Vì đâu nên nỗi?
Tổng
Thống Nguyễn Văn Thiệu kinh lý
Mặc Giao (Danlambao) - Lý do mất miền Nam vào tay cộng sản đến bây giờ vẫn còn được tranh cãi, dù ai cũng thấy nguyên nhân chính là việc Hoa Kỳ bỏ rơi miền Nam VN. “Tiền đồn chống cộng” này không còn cần thiết nữa, sau khi Mỹ biết Trung Cộng vào thời gian đó không có ý định và chưa đủ khả năng nhuộm đỏ vùng Đông Nam Á. Những sửa soạn cho việc Mỹ rút khỏi VN đã được thực hiện với chương tình Việt Nam Hóa chiến tranh. Đến năm 1972, sau khi Cố vấn An ninh Kissinger và TT Nixon sang Tàu nói chuyện với Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai thì ván bài đã được lật ngửa. Không đầy một năm sau, ngày 27-1-1973, Hiệp Định Paris chấm dứt chiến tranh VN được ký kết, với phần thua thiệt về phiá Nam VN, phần thắng lợi bất ngờ về phiá Bắc Việt, và Hoa Kỳ được “rút lui trong danh dự”.
Cầm
bản dự thảo Hiệp Định đã được Mỹ và Bắc Việt phó thự (initial), Cố vấn
Kissinger đi Sài Gòn bắt TT Nguyễn Văn Thiệu ký. Nếu TT Thiệu ký ngay thì chẳng
khác gì ký vào tờ khai tử của chính ông và của cả miền Nam. Bản dự thảo coi như
chung quyết (final draft) này dự trù TT Thiệu phải từ chức liền, trao chính
quyền cho Hội Đồng Hòa Giải Hòa Hợp Dân Tộc gồm 3 thành phần (Quốc, Cộng và
thành phần thứ ba ở giữa).
Hội đồng sẽ tổ chức một cuộc tổng tuyển cử để bầu
lên một chính quyền mới cai trị miền Nam. Một điều khoản khác vô cùng tai hại
là trong khi các lực lượng quân sự của Hoa Kỳ và của các nước đồng minh (Đại
Hàn, Úc, Thái, Phi Luật Tân) phải rút đi thì những đơn vị quân đội chính qui
của Bắc Việt vẫn được quyền ở lại miền Nam. Dĩ nhiên TT Thiệu, Quốc Hội và
chính phủ VNCH phản đối.
Kissinger không thành công trong việc thuyết phục TT
Thiệu. Ông ta giận dữ ra về và thề không trở lại Sài Gòn nữa. TT Nixon phải cử
tướng Alexander Haig, Tổng Quản Trị (Chief of staff) Phủ Tổng Thống, qua Sài
Gòn điều đình và làm áp lực tiếp. Cuối cùng Mỹ cũng phải thỏa hiệp không đòi TT
Thiệu từ chức, không thay thế chính quyền miền Nam bằng Hội Đồng Hòa Giải Hòa
Hợp Dân Tộc, nhưng giữ nguyên điều khoản không buộc quân đội Bắc Việt rút khỏi
miền Nam, vì sợ cộng sản sẽ không nhượng bộ điều này. Kissinger phải đi điều
đình lại với Lê Đức Thọ.
Phiá cộng sản không chịu sửa đổi bản thảo Hiệp định,
Mỹ phải dội bom Hà Nội và phong tỏa hải cảng Hải Phòng vào những ngày cuối năm
1972 để làm áp lực. Cuối cùng Hà Nội cũng phải nhượng bộ nhưng vẫn còn lời chán
vì họ được giữ quân tại miền Nam để tiếp tục cuộc chiến tranh xâm chiếm. Thế là
Hiệp định Paric được ký vào ngày 27-1-1973.
Để
buộc TT Thiệu phải làm theo ý Hoa Kỳ, TT Nixon dùng chiến thuật vừa dỗ vừa dọa.
Một mặt ông viết thư cho TT Thiệu hứa hẹn tiếp tục gúp đỡ VNCH, trừng phạt cộng
sản nếu vi phạm Hiệp định, một mặt ông chính thức hăm dọa“không muốn trường hợp
TT Ngô Đình Diệm tái diễn” (Xem Palace Files và Khi Đồng Minh Tháo Chạy của
Nguyễn Tiến Hưng).
Những tài liệu liên quan tới những lời TT Nixon nói về TT
Thiệu đã được giải mật và lưu trữ tại Thư viện Nixon ở Yorba Linda, California,
cho thấy Nixon rất giận dữ trước việc ông Thiệu chống đối những điều khoản căn
bản của bản dự thảo Hiệp định.
Cuốn băng ghi âm từ 1973 dài 150 giờ và viết lại
thành 30,000 trang đã được giải mật và đã được ông Hughes, nhà chuyên môn
nghiên cứu các băng ghi âm của các tổng thống Mỹ, tiết lộ Nixon đã từng nói
trong một phiên họp tại Bạch Ốc về ông Thiệu: “Tôi không rõ đe dọa đó
có đủ hay không, nhưng tôi sẵn sàng làm bất cứ điều gì, kể cả cắt đầu của hắn
nếu cần thiết” (cut off his head if necessary
- Nguồn: BBCvietnam.com
June 24, 2009). Dĩ nhiên, Nixon nói điều này trong lúc nóng giận nhưng
cũng phản ảnh một phần sự thật. Chính tướng Alexander Haig cũng viết trong hồi
ký là vào thời điểm đó, tên ông Thiệu thường được nhắc tới trong các cuộc thảo
luận và có người đưa ý kiến ám sát ông Thiệu. Tướng Alexander Haig viết thêm:
“Nixon rất mong muốn giải quyết chuyện Việt Nam cho xong và chia sẻ sự bực bội
và tức giận như núi lửa của Kissinger đối với người đồng minh cứng đầu này (ám
chỉ ông Thiệu) đã gây trở ngại lớn nhất cho ông trong việc kết thúc cuộc chiến” (1).
Dọa
nhau như thế, nhưng Mỹ đã không dám làm, vì không dại gì gây chuyện rắc rối mới
khi sắp đến cuộc bầu cử nhiệm kỳ 2 của TT Nixon. Vì vậy thầy trò Nixon phải
thuyết phục VNCH bằng những hứa hẹn trừng phạt những vi phạm Hiệp định và tiếp
tục viện trợ cho Nam VN. Khi tiếp ông Nguyễn Phú Đức, Phụ Tá Ngoại Giao của TT
Thiệu tại tòa Bạch Ốc, TT Nixon đã hứa sống hứa chết (he repeated his bedrock
assurance) là sẽ bỏ bom Bắc Việt một cách nặng nề nếu Bắc Việt vi phạm hỏa ước (2).
Về phần Ngoại Trưởng Henry Kissinger (nhận chức Bộ Trưởng Ngoại Giao ngày
22-9-1973) cũng viết trong hồi ký rằng chính TT Nixon, Bộ trưởng Quốc Phòng và
các giới chức cao cấp của Mỹ đều xác nhận nhiều lần với ông Thiệu là chính phủ
Hoa Kỳ sẽ buộc Bắc Việt phải tôn trong Hiệp định (3).
Hứa như vậy
chỉ là để ông Thiệu yên tâm ký một hiệp ước bất lợi. Thực tế, Mỹ chỉ muốn chấm
dứt chiến tranh “trong danh dự”, có nghiã là lấy được tù binh về, rút chân khỏi
vũng lầy VN, mặc cho Nam VN rơi vào tay cộng sản, trong một “khoảng thời gian
coi được” (decent interval). Vì thế Hành Pháp bầy trò đề nghị Lập Pháp viện trợ
cho Nam VN 700 triệu Đô-la. Lập Pháp lờ đi. TT Gerard Ford lại yêu cầu viện trợ
khẩn cấp 300 triệu. Quốc Hội lấy cớ nghỉ hè, không thể triệu tập phiên họp cứu
xét. Một khi người ta đã quyết tâm bỏ cho chết luôn, làm sao có thể cho tiền để
sống lay lứt thêm một thời gian nữa?
Sau
khi miền Nam rơi vào tay cộng sản, ông đạo diễn phù thủ Kissinger mới viết vuốt
đuôi “Lúc này tôi nghĩ tới một ông tướng VN nhỏ bé, một người yêu nước”. Ở một
đoạn khác, ông viết: “Tôi có rất ít tình bạn cá nhân với ông Thiệu,
nhưng nhìn ông theo đuổi cuộc chiến đấu một cách cô độc sau khi người Mỹ rút
lui, tôi thấy mến phục ông ấy rất nhiều. Ông ít được thương hại, cũng cũng
không được nhiều người hiểu, nhưng những điều đó không ảnh hưởng gì tới nhân
cách của ông” (4).
Đúng
là những lời ai điếu để an ủi. Chính Kissinger đã tiên đoán với Nixon là sau 2
năm ký Hiệp định Paris, miền Nam VN sẽ sụp đổ. Các chính khách có thói quen chỉ
đấm ngực nhận lỗi sau khi rời chức vụ. Về trường hợp Việt Nam, cựu Tổng Thống
Richard Nixon viết cả một cuốn sách rút những kinh nghiệm sai lầm, No More
Vietnams. Cựu Ngoại Trưởng Henry Kissinger viết hồi ký có những đoạn xoa vuốt
Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và gần đây đã chính thức xin lỗi về những sai lầm
của mình. Ông còn xác nhận trong khi Mỹ chấm dứt viện trợ cho miền Nam thì khối
Xô Viết vẫn tiếp tục cung ứng đầy đủ các tiếp liệu cho Bắc Việt. Cựu Bộ Trưởng
Quốc Phòng Melvin Laird nói rằng các khoản viện trợ Mỹ dành cho VNCH đã bị cắt
theo yêu cầu của các thế lực chính trị Mỹ, đưa tới kết qủa chung cuộc là chế độ
miền Nam VN thua trận vào ngày 30-4-1975 (VOA 2-7-2007).
Khi
nhìn thấy vấn đề thì đã trễ. Nhưng khi tại chức, họ chỉ nghĩ tới quyền lợi của
nước họ, tới ghế ngồi và danh dự của cá nhân họ. Một tay cầm súng, một tay cầm
túi Đô la, họ cứ bước lên đầu người khác mà đi. Vì vậy, chúng ta phải nhớ,
trong trường chính trị, không có đồng minh vĩnh viễn và cũng không có kẻ thù
vĩnh viễn. Lý tưởng còn thay đổi huống chi chính sách. Khi nhu cầu đòi hỏi, họ
có thể xoay đổi chính sách 180 độ, bất kể bao nhiêu tiền bạc và xương máu đã đổ
ra. Tiền và mạng người được coi là những chi phí cần thiết cho một giai đoạn
với một chính sách giai đoạn. Lúc phải tiêu là tiêu. Tiêu rồi không tiếc.
Dù
quy trách nhiệm lớn nhất cho Hoa Kỳ trong việc mất miền Nam, chúng ta cũng phải
tự nhận lỗi về những khuyết điểm của mình. Những tính toán sai của các lãnh đạo
quân sự và dân sự, nạn tham nhũng, lính ma lính kiểng, hối mại quyền thế... đều
có xảy ra dù không ở mức độ trầm trọng như dưới chế độ cộng sản. Không thể chấp
nhận những tệ nạn này nhưng chúng không làm mất nước khi ở một mức độ thấp. Dân
miền Nam vẫn sống no đủ, tự do, xây dựng hiện tại và tương lai với đà tiến
triển không ngừng.
Tội nặng nhất phải quy vào những kẻ chỉ biết vụ lợi, những
kẻ “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản”.
Họ là những con buôn bán lén gạo và thuốc
Tây cho cộng sản với giá cao. Họ là những người hướng về rừng với hoài cảm thời
Việt Minh kháng chiến chống Pháp. Họ là những trí thức viễn mơ đề cao giá trị
dân tộc và chống sự hiện diện của người ngoại quốc trên đất nước.
Họ lý luận
rằng cộng sản hay quốc gia đều là người Việt, chắc không xử tệ với nhau như
người ngoại chủng xử với dân mình. Từ đó, họ chống đối chính quyền quốc gia, gán
cho mọi thứ xấu và sẵn sàng nghe theo những lời dụ dỗ của những cán bộ cộng sản
nằm vùng. Họ là những người trẻ bị đàn anh phỉnh gạt bằng những lý luận sai
lầm.
Cuối cùng, họ là những người lãnh đạo tinh thần của một số tôn giáo đã vô
tình hay hữu ý lẫn lộn chuyện đạo với chuyện đời, không phân biệt đấu tranh cho
công lý với đấu tranh chính trị để lật đổ một chế độ hợp pháp, chưa kể mộ số tu
sĩ là cộng sản nằm vùng khéo ngụy trang. Để cai trị một xã hội bị lũng đoạn như
thế, chính quyền vẫn phải áp dụng những nguyên tắc dân chủ, hơi mạnh tay là bị
kết án đàn áp, sửa đổi luật lệ cho hữu hiệu thì bị kết án độc tài. Có bàn tay
cộng sản nhúng vào mọi chỗ mà nhiều người không biết, cứ tưởng mình đang tranh
đấu cho hòa bình, tự do và quyền lợi của dân tộc. Chính những người như vậy đã
tiếp tay cho cộng sản mau chiếm miền Nam.
Mất
rồi mới tiếc. Mắt mở ra mới thấy mình lầm. Trong khi dân trong nước đang đấu
tranh gian khổ để đòi lại những quyền công dân và quyền con người đã bị cướp
mất, đang vật vã đòi lại và giữ gìn những phần biển, đảo mà ông cha để lại,
chúng ta ở hải ngoại đang làm gì? Còn bao nhiêu người nghĩ tới quê hương?
Có
bao nhiêu người dấn thân trong những hành động tranh đấu đòi công lý và nhân
quyền cho anh em ruột thịt trong nước? Hay đa số chúng ta vẫn thờ ơ, coi đó là
việc của người khác? Có người còn tiếp tay cho những kẻ cầm quyền bán nước và
hà hiếp dân dù chính họ đã từng là nạn nhân.
May mắn thay, vẫn còn nhiều người
âm thầm tranh đấu, hay ít ra cũng âm thầm góp công góp của để yểm trợ những
người tranh đấu. Họ thuộc đa số thầm lặng, chỉ lên tiếng khi cần. Vì sống trong
những xã hội tự do, các đoàn thể của người Việt đua nở như nấm gặp mưa. Có
những đoàn thể tốt nhưng cũng có những đoàn thể hữu danh vô thực, thùng rỗng
kêu to. Có những người tốt nhưng cũng có những người chỉ thích danh lợi, thích
làm lãnh tụ, mới làm chủ tịch một hội nhỏ xíu đã mơ và cư xử như một thủ tướng,
bộ trưởng, dân biểu tương lai.
Do đó sự đố kỵ và chia rẽ gia tăng, cộng thêm
những bàn tay bí mật của cộng sản và tay sai nhúng vào quậy phá các cộng đồng.
Trước những tệ nạn trước mắt, chúng ta vẫn không thất vọng khi thấy sau 39 năm,
cộng sản vẫn chưa chiếm được một cộng đồng người Việt nào ở hải ngoại, chưa đưa
được khối người Việt hải ngoại vào vòng chi phối và thần phục nhà đương quyền
Hà Nội, dù cộng sản đã tốn bao công sức và tiền bạc để thi hành Nghị Quyết 36.
Kỷ
niệm 39 năm miền Nam bị đặt dưới chế độ cộng sản, chúng ta cần thay đổi phương
cách hành động. Chúng ta nên ý thức rằng việc trực diện đấu tranh với cộng sản
phải là việc của người trong nước, người ở ngoài chỉ có thể yểm trợ tinh thần,
ngoại vận và phương tiện.
Chúng ta không nên phí tiền bạc vào những việc phô
trương bề ngoài. Hãy dồn phương tiện giúp anh chị em trong nước. Khi tranh đấu
trong thời đại điện tử và thông tin nhanh chóng như hiện nay, họ cần phải có
máy hình, điện thoại di động, computer... Khi ốm đau hoặc khi bị bắt vào tù, họ
cần được tiếp tế lương thực và thuốc men, chưa kể những hoạt động khác đòi hỏi
nhiều phương tiện hơn.
Các đoàn thể ở hải ngoại nên phối hợp trong việc phân
phối sự yểm trợ cho trong nước để tránh tình trạng chỗ ít qúa, chỗ nhiều qúa.
Hãy tạo thêm những đường dây liên lạc mới, tìm kiếm thêm những người dấn thân
mới và giúp đỡ họ. Nếu làm được như thế, đồng bào trong nước sẽ lên tinh thần
và phong trào tranh đấu có cơ lớn mạnh nhanh chóng vì có sự yểm trợ cụ thể và
hữu ích của đồng bào ngoài nước.
Mong
rằng ngày 30-4 năm tới, chúng ta sẽ có một nước Việt Nam đẹp hơn nước Việt Nam
hiện nay.
Ba nhà hoạt động Việt Nam đến Hoa Kỳ
Chân Như - RFA
2014-04-19
2014-04-19
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết