QUỐC HẬN 30 THÁNG 4

Image result for Tháng Tư năm 1975 -----

==== ====



Saturday, October 10, 2015

DIỄN BIẾN THẢM KỊCH ĐÁM PHẢN TƯỚNG PHỐI HỢP VỚI ĐÁM PHẬT GIÁO ẤN QUANG SÁT HẠI TỔNG THỐNG ĐỆ I VIỆT NAM CỘNG HÒA NGÔ ĐÌNH DIỆM




Date: Tue, 6 Oct 2015 21:53:27 -0700
Subject: ​ DIỄN BIẾN THẢM KỊCH ĐÁM PHẢN TƯỚNG PHỐI HỢP VỚI ĐÁM PHẬT GIÁO ẤN QUANG SÁT HẠI TỔNG THỐNG ĐỆ I VIỆT NAM CỘNG HÒA NGÔ ĐÌNH DIỆM
From: tacgialienthanh



ỦY BAN TRUY TỐ TỘI ÁC ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
TRUNG TÂM ĐIỀU HỢP TRUNG ƯƠNG
P.O. Box 6147, Fullerton, CA 92834
Điện thoại: 626-257-1057

THÔNG BÁO

Bản văn số 10215/ubtttadcsvn
Orange County, California, USA.
Ngày 2 tháng 10 năm 2015
Thưa Đồng bào Quốc nội, Hải ngoại,
Thưa quý Chiến hữu Quân Lực VNCH và Cảnh Sát Quốc Gia VNCH,

Chỉ còn 30 ngày nữa là đúng 52 năm ngày Tổng Thống Đệ I VNCH Ngô Đình Diệm đã vị quốc vong thân (2/11/1963 - 2/11/2015), để rồi từ đó kéo dài các cuộc hỗn loạn chính trị, đất nước điêu linh, đồng bào lầm than khổ cực, và hậu quả là ngày Quốc hận 30/4/1975.

Để tiếc thương Tổng Thống Đệ I Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm, cùng hai bào đệ của Tổng Thống, ông Ngô Đình Nhu và ông Ngô Đình Cẩn, và các anh hùng đã hy sinh mạng sống để bảo vệ Đệ I VNCH trong biến cố phản loạn 1/11/1963, Khối Kỹ Thuật sẽ trích đăng một số chương trong tác phẩm: Thích Trí Quang, Thần Tượng hay Tội Đồ Dân Tộc của tác giả Liên Thành, ghi lại nguyên nhân, diễn biến, kết quả, và hậu quả của cuộc phản loạn ngày 1/11/1963.

Xin mời quý vị theo dõi tại trang nhà http://ubtttadcsvn.blogspot.com.
Trân trọng,

Tịnh Ngọc
Trưởng Khối Kỹ Thuật UBTTTADCSVN
===========
(trích sách Thích Trí Quang, Thần Tượng hay Tội Đồ Dân Tộc, bắt đầu từ trang 166 đến 202)

Từ trang 166 đến 170:

Sài Gòn Thiết Quân Luật


Tình hình an ninh chính trị ti Huế và Sài Gòn mỗi ngày mỗi xấu, mỗi trầm trọng thêm từ sau ngày xy ra vụ nổ tại Đài Phát Thanh Huế làm chết 8 em nhỏ và một số khác bị thương vào lễ Phật Đản ngày 8/5/1963. Thích Trí Quang lợi dụng cơ hội nầy phát động phong trào đấu tranh nhằm mục đích lật đổ Đệ I Cộng Hòa và Tổng Thống Ngô Đình Diệm bằng cách:


1- Ra lệnh nướng sống Thích Quảng Đức ngày 11/6/1963 tại Sài Gòn, Thích Thanh Tuệ tại Chùa Phước Duyên Huế ngày 13/8/1963, Thích Tiêu Diêu tại chùa Từ Đàm Huế vào đêm 16/8/1963.


2- Tổ chức hằng loạt  các cuộc biểu tình,  mít-tinh, tuyệt thực, đình công bãi thị, bãi khóa tại chùa Từ Đàm chùa Diệu Đế. Trên đường phố Huế, lực lượng của đám Tăng lữ Bình Trị Thiên, của Sinh viên Học sinh Phật tử, của tiểu thương Phật tử chợ Đông Ba, chợ An Cựu, chợ Bến Ngự, kết hợp lực lượng Phật tử thuộc các khuôn hội của Tỉnh Giáo Hội Thừa Thiên Huế. 


Trong khi đó thì Trưởng Chi Bộ đảng Cộng sản Thuận Hóa tại Huế Bác sĩ Lê Khắc Quyến, Khoa Trưởng Đại học Y Khoa Huế, phối hợp hành động nhịp nhàng với Thích Trí Quang. Lợi dụng việc Viện Trưởng Đại học Huế Linh Mục Cao Văn Luận bị Bộ Quốc Gia Giáo Dục cách chức, Lê Khắc Quyến  kêu gọi các Khoa Trưởng từ chức, Sinh viên bãi khóa, biểu tình, tuyệt thực phản đối chính quyền cách chức Linh Mục Viện Trưởng, phản đối chính quyền đàn áp Phật giáo.


Tại Sài Gòn tình hình an ninh cũng chẳng khác Huế là bao nhiêu. Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, chính quyền trung ương Sài Gòn mỗi giờ mỗi ngày mất dần uy quyền quốc gia. An ninh trật tự lọt khỏi tầm tay kiểm soát của chính phủ và của nhân viên công lực.


Hai trung tâm phản loạn trong thời gian nầy chính là chùa Từ Đàm tại Huế và chùa Xá Lợi tại Sài Gòn.


Chỉ huy và điều động mọi cuộc phản loạn từ Huế đến Sài Gòn là đám Tăng lữ Phật Giáo Ấn Quang có tên dưới đây:


Thích Trí Quang

Thích Thiện Minh

Thích Tâm Châu

Thích Đôn Hậu

Thích Hộ Giác

Thích Huyền Quang

Thích Quảng Độ

Thích Nhất Hạnh

Thích Thiện Siêu

Thích Chánh Trực

Thích Trí Thủ

Thích Chánh Lạc

Thích Giác Đức v.v.


Những tin tức tình báo của các cơ quan tình báo quốc gia gồm dân sự cũng như quân sự, nhất hạng là cơ quan tình báo của Phủ Tổng Thống, cũng như Đoàn Công Tác Đặc Nhiệm Miền Trung đều ghi nhận một số tin tức với giá trị cao:


1- Có một số tăng ni trẻ không rõ xuất xứ, hiện đã đột nhập vào các chùa tại Sài Gòn, Chợ Lớn cũng như chùa Xá lợi. Các cơ quan an ninh tình nghi những kẻ nầy là quân Cộng sản xâm nhập.


2- Một cuộc đảo chánh sắp sửa xảy ra do một số tướng lãnh VNCH cầm đầu dưới sự h trợ của Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn.


3- Ngoài ra, an ninh trật tự phải được tái lập và luật pháp quốc gia phải được mọi người dân triệt để tôn trọng.


Với những lý do trên nên đêm 20/8/1963 rạng sáng 21/8/1963, Chính Phủ Ban Hành Lệnh Thiết Quân Luật, và SÀI GÒN THIẾT QUÂN LUẬT.


Vào đêm 20/8/1963 rạng sáng ngày 21/8/1963 một lực lượng hành quân hn hợp giữa Lực Lượng Đặc Biệt của Đại Tá Lê Quang Tung, Lực Lượng Cảnh Sát Đặc Biệt, Cảnh Sát Chiến Đấu (sau này gọi là Cảnh Sát Dã Chiến) của Nha Cảnh Sát Đô Thành Sài Gòn, Chợ Lớn.


Tất cả các lực lượng trên đều đặt dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Lê Quang Tung, Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt. Mục tiêu của cuộc hành quân trên là lục soát tất cả các nơi tình nghi, các chùa chiền, nơi đã có tin tức đang chứa chấp Việt Cộng xâm nhập từ ngoại biên vào đô thành, hoặc những thành phần bất hảo phá rối trị an ẩn nấp, để bắt giữ bọn chúng.


Sáng ngày hôm sau, ông Bộ Trưởng Ngoại Giao Vũ Văn Mẫu đệ đơn từ chức lên chính phủ để phản đối việc mà ông ta cho rằng đàn áp Phật giáo (ông nầy Phật giáo, là người của Trí Quang). Sau đó ông Trần Văn Chương, Đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Hoa Kỳ, và Bà Trần Văn Chương, Đi diện cho Việt Nam Cộng Hòa, cũng xin  từ chức. 



Thích Trí Quang Trốn Vào Tòa Đại Sứ Mỹ

Trong đêm 20/8/1963 rạng sáng 21/8/1963 khi mà lực lượng hành quân hỗn hợp giữa quân đội và Cảnh Sát Quốc Gia đang tiếp diễn để truy lùng, bắt giữ đám Cộng sản trà trộn vào các chùa, cũng như các thành phần bất hảo phá rối trị an, thì Thích Nhật Thiện người thông dịch viên riêng của Thích Trí Quang đã dẫn Thích Trí Quang chạy trốn vào cơ quan USAID của Mỹ. Sau đó từ cơ quan USAID, Thích Nhật Thiện dẫn Thích Trí Quang chạy trốn vào Tòa Đại Sứ của Hoa Kỳ. Rõ ràng đây là kế hoạch giải thoát và bảo vệ Thích Trí Quang của ông Đại Sứ Hoa Kỳ Henry Cabot Lodge và của cơ quan tình báo CIA. Thích Trí Quang trốn tại Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ từ 21/8/1963 cho đến ngày 4/11/1963 sau khi cuộc đảo chánh đã thành công y mới âm thầm trở về chùa Xá Lợi. Một thời gian ngắn sau đó y trở ra Huế, ngụ tại chùa Từ Đàm. Thời gian Thích Trí Quang trốn tại Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn là khoảng 2 tháng.Cũng cần nói đến nhân vật Thích Nhật Thiện, người thông dịch viên riêng của Thích Trí Quang. Thích Nhật Thiện tên trần tục là Lê Mậu Chí, sinh quán tại tỉnh Thừa Thiên. Trước năm 1954 Lê Mậu Chí là Nhân viên Công an của Ty Công An (Quốc gia) Đồng Hới. Vào năm 1959, Lê Mậu Chí bị sa thải khỏi ngành công an vì vi phạm kỷ luật. Lê Mậu Chí vào Sài Gòn sinh sống. Y theo học Anh văn vì muốn trở thành một thông dịch viên cho Mỹ. Sau đó không lâu y đi tu với pháp danh là Thích Nhật Thiện. Thích Nhật Thiện trở thành thông dịch viên riêng cho Thích Trí Quang.

 
Thích Trí Quang, 44 tuổi, tị nạn               Ngày 4/11 Thích Trí Quang (trái) 
 trong Tòa Đại Sứ Mỹ tại Sài Gòn.          lần đầu tiên bước ra khỏi Tòa Đại Sứ Mỹ tại Sài Gòn 
  - Ảnh chụp 2/9/1963.                             kể từ khi chạy vào đây tị nạn chính trị.             

Vào ngày 30/4/1975, sau khi chiếm được Sài Gòn, lực lượng an ninh tình báo của Cộng sản truy tầm và bắt giữ Thích Nhật Thiện vì bọn chúng nghĩ rằng Thích Nhật Thiện là Tình Báo Viên của CIA. Mục đích bắt giữ Thích Nhật Thiện là để khai thác về Thích Trí Quang, để tìm hiểu Thích Trí Quang đã được tình báo Hoa Kỳ móc nối từ khi nào, và mức độ hợp tác của Thích Trí Quang hợp tác với CIA đến đâu, cũng như những công tác gì mà CIA giao phó cho Thích Trí Quang.


Không hiểu Thích Nhật Thiện đã khai những gì về Thích Trí Quang, chỉ biết rằng sau đó Trần Bạch Đằng đã phúc trình với Nguyễn Văn Linh, Thủ Tướng chính phủ Cộng sản Việt Nam, rằng: “Thích Trí Quang là nhân viên tình báo chiến lược của CIA”. Kể từ thời gian sau ngày 30/4/1975 đến nay tháng 4/2013, Thích Trí Quang đã tịnh khẩu và bị Cộng sản cô lập tại chùa Già Lam ở tỉnh Gia Định.



Có lẽ trong lòng tên Việt gian đa mang nầy cũng tiếc lắm, vì suốt đời làm khuyển mã cho Cộng sản Việt Nam (từ trước 1945). Vậy mà vì sợ chính quyền Việt Nam Cộng Hòa bắt giữ vào đêm Thiết Quân Luật 21/8/1963, y bất chấp nguyên tắc tình báo, chạy trốn vào Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ để bọn tình báo Cộng sản Việt Nam phát hiện y là tên phản bội lại chúng. Vì thế, đồng chí Phạm Văn Bồng tức Thích Trí Quang với 24 năm tuổi đảng phục vụ tận tình cho “Bác và đảng đã bị vất vào thùng rác như trái chanh đã bị ung thối không thể dùng được nữa.

__._,_.___

Posted by: Gia Cao

Wednesday, October 7, 2015

Đọc để thấy người bạn Đồng Minh (Hoa Kỳ) ném đá dấu tay như thế nào.

 
Đọc để thấy người bạn Đồng Minh (Hoa Kỳ) ném đá dấu tay như thế nào.
  29-9-2015


Tôi nhận bài viết của tác gỉa Bùi Anh Trinh vào Sep 14, 2015 nhưng tôi quyết định giữ đến ngày hôm nay. Có thể bài viết đã được đăng trên online.

—–
VTL September 14, 2015.
                    H1
* Ngày 29-9 năm nay đã là ngày giỗ thứ 14 của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Cho tới trước khi chết Ông vẫn cúi đầu nhận chịu trách nhiệm đã làm cho mất nước, một lỗi lầm quá to lớn mà cá nhân một người không thể nào gánh vác. Nếu có một người nào đó đứng ra nhận chịu thì quả là vô lý, thế nhưng Ông Nguyễn Văn Thiệu đã làm.


PHI CHĂNG M B RƠI?


Kể từ ngày lập quốc, nước Mỹ thực sự sụp đổ vào năm 1975 với 3 triệu cựu chiến binh tại chiến trường Việt Nam, 58 ngàn người đã chết, và 3.000 quân nhân còn mất tích. Xã hội Mỹ phân hóa trầm trọng với tranh cãi đổ lỗi cho nhau.
Chính vì vậy mà những người quân nhân VNCH không bao giờ động chạm tới nỗi đau của người bạn chiến đấu Mỹ, họ đã làm hết sức của họ rồi, họ đã phải chết tới 58.000 người và đã hao tốn 300 tỉ USD, lại còn phải nuôi 3 triệu cựu chiến binh Mỹ mà người nào cuộc đời cũng tan nát do bị khủng hoảng, bị thất bại vì không thể trở lại trường để làm lại cuộc đời.
Hai chữ “Bỏ Rơi” là do BBC và RFI dùng để xoa dịu sự oán hận của người Việt sau khi Mỹ cắt ông tiếp huyết cho VNCH. “Bỏ Rơi Đồng Minh” khác với “Phản Bội Đồng Minh”. Bỏ Rơi có nghĩa là tôi thích thì tôi giúp, khi thấy mệt mõi quá thì tôi không giúp nữa. Còn Phản Bội là phỉnh gạt, lừa đảo. Cho nên người Mỹ muốn nhận là họ Bỏ Rơi VNCH còn hơn là nhận Phản Bội VNCH.


Frank Snepp, THÁNG 3 NĂM 1973.
Năm 1968 anh sinh viên Frank Snepp quyết định làm đơn xin đầu quân vào CIA để tránh khỏi phải đi lính và chiến đấu tại VN. Năm 1969 Snepp bắt đầu làm viêc tại chi nhánh CIA tại Sài Gòn trong tư thế một nhân viên mới vào nghề. Năm 1971 ông trở về Trung tâm CIA tại Mỹ với nhiệm vụ phân tích những tin tức thu thập từ báo chí của Bắc Việt.
Đến năm 1972 ông bị đày đi VN vì tội đã báo trực tiếp cho Tòa Bạch Ốc một thông tin ông đọc được trên báo của Hà Nội mà không qua các xếp lớn của CIA. Nhiệm vụ lần thứ hai của Frank Snepp tại Việt Nam là đọc báo và nghe đài phát thanh của CSVN và VNCH để trình cho Polgar, trưởng CIA tại Sài Gòn, những tin nào mà ông ta thấy đáng quan tâm.
Sau biến cố 1975 Frank Snepp quyết định viết thành sách về những gì ông chứng kiến trong vai trò một nhân viên CIA làm việc tại VN trong giai đoạn Hoa Kỳ cuốn cờ ra khỏi Việt Nam. Nhờ đó ông nhanh chóng trở thành nhân chứng sống duy nhất dám tiết lộ những bí mật mà một nhân viên CIA không được phép tiết lộ.
CIA đã đưa ông ra tòa vì ông đã hành động trái với lời tuyên thệ khi ông bước chân vào tổ chức CIA. Tòa án đã phán quyết Frank Snepp không bị tội tiết lộ bí mật nghiệp vụ nhưng cũng quyết định cho thu hồi quyển sách “Decent Interval” của Frank Snepp. Tuy nhiên phán quyết này chỉ có hiệu lực hình thức bởi vì cả thế giới đều đã đọc Decent Interval.
Theo Frank Snepp thì mọi chuyện đều bắt đầu từ khi ký kết Hiệp Định Paris. Rồi 3 tháng sau khi ký kết Hiệp Định, Tổng Thống Nixon cử Martin làm đại sứ Mỹ tại VN thay Bunker. Frank Snepp mô tả vai trò của Đại sứ Martin: “Mỹ buộc phải bỏ khỏi Việt Nam trong tư thế đường hoàng, và muốn tạo được ấn tượng như vậy thì cần phải có một chuyên gia về ảo thuật và kịch nghệ mà Martin thuộc vào hạng sư phụ. (Trang 75, nguyên văn: “The United States was obliged to crawl out of Vietnam standing up, and to foster that illusion required the kind of conjuring and stagecraft at which Martin so adept”). Như vậy màn kịch bỏ rơi Việt Nam đã được lên giàn từ tháng 4 năm 1973.


Nixon THT HA VI Liên Xô, THÁNG 8 NĂM 1974.
Năm 1974 giữa năm, Tổng Thống Mỹ Nixon đệ trình Quốc Hội Mỹ bản dự thảo hiệp ước giao thương giữa Mỹ và Liên Xô. Đến lúc này Quốc Hội Mỹ mới biết rằng đây là cái giá mà Nixon đã trả cho việc Liên Xô ngưng cung cấp vũ khí cho Hà Nội và ép Hà Nội phải ký hiệp ước ngưng bắn 1973. Dĩ nhiên khi đưa ra trước Quốc hội, Nixon tin rằng sẽ được thông qua dễ dàng vì lợi ích chung của cả hai nước, nhất là từng bước giải quyết chiến tranh lạnh là điều mà dân chúng Hoa Kỳ mong chờ.
Tuy nhiên ông đã tính lầm, Quốc Hội Mỹ đoán rằng còn nhiều cái giá khác nữa giữa Nixon và Liên Xô, Trung Quốc, Hà Nội vào năm 1972. Vì vậy Quốc Hội bác bỏ thẳng thừng hiệp ước thương mại Xô – Mỹ để buộc Nixon phải lòi ra những thỏa thuận khác. Dĩ nhiên là Nixon không đưa ra, ông dùng đặc quyền hành pháp để từ chối.
Vì vậy Quốc Hội có một cách khác để moi ra những gì mà Nixon đã cam kết với LX, TQ và Hà Nội vào năm 1972; đó là cách lợi dụng vụ Watergate để triệu tập một Ủy ban điều tra đặc biệt về sai phạm của Nixon trong vụ nghe lén, nhờ đó công tố viên của ủy ban điều tra có quyền bắt Nixon phải đưa ra tất cả những cam kết ngầm với Bắc Kinh, Mạc Tư Khoa và cả Hà Nội.
Nixon chỉ còn có cách từ chức để né tránh Ủy ban điều tra bởi vì ông và Kissinger đã có những thỏa thuận mật với đối phương mà không xin phép Quốc Hội. Một khi ông từ chức thì những cam kết của ông trở thành vô hiệu lực. Quốc Hội sẽ không còn cớ để truy xét.
Sau khi Nixon từ chức thì Quốc Hội Hoa Kỳ cho thông qua đạo luật cấm HK buôn bán với các nước Cộng Sản vào cuối năm 1974 (Đạo luật Jackson-Vanik). Sự trở mặt của Quốc Hội Mỹ đã khiến Liên Xô tức giận bởi vì những cam kết của Nixon khi ông ta viếng thăm Liên xô vào năm 1972 đã không được thi hành. Vì vậy, cuối năm 1974, Đại Tướng Kulikov của Liên Xô đến Hà Nội để xúi Hà Nội đưa quân đánh chiếm Miền Nam, Liên Xô sẽ cung cấp vũ khí và chiến phí.
HÀ NI CAY ĐẮNG.
Theo như 7 mục, 23 điều khoản của Hiệp Định Paris thì Hà Nội ngưng bắn vô điều kiện, trao trả cho Mỹ 591 tù binh Mỹ vô kiện, trao trả tù binh VNCH để đổi lại VNCH trao trả 28 ngàn tù binh Bắc Việt. Trong khi đó Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu không phải từ chức, 38 ngàn tù chính trị của mặt trận GPMN vẫn tiếp tục bị giam giữ.
Đặc biệt là “ngưng chiến da beo”, nghĩa là quân đội CSVN vẫn ở trên rừng và quân đội VNCH kiểm soát thành thị và thôn quê Nam Việt Nam. Biên giới hai miền Nam Bắc vẫn được tôn trọng theo như Hiệp Định Geneve 1954.
Nhìn bề mặt của Hiệp Định Paris quá vô lý cho nên giới quan sát quốc tế thừa biết bên trong phải có một mật ước riêng. Quả nhiên sau này vào năm 1977 Tổng Thống Jimmy Cater của Mỹ xác nhận có một mật ước riêng đằng sau Hiệp Định Paris được Nixon ký với Hà Nội 4 ngày sau khi ký kết Hiệp Định Paris 1973. Vào tháng 10 năm 1988 Hà Nội cho công bố toàn văn bản mật ước Nixon & Phạm Văn Đồng.
Theo đó thì Nixon hứa sẽ viện trợ tái thiết cho Bắc Việt 3,25 tỉ USD và viện trợ phát triển kinh tế cho Hà Nội 1,5 tỉ USD. Trong vòng 30 ngày sau khi người tù binh HK cuối cùng rời khỏi VN thì hai bên sẽ thiết lập xong hệ thống viện trợ tái thiết, và trong vòng 60 ngày sau đó thì lập xong hệ thống viện trợ phát triển kinh tế.
Bản mật ước do đích thân Kissinger mang tới Hà Nội cho Phạm Văn Đồng ký nhận. Từ đó Lê Duẩn ngày đêm trông chờ món tiền của Kissinger và đến cuối năm 1974, Liên Xô cử tướng Kulikov sang Hà Nội xúi Lê Duẩn đánh chiếm Miền Nam thì có nghĩa là Hiệp Định Paris coi như tờ giấy lộn. Rốt cuộc Hà Nội biếu không 591 tù binh Hoa Kỳ mà chẳng nhận được đồng nào, suốt 10 năm chiến đấu gian khổ, hằng triệu người chết, hằng chục tỉ đô la nợ chiến phí… đến nay chỉ còn là con số không (sic).
Tướng Kulikov xúi Hà Nội phát động chiến tranh trở lại nhưng Lê Duẩn và tập đoàn lãnh đạo CSVN thực sự trắng mắt. Dân chúng Miền Bắc đã kiệt sức, trong 5 năm nhà nước đã đóng cửa tất cả 18 trường đại học và cao đẳng, bòn vét nhân lực đến độ phải gọi lính ở tuổi 16, tại Miền Bắc chỉ còn một trời đàn bà góa… thì lấy đâu để gây chiến tranh trở lại.
*(Theo hồi ký của tướng CSVN Hoàng Văn Thái thì cho tới năm 1974 Hà Nội đã động viên đến 16% dân số, không thể nào động viên thêm được nữa. Trong khi Miền Nam là 5,88%)


HT ĐẠN VÀ HT NHIÊN LIU.
Bắt đầu từ năm 1975 Đại Tướng Cao Văn Viên viết tường trình cho Ngũ Giác Đài về những ngày cuối cùng của chiến tranh Việt Nam nhưng đến năm 1983 mới được in thành sách với tựa đề “The Final Collapse” và hai mươi năm sau, 2003 The Final Collapse được nhà nghiên cứu sử Nguyễn Kỳ Phong dịch ra tiếng Việt với tựa đề “Những ngày cuối của Việt Nam Cộng Hòa”. Trong sách có kèm theo những chú giải mới nhất của Đại Tướng Cao Văn Viên. “Một sự thực không thể chối cãi là quân đội VNCH sẽ hết đạn và nhiên liệu vào tháng 6 năm 1975…” (Tài liệu của Ngũ Giác Đài: Cao Văn Viên, The Final Collapse, bản dịch của Nguyễn Kỳ Phong trang 136).
Năm 1974 tháng Giêng, theo tài liệu của CIA: “Từ cuối tháng 12-1973 đến đầu tháng Giêng 1974 Tướng John Murray và ban tham mưu của ông đã làm việc ngày đêm để cố gắng tìm đáp số cho bài toán viện trợ quân sự. Nhưng mỗi lần họ tìm ra một giải pháp để giải quyết vấn đề thì lại phát sinh một vấn đề khác mà kết quả cũng chỉ đưa tới bí lối” (Frank Snepp, Decent Interval, trang 95).
Tướng John Murray là Tư Lệnh cuối cùng của quân đội Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam. Ông đến Việt Nam sau Hiệp Định Paris 1973, sang đầu năm 1974 ông và Bộ Tham Mưu Hoa Kỳ tại Việt Nam phải tính toán sổ sách về viện trợ quân sự cho Nam Việt Nam trong nửa cuối 1974 và đầu năm 1975. Tuy nhiên Ngũ Giác Đài đã cho ông biết trước là có thể dưới 700 triệu đô la nhưng theo các chuyên viên tham mưu của John Murray thì 700 triệu chỉ đủ giữ được Vùng 4.
Năm 1974 cũng theo Frank Snepp, ngày 16-8 John Murray họp buổi họp chót với Đại Tướng Cao Văn Viên (Tổng Tham Mưu Trưởng), Tướng Đồng Văn Khuyên (Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận) và một số tướng lãnh của Bộ TTM. John Murray khuyên Tướng Viên nên liệu cơm gắp mắm, gấp rút lên kế hoạch sẵn sàng bỏ Vùng 1, Vùng 2 và cả Vùng 3 để về cố thủ Vùng 4. Tuy nhiên “Tướng Viên lẫn Tướng Khuyên đều nói rằng lên kế hoạch về quân sự thì được, nhưng về mặt chính trị thì không thể nào thi hành nổi”. Sau buổi họp này thì John Murray giải ngũ, trở về Hoa Kỳ.
Năm 1974 tháng 5, theo Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng (Bộ Trưởng Bộ Kế Hoạch của VNCH) thì ông đã tình cờ trông thấy bản kế hoạch “Cắt Đất Theo Lượng Viện Trợ” của Murray nằm trên bàn của Tổng Thống Thiệu vào tháng 5 năm 1974, nghĩa là 2 tháng trước khi Nixon từ chức. Như vậy Murray chính là tác giả của kế hoạch bỏ Vùng 1, Vùng 2 vào năm 1975, một kế hoạch mà cho tới 40 năm sau người ta vẫn cho là sáng kiến (tối kiến) của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Sự thực Tổng Thống đã bị báo chí Mỹ cố tình gieo tiếng oan mà lúc đó Ông không thể lên tiếng thanh minh.
Năm 1974, ngày 24-12: Theo hồi ký của Đại Tá Phạm Bá Hoa “Ngày 24-12-1974, lúc quân CSVN đang tấn công Phước Long sang ngày thứ 10; một buổi tiệc mừng Giáng Sinh được Tướng Đồng Văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu, tổ chức trên lầu của Câu lạc Bộ trong BTTM”. Khách tham dự gồm có Tướng Smith (Chỉ Huy Trưởng cơ quan quân sự HK tại VN; Tướng Quân Y Phạm Hà Thanh; Tướng Công Binh Nguyễn Văn Chức; Đại Tá Phạm Kỳ Loan (Tổng Cục Phó Tiếp Vận); Đại Tá Phạm Bá Hoa (Tham Mưu Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận); Đại Tá Pelosky (Phụ Tá của Tướng Smith); Trung Tá Nguyễn Đình Bá (Chánh Văn Phòng của Tướng Khuyên).
Thiếu Tướng Smith tiết lộ rằng: “Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ có kế hoạch với ngân khoản dự trù hơn 300 triệu đollar để di tản sang Hoa Kỳ khoảng 40 ngàn sĩ quan và gia đình, nhưng thời gian thì chưa rõ” (Phạm Bá Hoa, Đôi Dòng Ghi Nhớ, Bản in lần 4, trang 264). Khi sách của Phạm Bá Hoa phát hành thì tất cả các nhân vật trong bữa tiệc đều còn sống mạnh khỏe nhưng không ai phản đối, kể cả Tướng Smith; chứng tỏ chuyện này hoàn toàn có thật.
Như vậy là kịch bản bỏ rơi Miền Nam đã được lên giàn trước khi mất Phước Long chứ không phải là sau khi mất Ban Mê Thuột. Người ta đã tính toán sẵn kế hoạch để cho VNCH sụp đổ trước tháng 6 năm 1975, kể cả ước tính trước ngân sách chi dụng cho kế hoạch.
Năm 1975, ngày 7-1: Phản ứng của Mỹ sau khi mất Phước Long là: “Tòa Bạch Ốc nói rằng: Tổng Thống Ford không có ý vi phạm những điều cấm chỉ (của Quốc Hội) về việc sử dụng lực lượng quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam” (Hồi ký của Tướng CSVN Hoàng Văn Thái, trang 161). Khi vừa nghe tin này Phạm Văn Đồng tuyên bố: “Cho kẹo quân Mỹ cũng không dám trở lại VN”(trang 146).
Ngay sau khi nhận được tin, Lê Duẩn chỉ thị cho Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng Hoàng Văn Thái lên kế hoạch tiến chiếm miền Nam: “Một tháng sau chiến thắng Phước Long, ngày 5 tháng 2, anh Văn Tiến Dũng lên đường vào Tây Nguyên” (Hoàng Văn Thái, trang 172).
Ngày đó cơ quan USIS của CIA tung tin quân VNCH thua tại Phước Long là do Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cố tình bỏ Phước Long để thử xem phản ứng của Mỹ. Sở dĩ CIA đổ cho Nguyễn Văn Thiệu là để Quốc Hội Mỹ có cớ biểu quyết ngưng viện trợ quân sự cho VNCH.


Và TÌNH HÌNH THC S VÀO THÁNG 3 NĂM 1975:
-Tuần đầu của tháng 3 năm 1975. Trong một cuộc họp đầu tuần của Bộ Ngoại Giao HK, Kissinger đã giải thích hành động viện trợ “Lấy Có” cho Cam Bốt: “Chính Phủ Lon Nol đang trên đà sụp đổ, đây là nguyên do chính khiến chúng ta phải tiếp tục viện trợ để cho sau này không ai có thể trách chúng ta vô trách nhiệm”. (Frank Snepp, Decent Interval, trang 175). *(Nguyên văn: “…he say, the Lon Nol Government was on the brink of collapse, it was essential to keep open the aid pipeline so no one could later blame the United States for the disaster”).
– Ngày 7-3-1975, Kissinger chỉ thị cho các viên chức Ngoại Giao HK trước khi ông ta lên đường đi Trung Đông: “Hãy làm mọi cách để Quốc Hội tiếp tục duy trì viện trợ (Lấy Có) cho Cam Bốt và Việt Nam. Không phải để cứu vãn hai nước đó, mà vì không thể nào cứu vãn được hai nước đó” (Frank Snepp, Decent Interval trang 176). *(Nguyên Văn: Do every thing possible to ensure that Congress lived up our aid commitments to Cambodia and Vietnam- not because the two countries were necessarily salvageable, but precisely because they might not be).
Hai ngày sau khi Kissinger nói câu này thì Văn Tiến Dũng ra lệnh tấn công Ban Mê Thuột.
Kissinger không muốn thiên hạ nghĩ rằng Việt Nam sụp đổ do không còn viện trợ. Và với mức độ viện trợ nhỏ giọt thì đến ngày 30-6-1975 quân đội VNCH sẽ không còn Gạo và không còn Đạn (Tài Liệu The Final Collapse của Đại Tướng Cao Văn Viên). Vì thế Kissinger mong cho Quân đội VNCH tự tan rã trước khi hết Gạo và Đạn trước tháng Sáu năm 1975. Lúc đó thiên hạ sẽ nghĩ rằng Quân Đội Sài Gòn đã thua chạy trước sức tiến công vũ bão của quân Hà Nội.


TH BT BUC ca Tng Thng Nguyn Văn Thiu.
Năm 1975 ngày 11-3, một ngày sau khi mất Ban Mê Thuột. Theo Đại Tướng Cao Văn Viên “Ngày 11-3 Tổng Thống Thiệu mời các Tướng Khiêm, Viên, Quang ăn sáng tại Dinh Độc Lập và sau đó trình bày ý định muốn cắt bỏ bớt lãnh thổ cho vừa với mức viện trợ quân sự của HK vào năm 1975”. Tướng Viên ghi lại cảm nghĩ của ông lúc đó: “Quyết định của Tổng Thống Thiệu cho chúng tôi thấy đây là một quyết định ông đã suy xét thận trọng. Hình như Tổng Thống Thiệu đã ngần ngại về quyết định đó, và bây giờ ông chỉ thổ lộ cho ba người chúng tôi trong bữa ăn sáng…”
*“… Tổng Thống Thiệu phác họa sơ: …Một vài phần đất quan trọng đang bị Cộng Sản chiếm, chúng ta sẽ cố gắng lấy lại bằng mọi gía…Ban Mê Thuột quan trọng hơn hai tỉnh Kontum và Pleiku nhập lại…” (Cao Văn Viên, The Final Collapse, bản dịch của Nguyễn Kỳ Phong, trang 129-131).
“Ngay sau khi Phước Long bị tấn công, Hoa Kỳ không có một phản ứng nào … . Một thực tế gần như hiển nhiên là Hoa Kỳ không muốn cuộc chiến tiếp tục và biểu quyết viện trợ để VNCH đánh tiếp là chuyện sẽ không xảy ra. Đối với Hoa Kỳ cuộc chiến Việt Nam đã kết thúc” (trang 132).
Các đoạn trích dẫn trên đây đã giải thích vì sao Tổng Thống Thiệu phải bỏ Vùng 1 cũng như Vùng 2. Và vì sao Tướng Viên không nhiệt tình tham gia kế hoạch của Tướng Thiệu.
Cuối cùng, sau 30-4-1975 Mỹ mở chiến dịch đổ tội làm mất nước cho Tổng Thống Thiệu để cho người ta không oán hận Mỹ đã bỏ rơi VNCH. Giờ đây đã 40 năm trôi qua, nếu người Mỹ không lên tiếng giải oan cho Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, thì cũng nên trả lại sự thật cho lịch sử.

                                          
+*+*+*+












   
     
__._,_.___


Posted by: <vneagle_1

Featured Post

BẠN TÔI: ĐẠI ÚY TRẦN QUANG HIỆP

 https://www.facebook.com/groups/160591528349491/permalink/723350692073569/ https://www.youtube.com/watch?v=oqhFQFR2-JM Chuyện Xứ Xã Nghĩa r...

Popular Posts

Popular Posts

My Blog List