Khui hồ sơ "Tối
Mật": Mỹ chủ mưu thanh toán
anh em
Tổng Thống Ngô Đình Diệm
Bức điện thư "Tối
Mật" Mỹ ra lệnh thanh toán
Tổng
Thống Ngô Đình Diệm và Ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu, ngày 24 tháng 8 năm 1963.
Xin bấm vào Link Audio
Youtube này để nghe đọc bài viết và xem phim, ảnh:
Hoặc bấm vào Link Audio Youtube dưới, có những
phim, ảnh khác với phim, ảnh Link trên, nhưng có cùng bài đọc. https://www.youtube.com/watch?v=hgYWfCxcL5Y
Little
Saigon ngày 23 tháng 10 năm 2017
Kính thưa Quý Đồng Hương,
Cứ mỗi năm vào mùa Lễ Tưởng Niệm Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, tôi
xin post lại bài "Khui hồ sơ
"Tối Mật": Mỹ chủ mưu thanh toán anh em Tổng Thống Ngô Đình Diệm." Tôi cố gắng tổng hợp và chuyển ngữ các chi
tiết liên quan đến sự nghiệp Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm và biến cố đảo chánh
năm 1963, vì tôi nghĩ đây là một giai đoạn lịch sử quan trọng của đất nước cần biết để
mà "ôn cố tri tân."
Là công dân nước Việt Nam dưới hai nền Cộng Hòa, tôi cho rằng tinh
thần và lý tưởng chống cộng sản Việt Nam là điều quan trọng hơn hết, vì vậy tôi
vô cùng cảm kích và thành kính biết ơn nhị vị Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm
và Cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã lãnh đạo nhân dân miền Nam Việt Nam trong
công cuộc đấu tranh chống cộng sản Bắc Việt xâm lược, bảo vệ đất nước.
Do đó, tôi cực lực phản đối và lên án bất cứ tôn giáo nào, tổ chức
nào, đảng phái nào, cá nhân nào cố tình bươi móc quá khứ, bóp méo sự thật
lịch sử để dèm pha, nhục mạ, phỉ bảng, bỉ thử nhị vị Cố Tổng Thống Ngô Đình
Diệm và Cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, với mưu đồ tạo ra mối
chia rẽ giữa khối người Việt Quốc Gia, cũng như gây nên cảnh ly gián, thù hằn
giữa những người Đệ Nhất Cộng Hòa và Đệ Nhị Cộng Hòa với nhau nhằm làm lợi cho Việt
cộng.
Kính mời quý vị bấm vào Link AUDIO YOUTUBE này: My
chu muu giet TT.Ngo Dinh Diem
|
|||
|
|||
|
Hoặc bấm vào Link Audio Youtube dưới, có các phim, ảnh khác với
Link trên, nhưng giống cùng bài đọc:
để nghe Anh Nguyên Khôi đọc bài "Khui hồ sơ
"Tối Mật": Mỹ chủ mưu thanh toán anh em Tổng Thống Ngô Đình Diệm" dài 90 phút với nhiều phim, ảnh đi kèm.
Những gì tôi muốn nói thì tôi đã nói trong bài viết đính kèm ở
dưới, kính mời quý vị thưởng lãm.
Trân
trọng
Ngô Kỷ
Xin bấm Link dưới xem
nhiều hình ảnh Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm trong Google:
Khui hồ sơ "Tối
Mật": Mỹ chủ mưu thanh toán
anh em Tổng Thống Ngô
Đình Diệm
size=1 width="100%" noshade style='color:#9C0000' align=center>
• Ngô Kỷ tổng hợp và
chuyển ngữ
|
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Đảo chánh! đảo chánh!
Ngày 01 tháng 11 năm
1963, có thể chuyện đã trở thành cũ so với một đời người, nhưng lại quá mới
nếu đem so với chiều dài của lịch sử. Từ trước đến nay, có rất nhiều cựu
tướng lãnh, chính trị gia Việt Nam lẫn Mỹ viết những cuốn hồi ký nói về ngày
đảo chánh, nhưng hầu hết đều có tính cách chủ quan và mang màu sắc đánh bóng,
chạy tội.
Vì viết về "cái
tôi" nên các chi tiết họ đưa ra chứa đầy thiên kiến, ích kỷ và cố tạo
thành một "diễn đàn" để nhục mạ đối tượng nhằm thỏa mãn tự ái và
trốn chạy mặc cảm tội lỗi. Vì không đồng ý với lề lối viết đó, nên chúng tôi
cố gắng sưu tầm và trích dịch một số dữ kiện có tính cách khả tín vì được
trình bày trùng hợp với nhau từ hơn chục quyển sách ngoại quốc. Các chi tiết
này được thâu thập từ văn khố chính phủ, từ các cuộc phỏng vấn trực tiếp, từ
các bản tự thú hữu thệ và từ các buổi điều trần tại Quốc Hội Hoa Kỳ v.v...
·
·
·
Trong tập tài liệu
này, có đề cập đến những chữ như "chính phủ Diệm", "Tổng Thống
Diệm", điều đó không nhất thiết Tổng Thống Ngô Đình Diệm là người đích
thân hay trực tiếp ra lệnh, sắp xếp, thông tường tất cả mọi sự kiện, vấn đề
đang xảy ra trong nước. Nhưng vì với chức vụ Tổng Thống, nên Tổng Thống Ngô
Đình Diệm phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về mọi hành động, lời nói của thuộc
cấp, luôn cả của ông bà Cố Vấn Ngô Đình Nhu, ông Ngô Đình Cẩn v.v...
·
·
Vì đề tài quá rộng lớn
và vô cùng phức tạp, vì chúng tôi không phải là sử gia, do đó các chi tiết
trong tập tài liệu chỉ có tính cách tóm lược mà thôi. Vì tôn trọng sự trung
thực của vấn đề, chúng tôi cố gắng giữ vai trò thật khách quan trong khi dịch
thuật, mà không suy diễn, không phân tích, không ca ngợi, không chỉ trích,
không vu cáo, không bênh vực, không lên án, không bào chữa...
·
·
Chúng tôi chỉ ước ao
những người từng chủ trương, tham dự cuộc đảo chánh năm 1963 nhân danh vì đạo
pháp, vì tự do, vì dân chủ, vì nhân quyền, vì hạnh phúc, vì độc lập dân tộc,
thì cũng xin đừng quên rằng hiện nay nơi quê nhà, Cộng Sản Việt Nam là một
tập đoàn "đảng trị", đang kỳ thị, đàn áp, bắt bớ, giam cầm các lãnh
tụ tôn giáo, đang đóng cửa, tịch thu các chùa chiền, nhà thờ, thánh thất,
đang thủ tiêu, giết chóc các nhà chính trị đối lập, đang liếm gót giày Nga,
Tàu, "đế quốc Mỹ", và đang vi phạm gấp hàng triệu lần những gì mà
quý vị đã từng hô hào xuống đường, tranh đấu.
·
·
Nếu quý độc giả cần
thêm tài liệu, hình ảnh, hay nguyên bản, xin liên lạc về:
·
Ngô Kỷ, P.O.Box 836 ,
Garden Grove , Ca 92842.
·
(714) 404-7022
Tiểu sử và sự nghiệp
tổng thống Ngô Đình Diệm
Ông Ngô Đình Diệm
sinh ngày 03 tháng 01 năm 1901 trong một gia đình có 9 người con Thân phụ là
ông Ngô Đình Khả từng phục vụ dưới triều vua Thành Thái. Ông Diệm thuộc gia
đình Công Giáo và từng có ý muốn lớn lên làm linh mục. Học trường Quốc Học
Huế và tốt nghiệp lúc 16 tuổi. Sau đó ghi danh học trường Luật và Quản Trị
của Pháp ở Hà Nội, tỏ ra là một sinh viên thông minh, xuất sắc và ra trường
đứng đầu lớp. Tốt nghiệp, ông Diệm đi làm việc ngay cho chính phủ.
Ông tiến thân rất mau
trên con đường công danh. Lần lượt ông được bổ nhậm vào các chức vụ: Quan Hậu
Bổ, Tri Huyện tỉnh Thừa Thiên, Tri Phủ tỉnh Quảng Trị, Quản Đạo
Ninh
Thuận tỉnh Phan Rang và Tuần Vũ Bình Thuận tỉnh Phan Thiết.
Là người Việt Nam ái
quốc, ông Diệm chống đối sự đô hộ của Pháp và lên án chủ nghĩa Cộng Sản, mà
theo ông đó là kẻ thù của người Việt Quốc Gia. Vì thấy ông Diệm có khả năng
và năng động, nên vào ngày 02 tháng 03 năm 1933, Vua Bảo Đại bổ nhiệm ông
Diệm nắm chức vụ Thượng Thư Bộ Lại đứng đầu nội các (tương đương với Bộ Nội
Vụ).
Ông Diệm rất thích thú
với công việc mới này, ông đưa ra một số biện pháp và chương trình cải tổ
guồng máy cai trị, nhưng bị Vua Bảo Đại và Pháp từ chối. Thất vọng và bất
mãn, ông từ chức và không giữ chức vụ gì sau đó nữa cho đến khi ông làm Thủ
Tướng vào năm 1954.
Ông Diệm sống tại nhà
của thân sinh gần Huế. Ông từ chối mọi sự mời mọc của Nhật, Việt Minh, Bảo
Đại và không tham gia vào bất cứ chính quyền nào lập sau Đệ Nhị Thế Chiến. Có
một lần ông bị Việt Minh bắt và giải đến Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh mời ông
tham gia chính phủ nhưng ông từ chối với lý do Việt Minh giết anh cả của ông.
Năm 1949, Pháp lập lên chính phủ
Bảo Đại, ông Diệm yêu cầu Vua Bảo Đại đòi Pháp nới rộng tự do cho đất
nước, nhưng bị từ chối nên ông Diệm rất thất vọng.
Năm 1951, ông Diệm qua Mỹ và sống 2
năm tại Lakehurst , New Jersey . Ông đi vòng quanh nước Mỹ để vận động độc
lập cho Việt Nam . Ông Diệm nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của Đức Hồng Y
Francis Cardinal Spellman, Phát ngôn viên của Công Giáo Hoa Kỳ, Đức Hồng Y
Richard Cardinal Cushing, Linh Mục Raymond J. de Jaegher, Thượng Nghị Sĩ
William F. Knowland, Thượng Nghị Sĩ John Kennedy, Thượng Nghị Sĩ Mike
Mansfield, Dân Biểu Walter Judd và Chánh Án Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ William
O. Douglas.
Vào năm 1954, khi có triệu chứng
Pháp thua tại Đông Dương và Cộng Sản có cơ hội chiếm Việt Nam , Hoa Kỳ quyết
định can thiệp để thay thế Pháp và cố bảo vệ miền Nam Việt Nam . Chính phủ Mỹ
muốn tìm người để ủng hộ. Lúc đó Ngoại Trưởng Mỹ John Foster Dulles biết được
ông Diệm. Với tài quản trị, ái quốc, và chống Cộng triệt để, ông Diệm lấy
được cảm tình của nhân dân Mỹ.
Vua Bảo Đại cử ông
Diệm làm Thủ Tướng. Về nước ngày 25 tháng 06 năm 1954, ông Diệm lấy làm lo
lắng và xót xa khi thấy quốc gia đang bị băng hoại, tham ô, và quan lại. Ông
phải phấn đấu và giữ sáng suốt để đương đầu trước một hoàn cảnh đầy khó khăn,
phức tạp và tế nhị khi hai cường quốc Pháp và Mỹ đang tranh giành xâu xé ảnh
hưởng tại Việt Nam .
Tổng
thống Mỹ Eisenhower tiếp đón Tổng thống Ngô Đình Diệm
trong chuyến viếng
thăm Hoa Kỳ tháng 5/1957 (Ảnh tư liệu).
Vào ngày 01 tháng 10
năm 1954, Tổng Thống Mỹ Eisenhower viết cho ông Diệm một lá thư và được Đặc
Sứ Mỹ Donald R. Heath trao vào ngày 23 tháng 10 năm 1954 với nội
dung Mỹ cam kết ủng hộ kinh tế và quân sự cho chính phủ Ngô Đình Diệm.
Những nhân vật Mỹ
chính yếu đứng sau lưng ông Diệm thời đó là Giám Đốc Cơ Quan Trung Ương Tình
Báo (CIA) Đại Tá Không Quân Edward G. Landsdale và Tướng J. Lawton
"Lightning Joe" Collins, Đặc Sứ của Tổng Thống Eisenhower đặc trách
miền Nam Việt Nam.
Ngày 23 tháng 10 năm
1955, ông Diệm tổ chức cuộc trưng cầu dân ý. Ông Diệm đạt 98.2% phiếu thắng
Vua Bảo Đại, và ông Ngô Đình Diệm trở thành Tổng Thống đầu tiên của miền Nam
Việt Nam.
Trong 9 năm thăng trầm của lịch sử,
có những lúc Tổng Thống Diệm phải đương đầu với ý muốn bành trướng quân đội
Mỹ tại Việt Nam . Vì muốn có chủ quyền và khỏi mất chính nghĩa, nên Tổng
Thống Diệm mạnh mẽ chống lại việc đưa lính "tác chiến" Mỹ vào Việt
Nam, ông chỉ nhận viện trợ và cho phép Cố Vấn Mỹ vào Việt Nam mà thôi, sự kiện
này đã sinh ra bất đồng giữa hai chính phủ.
Lyndon Baines Johnson, President
Ngo Dinh Diem of South Vietnam, and Frederick Nolting, US ambassador to SV,
at Independence Palace May 12 1961
Sau những chua cay
ngọt bùi, khó khăn, nguy hiểm, vinh nhục trong chức vụ Tổng Thống, sự nghiệp
và sinh mạng của Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã kết thúc vào năm 1963, mà bắt
nguồn từ biến cố Phật Giáo ngày 08 tháng 05 năm 1963 tại Huế.
Diễn biến đưa đến đảo
chánh
Ngày 05 tháng 05 năm
1963, thành phố cổ kính Huế treo đầy cờ và khẩu hiệu để mừng Đức Giám Mục Ngô
Đình Thục, bào huynh của Tổng Thống Diệm. Trong số cờ đó có cờ của Giáo Hội
Công Giáo Vatican tức cờ nửa vàng nửa trắng và hình Đức Giáo Hoàng. Biểu
tượng này được nhìn như là Tòa Thánh Vatican công nhận miền Nam và đạo Công
Giáo tại Việt Nam , xóa đi hình ảnh đô hộ của Pháp Quốc lâu nay.
Ngày 08 tháng 05 năm
1963, Phật tử tại Huế treo cờ Phật Giáo để mừng Đại Lễ Phật Đản thứ 2.507,
nhưng chính quyền không cho phép. Vì tức giận, tối đó một số Phật tử kéo đến
biểu tình tại đài phát thanh để phản đối chính quyền. Trong khi xô xát, một
quả bom nhỏ hay một trái lựu đạn phát nổ, tình hình hổn loạn. Kết quả có 9
người chết, trong đó có một trẻ em, và 20 người khác bị thương.
Chính quyền quy kết
Cộng Sản trà trộn đặt chất nổ giết người để gây xáo trộn. Phía biểu tình kết
án Thiếu Tá Đặng Sỹ ra lệnh nổ súng giết người biểu tình. Theo lời kể của ông
Lãnh Sự Mỹ tại Huế: "Lính chính quyền hốt hoảng vì tiếng nổ và la hét
của đám biểu tình nên xả súng bắn vào đám biểu tình". Ông John Mecklin,
Phát ngôn viên tòa Đại Sứ tuyên bố: "Cấm treo cờ Phật Giáo trong ngày
Phật Đản không khác chi đi cấm người Mỹ hát nhạc mừng trong ngày Chúa Giáng
Sinh". Cũng có tin cho rằng chính phủ Tổng Thống Diệm không cho phép treo cờ Phật Giáo
lớn hơn và ngang hàng với cờ Quốc Gia Việt Nam vì đó là theo luật lệ của
chính phủ đã có từ lâu, chứ không phải là cấm treo cờ Phật Giáo.
Vào thời điểm này,
Phật giáo có khoảng 10.5 triệu người, và Công Giáo có khoảng 1.5 triệu người
Hôm sau, ngày 09 tháng
05 năm 1963, hơn 10 ngàn người kéo đến nhà Tỉnh Trưởng Huế biểu tình và đòi
hỏi 5 điểm:
1. Hủy bỏ lệnh cấm
treo cờ Phật Giáo.
2. Phật Giáo được
quyền bình đẳng như Công Giáo.
3. Không được đàn áp
Phật Giáo.
4. Phật Giáo được
quyền thờ phượng tôn giáo của mình.
5. Chính quyền phải
bồi thường cho các gia đình nạn nhân, và phải trừng trị các người có trách
nhiệm trong vụ bắn chết người trong ngày 08 tháng 05 năm 1963.
Ngày 15 tháng 05 năm
1963, phái đoàn Phật Giáo gồm 8 người từ Huế vào Sài Gòn trình kiến nghị cho
Tổng Thống Diệm. Tổng Thống Diệm đồng ý hầu hết các yêu sách, và hứa sẽ điều
tra. Tuy nhiên Tổng Thống Diệm không chịu bồi thường cho các gia đình nạn
nhân vì sợ Phật Giáo làm tới. Nhưng tuần sau Tổng Thống Diệm đổi ý, không
chịu nhượng bộ Phật Giáo, sự kiện này làm Phật Giáo bất mãn.
Ngày 28 tháng 05 năm
1963, Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết, Lãnh Đạo Phật Giáo Việt Nam lên tiếng kêu
gọi biểu tình. Tại Huế, hàng ngàn tăng ni xuống đường
Tại Sài Gòn hàng trăm
tăng ni biểu tình và tuyệt thực 48 giờ trước Quốc Hội. Đại Sứ Mỹ Frederick E. Nolting
vắng mặt tại Sài Gòn, Bộ Ngoại Giao Mỹ Mỹ chỉ thị ông Phó Đại Sứ William C.
Trueheart (Deputy Chief of Mission ) giải quyết.
Ngày 02 tháng 06 năm
1963, tại Huế, 500 sinh viên biểu tình chống chính quyền kỳ thị. Biến thành
bạo động, cảnh sát dùng chó, lựu đạn cay tấn công đoàn biểu tình, 67 sinh
viên bị thương phải vào bệnh viện. Chính quyền ra lệnh giới nghiêm Huế và cho
cảnh sát, công an kiểm soát đường phố.
Để tránh đụng chạm,
Tổng Thống Diệm thải hồi 3 viên chức có trách nhiệm vụ bắn chết người biểu
tình ngày 08 tháng 05 năm 1963, trong đó bị thải hồi có Thiếu Tá Đặng Sỹ.
Chính quyền lên tiếng xin lỗi Phật Giáo, nói là các nhân viên chính quyền đã
thiếu tế nhị khi hành xữ công tác và hứa sẽ cho một phái đoàn chính phủ tiếp
xúc với Phật Giáo để bồi thường các gia đình nạn nhân.
Ngày 04 tháng 06 năm
1963, Phó Đại Sứ Trueheart gặp Ông Nguyễn Đình Thuần, Bộ Trưởng Phủ Tổng
Thống để yêu cầu giải quyết. Phật Giáo có gặp nhưng hai bên bất đồng ý kiến.
Ngày 07 tháng 06 năm
1963, bà Ngô Đình Nhu tức bà Trần Lệ Xuân ca ngợi tổ chức Phụ Nữ Liên Đới và
lên án những vị lãnh tụ Phật Giáo do Cộng Sản giật dây.
Sáng ngày 11 tháng 06
năm 1963, Phát ngôn viên của Phật Giáo thông báo cho các phóng viên, ký giả
Mỹ biết sẽ có một biến cố quan trọng sẽ xảy ra tại ngã tư Lê Văn Duyệt và
Phan Đình Phùng thành phố Sài Gòn. Hàng ngàn tăng ni, phật tử đứng chung
quanh, HòaThượng Thích Quảng Đức 73 tuổi ngồi bình thản tự thiêu bằng xăng.
Chính quyền tuyên truyền rằng Hòa Thượng Thích Quảng Đức ngồi bình tỉnh
là do bị chích ma túy nên không biết nóng.
Bà Ngô Đình Nhu tuyên
bố về cái chết của Hòa Thượng Thích Quảng Đức: "Tất cả cái mà các vị
lãnh đạo Phật Giáo đóng góp vào quốc gia này là đi nướng một vị tăng
(barbecue)".. Chính quyền Tổng Thống Diệm cho rằng việc tự thiêu là do
Cộng Sản sắp đặt, và chính Đại Sứ Mỹ Nolting cũng ủng hộ lời giải thích này,
ông nói: "Theo tôi nghĩ, đây là do Việt Cộng. Động lực thúc đẩy việc này
là do chính trị chứ không phải do vấn đề tín ngưỡng.".
Cái chết của Hòa
Thượng Thích Quảng Đức là ngọn lửa châm ngòi cho Phật Giáo đấu tranh kịch
liệt và mạnh mẽ hơn. Hình ảnh tự thiêu đã gây xúc động nhân dân, chính phủ Mỹ
và toàn thế giới. Chính phủ Mỹ lên án Tổng Thống Diệm. Bộ Ngoại Giao Mỹ chỉ
thị Phó Đại Sứ Trueheart bí mật tiếp xúc với Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ
để báo tin cho biết là Mỹ sẽ ủng hộ Phó Tổng Thống Thơ nếu Tổng Thống Diệm ra
đi.
Vì thấy Đại Sứ Mỹ
Nolting quá thân với Tổng Thống Diệm, nên Tổng Thống Kennedy tuyên bố thay
thế Đại Sứ Nolting bằng tân Đại Sứ Henry Cabot Lodge trong khi Đại Sứ Nolting
đang đi Âu Châu mà không thông báo cho ông biết.
Đại Sứ Nolting chỉ
được biết qua đài phát thanh mà thôi. Tức bực, Đại Sứ Nolting phát biểu:
"Tôi nói thẳng là tôi nghĩ có một số người có thế lực tại Bộ Ngoại Giao,
họ là những người rất vui mừng khi thấy tôi phải ra đi bởi vì họ muốn cho ông
Diệm thật nhiều sợi dây thừng để ông tự treo cổ ông ta. Có một chiến dịch đạp
đổ ông Diệm làm tôi nghĩ rằng nó phát xuất từ các ông Thứ Trưởng Averrell Harriman,
Roger Hilsman và một số viên chức trong Tòa Bạch Ốc. Điều đó đi ngược lại sự
cố vấn của CIA. Tôi muốn các điều tôi nói đây được ghi vào hồ sơ".
Sau này, Tướng
Maxwell D. Taylor, từng là Chủ Tịch Liên Quân Hoa Kỳ (Tổng Tham Mưu Trưởng)
thời đó kể lại là Ban Cố Vấn của Tổng Thống Kennedy chia làm 2 phe: một phe
thì muốn lật đổ Tổng Thống Diệm vì nói là "không thể thắng Cộng Sản nếu
còn Tổng Thống Diệm", còn phía ủng hộ Tổng Thống Diệm mà trong đó có
Tướng Taylor thì nói là "có thể chúng ta không thể thắng Cộng Sản nếu đi
với Tổng Thống Diệm, nhưng nếu không đi với Diệm thì đi với ai?" Mọi
người đều im lặng, không ai trả lời được câu này.
Ngày 16 tháng 06 năm
1963, Ủy Ban Chính Phủ và Phật Giáo ký bản Thông Cáo Chung, đồng ý thỏa mãn
các đòi hỏi của Phật Giáo, nhưng lại không nhận trách nhiệm. Báo chí Mỹ, đài
VOA chỉ trích chính quyền Tổng Thống Diệm. Phật Giáo thay thế Hòa Thượng
Thích Tịnh Khiết bằng Thượng Tọa Thích Trí Quang lãnh đạo cuộc đấu tranh.
Theo báo cáo của CIA, Thượng Tọa Thích Trí Quang là người Bắc, sinh năm 1922,
là "một người khôn lanh, thâm hiểm, không tình cảm, có mưu đồ chính trị
và đầy tham vọng lãnh tụ".
Thượng Tọa Thích Trí
Quang
Ngày 25 tháng 06 năm 1963,
Trưởng Phòng CIA John Richardson tại Sài Gòn (CIA Chief Station) thất bại
trong việc đứng ra điều đình giữa chính quyền Tổng Thống Diệm và Phật Giáo.
Ông Cố Vấn Nhu nói: "Các lãnh tụ Phật Giáo không bao giờ tuyên bố và
cũng không bao giờ chống Cộng Sản cả". Ông Nhu cũng chỉ trích thái độ
mềm dẽo của Tổng Thống Diệm vì làm như vậy khiến cho chính quyền khó
giải quyết vấn đề. Ông Nhu tuyên bố: "Nếu chính phủ không áp dụng luật
pháp thì chính phủ sẽ sụp đổ và tôi là người đầu tiên nghĩ như thế". Ông
Nhu hàm ý rằng trong tình trạng khẩn trương của đất nước, nếu cần, ông sẽ
đứng ra ngoài tình cảm gia đình, ông có thể chống cả chính phủ và Tổng Thống
Diệm.
Khi thấy phong trào
đấu tranh của Phật Giáo bùng nổ mạnh mẽ dưới sự chỉ đạo của Thượng Tọa Thích
Trí Quang, Tổng Thống Kennedy hỏi ông Phụ Tá Tổng Thống Michael Forrestal
rằng: "Họ là ai? Tại sao chúng ta không biết đến họ trước kia vậy?”
Những ngày cuối tháng
06 năm 1963, Phó Đại Sứ Trueheart tiếp xúc Tổng Thống Diệm hàng ngày để đòi
hỏi Tổng Thống Diệm nhượng bộ Phật Giáo. Vì thấy Tổng Thống Diệm không nghe
lời, Phó Đại Sứ Trueheart đe dọa Mỹ sẽ không ủng hộ chính phủ Tổng Thống
Diệm. Bị xúc phạm bởi những lời đe dọa của Mỹ, kể từ đây Tổng Thống Diệm tỏ
ra bất cần Mỹ, và kêu gọi dân chúng thắt lưng buộc bụng để độc lập với Mỹ.
Ngày 04 tháng 07 năm
1963, tờ báo viết bằng Anh ngữ Times of Viet Nam do ông Nhu tài trợ viết bài
tấn công Mỹ và nói Hòa Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu vì bị chích ma túy.
Tại Hoa Thịnh Đốn, các giới chức
cao cấp Bộ Ngoại Giao phúc trình Tổng Thống Kennedy biết tình trạng bất
ổn tại Việt Nam và kết tội ông Nhu phá hoại bản Thông Cáo Chung ký ngày 16
tháng 06.
Tại Hoa Thịnh Đốn,
bàn tán xôn xao về kế hoạch loại ông Cố Vấn Nhu và bà Nhu ra khỏi chính quyền..
Đại Sứ Nolting được gọi họp tại Tòa Bạch Ốc. Tại đây,ông Nolting khuyến cáo
Tổng Thống Kennedy rằng nếu đảo chánh sẽ tạo ra nội chiến, và ông Nolting hy
vọng là ông có thể thuyết phục được Tổng Thống Diệm.
Mặc dù Tổng Thống
Kennedy đã tuyên bố bổ nhiệm ông Henry Cabot Lodge thay thế ông Nolting để làm đại sứ tại Việt
Nam, nhưng Tổng Thống Kennedy lại chỉ định ông Nolting qua Sài Gòn lần nữa để
thuyết phục Tổng Thống Diệm.
Ngày 11 tháng 07 năm
1963, Đại Sứ Nolting trở lại Sài Gòn. Tuyên bố với báo chí, ông nói ông qua
lần này nhằm thuyết phục Tổng Thống Diệm thay đổi lập trường. Ông khuyến
khích Tổng Thống Diệm lên đài phát thanh để nhận lỗi về việc tranh chấp với
Phật Giáo.
Ngày 18 tháng 07 năm
1963, Đại Sứ Nolting dành cả ngày thuyết phục, khuyến khích, yêu cầu và ngay
cả đe dọa Tổng Thống Diệm, tuy nhiên không đạt được gì khả quan cả, trừ việc
Tổng Thống Diệm đồng ý lên đài phát thanh để hứa "cộng tác" chặt
chẽ với Phật Giáo. Vụ tự thiêu lần thứ hai xảy ra.
Ngày 19 tháng 07 năm
1963, Tổng Thống Diệm nói trên đài phát thanh chỉ 2 phút. Với giọng nói
lạnhlùng, Tổng Thống Diệm hứa hẹn rất ít, yêu cầu mọi người kính trọng chức
vụ Tổng Thống của ông, và hứa sẽ chỉ định một Ủy Ban Chính Phủ khác điều tra
các khiếu nại của Phật Giáo. Dù vậy, cảnh sát vẫn tiếp tục bao vây các chùa
chiền bằng dây kẽm gai.
Ngày 05 tháng 08 năm
1963, tại Phan Thiết, sư Nguyên Hương tự thiêu bằng xăng.
Ngày 13 tháng 08 năm
1963, một vị sư ở Huế quấn cờ Phật Giáo tự thiêu.
Tại Ninh Hòa, một ni
cô ngồi tại nhà thờ Công Giáo tự thiêu.
Ngày sau đó, một vị sư
71 tuổi tự thiêu trong sân chùa Từ Đàm Huế.
Vì phong trào Phật
Giáo đấu tranh mạnh tại Huế và Nha Trang, nên chính quyền Tổng Thống Diệm ban
tình trạng thiết quân luật tại hai tỉnh này. Quân đội xao động, truyền đơn
rải cùng các căn cứ lính. Các quân nhân bắt đầu mang khăn quàng vào tay ủng
hộ Phật Giáo đấu tranh.
Ngày 14 tháng 08 năm
1963, Đại Sứ Nolting từ biệt Tổng Thống Diệm về Mỹ. Ông Nolting yêu cầu Tổng
Thống Diệm thỏa hiệp với Phật Giáo và muốn Tổng Thống Diệm lên tiếng phủ nhận
lời tuyên bố "đổ dầu vào lửa" của bà Nhu, cũng như muốn Tổng Thống
Diệm cho biết ai là người thực sự lãnh đạo đất nước. Nếu Tổng Thống Diệm
không thực hiện các điều kể trên thì "chính phủ Mỹ khó có thể tiếp
tục giữ tình hữu nghị như hiện tại".
Tổng Thống Diệm nói
với Đại Sứ Nolting rằng Hoa Kỳ phải nên hiểu rằng việc rối rắm này
"không phải do Phật Giáo mà cũng chẳng phải do gia đình ông tạo
nên". Tuy nhiên, có lẽ vì chỗ thân tình với ông Nolting nên Tổng Thống
Diệm hứa là sẽ đưa ra một bản Thông Cáo. Thế nhưng, trong buổi phỏng vấn ngày
sau đó, Tổng Thống Diệm lại tuyên bố: "Chính sách liên kết với Phật
Giáo của tôi không thể thực hiện được".
Chính phủ Tổng Thống
Diệm muốn đánh một ván bài chót là đàn áp Phật Giáo thật mạnh mẽ, với hy vọng
là nếu thành công thì đây là món quà đón tiếp tân Đại Sứ Henry Cabot Lodge..
Mỹ cho đây là kế hoạch của ông Cố Vấn Nhu.
Ngày 15 tháng 08 năm
1963, Đại Sứ Nolting rời Sài Gòn. Ông Nhu cảnh giác cho các tướng lãnh Việt
Nam biết chính sách Mỹ thay đổi và có thể Mỹ sẽ bỏ rơi Việt Nam . Ông trưng
dẫn bằng chứng là Mỹ vừa ký thỏa hiệp cấm thử bom nguyên tử với Liên Sô, có
nghĩa là Mỹ đi hòa hoãn với Cộng Sản.
Ngày 20 tháng 08 năm
1963, mười vị tướng lãnh yêu cầu Tổng Thống Diệm ban bố tình trạng thiết quân
luật để quân đội có thể đưa các vị tăng ni ngoài Sài Gòn trở về chùa. Tối đó,
ông Nhu tự ý hành động mà không thông báo cho các tướng lãnh. Tấn công chùa Xá
Lợi, phá cửa chính bằng súng, lựu đạn cay, bắt bớ lên xe. Tại Huế, lực lượng
an ninh dùng súng tiểu liên M1 bắn chùa Từ Đàm, bắn bể tượng Phật và tịch thu
30 ngàn mỹ kim của chùa. Gần chùa Diệu Đế, đàn bà, đàn ông, trẻ em đương đầu
với cảnh sát. Sau năm tiếng đồng hồ xô xát cho đến khi có xe tăng tới, tại
chùa có 30 người chết, 200 bị thương và chở giam 10 xe người.
Ngày 21 tháng 08 năm 1963, sau khi
Tổng Thống Diệm ban bố tình trạng thiết quân luật, ông Nhu ra lệnh Lực Lượng
Đặc Biệt (Special Forces) do Đại Tá Lê Quang Tung cầm đầu, và Cảnh Sát Dã
Chiến (Combat Police) tấn công chùa chiền. Có khoảng 2 ngàn chùa chiền bị bố
ráp trên toàn quốc và bắt giam hơn 1.400 vị tăng ni. Ít nhất có năm mươi đến
hàng trăm người bị chết. Sự kiện này đã làm cho Mỹ tại Sài Gòn cũng như Hoa
Thịnh Đốn bực tức và lên án Tổng Thống Diệm gắt gao. Tại Honolulu, ông
Nolting gặp tân Đại Sứ Lodge và một số giới chức Mỹ. Ông Nolting gởi cho Tổng
Thống Diệm một điện thư: "Đây là lần đầu tiên ông đã nuốt lời hứa với
tôi". Hết sức chịu đựng, và không còn nhẫn nại được nữa, Tổng Thống
Kennedy quyết định giao cho CIA giải quyết vấn đề.
Cũng trong ngày này, 6 giờ sáng,
đài phát thanh Sài Gòn phát thanh lời Tổng Thống Diệm nói rằng 3 tháng thương
thảo với Phật Giáo thất bại... Ông tuyên bố toàn nước đặt trong tình trạng
thiết quân luật. Binh sĩ tại Sài Gòn mặc áo giáp, mang tiểu liên, lựu đạn cay
và canh gác khắp các ngã đường, các cây cầu chính yếu. Xe Jeep trang bị súng
lớn 30 caliber tuần tiểu thành phố. Sinh viên xuống đường biểu tình bất tuân
lệnh thiết quân luật.
Bộ Trưởng Ngoại Giao Vũ Văn Mẫu từ
chức, cạo trọc đầu để phản đối Tổng Thống Diệm và xin đi Ấn Độ tu học. Tệ hại
hơn là Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Hoa Kỳ là ông Trần Văn Chương, thân sinh
của bà Trần Lệ Xuân (tức bà Nhu) từ chức và chỉ trích chính quyền Tổng Thống
Diệm là chế độ độc tài. Phái đoàn Mỹ cứu trợ phải quay trở lại Mỹ vì cảnh sát
không cho phép máy bay hạ cánh. Chính phủ Mỹ bị hiểu lầm là đứng sau vụ đàn
áp Phật Giáo.
Ngày 22 tháng 08 năm 1963, lúc 9
giờ 30 tối, tân Đại Sứ Henry Cabot Lodge đến Tân Sơn Nhất, Sài Gòn.
Đại Sứ Henry Cabot
Lodge và Tổng Thống Ngô Đình Diệm
Ngày 23 tháng 08 năm
1963, Tướng Trần Văn Đôn mời ông CIA Lucien Conein đến Bộ Tổng Tham Mưu để
nhận thư trao tận tay cho tân Đại Sứ Lodge, nói là quân đội không có nhúng
tay trong việc đàn áp Phật Giáo vừa rồi. (Ông Lucien Conein, CIA Operative,
giữ vai trò chính yếu trong việc phối hợp với các tướng đảo chánh).
Tướng Lê Văn Kim là
phụ tá của tướng Đôn và là anh em rể của tướng Đôn đòi triệt hạ ông Nhu và
yêu cầu chính phủ Mỹ lên tiếng ủng hộ thì quân đội sẽ đứng lên lật đổ chính
phủ Tổng Thống Diệm.
Bí thư của Tổng Thống
Diệm là ông Võ Văn Hải yêu cầu bảo toàn Tổng Thống Diệm nếu loại bỏ ông Nhu.
Tân Đại Sứ Lodge báo cáo về Hoa Thịnh Đốn tất cả sự kiện, nhưng ông Lodge
không ủng hộ việc loại bỏ ông Nhu. Ông Lodge khuyên nếu Mỹ ủng hộ đảo chánh
thì nên núp trong bóng tối.
Bức điện văn tố cáo
"ông Nhu đang bị dân chúng chán ghét" được gởi đến bàn ông Phụ Tá
Ngoại Trưởng Roger Hilsman. Ông Hilsman lên án ông Nhu và nói rằng nếu còn
ông Nhu thì chẳng những đưa miền Nam Việt Nam vào thảm họa, mà còn kéo theo
Mỹ xuống bùn đen nữa. Ông Thứ Trưởng Ngoại Giao Đặc Trách Chính Trị Vụ
Averell Harriman cũng đồng ý là Mỹ không nên ủng hộ chính phủ Diệm-Nhu nữa.
Ngày 24 tháng 08 năm
1963, Đại Sứ Lodge đánh điện văn cho Bộ Ngoại Giao Phụ Tá Ngoại Trưởng
Hilsman phúc đáp, chỉ thị cho tòa Đại Sứ Mỹ tại Sài Gòn tiếp xúc với các
tướng lãnh để thực hiện đảo chánh.
Trúng vào thứ bảy
cuối tuần, Tổng Thống Kennedy, Bộ Trưởng Ngoại Giao Dean Rusk, Bộ Trưởng Quốc
Phòng Robert S. McNamara không có mặt tại Hoa Thịnh Đốn, nhưng các phụ tá của
họ như ông Thứ Trưởng Ngoại Giao Harriman, và ông Phụ Tá Tổng Thống Forrestal
có mặt làm việc, với sự hỗ trợ của Phụ Tá Ngoại Trưởng Hilsman. Các người này
thảo một bức điện văn để trả lời cấp tốc cho Đại Sứ Lodge. Bức điện văn
"tối mật" ngày 24 tháng 8 năm 1963 này có nội dung như sau:
"Bộ Ngoại Giao
gởi Tòa Đại Sứ Mỹ tại Sài Gòn để thi hành ngay lập tức.
Tối Mật. Không được
phép phổ biến.
Chỉ đích thân Đại Sứ
Lodge mới được phép đọc mà thôi. Đối với CINPAC/POLAD thì chỉ Đô Đốc Felt được
phép đọc mà thôi.
Theo CAS Sài Gòn 0265
báo cáo về quan điểm của Tướng Đôn; Saigon 320, Saigon 316, Saigon 329. (Các
con số là những ký hiệu mật mã).
Bây giờ thì rõ là
hoặc quân đội đề nghị lệnh thiết quân luật hoặc ông Nhu đã lừa họ. Ông Nhu đã
lợi dụng tình trạng đó để tấn công chùa chiền bằng cảnh sát và Lực Lượng Đặc
Biệt của Đại Tá Tung trung thành với ông ta, làm cho nhân dân Việt Nam và thế
giới ngỡ lầm rằng quân đội làm. Hơn nữa, cũng thật quá rõ là ông Nhu đã âm
mưu sắp đặt ông ta vào vị trí chỉ huy.
Chính phủ Hoa Kỳ
không thể dung dưỡng tình trạng mà quyền hành lại nằm trong tay ông Nhu. Ông
Diệm phải loại bỏ ông Nhu và các thuộc hạ của ông để thay vào đó bằng quân
đội tinh nhuệ và các chính trị gia có tư cách.
Nếu ông (tức Đại Sứ
Lodge) cố gắng hết sức, nhưng ông Diệm vẫn ngoan cố và từ chối thì chúng ta
phải đối đầu với một điều có thể xảy ra, là ngay cả bản thân ông Diệm cũng
không thể tồn tại được.
Ký tên: Hilsman,
Forrestal, Ball, W.Everell Hariman." (ngưng trích)
Sau khi soạn bản điện
văn này, ông Forrestal gọi Tổng Thống Kennedy đang nghỉ cuối tuần tại Hyannis
Port , Massachusetts và đọc cho nghe. Tổng Thống Kennedy hỏi lại: "Có thể
chờ cho đến thứ Hai để có đủ người họp được không?". Ông Harriman và
Hilsman trả lời là "phải cần gởi gấp ngay bây giờ". Nghe thế, Tổng
Thống Kennedy đồng ý và bảo "hãy gởi đi". Ông Hilsman cũng gọi báo
cho Ngoại Trưởng Rusk và cũng được đồng ý cho phép gởi đi. Ông Hilsman gởi
ngay điện văn này qua Tòa Đại Sứ Mỹ tại Sài Gòn, và được coi như Mỹ "bật
đèn xanh" đảo chánh.
Bộ Trưởng Quốc Phòng
McNamara và Giám Đốc CIA McCone chưa được đọc bức điện văn trước khi gởi đi
nên rất bất mãn. Đại Sứ Lodge nhận được điện văn và gởi ngay cho ông Xếp CIA
William Colby, lúc đó đang làm Giám Đốc CIA Vùng Viễn Đông (Chief of the
CIA's Far East Division) trụ sở tại Langley Virginia. Ông Xếp CIA Colby có
quyền đọc tất cả điện văn tại trung tâm chỉ huy CIA ở Virginia .
Ngày 25 tháng 08 năm
1963, Đại Sứ Lodge báo cáo Bộ Ngoại Giao là ông đã nhận được bức điện văn,
nhưng nói "căn bản quyết định vẫn là từ Hoa Thịnh Đốn".
Ngày 26 tháng 08 năm
1963, sáng thứ Hai, các cố vấn của Tổng Thống Kennedy chia làm hai phe: Tướng
Tổng Tham Mưu Trưởng Maxwell Taylor phàn nàn Bộ Ngoại Giao quyết định làm bức
điện văn ngày 24 tháng 08 mà không hội ý các nhân vật cao cấp, tạo nên sự nghi
ngờ về mức độ thành công của việc đảo chánh. Bộ Trưởng Quốc Phòng và Giám Đốc
CIA cùng quan điểm. Giám Đốc CIA McCone cho rằng: "Tổng Thống Diệm
là người lãnh tụ xứng đáng nhất tại Việt Nam, và CIA cũng khó mà thực hiện
được tinh thần bức điện văn ngày 24 tháng 08 năm 1963". Tổng Thống
Kennedy khiển trách ông Phụ Tá Forrestel đã không chịu giữ lại bức điện văn
cho tới thứ Hai. Ông Forrestal xin từ chức nhưng Tổng Thống Kennedy muốn giữ
ông ta lại. Bộ Quốc Phòng bất đồng với Bộ Ngoại Giao nên muốn có thêm một cơ
hội nữa để thuyết phục Tổng Thống Diệm loại bỏ ông Nhu.
8 giờ sáng, đài VOA
lên tiếng chỉ trích cảnh sát của ông Nhu tấn công chùa chiền, và minh xác là
quân đội không có nhúng tay. Đài VOA cũng tuyên bố Mỹ cắt viện trợ chính phủ
Tổng Thống Diệm. Đại Sứ Lodge gọi Ngoại Trưởng Rusk phàn nàn về việc đài VOA
đi thông báo việc cắt viện trợ, vì 11 giờ sáng này Đại Sứ Lodge sẽ gặp trình
Ủy Nhiệm Thư cho Tổng Thống Diệm. Ông Ngoại Trưởng Rush gởi điện văn qua xin
lỗi ông Lodge, và đài VOA đính chính không cắt viện trợ. Trong dịp này, Đại
Sứ Lodge yêu cầu Tổng Thống Diệm loại trừ ông Nhu ra khỏi chức cố vấn, nhưng
quá trễ vì lúc này ông Nhu đã trở thành tai, mắt và là bàn tay sắt của Tổng
Thống Diệm.
Cũng trong ngày này,
ông CIA Conein tiếp xúc với Tướng Trần Thiện Khiêm tại Bộ Tổng Tham Mưu.
Tướng Khiêm khuyên ông CIA Conein tiếp xúc với Tướng Dương Văn Minh tức
"Big" Minh. Tướng Minh đang là cố vấn quân sự cho Tổng Thống Diệm,
và càng tréo cẳng ngổng nữa là ông ta cũng lại là Chủ Tịch Ủy Ban Đảo Chánh.
Trong khi đó thì ông CIA AlSpera bay lên vùng cao nguyên để gặp tướng Nguyễn
Khánh. Tướng Khánh không nêu danh tánh các tướng tham dự đảo chánh, nhưng khi
nghe nhắc đến tên tướng Khiêm thì tướng Khánh nói "chúng tôi thích
vậy".
Thứ Ba ngày 27 tháng
08 năm 1963, Tổng Thống Kennedy họp các cố vấn cao cấp lại. Có cựu Đại Sứ
Nolting tham dự. Ông Nolting không tin tưởng cuộc đảo chánh thành công vì ông
cho rằng các tướng đảo chánh không can đảm như anh em ông Diệm-Nhu, họ không
thống nhất mà lại chia rẽ, họ không có lãnh đạo thật sự và họ không có thực
lực quân đội trong tay Tổng Thống Kennedy hỏi lại ông Nolting: "Tại sao
Tổng Thống Diệm không giữ lời hứa với chúng ta? Tại sao chính quyền Tổng
Thống Diệm dùng sức mạnh đàn áp Phật Giáo? Bà Nhu hiện đang nắm chức quyền
gì?". Ông Nolting cố bào chữa cho Tổng Thống Diệm và đề nghị chính phủ
Mỹ nên cho thêm một cơ hội nữa để đòi Tổng Thống Diệm loại bỏ ông Nhu và
truất quyền bà Nhu. Ông Nolting nói với Tổng Thống Kennedy rằng: "Ông
Diệm và ông Nhu cũng giống như cặp song sinh Siamese dính nhau nên không thể
tách ra được". Ông Nolting cũng nhắc cho Tổng Thống Kennedy biết về việc
3 năm trước đây, ông Đại Sứ Mỹ Durbrow cũng đòi Tổng Thống Diệm loại bỏ ông
Nhu nhưng thất bại nên đã trở về Mỹ. Tổng Thống Kennedy mỉm cười và nói rằng:
"Nếu ông nói đúng, thì chuyến đi của Đại Sứ Lodge kỳ này sẽ là chuyến đi
ngắn nhất trong lịch sử". Cuối cùng Tổng Thống Kennedy vẫn giữ lập
trường ủng hộ bức điện văn ngày 24 tháng 08.
Tại Sài Gòn tất cả
trường học đóng cửa, ra lệnh bắt đối lập, tin tức đảo chánh loan truyền. Các
tướng đảo chánh âm thầm di chuyển các đơn vị Dù vào Sài Gòn. Có 2 đơn vị Dù
khác có thể tiến vào thủ đô trong vòng 8 tiếng đồng hồ. Chính quyền Diệm-Nhu
ra lệnh bố trí chống đảo chánh.
Người tín cẩn nhất
của chính quyền Diệm-Nhu là Tướng Tôn Thất Đính, Tư Lệnh Thủ Đô Sài Gòn.
Trong tay có 2,500 lính Dù, 1,500 lính Thủy Quân Lục Chiến, 700 Quân Cảnh...
Ngoài ra Tướng Đính có liên hệ với Sư Đoàn 5 Bộ Binh.
Chính quyền Diệm-Nhu
có Đại Tá Lê Quang Tung, chỉ huy 1,700 lính Phòng Vệ Phủ Tổng Thống, 900 lính
Lực Lượng Đặc Biệt và 700 Cảnh Sát Dã Chiến.
Ngày 08 tháng 08 năm
1963, ông CIA Conein gặp lại các tướng đảo chánh lần thứ nhì, gồm các Tướng:
Dương văn Minh, Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Khánh, Lê Văn Kim và Đại Tá Nguyễn
văn Thiệu. Các tướng muốn Mỹ chính thức ủng hộ cuộc đảo chánh bằng sự lên
tiếng của Đại Sứ Lodge.
Ông Trưởng Phòng CIA
John Richardson khuyến cáo rằng tình hình không thể thối lui. Sài Gòn bây giờ
đã biến thành một trại lính. Đây là trận đánh cuối cùng của gia đình Tổng
Thống Diệm. Ông tiên đoán rằng các tướng đảo chánh sẽ thắng, tuy nhiên phải
thuyết phục cho được Tướng Tôn Thất Đính và Đại Tá Lê Quang Tung gia nhập đảo
chính. Đảo chánh sẽ chết nhiều sinh mạng. Ông Đại Sứ Lodge ủng hộ đảo chánh
và nói rằng "nếu trễ sẽ bị thất bại". Trái với ý kiến của ông
Trưởng Phòng CIA Richardson và Đại Sứ Lodge, Tướng Paul D. Harkins, Tư Lệnh
Quân Đội Mỹ tại Việt Nam nghi ngờ khả năng các tướng đảo chánh. Ông khuyên Mỹ
nên đứng ngoài cuộc đảo chánh.
Tại Hoa Thịnh Đốn, Hội
Đồng An Ninh Quốc Gia họp ủng hộ đảo chánh. Cựu Đại Sứ Nolting phản đối nói
rằng: "Nếu Mỹ bỏ rơi hai ông Diệm-Nhu tức là Mỹ đã nuốt lời cam kết
trong quá khứ". Thứ Trưởng Ngoại Giao Harriman chống lại ý kiến ông
Nolting, và chỉ trích ông Nolting đã không phục vụquyền lợi nước Mỹ trong
thời gian ông làm đại sứ tại Việt Nam .. Tổng Thống Kennedy phân vân, nhưng
cuối cùng đồng ý ủng hộ cuộc đảo chánh, tuy nhiên ông muốn trao quyền quyết
định cho Đại Sứ Lodge. Tổng Thống Kennedy nói với ông Lodge: "Tôi tin là
ông sẽ không ngại ngùng khi đưa ra quyết định đình hoãn hay thay đổi kế hoạch
đảo chánh nếu ông nghĩ là cần thiết".
Bây giờ, Ngoại Trưởng
Rusk tự tay gởi điện văn cho Đại Sứ Lodge, chỉ thị mọi cách phải loại bỏ cho
được ông bà Nhu ra khỏi chính quyền. Khoan cắt đứt viện trợ mà hãy chờ cho
đến khi nào các tướng sẵn sàng đảo chánh. Sợ rằng nếu Tổng Thống Diệm biết
được thì Tổng Thống Diệm sẽ kêu gọi Bắc Việt ủng hộ để đánh đuổi Mỹ.
Ngày 29 tháng 08 năm
1963, Tổng Thống Kennedy gởi điện văn cho Đại Sứ Lodge: "Tôi chấp thuận
tất cả những điều đề cập trong cái điện văn mà những vị khác gởi cho ông (tức
bức điện văn "tối mật" ngày 24 tháng 8), và tôi ủng hộ các điều đó
hết mình. Chúng tôi sẽ cố gắng làm hết sức để có thể giúp ông hoàn thành sứ
mạng này một cách mỹ mãn. Cho đến khi các tướng lãnh ra tay, tôi xin được
dành cái quyền thay đổi kế hoạch hay đảo ngược chỉ thị vào giờ chót. Tôi hoàn
toàn nhận hết trách nhiệm về bất cứ sự thay đổi nào, và tôi cũng chịu hoàn
toàn trách nhiệm về kế hoạch này và hậu quả của nó".
Tại Sài Gòn, Chánh
Phòng CIA Richardson và ông CIA Conein nhận điện văn của tướng Cố Vấn Quân Sự
Tổng Thống Taylor từ Hoa Thịnh Đốn, đòi phải "suy nghĩ lại" việc
ủng hộ đảo chánh. Vì 10 giờ sáng phải gặp lại Tướng Minh, do đó ông Chánh
Phòng CIA Richardson ra lệnh cho ông CIA Conein không được tuyên bố gì mà chỉ
đến nghe và về trình lại ý kiến của Tướng Minh thôi.
Tướng Minh đòi hỏi Mỹ
phải chứng tỏ việc ủng hộ các tướng lãnh đảo chánh, bằng cách tuyên bố Mỹ cắt
viện trợ kinh tế cho chính phủ Diệm. Đại Sứ Lodge điện về Ngoại Trưởng Rusk
nói là quá trễ để mà suy nghĩ lại, ông nói: "Chúng ta đã bước sâu quá
rồi nên không thối lui được, hãy dồn mọi nỗ lực ủng hộ các tướng đảo chánh
ngay". Đại Sứ Lodge xin phép để Tướng Harkins tiếp xúc với các tướng đảo
chánh và cũng yêu cầu Mỹ cắt viện trợ kinh tế chính phủ Diệm để các tướng đảo
chánh tin tưởng có Mỹ ủng hộ. Cùng ngày, Tòa Bạch Ốc cho phép Tướng Harkins
tiếp xúc các tướng đảo chánh và cho phép Đại Sứ Lodge cắt đứt viện trợ kinh
tế chính phủ Diệm.
Tổng Thống Kennedy
gởi thư riêng cho Đại Sứ Lodge nói rằng Tổng Thống Kennedy ủng hộ các kế
hoạch đảo chánh của ông Lodge. Tuy nhiên Tổng Thống Kennedy không đồng ý với
ông Lodge về việc ông Lodge nói là "không thể thối lui được". Tổng
Thống Kennedy nhắc Đại Sứ Lodge về kinh nghiệm đau thương tại Vịnh Con Heo ở
Cu Ba. Tổng Thống Kennedy nói: "Kinh nghiệm dạy tôi rằng sự thất bại
mang lại cái tệ hại nhiều hơn là việc đi thay đổi quyết định...Khi chúng ta
làm, chúng ta phải thắng, nhưng nếu cần phải thay đổi quyết định thì cũng
phải nên thay đổi, hơn là để thất bại".
Thứ Sáu, ngày 30
tháng 08 năm 1963, Tổng Thống Kennedy lo có cảnh tắm máu tại Sài Gòn. Ông đưa
ra kế hoạch dự trù di tản gần 5,000 cư dân Mỹ tại Việt Nam . Một tàu chiến
chở trực thăng, tàu tấn công, tàu destroyer nằm sẵn tại ven biển Việt Nam .
Tại Okinawa, có 3,000 Thủy Quân Lục Chiến ứng trực 100%. Tại Bộ Ngoại Giao,
Phụ tá Ngoại Trưởng Hilsman báo cáo lên Ngoại Trưởng Rusk rằng có thể trận
đánh đảo chánh kéo dài quá lâu, và nếu vậy thì quân đội Hoa Kỳ phải nhảy vô
vòng chiến để ủng hộ phe đảo chánh cho thành công.
Ngày 31 tháng 08 năm
1963, Tướng Minh thông báo cho Tướng Harkins biết là kế hoạch đảo chánh phải
"trì hoãn".. Các tướng đảo chánh sợ sự thân thiết giữa Chánh Phòng
CIA Richardson với Tổng Thống Diệm sẽ làm bại lộ kế hoạch đảo chánh. Tướng Harkins
mời Tướng Minh đến cơ quan MACV, và hứa là Mỹ ủng hộ các tướng đảo chánh..
Tướng Khiêm thông báo cho Tướng Minh biết ý kiến của Mỹ.
Ngày hôm sau, Tướng
Khiêm lại gặp Tướng Harkins. Tướng Minh lo hoạch định kế hoạch đảo chánh.
Tướng Khiêm thì cho biết là các tướng không có đủ sức thắng lực lượng trung
thành Tổng Thống Diệm. Lực lượng lính Bộ Binh sẽ không tham dự đảo chánh nếu
không đánh tới cùng. Tướng Harkins và ông Chánh Phòng CIA Richardson báo cáo
thẳng về Hoa Thịnh Đốn nói là kế hoạch đảo chánh bất thành. Đại Sứ Lodge
than: "Không có ai, không có tổ chức nào trong đám tướng lãnh này làm
nên trò trống gì cả". Tin tức các tướng bỏ cuộc đảo chánh khiến cho Tổng
Thống Kennedy và các cố vấn tại Tòa Bạch Ốc hoang mang.
Đầu tháng 9 năm 1963,
Tổng Thống Kennedy chỉ định Bộ Trưởng Quốc Phòng Robert McNamara qua Việt Nam
. Tháp tùng có một số cố vấn cao cấp trong đó có Phụ Tá Bộ Trưởng Quốc Phòng
William Bundy. Tại Việt Nam có 800 học sinh bị bắt nhốt.
Ngày 02 tháng 09 năm
1963, Tổng Thống Kennedy trả lời câu phỏng vấn của Walter Cronkite trên đài
CBS rằng Mỹ vẫn tiếp tục ủng hộ miền Nam Việt Nam, nhưng ông nói tiếp:
"Tôi không nghĩ là có thể thắng chiến tranh được trừ khi họ được nhân
dân ủng hộ. Và theo ý tôi, trong 2 tháng qua chính phủ Diệm đã quá xa rời
quần chúng".
Phụ Tá Ngoại Trưởng
Hilsman suy diễn lời chỉ trích trực tiếp và công khai này của Tổng Thống
Kennedy rằng sẽ có một cuộc đảo chánh, nhưng không biết bao giờ xảy ra. Dù
vậy, các tướng đảo chánh vẫn án binh bất động. Cùng ngày, phe ông Nhu viết
bài trên báo Times of Viet Nam lên án Mỹ ủng hộ đảo chánh.
Ông Xếp CIA Colby
nói: "Ý họ muốn khuyên chúng ta nên đứng ngoài". Bà Nhu viết bài
chửi Mỹ. Bà xưng bà là người cứu tinh cho miền Nam Việt Nam, và bà còn tố cáo
Mỹ và Cộng Sản giật dây Phật Giáo biểu tình làm loạn. Bà tố cáo Đại Sứ Lodge
mưu sát bà Để trả thù, em bà Nhu là ông Trần Văn Khiêm lập một danh sách ám
sát lại người Mỹ. Trong cuộc phỏng vấn với ký giả Úc Denis Warner, ông Khiêm
tiết lộ các người Mỹ nằm trong danh sách bị ám sát đó có tên ông Chánh Phòng
CIA Sài Gòn Richardson, ông CIA Conein và Phát Ngôn Viên Tòa Đại Sứ John
Mecklin. Tình cảm giữa Việt Nam và Hoa Kỳ căng thẳng và tồi tệ trầm trọng.
Ông Bà Cố Vấn Ngô Đình Nhu
Trong thời điểm này,
Hoa Thịnh Đốn bất mãn việc Pháp đứng làm trung gian giải quyết chiến tranh
Việt Nam . Đại Sứ Pháp đến miền Nam Việt Nam thảo luận bí mật với Hồ Chí Minh
và Tổng Thống Diệm qua trung gian của người Ba Lan tên Mieczyslaw Maneli,
thành viên Polish Member of the International Control Commission, cơ quan này
được thiết lập để quan sát Hiệp Định Genève. Trong suốt nhiều tháng, Maneli
qua lại Sài Gòn - Hà Nội nhiều lần để tìm giải pháp thương thảo. Vào tháng 07
năm 1963, Bắc Việt đồng ý căn bản là lập chính phủ Liên Hiệp cầm đầu bởi Tổng
Thống Diệm để miền Nam trở thành trung lập. Họ muốn Mỹ phải rút quân..
10 giờ 30 sáng ngày 6
tháng 9 năm 1963, tại buổi họp trong Tòa Bạch Ốc, Bộ Trưởng Tư Pháp Robert
Kennedy, tức bào đệ của Tổng Tống John Kennedy nêu ra các câu hỏi: "Liệu
có thắng hai ông Diệm-Nhu? Liệu ông Nhu có bị ông Diệm loại bỏ? Phải xử sự ra
sao nếu không thể thắng ông Diệm được?". Cuối cùng ông Robert Kennedy đề
nghị phải cứng rắn với Tổng Thống Diệm và cắt đứt viện trợ. Bộ Trưởng Quốc
Phòng trả lời là không có cái tin tức nào chính xác cả. Tướng Taylor đề nghị
cử Tướng Victor Krulak đi Việt Nam . Bộ Ngoại Giao cử ông Joseph A.
Mendenhall tháp tùng.
6 giờ sáng ngày 08
tháng 09 năm 1963, hai viên chức này đến Việt Nam . Tướng Krulak phỏng vấn 80
cố vấn Mỹ luôn cả các viên chức cao cấp. Nhà Ngoại Giao Mendenhall lại dành
thì giờ đi Sài Gòn, Huế, Đà Nẳng để thăm viếng một số bạn bè cũ.
Ngày 09 tháng 09 năm
1963, hai vị này trở về Hoa Thịnh Đốn phúc trình lại cho Tổng Thống Kennedy.
Tướng Krulak báo cáo là "tinh thần chiến đấu cao và tốt. Việc xáo trộn
chính trị không ảnh hưởng gì đến việc đánh giặc. Dân chúng ghét ông Nhu thôi
chứ không ghét Tổng Thống Diệm". Trái lại, nhà ngoại giao Mendenhall thì
báo cáo là "chính phủ Diệm bị dân chúng chán ghét, chế độ sắp sụp đổ, và
không thể chiến thắng Cộng Sản được nếu còn Diệm-Nhu". Nghe xong hai báo
cáo, Tổng Thống Kennedy ngơ ngẫn vì hai báo cáo hoàn toàn trái ngược nhau,
khiến T.T. Kennedy phải hỏi: "Có phải là hai vị đã đến cùng một quốc gia
không vậy?" Tuy vậy, Tổng Thống Kennedy ra lệnh cho các cố vấn nghiên
cứu việc cắt viện trợ kinh tế Việt Nam .
Ngày 11 tháng 09 năm
1963, Tổng Thống Kennedy lại nói chưa thể cắt viện trợ chính phủ Diệm. Không
được đảo chánh. Tổng Thống Kennedy muốn thuyết phục Tổng Thống Diệm loại bỏ
ông Nhu khỏi chính quyền...
Ngày 17 tháng 09 năm
1963, Hội Đồng An Ninh chỉ thị Đại Sứ Lodge hòa hoãn với Tổng Thống Diệm,
nhưng bằng mọi cách thuyết phục Tổng Thống Diệm loại bỏ ông Nhu. Đại sứ Lodge
rất bất mãn vì lệnh này, ông muốn đảo chánh Diệm và cắt đứt viện trợ. Đại Sứ
Lodge liên lạc với Tướng Minh bàn việc đảo chánh. Hội Đồng An Ninh muốn tìm
một giải pháp khác. Bộ Trưởng Quốc Phòng McNamara và Tướng Tổng Tham Mưu
Trưởng Taylor qua Việt Nam để nhìn tận mắt tình hình Phật Giáo, và nếu cần
thì phải áp lực Tổng Thống Diệm. Tháp tùng trong chuyến đi có ông Xếp CIA
Colby, đại diện Tòa Bạch Ốc Forrestal, đại diện Bộ Ngoại Giao William
Sullivan và Phụ Tá Bộ Trưởng Quốc Phòng P. Bundy.
Trước khi trở lại Hoa
Thịnh Đốn, Bộ Trưởng Quốc Phòng McNamara, Tướng Taylor và Tướng Harkins ghé
thăm Tổng Thống Diệm tại Dinh Gia Long. Tổng Thống Diệm hút thuốc liên miên
và chỉ tay vào bản đồ để khoe thành tích tiến triển tốt đẹp. Ông McNamara
nhắc Tổng Thống Diệm về các xáo trộn chính trị và tình hình nguy ngập. Tổng
Thống Diệm không đồng ý và bào chữa rằng đó là do báo chí xuyên tạc làm người
Mỹ hiểu lầm. Tổng Thống Diệm phàn nàn các học sinh nông nổi, thiếu giáo dục
và không hiểu trách nhiệm nên gây rối trật tự, do đó không có giải pháp nào
hơn là tống giam họ. Tổng Thống Diệm thú nhận đã để xáo trộn là vì ông
"quá nhẹ tay và đối xử quá tốt với Phật Giáo".
Tổng Thống Diệm lên án
Mỹ ủng hộ đảo chánh. Vì trước khi đi, Tổng Thống Kennedy đã ra lệnh các nhân
viên đừng có ý kiến gì về vấn đề này nên mọi người đều nín thinh. Bộ Trưởng
McNamara hỏi tại sao chính phủ không cải chính những lời tuyên bố "ồn
ào" của bà Nhu, và nhắc đến việc bà Chiang Kai-shek lạm quyền nên đẩy
nước Tàu vào tay Cộng Sản. Tổng Thống Diệm biện minh rằng "bà Nhu là một
dân biểu, nên bà có quyền phát biểu theo ý của bà. Người Mỹ phải thông cảm
cho bà vì bà bị báo chí truyền thông tấn công và xuyên tạc bà với đầy ác
ý". Phái đoàn không lấy làm thỏa mãn về thái độ của Tổng Thống Diệm.
Ngày 02 tháng 10 năm
1963, phái đoàn trở về Hoa Thịnh Đốn báo cáo tình hình với Tổng Thống
Kennedy: "Về lãnh vực quân sự tốt, nhưng sự tai tiếng chính trị của hai
ông Diệm-Nhu sẽ làm xấu đi" Thảo kế hoạch cắt viện trợ chương trình
Commodity Import Program, đó là chương trình viện trợ kinh tế giúp Việt Nam
40% số lượng nhập cảng của quốc gia, và sinh ra một số ngân quỹ lớn cho quân
đội. Tổng Thống Kennedy tuyên bố giờ phút này các cố vấn trong chính phủ ông
không còn có những ý kiến dị biệt nữa.
Tướng Trần Văn Đôn gặp
lại bạn cũ là ông CIA Conein tại Tân Sơn Nhất. Rồi lại hẹn gặp nhau lại tại
Nha Trang, hai trăm dặm cách Sài Gòn. Phó Đại Sứ Trueheart ra lệnh ông CIA
Conein không được tuyên bố gì cả, chỉ lấy tin tức mà thôi.
Tại Nha Trang, Tướng
Đôn công bố đảo chánh. Điều đặc biệt và quan trọng trong buổi họp này là có
sự tham dự của Tướng Tôn Thất Đính. Tướng Tôn Thất Đính khoe rằng ông là
người cứu Tổng Thống Diệm thoát khỏi cuộc đảo chánh tháng 8, từng cứu Tổng
Thống Diệm thoát khỏi các vụ đụng đầu với Phật Giáo, Cộng Sản v.v... Vì những
công lao đó nên Tướng Đính xin Tổng Thống Diệm trả ơn bằng cách bổ nhiệm ông
làm Bộ Trưởng Nội Vụ, nhưng bị Tổng Thống Diệm từ chối nên Tướng Đính sinh ra
thù vặt và bất mãn Tổng Thống Diệm. Tướng Đôn biết được tình cảnh ấm ức này
nên đã tìm cách chiêu dụ Tướng Đính gia nhập đảo chánh. Tướng Đôn đề nghị ông
CIA Conein gặp riêng với Tướng Minh.
Ngày 05 tháng 10 năm
1963, ông CIA Conein gặp Tướng Minh tại Sài Gòn, nói chuyện bằng tiếng Pháp.
Tướng Minh đưa ra các điểm:
- Phải biết lập trường
của Mỹ có ủng hộ chính phủ mới tương lai không?
- Không đòi hỏi Mỹ ủng
hộ đảo chánh, nhưng Mỹ đừng cản đường.
- Muốn Mỹ tái viện trợ
kinh tế và quân sự cho chính phủ mới.
Tướng Minh đưa ra các
kế hoạch giết ông Nhu và giết ông Ngô Đình Cẩn, bao vây Sài Gòn bằng lính,
đánh thẳng vào phòng tuyến bảo vệ Phủ Tổng Thống. Ông CIA Conein không có ý
kiến. Tướng Minh hẹn sẽ gặp lại.
Hoa Thịnh Đốn biết tin
nên vừa háo hức mà vừa hồi hộp... Tổng Thống Kennedy nói với Đại Sứ Lodge
rằng chính phủ Mỹ không muốn giật dây cuộc đảo chánh này, nhưng cũng không
muốn bị hiểu lầm là cản trở đảo chánh hay từ chối viện trợ kinh tế và quân sự
cho chính quyền mới. Điều quan tâm lớn nhất của Hoa Thịnh Đốn là rủi cuộc đảo
chánh thất bại thì Mỹ sẽ bị cáo buộc là cấu kết với đám đảo chánh chủ mưu
phản loạn. Tòa Bạch Ốc ra lệnh Đại Sứ Lodge phải cẩn thận và làm sao để mà
"có thể chối được". Các báo cáo liên quan đến tình hình đảo chánh
phải báo cáo riêng, không được báo cáo chung với bản báo cáo thường nhật của
Tòa Đại Sứ. Phải báo cáo riêng và báo cáo về Hoa Thịnh Đốn phải dùng qua ngã
CIA, chứ đừng qua ngã lỏng lẻo Bộ Ngoại Giao. Hơn nữa, chỉ có Đại Sứ Lodge
mới được quyền chỉ thị CIA hành động và chỉ thị bằng khẩu lệnh mà thôi. Đại
Sứ Lodge nói với ông CIA Conein: "Nếu có gì trục trặc, tôi sẽ chối tuốt
luốt".
Biết Tướng Minh chống
Tổng Thống Diệm, Mỹ tuyên bố cắt viện trợ Tổng Thống Diệm, hứa ủng hộ tân
chính phủ. Muốn chứng tỏ Mỹ ủng hộ các tướng đảo chánh, Mỹ triệu hồi ông
Trưởng Phòng CIA Richardson về Mỹ vì cho rằng ông này thân thiện với Tổng
Thống Diệm.
Ngày 05 tháng 10 năm
1963, Ông Giám Đốc CIA tại Mỹ McCone phản đối kế hoạch giết ông Nhu và muốn
đứng ngoài cuộc đảo chánh. Tuy nhiên vẫn muốn theo dõi kế hoạch đảo chánh.
Ông CIA Conein gặp Tướng Minh nói là Mỹ chống ám sát, do đó Tướng Minh nói:
"Nếu quý vị không thích thì chúng tôi sẽ không đề cập đến nó nữa".
Tướng Minh muốn biết quan điểm của Mỹ nếu có cuộc đảo chánh "sắp tới đây".
Ông CIA Conein liên lạc với Đại Sứ Lodge và trả lời "bảo đảm ủng hộ
chính phủ tương lai". Từ lúc này, ông CIA Conein biết là nhân vật
mà ông cần liên lạc thường xuyên chính là Tướng trẻ Trần Văn Đôn. Có những
cuộc tiếp xúc thường xuyên giữa CIA và các tướng đảo chánh.
Ngày 17 tháng 10 năm
1963, Mỹ báo cho chính phủ Diệm biết là viện trợ Lực Lượng Đặc Biệt của ông
Nhu chỉ được tiếp tục nếu được chỉ huy bởi quân đội. Tướng Đôn gặp Đại Sứ
Lodge tại một buổi tiệc. Ông Lodge nói là không có nhận được dấu hiệu đảo
chánh nào cả.
Ngày 24 tháng 10 năm
1963, Trung Tá Phạm Ngọc Thảo kéo quân vể Sài Gòn đảo chánh hụt vì các tướng
đảo chánh tại Sài Gòn thay đổi kế hoạch.
Ngày 25 tháng 10 năm
1963, ông CIA Conein hỏi Tướng Đôn bao giờ đảo chánh? Tướng Đôn trả lời là
không biết và hỏi lại ông CIA Conein có được phép của chính phủ Mỹ để thảo
luận về cuộc đảo chánh không? Conein trả lời là Đại Sứ Lodge ra lệnh. Sau đó
Tướng Đôn được Đại Sứ Lodge xác nhận tại phi trường.
Ngày 27 tháng 10 năm
1963, Tổng Thống Diệm mời vợ chồng Đại Sứ Lodge lên Đà Lạt gặp mặt. Sau nhiều
lần thuyết phục nhưng Tổng Thống Diệm không nghe, Đại Sứ Lodge nói với Tổng
Thống Diệm: "Thưa Ngài, tất cả lời đề nghị rõ ràng của tôi đều bị Ngài
từ chối hết. Theo Ngài nghĩ thì liệu Ngài có thể làm cái gì mà điều đó có thể
đem lại cái nhìn thiện cảm nơi người Hoa Kỳ?". Mỗi lần nhắc câu hỏi
giống vậy thì Tổng Thống Diệm lại đổi đề tài.
Ngày 28 tháng 10 năm
1963, Tướng Đôn gặp ông CIA Conein tại Bộ Tổng Tham Mưu. Tướng Đôn không cho
biết chắc chắn ngày đảo chánh, nhưng nói là rất gần. Tướng Đôn nói sẽ thông
báo cho Tòa Đại Sứ biết vài giờ trước khi bắt đầu đảo chánh. Tuy nhiên Tướng
Đôn muốn Đại Sứ Lodge đừng đình chuyến bay Hoa Thịnh Đốn đã định vào ngày 31
tháng 10 năm 1963. Tướng Đôn cho biết nhiệm vụ Tướng Minh lo quân đội, Tướng
Kim lo chính trị, và Tướng Đôn lo liên lạc với Mỹ. Hỏi về nhiệm vụ Tướng Tôn
Thất Đính, Tướng Đôn nói Tướng Đính vì từng trung thành với Tổng Thống Diệm,
nên do đó không dám giao trọng trách vì e ngại bị phản.
Ngày 29 tháng 10 năm
1963, Đại Sứ Lodge thông báo cho Hoa Thịnh Đốn sắp có đảo chánh. Nói rằng
không thể trì hoãn được và không kịp thông báo cho Tổng Thống Diệm.
Ngày 30 tháng 10 năm
1963, Mc George Bundy gởi điện văn nói là Tổng Thống Kennedy vẫn còn ý muốn
đảo chánh. Tổng Thống Kennedy chỉ thị Đại Sứ Lodge "nên can thiệp nếu
cảm thấy kế hoạch đảo chánh nguy hiểm, chúng ta ủng hộ nếu thấy diễn
tiến đảo chánh tốt, nhưng nếu thấy tình hình không thuận tiện thì trì hoãn
lại để khỏi làm ảnh hưởng đến chỗ đứng của Mỹ tại Đông Nam Á".
Bản điện văn thứ nhì
của Tòa Bạch Ốc thì bày tỏ sự bất mãn và nói rằng "chúng ta không thể
chấp nhận cái luận điệu cho rằng chúng ta không có đủ tư cách để trì hoãn hay
ngăn cản cuộc đảo chánh".
Đại Sứ Lodge nghĩ là
chính phủ Mỹ muốn ngăn cản đảo chánh, do đó ông gởi một điện văn về Hoa Thịnh
Đốn: "Đừng có nghĩ là chúng ta có quyền trì hoãn hay ngăn cản đảo chánh.
Không thể thông báo cho Tổng Thống Diệm được vì làm như vậy là chúng ta phản
bội các tướng lãnh đảo chánh".
Trái lại, đối với ông
Xếp CIA Colby thì nhận định lại khác: "Bây giờ đảo chánh thì nói là do
người Việt Nam làm, nhưng theo tôi nghĩ thì trên thực tế quyết định này đã
được Tòa Bạch Ốc quyết định từ vài tuần trước, lúc mà trong cuộc họp báo công
khai tuyên bố là cần có một bộ mặt mới trong chính phủ Việt Nam, ám chỉ muốn
thay đổi hai anh em Diệm-Nhu. Chúng ta cắt ngân khoản CIA viện trợ Lực Lượng
Đặc Biệt của ông Nhu, điều đó có nghĩa là khi chúng ta không đồng ý với họ
chỗ nào thì chúng ta cắt chỗ đó. Mỹ đã bật đèn xanh để các tướng đảo chánh ra
tay".
Tư Lệnh Mỹ tại Việt
Nam , Tướng Harkins không tin tưởng Đại Sứ Lodge và cũng không tin tưởng các
tướng lãnh đảo chánh. Ông nói: "Tướng Đôn nói dối, ông ta nói với ông
CIA Conein là có đảo chánh trước ngày 02 tháng 11, nhưng lại nói với tôi là
không có đảo chánh".
Tướng Harkins ra lệnh
Thủy Quân Lục Chiến lên bờ Việt Nam . Tướng Harkins gởi điện văn cho Tướng
Taylor ở Mỹ bày tỏ sự chống đối âm mưu đảo chánh Tổng Thống Diệm. Ông nói:
"Chúng ta ủng hộ T.T. Diệm trong suốt 8 năm khó khăn. Thật sai lầm nếu
hạ ông xuống, đá ông lăn lóc và đi truất phế ông ta". Chống lại ý kiến
ủng hộ đảo chánh của Đại Sứ Lodge, Tướng Harkins gởi điện văn cho ông Lodge:
"Chúng ta phải cần thu thập thêm tin tức. Mặc dù Tướng Đôn tuyên bố là
đảo chánh là do chính người Việt Nam thực hiện. Tuy nhiên trong ngày gần đây
rồi Mỹ cũng phải nhào vô dù có muốn hay không. Chúng ta cần phải tiếp tục ủng
hộ Tổng Thống Diệm cho đến khi nào chịu đựng hết nổi".
Ngày 31 tháng
10 năm 1963, Hoa Thịnh Đốn gởi cho Đại Sứ Lodge một điện văn được coi là điện
văn cuối cùng. Nội dung là chính phủ Mỹ ra lệnh: "Không được đứng về phe
nào. Nếu tình thế xảy ra không rõ ràng, thì Mỹ phải đứng hòa hoàn giữa hai
bên.. Nếu đảo chánh bị thất bại, tòa đại sứ nên cho phép họ tỵ nạn tùy theo
sự quyết định của Đại Sứ Lodge. Nhưng cố gắng khuyến khích họ nên đi nơi khác
tỵ nạn. Dù vậy, nếu có cuộc đảo chánh xảy ra thì Mỹ vẫn mong là nó thành
công". Đại Sứ Lodge đình chuyến bay trong ngày này.
Ngày 01 thá ng 11 năm
1963, Tướng Trần Văn Đôn đến Bộ Tổng Tham Mưu lúc 7 giờ 30 sáng, 6 tiếng đồng
hồ trước khi đảo chánh. Tướng Đôn chuẩn bị gặp Tướng Harkins và Đô Đốc Tư
Lệnh Thái Bình Dương Harry D. Felt lúc 9 giờ 15 sáng. Đô Đốc Felt muốn gặp
Tướng Đôn tại Bộ Tổng Tham Mưu nhưng Tướng Đôn lại muốn gặp nhau tại cơ quan
MACV. Tướng Đôn nói chuyện bình thường. Ông nói nếu đảo chánh thành công thì
sẽ thắng Cộng Sản. Trong khi nói chuyện, Đô Đốc Felt chỉ lên bản đồ hỏi rằng
có 2 Tiểu Đoàn Dù chưa đồng ý gia nhập đảo chánh. Tướng Đôn bảo đảm là các
lực lượng này trên đường đến Tây Ninh, Tây Bắc của Sài Gòn, sẽ kéo về thủ đô
và chủ động cuộc đảo chánh.
9 giờ 45 sáng, Đô Đốc
Felt rời MACV để đến thăm Tổng Thống Diệm. Tướng Đôn sợ Tổng Thống Diệm rời
Sài Gòn nên nhờ Đô Đố Felt cầm chân Tổng Thống Diệm. Đại Sứ Lodge làm hẹn và
muốn tham dự. Gặp mặt tại Dinh, Tổng Thống Diệm nói: "Mỗi lần Đại Sứ Mỹ
đi Hoa Thịnh Đốn là có tin đồn đảo chánh. Tôi biết là đang có sửa soạn đảo
chánh, nhưng tôi không biết ai chủ mưu vì họ giữ bí mật kỹ quá". Khi Đại
Sứ Lodge sắp đi thì Tổng Thống Diệm kéo qua một bên và nói là ông sẳn sàng
thực hiện những điều chính phủ Mỹ muốn ông ta làm. Nhưng đã quá trễ, lúc Đại
Sứ Lodge và Đô Đốc Felt từ biệt thì lính đã bao vây thủ đô Sài Gòn.
11 giờ 45 sáng, Đô Đốc
Feelt chào Tổng Thống Diệm trở lại CINCPAC, có Tướng Đôn và Tướng Harkins đi
cùng. Đô Đốc Felt họp báo tại phi trường Tân Sơn Nhất. Sau khi Đô Đốc Felt đi
thì Tướng Đôn và Tướng Harkins ăn trưa với nhau.
Đại Sứ Lodge ngồi lại
nói chuyện với Tổng Thống Diệm tại Dinh Gia Long. Tổng Thống Diệm nói là Mỹ
giật dây xúi Phật Giáo biểu tình và tung tin đảo chánh. Đại Sứ Lodge trả lời:
"Thưa Ngài, nếu một người Mỹ nào hứa hẹn một điều gì sai trái thì tôi sẽ
tống cổ họ ra khỏi nước ngay". Bào chữa cho ông Cố Vấn Nhu, Tổng Thống
Diệm khuyên ông Lodge nên gọi nói chuyện với ông Xếp CIA Colby và cựu Đại Sứ
Nolting để họ giải thích cho ông Lodge biết lý do tại sao Tổng Thống Diệm cần
đến ông Nhu nhiều như vậy..
Trước khi Đại Sứ Lodge
đứng ra về, Tổng Thống Diệm nói: "Xin ông vui lòng nói với Tổng Thống
Kennedy rằng tôi là đồng minh tốt và thẳng thắn, tôi muốn là chúng ta nên
thẳng thắn cùng giải quyết những vấn đề bây giờ hơn là nói về nó sau khi
chúng ta đã mất tất cả".
Khi Đại Sứ Lodge tiếp
chuyện với Tổng Thống Diệm thì có
một vị tướng đến nhà ông CIA Conein báo tin giờ đảo chánh sắp bắt đầu... Vị
tướng này bảo ông CIA Conein mang tất cả số tiền lên Bộ Tổng Tham Mưu. Ông
CIA Conein ôm 3 triệu đồng Việt Nam tương đương với 42,000 mỹ kim ra đi. Ông
mang theo khẩu súng lục và mấy trái lựu đạn và một cái máy truyền tin đặc
biệt để liên lạc với các viên chức CIA khác.
Theo ông Conein thì số
tiền này được rút từ quỹ của CIA để dùng mua thực phẩm cho lính đảo chánh và
bồi thường các gia đình có lính chết vì đảo chánh. Trước khi đến Bộ Tổng Tham
Mưu, ông CIA Conein bấm mật mã 9,9...9,9...9,9 để thông báo đến các nhân viên
CIA biết đảo chánh bắt đầu. Tuy nhiên, theo tờ báo Times of Viet Nam phát
hành ngày 02 tháng 09 năm 1963, trên trang nhất có tựa lớn "CIA Tài Trợ
Đảo Chánh" (CIA Financing Planned Coup d'Etat).
Trong bài báo này có
nói đến việc cơ quan CIA của Mỹ chi từ 10 triệu tới 24 triệu để tài trợ cho
cuộc đảo chánh chính phủ Tổng Thống Diệm. Số tiền này được ứng ra để trả
lương và tưởng thưởng cholính, cảnh sát, công chức.. Và số tiền đó cũng được
dùng để trả cho các tổ chức Phật Giáo, phong trào thanh niên đấu tranh, các
cơ sở tuyên truyền và cho các trường hợp bất khả kháng. Tòa Đại Sứ Mỹ từ chối
nguồn tin này. Khi hỏi Tổng Thống Diệm thì Tổng Thống Diệm nói: "Ông có
nghĩ là tờ báo Times of Viet Nam lại đi in như vậy nếu đó không phải là sự
thật?". Sau đó Tổng Thống Diệm có trưng dẫn một số bằng chứng để xác
nhận điều đó là đúng.
Các tướng đảo chánh đã
nối đường dây điện thoại từ Bộ Chỉ Huy Đảo Chánh và Tòa Đại Sứ.. Một đường
dây điện thoại khác được bắt từ Bộ Tổng Tham Mưu đến tư thất của ông CIA
Conein với mục đích để ông CIA Conein có thể liên lạc thường xuyên với 12
lính Biệt Kích "A" Team đang bảo vệ vợ con ông. Nếu đảo chánh bất
thành, các người lính này sẽ tự động đưa vợ con ông ra khỏi nước. Ông CIA
Conein đến Bộ Chỉ Huy Đảo Chánh khoảng 12 giờ 15 - 12 giờ 30 trưa. Tướng Đôn
vắng mặt vì tiển Đô Đốc Felt ra phi trường. Khi Tướng Minh nhìn thấy người Mỹ
thì hất hàm hỏi: "Ông làm gì đây?".. Ông CIA Conein trả lời là
"Tôi được kêu tới đây". Tướng Minh dằn mặt: "Nếu đảo chánh
thất bại thì ông phải đi cùng với chúng tôi".
Hầu hết các tướng lãnh
trung thành với Tổng Thống Diệm hay theo đảo chánh đều đến Bộ Tổng Tham Mưu
do Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng Trần Thiện Khiêm khoản đãi. Sau khi mọi người
an tọa, Tướng Minh đứng dậy và tuyên bố đảo chánh, vừa lúc đó Quân Cảnh tràn
vào phòng với súng tiểu liên vây xung quanh. Tướng Minh kêu gọi các tướng ủng
hộ đảo chánh. Họ được phép rời phòng Tổng Tham Mưu nhưng không được ra khỏi
Bộ Chỉ Huy.
Những vị còn ngồi tại
chỗ, trong đó có Đại Tá Lê Quang Tung phản đối đảo chánh bị tống giam ngay.
Tướng Minh sai đem cái máy thâu băng vào phòng, trong băng ông thâu lời tuyên
bố đảo chánh, lên án gia đình Tổng Thống Diệm độc tài và hứa là quân đội có
khả năng cai trị nước hơn. Tướng Minh đòi các tướng hiện diện ký vào bản
tuyên cáo và hỗ trợ quân đội đảo chánh. Ông phân phát cho các tướng những
cuốn băng để phân phối đến các đài phát thanh. Nếu đảo chánh thất bại thì các
tướng không thể chối được việc mình tình nguyện tham gia đảo chánh.
1 giờ 30 quân đội phát
động đảo chánh. Thông thường là đảo chánh ban đêm, nhưng lần này đảo chánh
ban ngày nên lính chính phủ Tổng Thống Diệm không chuẩn bị ứng phó kịp thời.
Lính đảo chánh mang khăn quàng đỏ, dấu hiệu đảo chánh tại miền Nam Việt Nam .
Hai tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến tiến vào Sài Gòn từ Biên Hòa. Một tiểu đoàn
Dù, một tiểu đoàn Bộ Binh từ Vũng Tàu. Hai tiểu đoàn Dù từ Bình Dương. Sư
Đoàn 5 Bộ Binh và Quân Trường gần đó. Đụng độ yếu ớt, quân đảo chánh chiếm
phi trường Tân Sơn Nhất, Bộ Chỉ Huy Hải Quân, Bộ Quốc Phòng. Khoảng 500 Thủy
Quân Lục Chiến bao vây Tổng Nha Cảnh Sát vì nơi đó phe Tổng Thống Diệm chứa
rất nhiều vũ khí. Lính đảo chánh chiếm Sở Bưu Điện Trung Ương và Phòng Điện
Tín. Phe chính phủ Tổng Thống Diệm tử thủ tại Đài Phát Thanh Sài Gòn và các
đài phát thanh khác.
3 giờ chiều, Tướng Đôn
gọi cho Tòa Đại Sứ để hỏi có kế hoạch nào để đưa Tổng Thống Diệm và gia đình
ra khỏi Việt Nam nếu họ đầu hàng, Đại Sứ Lodge nói chắc chắn có máy bay vì
chính Đại Sứ Lodge đang có máy bay sẵn dự định để chở ông đi Mỹ, nhưng ông
hoãn lại chuyến bay.
3 giờ 30 chiều, quân
đảo chánh chiếm Đài Phát Thanh. Đụng độ nặng nề nhất là tại lô cốt Cộng Hòa
của lực lượng Phòng Vệ Phủ Tổng Thống gần Dinh Gia Long. Chiến xa của phe
trung thành Tổng Thống Diệm bắn hỏa tiễn vào các cao ốc làm bể kiếng khiến
dân chúng hốt hoảng di tản...
Khi nghe báo cáo là
gặp sức kháng cự quá mạnh của phe Tổng Thống Diệm tại lô cốt Cộng Hòa, Tướng
Khiêm gọi Trung Tá Nguyễn Cao Kỳ tại Bộ Chỉ Huy Không Quân, Tướng Khiêm nói:
"Kỳ, lính phòng vệ ông Diệm chống cự mạnh quá và thì giờ không còn nhiều
nữa. Ngay bây giờ hay không còn dịp khác nữa, ông có sẵn sàng giúp đỡ
không?" Kỳ trả lời: "Dĩ nhiên, ngay lập tức". Với tướng mạo
màu mè, bộ râu kẽm, luôn choàng cái khăn cổ tím và mang bên mình cái súng lục
cán mạ ngà voi, ông ra lệnh cho 2 phi công xuất trận. Khoảng 4 giờ chiều, hai
chiếc máy bay T-28 xuất hiện trên bầu trời Sài Gòn, một chiếc từng dội bom
Dinh Độc Lập năm 1962. Bom thả trật mục tiêu, một quả bom thả rớt xướng hầm
trống của Thủy Quân Lục Chiến Mỹ bên kia Dinh Gia Long. Dù là bị oanh kích,
nhưng trận đánh vẫn tiếp diễn tới tối.
Khi nhận được báo cáo đầu tiên về việc có quân đội tiến về
Dinh Gia Long một cách bất thường, ông Nhu tỏ ra không mấy quan ngại. Ông
nghĩ đó chính là nằm trong kế hoạch đảo chánh giả của ông gồm 2 phần: nhận
diện và tiêu diệt đám đối nghịch chế độ. Phần một ám hiệu là Bravo I, một
cuộc đảo chánh giả. Với rất nhiều đơn vị lính trung thành với chế độ trú đóng
xung quanh Sài Gòn, các lực lượng này sẽ tấn công một số mục tiêu đã được
định sẵn trong thủ đô. Khi cuộc tấn công bắt đầu, Tổng Thống Diệm và ông Nhu
sẽ thoát xuống Vũng Tàu, cách Sài Gòn 50 dặm về phía Đông-Nam. Sau nhiều ngày
vô luật lệ và xáo trộn, chính phủ của phe phản loạn sẽ ra mặt. Lúc đó những
lực lượng lính trung thành với chính phủ Diệm sẽ tiến vào Sài Gòn và tiêu
diệt phản loạn trong phần "phản đảo chánh" với ám hiệu Bravo II.
Theo kế hoạch này, ông Nhu tiên đoán là "chúng ta sẽ lừa bọn tay sai của
Mỹ rúc hết vào một cái rọ trong thủ
đô".
Nhưng thật rủi cho anh
em Tổng Thống Diệm, ông Nhu vì quá tin nên giao kế hoạch làm đảo chánh giả
cho Tướng Tôn Thất Đính thực hiện. Vào trưa 01 tháng 11 ông Nhu cố liên lạc
với Tướng Đính nhưng không gặp, ông Nhu liên lạc với các tướng trung thành
chế độ nhưng cũng không gặp được, lúc đó thì ông Nhu mới nhận thức ra là đảo
chánh thật.
Khoảng sau 4 giờ
chiều, Tổng Thống Diệm gọi Tướng Khiêm, người đã cứu Tổng Thống Diệm trong cuộc
đảo chánh năm 1960. Thay vì nói chuyện với Tướng Khiêm, thì Tướng Đôn trả
lời. Tổng Thống Diệm hỏi: "Các tướng đang làm cái gì vậy?". Tướng
Đôn trả lời: "Thưa Ngài, thời điểm đã đến, quân đội phải đáp lại nguyện
vọng của đồng bào".... Tổng Thống Diệm quở trách Tướng Đôn ăn nói thiếu
lễ độ. Sau đó Tổng Thống Diệm tuyên bố là ông muốn thực hiện những điều cải
tổ như ý quân đội miền Nam Việt Nam đòi hỏi trong tháng 09 rồi. Tổng Thống
Diệm mời Tướng Đôn và những tướng lãnh khác vào Dinh Gia Long để thảo luận.
Vì nhớ lại cái kinh nghiệm chua cay của cuộc đảo chánh thất bại 1960 khi Tổng
Thống Diệm dùng kế hoãn binh để đoàn quân trung thành với ông có đủ thì giờ
về giải cứu, do đó Tướng Đôn từ chối lời mời.
4 giờ 30 chiều, Tổng
Thống Diệm gọi điện thoại cho Đại Sứ Lodge hiện đang ở nhà. Theo lời Đại Sứ
Lodge báo cáo cho Bộ Ngoại Giao sau này, thì cuộc đối thoại có nội dung như
sau:
"Tổng Thống Diệm:
Có một số đơn vị lính phản loạn và tôi muốn biết thái độ của chính phủ Mỹ ra
sao?
Đại Sứ Lodge: Tôi hiện
không có đủ chi tiết để trình với Ngài. Tôi có nghe tiếng súng nổ, nhưng tôi
không biết nguyên do. Vả lại, bây giờ ở Hoa Thịnh Đốn là 4 giờ 30 sáng do đó
chính phủ Mỹ chắc không thể có quan điểm gì.
Tổng Thống Diệm: Nhưng ông phải có vài ý kiến tổng quát
chứ? Tôi là Tổng Thống... Tôi đã cố gắng thi hành những bổn phận của tôi. Bây
giờ tôi muốn sử dụng cái bổn phận của tôi. Tôi tin là bổn phận trên tất cả.
Đại Sứ Lodge: Ngài lẽ
dĩ nhiên đã làm những bổn phận của Ngài. Tôi cảm phục sự can đảm và công lao
đóng góp lớn lao của Ngài vào quốc gia của Ngài. Không ai có thể tướt đi cái
công ơn mà Ngài đã làm. Bây giờ tôi đang lo ngại cho sự an toàn tính mạng của
Ngài. Tôi đã sắp xếp để đưa Ngài và em của Ngài ra nước ngoài để bảo toàn
tính mạng nếu Ngài từ chức. Còn nếu như Ngài không đồng ý, thì tôi cũng đã
sắp đặt để Ngài mang tước vị Quốc Trưởng và Ngài có thể ở lại đây an toàn.
Tổng Thống Diệm:
Không, không, tôi không muốn vậy. Tôi muốn tái lập trật tự. Tôi phải tái lập
trật tự.(cúp máy)
Tướng Đôn có kể lại là
trong khi đang đảo chánh thì Tổng Thống Diệm gọi điện thoại nói chuyện với Tướng
Đôn, Tướng Đôn nói với Tổng Thống Diệm: "Thưa Tổng Thống, tôi lấy làm
tiếc về sự việc xãy ra, nhưng điều tôi muốn Tổng Thống bây giờ là hãy khôn
ngoan và hiểu cho hoàn cảnh, và hiện có một chiếc máy bay đặc biệt sẵn sàng
đưa Tổng Thống và gia đình ra khỏi nước nếu Tổng Thống đầu hàng vô điều kiện".
Cả chiều 01 tháng 11,
nhiều tướng đảo chánh gọi vào Dinh kêu gọi Tổng Thống Diệm và ông Nhu đầu
hàng.
4 giờ 30, Tướng Minh
lên tiếng với ông Nhu rằng nếu ông Nhu và Tổng Thống Diệm không ra đầu hàng
thì Dinh Tổng Thống sẽ bị pháo kích và dội bom. Phe đảo chánh mang Đại Tá Lê
Quang Tung đến, ông ta là người chỉ huy Lực Lượng Đặc Biệt trung thành với
Tổng Thống Diệm.
Họ kê súng vào đầu Đại
Tá Tung bắt gọi. Đại Tá Tung báo cáo thẳng là phe đảo chánh bắt giam tất cả
tướng lãnh và viên chức trung thành chính phủ, và Tướng Khiêm với Tướng Đính
đã gia nhập phe đảo chánh rồi. Đại Tá Tung kêu gọi đầu hàng, nhưng ông Nhu
không chịu.
Tối hôm đó, phe đảo
chánh trói tay Đại Tá Tung và em của ông ta giữ chức Phó Chỉ Huy Lực Lượng
Đặc Biệt Họ bị giao cho cận vệ của Tướng Minh chở về Bộ Tổng Tham Mưu bắn
chết và chôn vào 2 cái hố mới được đào...
5 giờ 15 chiều, Tướng
Minh gọi Tổng Thống Diệm đầu hàng. Tổng Thống Diệm từ chối nói chuyện với
Tướng Minh phản loạn và khinh bỉ cúp máy. Quá tức giận về thái độ của Tổng
Thống Diệm làm bẽ mặt Tướng Minh trước binh sĩ, sau đó vài tiếng, Tướng Minh
gọi lại vào Dinh, Tướng Minh dọa nếu anh em Tổng Thống Diệm không ra đầu hàng
thì Dinh này sẽ trở thành "bình địa". Tổng Thống Diệm vẫn từ chối
nói chuyện với vị tướng lãnh đạo cuộc đảo chánh này.
Để chứng tỏ lời đe dọa
là thật, Tướng Minh ra lệnh tấn công vào Dinh. Lý do Tướng Minh chần chừ
không tấn công là vì muốn giảm thiểu sự đổ máu của hai bên.. Hơn nữa, Tướng
Minh và các tướng đảo chánh không có ý định tấn công vào Dinh là vì nghĩ là
khi thấy lực lượng quân đội đảo chánh hùng hậu như vậy thì tự động anh em
Tổng Thống Diệm ra đầu hàng. Sự từ chối giải pháp đầu hàng của Tổng Thống
Diệm đã làm Tướng Minh và các tướng ngạc nhiên, bực tức vô cùng
Không tướng nào muốn
tấn công vào Dinh Gia Long cả. Tổng Thống Diệm hiện vẫn còn là khuôn mặt đáng
kính. Họ không muốn mang tiếng nhục khi tấn công trực tiếp vào Tổng Thống
Diệm. Các tướng đảo chánh chọn Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu vì Đại Tá Thiệu là
người Công Giáo. Họ muốn người Công Giáo diệt người Công Giáo. Đó là lối lý
luận và tính toán của các tướng đảo chánh theo đạo Phật.
Khoảng hơn 3 giờ sáng
ngày 02 tháng 11 năm 1963, Đại Tá Thiệu tấn công Dinh Gia Long bằng vũ khí
hạng nặng .50 caliber, 75 mm và xe tăng, phá sập cổng Dinh, dù vậy Tổng Thống
Diệm cũng không chịu đầu hàng
Rạng sáng, phe đảo
chánh tiến vào Dinh Gia Long với cảnh tượng đổ nát, ngổn ngang. Họ tìm kiếm
Tổng Thống Diệm và ông Nhu, lúc đó mới phát giác là hai ông đã thoát thân từ
lúc 8 giờ tối hôm qua, tức buổi tối 01 tháng 11.
Anh em Tổng Thống Diệm
trốn khỏi Dinh Gia Long bằng đường hầm bí mật cổng sau và chạy lên núp trong
một nhà của người thương gia Tàu tên là Mã Tuyên tại Chợ Lớn vào lúc 9 giờ
tối ngày 01 thá ng 11. Trong nhà này trang bị đầy đủ hệ thống điện thoại tối
tân để Tổng Thống Diệm và ông Nhu gọi cầu cứu. Hai ông muốn lên cao nguyên
hoặc xuống biển để đích thân điều động cuộc "phản đảo chánh", nhưng
khi gọi không được ai thì hai ông thất vọng não nề. Hai ông có ý xin tỵ nạn
tại tòa Đại Sứ Trung Hoa Quốc Gia nhưng thất bại.
6 giờ sáng, Tổng Thống
Diệm gọi Tướng Đính ra lệnh các tướng đảo chánh đầu hàng.
6 giờ 20 sáng, Tổng
Thống Diệm vẫn lại từ chối nói chuyện với Tướng Minh, nhưng lại gọi Tướng Đôn
và chịu đầu hàng trong "danh dự". Hai ông muốn được hộ tống ra phi
trường an toàn để đi ra khỏi nước. Tướng Minh vì bị Tổng Thống Diệm làm nhục
mấy lần trước mặt binh sĩ nên không chấp nhận cho anh em Tổng Thống Diệm đầu
hàng cho đến khi nào "người Việt ngưng giết người Việt", có ý là
tại Dinh Gia Long vẫn đang còn đánh nhau.
Ba mươi phút sau, Tổng
Thống Diệm gọi lại Bộ Chỉ Huy Đảo Chánh, Tổng Thống Diệm báo là ông đã ra
lệnh lính Phòng Vệ Phủ Tổng Thống ngưng bắn và ông đồng ý đầu hàng vô điều
kiện. Lần này các tướng đồng ý.
Trong khi thương thảo,
các tướng đảo chánh yêu cầu ông CIA Conein thu xếp máy bay chở Tổng Thống
Diệm và gia đình ra khỏi nước. Ông CIA Conein gọi cho Phó Trưởng Phòng CIA
David Smith. Chờ độ 10 phút thì ông Smith trả lời là cần 24 tiếng đồng hồ mới
thu xếp có máy bay. Chính phủ Mỹ muốn đưa Tổng Thống Diệm bay đến một quốc
gia khác tỵ nạn, có lẽ là Âu Châu, vì tại đó ông khó về để phục thù. Chuyến
bay được chỉ thị phải bay trực tiếp và không được ngừng lấy xăng, và chỉ ở
Guam mới có loại máy bay đó mà thôi. Ông CIA Conein báo lại cho các tướng đảo
chánh biết lời của ông Trưởng Phòng CIA Smith, Tướng Minh gắt gỏng nói:
"Chúng tôi không thể giữ họ lâu nữa được".
Chấp thuận lời đầu
hàng của anh em Tổng Thống Diệm, Tướng Minh ra lệnh cho một chiếc xe thiết
giáp M 113 và 4 xe Jeep đi đón anh em Tổng Thống Diệm do Tướng Mai Hữu Xuân
và Đại Tá Dương Ngọc Lắm cầm đầu. Sau khi cái xe rời Bộ Tổng Tham Mưu thì
được báo là anh em Tổng Thống Diệm không có tại Dinh Gia Long. Tướng Minh ra
lệnh lục soát khu vực Sài Gòn, và do chỉ điểm của mật báo viên, các tướng đảo
chánh mới biết là anh em Tổng Thống Diệm đang ở nhà thờ tại Chợ Lớn. Đoàn xe
được lệnh đổi lộ trình và tiến về Chợ Lớn.
8 giờ 30 sáng, Tổng
Thống Diệm và ông Nhu cùng mặc bộ đồ vest màu xám bị bắt tại nhà thờ Don
Thanh mà hay gọi là nhà thờ Cha Tam tại Chợ Lớn trong khi họ đang cầu nguyện
vì là ngày lễ Các Đẳng Linh Hồn của đạo Công Giáo.
Theo lời kể của một sĩ
quan Việt Nam : "Tổng Thống Diệm thì chứng tỏ cái phong cách lịch sự,
nhưng ông Nhu thì kèn cựa cho tới phút chót". Ông Nhu phản đối:
"Các ông đem chiếc xe như vậy để mà chở Tổng Thống hả?". Hai tay bị
trói ra đàng sau, hai ông bị đẩy vào trong chiếc xe thiết giáp M113. Trên
đường về Bộ chỉ Huy, đoàn xe ngừng tại cổng xe lửa độ 5 phút. Theo hầu hết
lời kể, thì chính cận vệ của Tướng Minh là Đại Úy Nguyễn Văn Nhung đã bắn và
đâm anh em Diệm-Nhu.
Theo lời kể khác, thì
Thiếu Tá Dương Hiếu Nghĩa tài xế xe thiết giáp cũng là người giết hai ông.
Theo lời kể của Tướng Khánh, người điều tra cái chết của Tổng Thống Diệm sau
cuộc chỉnh lý nói rằng: "Đại Úy Nhung đã giết anh em ông Diệm. Nó là tên
giết người chuyên nghiệp. Nó đã giết 40 người, nó gạch một gạch trên dao găm
mỗi lần nó giết một người" Đại Úy Nhung bị Tướng Khánh giam năm 1964
nhưng không sống lâu để khai ai ra lệnh giết anh em Tổng Thống Diệm, và Đại
Úy Nhung bị chết trong nhà tù bằng cách treo cổ...
Có nhiều mâu thuẫn
giữa các tướng trong việc ai là người ra lệnh giết anh em Tổng Thống Diệm.
Theo lời thuật của Tướng Đôn trong quyển hồi ký của ông ta thì Tướng Minh ra
lệnh giết anh em Tổng Thống Diệm. Tướng Đôn viết: "Tôi khẳng định là
Tướng Minh và một mình ông ta quyết định thôi". Trái lại, các sĩ quan
cho rằng nếu không phải tất cả, thì hầu hết các tướng đảo chánh đã cùng quyết
định giết Tổng Thống Diệm. Theo lời khai của Thiếu Tá Nghĩa thì "số mạng
của Tổng Thống Diệm được quyết định bởi đa số tướng lãnh trong Ủy Ban Cách
Mạng".
Theo ông xếp CIA William Colby thì: "Thật quá rõ ràng
chính Tướng Minh đã giết anh em Diệm-Nhu". Trái lại, theo lời của
một viên chức cao cấp CIA khác, ông George Carver thì hoài nghi: "Tôi
không nghĩ là Tướng Minh quyết định một mình, vì theo cái bản tính của ông,
ông ta thích thảo luận và chia sẻ trách nhiệm khi làm một quyết định
quan trọng vì ông ta sợ đổ thừa sau này". Nhưng cũng theo người
khác kể thì chính Tướng Mai Hữu Xuân đã ra lệnh giết.
Theo lời kể của ông
CIA Conein thì khi ông ta rời Bộ Tổng Tham Mưu cũng cùng lúc với xe thiết
giáp đi đón ông Diệm. Báo chí được mời tới Bộ Chỉ Huy Đảo Chánh (tức Bộ Tổng
Tham Mưu). Về đến nhà, ông CIA Conein nhận lệnh của ông Phó Trưởng Phòng CIA
Smith đòi đi kiếm Tổng Thống Diệm.
Khoảng 10 giờ 30 sáng,
khi ông CIA Conein trở lại Bộ Chỉ Huy, thì các tướng nói là anh em Diệm-Nhu
đã tự tử trong nhà thờ tại Chợ Lớn. Theo ông CIA Carver:"Cái việc cứng
đầu tới giờ chót, tạo nên những cái chết vô ích cho đôi bên, và làm bẽ mặt
Tướng Minh trước binh sĩ, tức anh em ông Diệm-Nhu đã ký vào một bản án tử
hình". Tướng Minh bảo ông CIA Conein đến nhìn xác chết anh em ông
Diệm-Nhu nhưng ông CIA Conein từ chối. Vì với con mắt nhà nghề tình báo, ông
CIA Conein rất dễ nhận ra là bị giết hay tự tử, và điều biết đó sẽ rất
là nguy hiểm
Xác hai ông được mang
tới bênh viện St.Paul tại Sài Gòn để làm giấy khai tử, và được chôn tại một
nghĩa trang dân sự cách nhà Đại Sứ Lodge một block đường mà trên mộ không có
bia tên gì cả. Trong tờ giấy chứng tử thì lại đề ông Diệm là Thượng Thư thời
Pháp thuộc chứ không phải là Tổng Thống, và đề ông Nhu là Quản Thủ Thư Viện,một chức vụ cũ rồi.
Tại Hoa Thịnh Đốn thì
các cố vấn cao cấp của Tổng Thống Kennedy theo dõi sát nút cuộc đảochánh
từ lúc 1 giờ 30 sáng ngày 01 tháng 11 khi được CRITIC báo cáo là có đảo
chánh. Vì việc Đại Tá Thảo kéo quân về Sài Gòn đảo chánh hụt trước kia làm
cho Hoa Kỳ hơi bi quan về việc đảo chánh. Sau khi nối trực tiếp đường dây với
Tòa Đại Sứ Mỹ tại Việt Nam , Phụ tá Tổng Thống Forrestal nói chuyện với Phó
Đại sứ Trueheart. Ông Trueheart báo cáo là "có ông CIA Conein túc trực
bên bộ chỉ huy đảo chánh, và đây là cuộc đảo chánh thật. Bây giờ không còn
các báo cáo hồi hộp nữa đâu". Nghe xong, ông Forrestal đánh thức Tổng
Thống Kennedy và họ cùng xuống phòng Situation Room để theo dõi suốt cuộc đảo
chánh.
Tướng Taylor có mặt với Tổng Thống
Kennedy trong lúc đó đã ghi lại trong hồi ký như sau: "Khi nghe tin Tổng
Thống Diệm bị giết, mặt mày Tổng Thống Kennedy tái méc và run lập cập. Ông
bước vội ra khỏi phòng với cái trạng thái hốt hoảng chưa từng thấy. Trở
lại phòng, Tổng Thống Kennedy nói với các phụ tá: "Tại sao họ phải làm
vậy? Tổng Thống Diệm đã chiến đấu khổ nhọc trong 9 năm trời chống Cộng Sản,
lẽ ra ông ta phải nhận được sự đền bù xứng đáng hơn là cái việc bị giết chớ
?!".
Ông xếp CIA Colby kể
lại: "Tổng Thống Kennedy xúc động và buồn bã quá chừng. Ông ta cảm thấy
như mình dự phần nào trách nhiệm về việc này". Tổng Thống Kennedy từng
ủng hộ đảo chánh, rồi rút lui, rồi ủng hộ lại. Cố vấn đặc biệt của Tổng Thống
Kennedy là ông Arthur Schlesinger nói: "Việc giết Tổng Thống Diệm và ông
Nhu không nằm trong kế hoạch chúng tôi và chúng tôi cũng không mong điều đó.
Vì nhiều lý do mà các tướng đảo chánh đã giết hai ông.
Cái chết của Tổng
Thống Diệm làm Tổng Thống Kennedy buồn rầu bởi vì Tổng Thống Kennedy là con
người đạo đức, ông ta không muốn người khác bị giết, hơn nữa người đó lại là
vị nguyên thủ quốc gia. Tuy nhiên, một phần khác nữa là Tổng Thống Kennedy sợ
rằng cái chết của Tổng Thống Diệm sẽ lôi kéo thêm quân Mỹ vào Việt Nam
"... Cũng theo Schlesinger thì vào thời điểm đó có 16 ngàn cố vấn Mỹ tại
Việt Nam, và có 75 lính Mỹ chết.
Mặc dù Tổng Thống
Kennedy mất bình tĩnh, nhưng các giới chức Mỹ thì bình thường. Quân đội và
CIA thì luôn nhận thức rằng có đảo chánh là có đổ máu chết chóc. Tướng Taylor
sau này nói rằng: "Thực hiện một cuộc đảo chánh không phải giống như một
tiệc trà. Nó là một việc làm vô cùng nguy hiểm". Trước khi đảo chánh,
Phó Đại Sứ Mỹ Trueheart có gởi một điện văn cho Bộ Ngoại Giao khuyến cáo rằng:
"Thật nguy hiểm cho hai ông Diệm-Nhu có thể bị tử hình vì các tướng đảo
chánh sợ rằng hai ông sẽ tìm cách trở về chiếm lại quyền". Còn ông Phụ
Tá Ngoại Trưởng, Roger Hilsman, người đồng tác giả bức điện văn
"tối mật" ngày 24 tháng 08 ủng hộ đảo chá nh, khi bị hỏi ông nghĩ
gì khi bàn tay ông đang dính đầy máu, thì ông Hilsman dững dưng, tỏ vẻ chính
phủ Mỹ không quan tâm lắm về cái chết của ông Diệm. Ông nói: "Cách mạng
thì ghê gớm lắm. Người ta phải chịu trả giá chết chóc mà".
Theo lời của ông
Thiện, Bí Thư Báo Chí của Tổng Thống Diệm nói là có phỏng vấn Tướng Kim, một tướng
có thiện cảm với Tổng Thống Diệm trước kia nhưng nay tại sao theo phe đảo
chánh, thì Tướng Kim trả lời: "Chính phủ Mỹ bảo chúng tôi chọn giữa Tổng
Thống Diệm và viện trợ của Mỹ. Chúng tôi không còn chọn lựa nào khác
hơn". Đang họp tại Pháp, vì quá mừng khi nghe được tin hai anh em Tổng
Thống Diệm bị giết, ông Nguyễn Hữu Thọ, Chủ Tịch Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam
của Cộng Sản reo lên: "Đây là một món quà từ Trời cho chúng tôi”
Bào huynh Tổng Thống
Diệm là Đức Giám Mục Ngô Đình Thục và Bà Nhu đang ở nước ngoài khi đảo chánh.
Vài ngày sau đảo chánh, Tòa Đại Sứ Mỹ ở Sài Gòn sắp đặt cho 3 đứa con của ông
bà Ngô Đình Nhu ra khỏi nước.
Ngày 02 tháng 11 quân
đảo chánh vây nhà ông Ngô Đình Cẩn, ông Cẩn chạy đến trốn trong một nhà thờ
Công Giáo tại Huế. Các Linh Mục đến Tòa Lãnh Sự Mỹ ở Huế xin tỵ nạn cho ông
Cẩn nhưng không được, vì theo luật quốc tế chỉ có Tòa Đại Sứ mới có quyền cho
tỵ nạn mà thôi. Ông Lãnh Sự John Helble hỏi lệnh Tòa Đại Sứ và Bộ Ngoại Giao
Bộ Ngoại Giao chỉ thị Lãnh Sự Helble phải cho ông Cẩn tỵ nạn.
10 giờ 45 sáng, một
mình ông Cẩn đến trú ẩn tại Tòa Lãnh Sự Huế. Tướng Đỗ Cao Trí, Tư lệnh Sư
Đoàn I đến Tòa Lãnh Sự yêu cầu đừng chứa chấp ông Cẩn vì e dân chúng tràn vào
không giữ an ninh nổi. Cùng ngày, tòa Lãnh Sự Mỹ ở Huế yêu cầu tòa Đại Sứ Mỹ
tại Sài Gòn di chuyển gấp ông Cẩn.
Ông Lãnh Sự Helble kể
:"Tôi được cho biết là sẽ đưa anh em ông Diệm-Nhu ra khỏi nước".
Tháp tùng bởi một người sĩ quan Mỹ, ông Cẩn lên máy bay đi vào Sài Gòn. Hạ
cánh Tân Sơn Nhứt, thay vì gặp một viên chức tòa Đại Sứ như đã hứa, nhưng ông
CIA Conein đón bắt ngay ông Cẩn và giao cho quân đảo chánh giam giữ. Trên lúc
chiếc máy bay chở ông Cẩn đang bay, thì Đại Sứ Lodge gọi về Hoa Thịnh Đốn báo
tin là Tướng Đôn hứa sẽ cho ông Cẩn được xử án một cách phân minh và công
bằng, bởi vậy ông quyết định giao ông Cẩn cho phe đảo chánh.
Nhà tù Chí Hòa, Sài
Gòn – ông Ngô Đình Cẩn nhận các nghi thức tôn giáo trước giờ ra pháp trường.
Tòa án quân sự xét xử
ông Ngô Đình Cẩn
Ông CIA Conein kể là
Đại Sứ Lodge dặn: "Tôi sắp xếp chuyến bay đặc biệt này và ông phải giải
giao người trên phi cơ này cho quân đảo chánh". Vào mùa Xuân 1964, ông
Cẩn bị ghép đủ thứ tội như: tội thủ tiêu, tổ chức ám sát, bắt người vô cớ,
làm thiệt hại kinh tế quốc gia mặc dù có lời xin ân xá của Đại Sứ Lodge. Ông
Cẩn bị xử bắn ngày 09 tháng 05 năm 1964, tức 1 năm 1 ngày sau ngày nổi dậy
biểu tình của Phật Giáo Huế.
Ngày 22 tháng 11 năm
1963. Tổng Thống Kennedy bị ám sát chết tại thành phố Dallas, Texas, Phó Tổng
Thống Lyndon B. Johnson lên nhậm chức Tổng Thống Mỹ. Lúc còn là Phó Tổng
Thống, ông Johnson từng qua hội kiến với Tổng Thống Diệm vào tháng 05 năm
1961 để bàn việc đưa quân Mỹ tham chiến Việt Nam. Vì cảm phục và nể trọng
Tổng Thống Diệm, nên ông Johnson đã ca ngợi rằng: "Thủ Tường Diệm là một
Churchill của Á Châu...Lịch sử xếp ông ta như là một trong những vĩ nhân của
thế kỷ 20".
Sau cuộc đảo chánh
1963, đất nước liên tiếp trải qua bao cảnh chính biến và cuối cùng đưa cả một
dân tộc vảo một thảm họa đen tối nhất lịch sử là để miền Nam Việt Nam rơi vào
tay bọn Cộng Sản vô thần. Để rồi hôm nay đây, nơi đất khách quê người, chúng
ta xót xa mang nỗi hờn vong quốc, và ngậm ngùi tiếc nhớ những kỷ niệm, dĩ
vãng xa xưa!
Ngô Kỷ
Tham khảo và dịch
thuật từ các sách sau đây:
- Lost Victory
(William Colby)
- The Wound Within:
America in the Vietnam Years, 1945-1974 (Alexader Kendrick)
- Kennedy in Vietnam :
American Vietnam Policy 1960-63 (William J. Rust)
- Beyon Vietnam : The
United States and Asia (Edwin O Reischauer)
- Can We Win In
Vietnam ? (FranK E. Armdruster, Raymond D. Gastil, Herman Kahn, William
Pfaff, Edmund Stillman)
- The Perfect War: The
War We Coudn't Lose and How We Did (James William Gibson)
- VIETNAM An American
Ordeal (George Donelson Moss)
- The Ten Thousand Day
War VIETNAM :1945-1975 (Michael Maclear)
- THE UNFINISHED WAR
Vietnam and the American Conscience (Walter H. Capps)
- The Vietnamese and
Their Revolution (John T. McAlister,Jr/Paul Mus)
- Why we were in
Vietnam (Norman Podhoretz)
- America 's Longest
War THE UNITED STATES AND VIETNAM 1950-1975 (George C. Herring)
- In Retrospect THE
TRAGEDY AND LESSONS OF VIETNAM (Robert S McNamara)
- THE VIETNAM WAR
Opposing Viewpoints (David L. Bender)
- The "Uncensored
War" THE MEDIA AND VIETNAM (Daniel C. Hallin)
- Vietnam Crisis
(Stephen Pan,PH.D.,-Daniel Lyons,S.J...)
VIDEO: Nhạc: Suy Tôn
Ngô Tổng Thống
Suy Tôn Ngô Tổng Thống
Ai bao năm từng in gót nơi quê người (Ai bao năm vì sông núi quên thân mình) Cứu đất nước thề tranh đấu cho tự do Người cương quyết chống cộng, bài phong kiến bốc lột Diệt thực dân đang rắc gieo tàn khốc Bao công lao hồn sông núi ghi muôn đời Gương hy sinh ngàn muôn kiếp không hề phai Toàn dân quyết kết đoàn cùng chung sức với người Thề đồng tâm xây đắp cho ngày mai Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng Thống Ngô Tổng Thống, Ngô Tổng Thống muôn năm Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng Thống Xin thượng đế ban phước lành cho người Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng Thống Ngô Tổng Thống, Ngô Tổng Thống muôn năm Toàn dân Việt Nam quyết theo Ngô Tổng Thống Chung đắp xây nền thống nhất sơn hà.
Ngô Kỷ xin trích đăng
lại các tấm hình mộ của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Gia Đình ở dưới đây, từ
Website "Hội Quán Phi Dũng." Các lời chú thích tên các ngôi mộ là
của người chụp hình tại Việt Nam. Muốn coi chi tiết xin vào http://hoiquanphidung.com
/showthread.php?8187-M%E1%BB%9 9-Ph%E1%BA%A7n-NG%C3%94-t%E1%B
B%95ng-th%E1%BB%91ng-VNHCH-v%C 3%A0-Gia-%C4%90%C3%ACnh
Hình ảnh của 3 ngôi
mộ, Mẹ và 2 anh em ông Diệm và ông Nhu (Mẹ nằm giữa)
Bia của Mẹ mấy anh em
ông nằm giữa với tên Thánh LUXIA Phạm thị Thân-mất sau anh em Diệm-Nhu 2
tháng.
Bia bên phải của Mẹ
là Ngô Đình Diệm, Tổng Thống nền Đệ Nhất Cộng Hòa - nhưng nay chỉ được để 1 chữ
HUYNH + tên Thánh mà thôi!
Bia bên trái Mẹ là
Ngô Đình Nhu - cố bva61n là bào đệ của Ngô TT, nhưng nay chỉ được ghi một chữ ĐỆ
+ tên Thánh!
Bia phía xa bên trái -
không nằm chung với anh em Diệm Nhu là Ngô Đình Cẩn - mất sau cái chế của 2
anh em..! cũng chỉ tên + tên Thánh ..!
Hoang sơ tiêu điều!
Tổng Thống Ngô Đình Diệm
và các tướng lĩnh
nền
Đệ nhất Cộng Hoà Việt Nam .
Trong số các tướng
trên đây chỉ có 2 ông theo đạo Công Giáo là tướng
Huỳnh văn Cao và
Đề đốc Hồ Tấn Quyền , các tướng còn lại đều là phật tử .
Một
sĩ quan thuộc phe đảo chánh, vẻ mặt hớn hở, bên cạnh xác ông Ngô Đình Nhu
Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu
trong hầm xe thiết giáp M-113, hai tay bị trói
Lễ
an táng Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu
Huyệt
mộ của hai anh em Tổng Thống Ngô Đình Diệm
và ông Ngô
Đình Nhu
tại Nghĩa Trang Mạc Đĩnh Chi - Douglas Pike
Photograph Collection
Huyệt mộ của hai anh
em Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu
tại Nghĩa Trang Mạc Đĩnh Chi - Douglas Pike
Photograph Collection
|
Ngô
Kỷ dự Lễ Tưởng Niệm Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm
__._,_.___
Posted
by: Ngo Ky <ngokyusa9@yahoo.com>
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết