Thích Trí Quang là ai?
Luật sư NGUYỄN VĂN
CHỨC
Cựu Thượng Nghĩ Sĩ
VNCH
Cựu Tổng Thư Ký Liên
Đoàn Công Giáo Việt Nam Hải Ngoại
Nhà văn nhà báo bút
hiệu VIP KK
Báo chí ngoại quốc
từng gọi y là người đã lật đổ Ngô Đình Diệm năm 1963. Báo chí Mỹ năm 1963 còn
gọi y là «người làm cho nước Mỹ phải run sợ».
Khoảng 6 năm sau, một
ngày cuối tháng 2 năm 1969, y đến tôi.
Trưa hôm ấy, tôi đang
ngồi trong văn phòng luật sư, thì chú Vân, người tuỳ phái, hớt hải chạy
vào báo tin Thầy Trí Quang đến. Tôi vội xốc lại quần áo. Chừng dăm phút sau,
Trí Quang buớc vào, theo sau là một vị sư nữ lớn tuổi. Cả hai đều mặc áo
mầu xám.
Tôi đứng lên
chào theo phép lịch sự, rồi giơ tay mời ngồi. Trí Quang nhìn tôi,
mặt lạnh như băng. Tôi đoán, y chờ đợi nơi tôi một cử chỉ thần phục
ngưỡng mộ. Y nhầm. Đối với tôi, y không phải là một nhà tu hành, mà là
một tên cán bộ VC vô học dốt nát. Thứ nữa: y đến để xin tôi giúp đỡ, y
không đến để ban ân huệ.
Theo các tài
liệu mà tôi có, thì Trí Quang, tên thật là Phạm Văn Bông, hay Phạm Văn Quang gì
đó, sinh tại Quảng Bình, Trung Phần. Y là đệ tử của TT Thích Trí Độ, chủ tịch
Hội Phật Giáo Cứu Quốc của Việt Minh.
Cũng theo các tài liệu
mà tôi có, thì trong thời gian 1946-1954, y là cán bộ Vịêt Minh,
hoạt động công khai cho Việt Minh tại vùng đất do Việt Minh kiểm soát. Thời gian
từ 1954 đến 1975, y là cán bộ CS nằm vùng tại Miền Nam
Quốc Gia, hoạt động cho CS Bắc Viêt, nhân danh đạo pháp.
Vũ khí của y là tự
thiêu...
Dĩ nhiên, y không tự
thiêu, mà người khác tự thiêu.
Từ 1963 đến cuối năm
1969, người ta ghi nhận 20 cuộc tự thiêu «vì đạo pháp», không kể cuộc «tự
thiêu» ngày 11 tháng 6 năm 1963 của vị Hoà Thượng đáng kính Thích Quảng Đức tại
ngã tư Phan Đình Phùng-Lê Văn Duyệt, Sàigòn.
Ngoài vũ khí tự thiêu
vì đạo pháp, Trí Quang còn vũ khí xuống đường. Từ 1963 đến cuối
nằm 1969, người ta đếm đuơc 119 (một trăm muới chín) cuộc
xuống đường. Sư sãi xuống đường, tăng ni xuống đuờng, Phật tử xuống đường, công
chức xuống đường, công nhân xuống đuờng, học sinh xuống đuờng, binh sĩ xuống
đường, phu xích lô xuống đuờng. Và bàn thờ Phật xuông duờng,,bên cạnh những
đống rác cù.
Hôm ấy, y đến
tôi.
Chúng ta nên ôn lại
lịch sử.
Năm 1963, chính quyền
Ngô Đình Diệm ký sắc lệnh cấm các tôn giáo treo cờ tôn giáo ở những nơi công
cộng không phải là thánh đuờng hoặc Phật đường. Sắc lệnh ấy áp dụng cho
tất cả các tôn giáo, kể cả công giáo. Rất tiếc, lần đầu tiên sắc lệnh ấy
lại đuợc thi hành vào dịp lễ Phật Đản (ngày 8 tháng 5/1963). Tổng Thống
Ngô Đình Diệm lại là người Công Giáo. Và tổng giám mục Huế lúc đó lại là
Ngô Đình Thục.
Lễ Phật Đản năm đó tại
chùa Từ Đàm (Huế) đã biến thành cuộc đấu tranh đòi bình đẳng tôn giáo,
với những lời thuyết pháp kêu gọi bạo động. Bài thuyết pháp tại chuà Từ
Đàm năm ấy đã không đuợc đài phát thanh Huế cho phát thanh . Trí Quang bèn huy
đông «Phật tử» đến biểu tình trước đài phát thanh. Thiếu tá Đặng
Sĩ, (Phó Tỉnh Trưởng Nội An Thừa Thiên kiêm Tiểu Khu Trưởng) đem quân đội đến
giải tán. Một quả tạc đạn nổ. Có «tám em phật tử chết và một số nguời bị
thương».
Thiếu tá Đặng Sĩ bị
mang ra toà đại hình
Theo dư luận, thì vụ
tạc đạn là do đệ tam nhân chủ mưu. Và người hưởng lợi, là tên cán bộ Trí Quang.
Hôm ấy, y đến tôi.
Đêm 20 tháng 8/1963,
chuà Xá Lợi, trụ sở Uỷ Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo, bị quân đội của chính
quyền Ngô Đình Diệm tấn công. Hoà Thượng Thích Tịnh Khiết, Thượng Toạ Thích Tâm
Châu và nhiều tăng ni bị bắt. Riêng Trí Quang đã «nhanh chân trốn thoát» đuợc vào
toà đại sứ Mỹ.
Năm 1964, tướng Nguyễn
Khánh lật đổ Dương Văn Minh và lên làm quốc trưởng. Một số người công giáo
xuống đường biểu tình đòi chính quyền phải thẳng tay với những kẻ nhân
danh đạo pháp hoạt động cho cộng sản. Họ nêu đích danh Trí Quang.
Theo cuốn Bạch Thư Về
Vấn Đề Chia Rẽ Giữa Ấn Quang Và Việt Nam Quốc Tự» của Đại Hoà Thượng Thích Tâm
Châu (xuất bản tại Montréal,Canada, năm 1994, trang 35 ) thì Trí Quang đã
«cạo bỏ râu mày « cải trang trốn xuống Châu Đốc tìm đuờng sang Cao Mên. ». Khi
nghe tình hình tạm yên, Trí Quang trở về Sàigòn.
***
Năm 1966, bàn thờ Phật
được mang xuống đuờng, đặt ngang hàng với rác rưởi và phân bón, tại
Huế, tại Sàigòn. Người chủ trương và phát động chiến dịch ô nhục này là Trí
Quang.
Ngày 19 tháng 6 năm
1966, «quân phiệt» Nguyễn Cao Kỳ, tư lệnh Không Quân kiêm chủ tịch Uỷ Ban Hành
Pháp Trung Ương mang quân dẹp loạn miền Trung. Trí Quang bị tướng Nguyễn
Ngọc Loan bắt mang về Sàigòn bằng phi cơ quân sự. Về tới Sàigòn, y đuợc cho
nằm tại bệnh viện đỡ đẻ của bác sĩ Nguyễn Duy Tài, đường Duy
Tân.
Tôi trách Nguyễn
Ngọc Loan. Phải chi hôm ấy tôi có mặt trong chiếc phi chở Trí Quang về
Sầi gòn. Tôi sẽ trói Trí Quang lại., bĩt mồm y, trùm chăn bông lên người
y, và dùng chầy đập đầu y.
Nguời Quốc Gia chúng
ta qúá hiền, và quâ lịch
***
Tôi xin nói rõ: hôm ấy
là một ngày cuối tháng 2 năm 1969.
Thích Trí Quang đễn
tôi.
Tại sao y đến
tôi?
Một lần nữa, chúng ta
hãy ôn lại lịch sử.
Ngày 23/2/1969, lực
lượng an ninh của chính quyền Nguyen Văn Thiệu vào khám xét Tổng Vụ Thanh
Niên Phật Giáo đường Công Lý, Sàigòn, bắt giữ thượng toạ Thích
Thiện Minh cùng một số du đãng trốn quân dịch. Tang vật gồm nhiều tài
liệu VC, một khẩu súng AK cùng Thích Thiện Minh bị truy tố ra toà về những
tội sau đây: phản nghịch, chứa chấp vũ khí bất hợp pháp và chưá chấp du đãng
trốn quân dịch.
Trong bộ ba lãnh đạo
Phật Giáo Ấn Quang lúc đó (Thích Minh Châu-thế danh Nguyễn Văn Nam - phụ trách
về đường lối, Thích Trí Quang phụ trách hành động, và Thích Thiện Minh - thế
danh Đổ Xuân Hằng-phụ trách tổ chức), thì TT Thích Thiện Minh đuợc coi là có
đởm lược nhất.
Chính vì vậy mà Trí
Quang đã đến tôi. Y, nhờ tôi đich thân đứng ra biện hộ cho TT Thiện Minh trước
tòa, trước dư luận, cũng như truớc lương tâm của chính y. Nhưng tôi
đã từ chối.
Tôi nói với y: «Tôi
đã từng biện hộ cho những tên đặc công Việt Cộng can tội mưu sát, phản nghịch.
Tôi đã từng nhận lời trối trăng của những tên tử tội Việt Cộng trước giờ hành
quyết tại pháp trường cát. Nhưng tôi không thể biện hộ cho những kẻ núp sau tấm
áo cà sa để tranh đấu gian lận, một chiều, phá họai chính quyền Quốc Gia, đâm
sau lưng các chiến sĩ Quốc Gia, trói tay Quân Đội VNCH, và tiếp tay cho cộng
sản thôn tính Miền Nam.»
Những lời nói trên
cũng đã đuợc ghi lại trong quyển Việt Nam Chánh Sử của tôi (xuất bản thập niên
1986).
Năm 1989, nhóm Giao
Điểm (thân cộng) đả kích tôi. Họ nói: Sài gòn thời đó thiếu gì luật sư giỏi,
như Võ Văn Quan, Trần Văn Tuyên, Vũ Văn Mẫu. Thượng Tọa Thích Trí Quang đâu cần
phải nhờ đến Nguyễn Văn Chức.
Hôm nay, một ngày cuối
tháng 2 năm 2005, tôi xin trả lời, như chưa bao giờ trả lời.
Tôi không dám nói tôi
giỏi hơn các vị luật sư nói trên. Nhưng tôi dám nói : trước toà án cũng như trước
dư luận Miền Nam bấy giờ, quý vị luật sư nói trên không có đuợc tầm vóc
cuả tôi. Hơn nữa, quý vị ấy đạo Phật, mà tôi là đạo công giáo.
Chính vì vậy, mà Thích Trí Quang đến tôi. Y cần một tên tuổi công giáo
trong luật sư đoàn cũng như trong Thượng Nghị Viện, để biện hộ cho cái «chính
nghĩa Ấn Quang» của y. Và tôi đã từ chối. Tuy từ chối, tôi vẫn vào thăm
TT Thích Thiện Minh trong tù.
TT Thích Thiện Minh bị
mang ra xét xử trước toà án Mặt Trận Vùng Ba Chiến Thuật trong ba ngày, 12, 14,
15 tháng 3/1969, và bị lên án 15 năm khổ sai .
Thượng toạ được chính
quyền Miền Nam ân xá ngày 30/10/1969, nhờ sự can thiệp của Ân Xá Quốc Tế và
phái đoàn Hoa Kỳ trong đó có dân biểu John Conyers.
Và như chúng ta đã
biết: nằm 1975 sau khi Miền Nam lọt vào tay Việt Cộng, hai nhà sư Trí
Quang và Minh Châu đuợc hưởng ơn mưa móc của bọn chó đẻ Viêt Cộng cờ đỏ
sao vàng, an nhiên tự tại, không thiết đến đạo pháp và dân tộc. Riêng
TT Thích Thiện Minh vẫn một lòng với đạo pháp và dân tộc, vì vậy đã
bị Việt Cộng tống giam, rồi chết trong tù.
Phải chăng cái chết
cuả Thượng Toạ Thích Thiện Minh đã khẳng định một sự thật? Sự thật đó,
là: Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất thời Cộng Hòa Việt Nam không phải là
Phật Giáo Ấn Quang của nhà sư Trí Quang thời đó, cũng không phải là
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam quốc doanh hôm nay của Việt Cộng.
Chuyến đi VN
thuyết pháp mới đây (Tết năm Dậu 2005) của vợ chồng tên thiền sư Nhất Hạnh-được
nhà nước Việt Cộng cỗ võ và tiếp đón linh đình --đã xác nhận điều đó.
Đồng bào trong và
ngoài nước đều biết: Thích Nhất Hạnh đã xin đến bái kiến Hoà Thượng Thích
Quảng Độ tất cả bốn lần. Và tất cả bốn lần, Hoà Thuợng đã từ chối không
tiếp.
Nguyễn Văn Chức
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết