nhớ đã nói với anh ấy rằng :
“Chúng tôi vừa là nạn nhân, vừa là chứng nhân của sự tàn bạo của người cộng sản
độc tài. Do đó mà phải bỏ lại quê hương ở miền Bắc để đi tìm được tự do tại
miền Nam này. Cụ thể là riêng trong gia đình tôi, thì đã có hai người bị cộng
sản sát hại. Đó là vào năm 1947 công an cộng sản đã giết ông cậu là em của mẹ
tôi tên là Tống Văn Dung và đem quăng xác ông xuống con sông Trì Chính ở Phát
Diệm .Và họ còn đến tận nhà bắt cả cha tôi là Đoàn Đức Hải từ năm 1948 mang đi
biệt tích luôn…”
2 - Cũng vào dịp
Tết Ất Mùi này, Đoàn Sinh viên Di cư chúng tôi còn thực hiện được một tờ Đặc
san lấy tên là “Lửa Việt’ với chủ đề là “Xuân Chuyển Hướng” với các cây bút sau
này rất nổi danh, đó là Vũ Khắc Khoan, Nguyễn Sĩ Tế, Dõan Quốc Sĩ, Trần Thanh
Hiệp, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền v.v…
3 - Và riêng tại
căn lều gồm 8 người của tôi, thì để mừng xuân anh bạn Bùi Đình Nam đã ra tay
làm đầu bếp chiên cho chúng tôi một món bí tết thật đặc sắc. Chúng tôi lại còn
được uống cả một chai rượu chát hiệu Beaujolais của Pháp nữa. Miếng ngon này
làm cho bọn trẻ chúng tôi lúc đó mới ở vào cái tuổi đôi mươi, thì không bao giờ
mà chúng tôi lại quên được.
Thật là những kỷ
niệm khó quên của cái thời bọn thanh niên trai trẻ chúng tôi mới đến sinh sống
nơi miền đất xa lạ Sài gòn này. Cuối cùng, thì vào khoảng sau Tết Âm lịch không
lâu, chúng tôi được dọn đến khu Đại học xá Minh Mạng vừa mới xây cất xong. Sinh
viên di cư chúng tôi là những người đầu tiên đến cư ngụ tại khu cư xá này với
đày đủ tiện nghi phòng ốc, giường tủ, điện nước …Và cứ như vậy cuộc sống của
chúng tôi lần hồi đi vào mức ổn định và hòa nhập được với nền nếp của cả thành
phố thủ đô của miền Nam tự do, phồn thịnh và thanh bình.
III - Chuyện về
các anh chị em trong gia đình của tôi.
Còn về phần riêng gia
đình các anh chị em ruột thịt của tôi, thì kẻ trước người sau chúng tôi đều quy
tụ lại được với nhau trên mảnh đất miền Nam an lành, và nâng đỡ bảo bọc nhau
xây dựng lại cuộc sống mới. Lúc đó các anh chị lớn đều ra sức hợp với nhau mà
chăm lo chu đáo cho mấy em còn nhỏ dại cỡ tuổi 10 – 16, vì cha mẹ chúng tôi đều
đã khuất bóng từ trước rồi.
Và rồi đến lượt
các cháu thuộc thế hệ thứ hai trong đại gia đình chúng tôi , thì các cháu đều
đã thành đạt tại miền Nam này. Vì thế, khi các cháu khôn lớn, thì đều bày tỏ
lòng biết ơn đối với cha mẹ vì đã hy sinh hết mình, để mà đem được các cháu vào
miền Nam - và nhờ đó mà các cháu có được những cơ hội tốt đẹp để học tập và gặt
hái được nhiều thành công trên đời. Điều này càng rõ rệt, vì sau năm 1975 chúng
tôi được gặp lại bà con từ quê hương ngoài Bắc vào thăm, thì họ đều xác nhận là
họ bị cán bộ cộng sản đàn áp, bóc lột, chèn ép kỳ thị tàn bạo đến độ túng đói
khốn khổ điêu đứng vô cùng!
*
* Năm 2014 này, nhân dịp kỷ niệm 60 năm Ngày Đặt Chân đến miền Nam Tự Do (1954
– 2014), tôi xin ghi lại một số kỷ niệm riêng tư của mình như là một chứng từ
của một thanh niên là một thành viên của khối gần một triệu người di cư tỵ nạn
cộng sản, mà đã phải bỏ lại tất cả tài sản nhà cửa, ruộng vườn, mồ mả cha ông
trên đất Bắc để đi xây dựng cuộc sống mới tại miền đất tự do, no ấm và an hòa ở
phía Nam của tổ quốc Việt nam.
Và nhân dịp này, với tư
cách là một người thụ ơn, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn đối với nhân dân các
quốc gia đã góp phần yểm trợ cho công cuộc di chuyển và định cư vĩ đại của cả
triệu đồng bào chúng tôi trong những ngày tháng đen tối đó. Và tôi cũng không
quên công lao của các nhân viên Chánh phủ, của Quân đội miền Nam Việt nam, và
của biết bao nhiêu cơ quan thiện nguyện khác mà đã lo lắng chăm sóc thật là chu
đáo tận tình cho lớp người di cư chúng tôi vào thuở đó. Dù chỉ là một cá nhân
nhỏ bé, lời nói của tôi lại hết sức trung thực, như là một biểu hiện của sự cảm
thông sâu sắc và quý mến chân thành đối với tất cả các vị ân nhân đáng kính của
cả một thế hệ người di cư từ miền Bắc Việt nam năm 1954 vậy.
Nhân tiện, tôi cũng thấy
cần phải ghi lại nơi đây tấm lòng quảng đại nhân ái của nhân dân miền Nam - đã
mở rộng vòng tay đón nhận và bao bọc che chở cho bà con ruột thịt là nạn nhân
khốn khổ bất hạnh của nạn độc tài cộng sản, nên đã phải bỏ lại nơi chôn nhau
cắt rốn ở ngòai Bắc để tìm tự do tại miền Nam. Ân nghĩa đó thật là cao cả rộng
lớn như Trời Biển và đã góp phần củng cố thêm cho Sức mạnh tổng hợp của tòan
thể Dân tộc chúng ta nữa./
Thành phố Costa
Mesa California, tháng Bảy năm 2014
Đoàn Thanh Liêm
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết