On Friday, October 24, 2014 8:13
PM, Trucie D. wrote:
Một con người
lịch sử - (Lm.
VĨNH SANG, DCCT)
Ngô
Đình Diệm-50 năm:Bí ẩn Lịch Sử VN
|
|||||||
|
|
|
|
|
|
||
Preview by Yahoo
|
|||||||
|
|||||||
HLTL Theo Dõi Sự Kiện , TT VNCH NGÔ ĐÌNH DIỆM , VIỆT
NAM 10/24/2014
VRNs (25.10.2014) –
Sài Gòn- Hôm qua, một người bạn nhắc tôi đi thăm mộ Cụ Ngô Đình Diệm, tôi chợt
nhớ đã gần đến ngày giỗ của Cụ, nhanh thật, 52 năm rồi, từ năm 1963 xa tắp đến
bây giờ, thời gian qua nhanh, nhiều thay đổi, thời gian quá dài đủ để trắng đen
tỏ bày trong lịch sử công minh.
Nhớ
những năm xưa, hai ngôi mộ lạnh lùng trong nghĩa trang rộng mênh mông giữa lòng
thành phố, người ta còn bảo tên khắc trên mộ không đúng như vậy, dười phần mộ
Huynh là Đệ, dưới phần mộ Đệ là Huynh ! Chết rồi vẫn chưa yên mồ mả, hận thù và
gian ác thật khủng khiếp. Nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi “ban” cho thành phố một
khoảng trời thinh lặng, nhẹ nhàng mênh mang và sâu lắng, bầu khí nghĩa trang
Mạc Đĩnh Chi mang lại cho con người khung trời sống hồi tâm. Tuổi trẻ Sàigòn
chúng tôi vẫn tìm đến mỗi khi mỏi mệt với những quay cuồng của thế sự, suy ngẫm
và trải lòng cùng cỏ cây mây gió, cảm giác nhẹ nhàng và bình an sau những giây
phút dạo chơi trên con đường già nua giữa nghĩa trang im ắng, lá vàng không
ngừng rơi rụng dưới những bước chân lạnh lùng.
Năm mươi hai năm qua rồi, thời gian đủ để phơi bày khá nhiều sự,
lịch sử nhân loại cũng như lịch sử đất nước này đảo lộn nhanh đến chóng mặt,
nhiều điều bất ngờ nhưng cũng có nhiều điều tất yếu, chẳng cần bàn đến chuyện
công-tội, đã có lịch sử làm rõ cuộc đời. Nhớ đến Cụ trong ngày giỗ sắp tới,
những điều rút ra được cho bài học làm người nhất là làm người Kitô hữu thật
cần thiết cho mỗi người chúng ta, bậc tiến bối cũng như kẻ hậu sinh.
Con người có nhân cách
Nhiều tài liệu dần dần được bạch hóa, xóa vĩnh viễn nhưng câu
chuyện đàm tiếu, đơm đặt, vu khống một cách thô lỗ về con người Ngô Đình Diệm.
Từ cách ăn mặc, cách tiếp xúc, cách ứng xử với người thân trong gia đình, với
người cộng tác, đến chương trình sống và làm việc mỗi ngày của Cụ, tất cả cho
chúng ta thấy Cụ là một con người có nhân cách.
Những câu chuyện dựng đứng về đời tư của Cụ chỉ cần 50 năm thôi đã
trở thành những trò hoàn toàn bịa đặt một cách độc ác và hèn hạ. Cho đến nay,
không một tài liệu nào có thể dẫn chứng về bất kỳ một mối quan hệ bất xứng nào
của Cụ với người khác. Với cô em dâu Ngô Đình Nhu, hơn 50 năm sống âm thầm im
lặng không một điều tiếng, bà mất đi mang theo những hình ảnh thật đẹp về con
người Bà và về người anh đáng kính của chồng Bà. Thời gian thật nhiệm mầu.
Cái cách của Cụ Diệm đã sống, yêu thương và bao bọc mọi người, lấy
sự sống phồn thịnh của người dân làm mục đích, lấy sự độc lập của dân tộc làm
kim chỉ nam, lấy sự bình an và mạng sống của nhiều người làm tôn chỉ, và nhất
là những quyết định của Cụ trong những giờ phút cuối đời để không phải đổ máu
nhiều người, càng làm nổi bật những nét nhân cách này.
Con người có đạo đức
Tài liệu để lại về Cụ cho thấy rõ Cụ là con người rất đạo đức,
những tấm ảnh chụp mỗi sáng Cụ vào Nhà Nguyện để dâng Thánh Lễ và quỳ cầu nguyện
lâu giờ như một thầy tu. Những lần xuất ngoại công tác, Cụ không ở trong nhà
khách với các tiện nghi sang trọng dành cho quốc khách, Cụ tạm trú trong một Tu
Viện gần nơi làm việc, vẫn tiếp tục dành giờ để cầu nguyện riêng trong bầu khí
thánh thiêng.
Trong ngày cuối cùng của cuộc đời nhân thế, nơi Cụ chọn để tạm trú
lại cũng là một ngôi Nhà Thờ, Nhà Thờ Cha Tam trong Chợ Lớn. Cụ đã dành những
giờ phút đầy nhiễu nhương tao loạn cuối đời cho việc cầu nguyện trước khi gọi
điện nộp mình cho những người sẽ sát hại Cụ. Có kẻ độc miệng cho rằng Cụ đóng
kịch, vậy ai đó hãy cứ thử đóng kịch được như vậy?
Con người bị phản bội
Bên cạnh những tia sáng nhân đức trong đạo ngoài đời như thế, bóng
tối của sự phản bội vẫn hung hăng kéo một phần ba tinh tú trên trời xuống đất.
Có thể nói, tất cả những kẻ đóng những vai chủ chốt trong cuộc chính biến
1.11.1963 toàn là những kẻ đã được chính Cụ yêu thương, cất nhắc, và thậm chí
được Cụ nhận làm… con nuôi ! Đau đớn là như vậy. Hàng tướng lãnh bất tài, háo
danh, kiêu ngạo, mê quyền lực và nhất là có tâm địa và hành động phản trắc hèn
hạ đã đẩy miền Nam và đẩy cả đất nước này lao đao cả nửa thế kỷ vừa qua. Sự Dữ
đã hoành hành như muốn nhận chìm tất cả…
Con Chiên chịu sát tế
Hôm qua tôi có dịp dùng cơm với một vị Giám Mục đáng kính, ngồi
giữa 4 anh em Linh Mục thân hữu như con cái của ngài, ngài bộc bạch suy tư:
“Chúa Giêsu sinh ngoài đồng, sống ngoài đường, chết ngoài đồi, Chúng ta sẽ
không có cách sống nào khác ngoài cách sống ấy”.
Cụ Ngô Đình Diệm đã chọn sống cho người khác, sống kết thân với
Chúa và sống đối đầu với Sự Ác, Cụ không có con đường nào khác ngoài con đường
Chúa Giêsu đã đi, quả thật Cụ đã bị sát tế nên giống như Thầy Chí Thánh của
mình.
Là Kitô hữu, chúng ta có hiểu và chấp nhận điều đó không? Hay lại
tìm sự thỏa hiệp và từ chối thập giá?
Lm. VĨNH SANG, DCCT, 24.10.2014
http://www.chuacuuthe.com/2014/10/mot-con-nguoi-lich-su/
http://hoilatraloi.blogspot.com/2014/10/mot-con-nguoi-lich-su-lm-vinh-sang-dcct.html
http://hoilatraloi.blogspot.com/2014/10/mot-con-nguoi-lich-su-lm-vinh-sang-dcct.html
(Updating...
16 địa điểm) Theo Dõi Lịch Trình Đồng Bào Tị Nạn Cộng Sản Toàn Cầu Tổ Chức Lễ
Tưởng Niệm Cố Tổng Thống Đệ I VNCH Ngô Đình Diệm Lần Thứ 51 (1/11/1963 -
1/11/2014)
HLTL CỘNG
ĐỒNG , Theo
Dõi Sự Kiện 10/22/2014
(Xem: 1802) -
Dưới đây là lịch trình Lễ Tưởng
Niệm Cố Tổng
Thống Đệ I VNCH Ngô Đình Diệm, Cố Vấn Ngô Đình Nhu, cùng
Quân Dân Cán Chánh VNCH đã Vị Quốc Vong Thân, Lần Thứ 51 (1/11/1963 - 1/11/2014),do Người Việt Quốc Gia Tị
Nạn Cộng Sản toàn cầu tổ chức tại 16 địa điểm. (Còn đang bổ túc... Để danh
sách tưởng niệm Tổng Thống Ngô
Đình Diệm năm 2014 được đầy đủ xin vui lòng email vềlienlachoilatraloi@gmail.com để chúng tôi
bổ túc vào danh sách. Xin cảm ơn.)
thanh nguyen
To
BCC
Today at
8:46 AM
Kính Quí Vị, Quí Bạn,
Ngay mai, CN 26 tháng 10, nhiều nơi tổ chức Lễ Tương Niệm TT Ngô
Đình Diệm. Riêng tại vùng Little Saigon một Lễ Tưởng
Niệm sẽ tổ chức vào lúc 11 giờ sáng.
Tại: Khuôn viên Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ(Freedom Park), 14180 All
American Way, Westminster, CA 92683 - Hoa Kỳ [xem lịch trình tổ chức bên dưới]
Tổ chức nào muốn đặt vóng hoa thì liên lạc với ban tổ chức.
Nhân dịp nầy,
trachnhiemOnline kính mời Quí Vị, Quí Bạn ghé lại trang nhà :
xem các bài viết của Đại Tá Nguyễn Huy Hùng, bài của Ts Phan
Văn Lưu, bài của Cựu Thẩm phán Phạm Đình Hưng và nhiều bài viết khác liên
quan đến ngày lịch sử . Không hài lòng, xin xóa bỏ. Rất đa tạ!
Tưởng
Niệm Chí Sỹ Ngô Đình Diệm Vị Quốc Vong Thân
***
Lịch trình Lễ Tưởng Niệm
Cố Tổng Thống Đệ I VNCH: Ngô Đình Diệm
Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm (1901-1963) Vị Tổng Thống đã sáng lập nền Cộng Hòa Việt Nam
Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, và bào đệ Ngô Đình Nhu, cùng Quân Dân Cán Chánh VNCH đã Vị Quốc Vong Thân
Dưới đây là lịch trình Lễ Tưởng Niệm Cố Tổng Thống Đệ I VNCH Ngô Đình Diệm, Cố Vấn Ngô Đình Nhu, cùng Quân Dân Cán Chánh VNCH đã Vị Quốc Vong Thân, Lần Thứ 51 (1/11/1963 - 1/11/2014), do Người Việt Quốc Gia Tị Nạn Cộng Sản từ khắp nơi trên thế giới tổ chức tại 15 địa điểm. (Còn đang bổ túc... Để danh sách tưởng niệm Tổng Thống Ngô Đình Diệm năm 2014 được đầy đủ xin vui lòng email vềlienlachoilatraloi@gmail.com để chúng tôi bổ túc vào danh sách. Xin cảm ơn.)
- Đức Quốc
1. FRANKFURT, ĐỨC: Thư mời tham dự Lễ Tưởng Niệm 51` nam Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Cố Vấn Ngô Đình Nhu và những Quân Dân Cán Chính VNCH đã Vị Quốc Vong Thân do Người Việt Quốc Gia Tị Nạn Cộng Sản tại Frankfurt và vúng phụ cận tổ chức vào :
Thời gian: Thứ Bảy 1/11/2014 lúc 14 giờ 00.
Địa điểm:
St. Lioba, Ben-Gurion Ring 16a - 60437 Bonames/Frankfurt am Main - Đức Quốc
2. BERLIN, Đức Quốc: Thư mời tham dự Lễ Húy Nhật lần thứ 51 Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm do Khối Tinh Thần Ngô Đình Diệm tổ chức
Vào ngày Thứ Bảy 15/11/2014 lúc 15 giờ 00. Địa điểm: St. Aloysius, Schwyzer Str. 2, 13349 Berlin - Đức Quốc
- Hoa Kỳ
1. PHOENIX, ARIZONA: Thư Mời tham dự Lễ Giỗ lần thứ 51 Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm do Hậu Duệ VNCH tại Arizona tổ chức:
Vào ngày Thứ Bảy 1/11/2014 lúc 7 giờ tối. Địa điểm: Sun Trees Center, 4120 N. 20 St, Phoenix AZ 85016 - Hoa Kỳ
2. SACRAMENTO, BẮC CALI: Thư mời tham dự Lễ Tưởng Niệm Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm do Liên Hội Cựu Quân Nhân QLVNCH Sacramento tổ chức: vào:
Vào ngày Chủ Nhật 2/11/2014 lúc 11 giờ sáng. Địa điểm: Trung Tâm Sinh Hoạt Cộng Đồng, 6270 Elder Creek Rd, Sacramento, CA 95824 - Hoa Kỳ
3. SAN JOSE, BẮC CALI: Thư mời tham dự Lễ Tưởng Niệm Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm do Khu Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị Bắc California tổ chức:
Vào Thứ Bảy, ngày 1/11/2014 lúc 11 giờ 30 sáng. Địa điểm: Trung Tâm Sinh-Hoạt Khu-Hội 111 E. Gish road - San Jose, CA 95112 - Hoa Kỳ
4. SAN JOSE, BẮC CA: Lễ Tưởng Niệm Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Các Chiến Sĩ bỏ mình vì Chính Nghĩa Quốc Gia do Ban Đại Diện Cộng Đồng Viwet65 Nam Bắc California tổ chức:
Vào Chúa Nhật, ngày 2/11/2014 lúc 2:00 PM. Địa điểm: 1141E. William street, San Jose, CA 95116 - Hoa Kỳ
5. WESTMINSTER & SANTA ANA, NAM CALI: Thư mời tham dự Lễ Tưởng Niệm Cố Tổng Thống Ngộ Đình Diệm và các Quân Dân Cán Chính Việt Nam Cộng Hòa tổ chức:
- Vào Chúa Nhật, ngày 26/10/2014 lúc 11 giờ sáng. Tại: Khuôn viên Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ (Freedom Park), 14180 All American Way, Westminster, CA 92683 - Hoa Kỳ
- Vào ngày Thứ Bảy 1/11/2014 lúc 10 giờ sáng. Địa điểm: Thánh Đường Saint Barbara, 730 S. Euclid St, Santa Ana, CA 92704 - Hoa Kỳ
6. NORCROSS, GEORGIA: Thư mời tham dự Lễ Tưởng Niệm Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Chiến Sĩ Trận Vong do Khối Người Việt Quốc Gia Tinh Thần Ngô Đình Diệm Tiểu bang Georgia tổ chức:
- Vào Chúa Nhật, ngày 2/11/2014 lúc 2 giờ chiều. Địa điểm: I Luv Phở 1, địa chỉ: 4650 Jimmy Carter Blvd #133B, Norcross, GA 30093 - Hoa Kỳ
7. DORCHESTER, MA: Thư mời tham dự Lễ Kỷ Niệm Ngày Thành Lập Việt Nam Cộng Hòa và Lễ Giỗ Lần Thứ 51 của Vị Sáng Lập: Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm:
- Vào Chủ Nhật, ngày 26/10/2014 lúc 10 giờ 00 AM. Địa điểm: Hội trường Nhà Thờ St. Gregory, 2214 Dorchester Ave., Dorchester, MA 02124 - Hoa Kỳ
***Với sự hiện diện của:
- Giáo Sư Nguyễn Thị Thu- Hồng, cháu ruột Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm đến từ Canada
- Anh Lê Quang Phúc, con trai Cố Đại Tá Lê Quang Tung, đến từ Canada
- Luật Sư Lê Trọng Quát, Cố vấn khối Tinh Thần Ngô Đình Diệm, nguyên Chủ tịch Ủy ban Quốc phòng, Trưởng khối Dân biểu cùng nhiều chức vụ quan trọng trong thời Đệ Nhất và Đệ Nhị VNCH đến từ Paris, Pháp quốc
8. TUKWILA, WASHINGTON: Thư mời tham dự Lễ Tưởng Niệm Chí Sĩ Ngô Đình Diệm 1-11-1963 - 1-11-2014 do Khối Tinh Thân Ngô Đình Diệm Tiểu bang Washington tổ chức
- Vào Thứ Bảy, ngày 1/11/2014 lúc 11 giờ 00 AM. Địa điểm: Thánh Đường Giáo Xứ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, 6841 S. 180th St., Tukwila, Washington - Hoa Kỳ
Úc Châu
1. NSW, ÚC: Thống báo thay Thư Mời tham dự Lễ Gio64thu71 51 Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm do Hội Thân Hữu Người Việt Người Việt Quốc Gia Tị Nạn Cộng Sản tại NSW/ Úc Châu tổ chức:
Vào Thứ Bảy, ngày 1/11/2014 lúc 2 giờ chiều. Địa điểm: Thánh Đường Our Lady of the Rosary Parish, Fairfield. Số 18, Vine Street, Fairfield NSW 2166 - Úc Châu
2. VICTORIA, ÚC: THÔNG BÁO VÀ THƯ MỜI THAM DỰ LỄ GIỖ VÀ TƯỞNG NIỆM LẦN THỨ 51 CỐ TỔNG THỐNG NGÔ ĐÌNH DIỆM DO CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT TỰ DO TẠI VICTORIA TỔCHỨC, Thứ Bảy 1/11/2014
Vào ngày Thứ Bảy 1/11/2014 lúc 11 giờ sáng. Địa điểm: Đền Thờ Quốc Tổ, Số 90 Knight Ave, Sunshine North, VIC 3020 - Úc Châu
3. QUEENSLAND, ÚC: LỄ TƯỞNG NIỆM TỔNG THỐNG NGÔ ĐÌNH DIỆM LẦN THỨ 51 VÀ THÁNH LỄ CẦU NGUYỆN DO NHÓM TINH THẦN NGÔ ĐÌNH DIỆM TỔ CHỨC, Thứ Bảy 1/11/2014
Vào ngày Thứ Bảy 1/11/2014 lúc 10 giờ 30 sáng. Địa điểm: Thánh Đường Our Lady Of The Sacred Heart. 99 Darra Station Road - Darra. Tiểu Bang Queensland - Úc Châu
Pháp
1. PARIS, PHÁP QUỐC: THƯ MỜI THAM DỰ LỄ ĐỆNGŨ THẬP NHẤT CHU NIÊN, HÚY NHẬT TỔNG THỐNG NGÔ ĐÌNH DIỆM DO NHÀ THỜ SAINT-LÉON TỔ CHỨC, Thứ Bảy 1/11/2014
Vào ngày Lễ Chư Thánh, Thứ Bảy 1/11/2014, lúc 13 giờ00. Địa Điểm: Nhà thờ Saint-Leon - 1, Place du Cardinal Amette, Paris 15 - Pháp Quốc
St. Lioba, Ben-Gurion Ring 16a - 60437 Bonames/Frankfurt am Main - Đức Quốc
2. BERLIN, Đức Quốc: Thư mời tham dự Lễ Húy Nhật lần thứ 51 Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm do Khối Tinh Thần Ngô Đình Diệm tổ chức
Vào ngày Thứ Bảy 15/11/2014 lúc 15 giờ 00. Địa điểm: St. Aloysius, Schwyzer Str. 2, 13349 Berlin - Đức Quốc
- Hoa Kỳ
1. PHOENIX, ARIZONA: Thư Mời tham dự Lễ Giỗ lần thứ 51 Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm do Hậu Duệ VNCH tại Arizona tổ chức:
Vào ngày Thứ Bảy 1/11/2014 lúc 7 giờ tối. Địa điểm: Sun Trees Center, 4120 N. 20 St, Phoenix AZ 85016 - Hoa Kỳ
2. SACRAMENTO, BẮC CALI: Thư mời tham dự Lễ Tưởng Niệm Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm do Liên Hội Cựu Quân Nhân QLVNCH Sacramento tổ chức: vào:
Vào ngày Chủ Nhật 2/11/2014 lúc 11 giờ sáng. Địa điểm: Trung Tâm Sinh Hoạt Cộng Đồng, 6270 Elder Creek Rd, Sacramento, CA 95824 - Hoa Kỳ
3. SAN JOSE, BẮC CALI: Thư mời tham dự Lễ Tưởng Niệm Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm do Khu Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị Bắc California tổ chức:
Vào Thứ Bảy, ngày 1/11/2014 lúc 11 giờ 30 sáng. Địa điểm: Trung Tâm Sinh-Hoạt Khu-Hội 111 E. Gish road - San Jose, CA 95112 - Hoa Kỳ
4. SAN JOSE, BẮC CA: Lễ Tưởng Niệm Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Các Chiến Sĩ bỏ mình vì Chính Nghĩa Quốc Gia do Ban Đại Diện Cộng Đồng Viwet65 Nam Bắc California tổ chức:
Vào Chúa Nhật, ngày 2/11/2014 lúc 2:00 PM. Địa điểm: 1141E. William street, San Jose, CA 95116 - Hoa Kỳ
5. WESTMINSTER & SANTA ANA, NAM CALI: Thư mời tham dự Lễ Tưởng Niệm Cố Tổng Thống Ngộ Đình Diệm và các Quân Dân Cán Chính Việt Nam Cộng Hòa tổ chức:
- Vào Chúa Nhật, ngày 26/10/2014 lúc 11 giờ sáng. Tại: Khuôn viên Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ (Freedom Park), 14180 All American Way, Westminster, CA 92683 - Hoa Kỳ
- Vào ngày Thứ Bảy 1/11/2014 lúc 10 giờ sáng. Địa điểm: Thánh Đường Saint Barbara, 730 S. Euclid St, Santa Ana, CA 92704 - Hoa Kỳ
6. NORCROSS, GEORGIA: Thư mời tham dự Lễ Tưởng Niệm Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Chiến Sĩ Trận Vong do Khối Người Việt Quốc Gia Tinh Thần Ngô Đình Diệm Tiểu bang Georgia tổ chức:
- Vào Chúa Nhật, ngày 2/11/2014 lúc 2 giờ chiều. Địa điểm: I Luv Phở 1, địa chỉ: 4650 Jimmy Carter Blvd #133B, Norcross, GA 30093 - Hoa Kỳ
7. DORCHESTER, MA: Thư mời tham dự Lễ Kỷ Niệm Ngày Thành Lập Việt Nam Cộng Hòa và Lễ Giỗ Lần Thứ 51 của Vị Sáng Lập: Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm:
- Vào Chủ Nhật, ngày 26/10/2014 lúc 10 giờ 00 AM. Địa điểm: Hội trường Nhà Thờ St. Gregory, 2214 Dorchester Ave., Dorchester, MA 02124 - Hoa Kỳ
***Với sự hiện diện của:
- Giáo Sư Nguyễn Thị Thu- Hồng, cháu ruột Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm đến từ Canada
- Anh Lê Quang Phúc, con trai Cố Đại Tá Lê Quang Tung, đến từ Canada
- Luật Sư Lê Trọng Quát, Cố vấn khối Tinh Thần Ngô Đình Diệm, nguyên Chủ tịch Ủy ban Quốc phòng, Trưởng khối Dân biểu cùng nhiều chức vụ quan trọng trong thời Đệ Nhất và Đệ Nhị VNCH đến từ Paris, Pháp quốc
8. TUKWILA, WASHINGTON: Thư mời tham dự Lễ Tưởng Niệm Chí Sĩ Ngô Đình Diệm 1-11-1963 - 1-11-2014 do Khối Tinh Thân Ngô Đình Diệm Tiểu bang Washington tổ chức
- Vào Thứ Bảy, ngày 1/11/2014 lúc 11 giờ 00 AM. Địa điểm: Thánh Đường Giáo Xứ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, 6841 S. 180th St., Tukwila, Washington - Hoa Kỳ
Úc Châu
1. NSW, ÚC: Thống báo thay Thư Mời tham dự Lễ Gio64thu71 51 Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm do Hội Thân Hữu Người Việt Người Việt Quốc Gia Tị Nạn Cộng Sản tại NSW/ Úc Châu tổ chức:
Vào Thứ Bảy, ngày 1/11/2014 lúc 2 giờ chiều. Địa điểm: Thánh Đường Our Lady of the Rosary Parish, Fairfield. Số 18, Vine Street, Fairfield NSW 2166 - Úc Châu
2. VICTORIA, ÚC: THÔNG BÁO VÀ THƯ MỜI THAM DỰ LỄ GIỖ VÀ TƯỞNG NIỆM LẦN THỨ 51 CỐ TỔNG THỐNG NGÔ ĐÌNH DIỆM DO CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT TỰ DO TẠI VICTORIA TỔCHỨC, Thứ Bảy 1/11/2014
Vào ngày Thứ Bảy 1/11/2014 lúc 11 giờ sáng. Địa điểm: Đền Thờ Quốc Tổ, Số 90 Knight Ave, Sunshine North, VIC 3020 - Úc Châu
3. QUEENSLAND, ÚC: LỄ TƯỞNG NIỆM TỔNG THỐNG NGÔ ĐÌNH DIỆM LẦN THỨ 51 VÀ THÁNH LỄ CẦU NGUYỆN DO NHÓM TINH THẦN NGÔ ĐÌNH DIỆM TỔ CHỨC, Thứ Bảy 1/11/2014
Vào ngày Thứ Bảy 1/11/2014 lúc 10 giờ 30 sáng. Địa điểm: Thánh Đường Our Lady Of The Sacred Heart. 99 Darra Station Road - Darra. Tiểu Bang Queensland - Úc Châu
Pháp
1. PARIS, PHÁP QUỐC: THƯ MỜI THAM DỰ LỄ ĐỆNGŨ THẬP NHẤT CHU NIÊN, HÚY NHẬT TỔNG THỐNG NGÔ ĐÌNH DIỆM DO NHÀ THỜ SAINT-LÉON TỔ CHỨC, Thứ Bảy 1/11/2014
Vào ngày Lễ Chư Thánh, Thứ Bảy 1/11/2014, lúc 13 giờ00. Địa Điểm: Nhà thờ Saint-Leon - 1, Place du Cardinal Amette, Paris 15 - Pháp Quốc
Việt Nam Cộng hòa
Bách khoa toàn thư mở
Wikipedia
Mục
từ "Nam Việt Nam" dẫn đến bài này. Xin đọc về các nghĩa khác tại Miền
Nam Việt Nam.
|
Mục lục
- 3 Các đơn
vị hành chính cấp tỉnh
- 4 Các đơn
vị hành chính dưới cấp tỉnh
- 5 Các quân
khu
- 6 Quân sự
- 7 Ngoại
giao
- 8 Kinh tế
- 9 Văn hóa
và xã hội
- 10 Giáo dục
- 11 Hạ tầng
cơ sở
Quốc gia Việt Nam 1949-1955
Đệ nhất Cộng hòa 1955-1963
Sau Cuộc trưng cầu dân ý miền Nam Việt Nam,
1955, Ngô Đình Diệm truất phế quốc trưởng Bảo Đại để lên
nắm quyền trở thành Quốc trưởng Quốc gia Việt Nam.[1] Sau
đó, Quốc gia Việt Nam tổ chức bầu cử Quốc hội Lập hiến. Quốc hội này ban hành
Hiến pháp thành lập Việt Nam Cộng hòa trên cơ sở Quốc gia Việt Nam, thủ đô là
thành phố Sài Gòn và ngày
ban hành Hiến pháp 26 tháng 10 trở
thành ngày Quốc khánh của Đệ nhất Cộng hòa. Việt
Nam Cộng hòa theo thể chế chính trị đa đảng, kinh tế tư bản chủ nghĩa và
được Mỹ giúp đỡ, bảo vệ để chống lại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam
Việt Nam tại miền Nam.
Dưới
thời Tổng thống Ngô Đình Diệm, chính quyền đi theo chủ nghĩa Cần lao Nhân vị.
Trong khoảng 5 năm, Việt Nam Cộng hòa đã có một số thành tựu: xã hội ổn định,
kinh tế phát triển, định cư gần 1 triệu dân di cư từ miền Bắc, thành lập Viện Đại học Huế...
Tuy
nhiên, chính quyền Ngô Đình Diệm bị xem là chính phủ độc tài gia đình trị, dần
dần có nhiều mâu thuẫn nội bộ. Từ năm 1955 và đặc biệt là từ 1959, cùng với sự
hậu thuẫn của Hoa Kỳ (do lo ngại ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản),
chính quyền Ngô Đình Diệm thực hiện chính sách đàn áp cộng sản, tố cộng diệt cộng trên
toàn bộ Nam Việt Nam, dựa theo Luật 10-59 (đạo luật
nhằm trừng trị các hành động phá hoại an ninh quốc gia, mạng sống và tài sản
của nhân dân, và quy định việc thiết lập các phiên tòa quân sự đặc biệt).[2] Phong
trào Đồng khởi năm 1960 (do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo) và cuộc đảo chính hụt năm 1960là những đòn
giáng mạnh vào chế độ. Sự kiện Phật Đản năm 1963, việc cấm treo
cờ Phật giáo ở Huế đã gây ra
phản ứng mạnh mẽ từ các Phật tử, dẫn đến các hoạt động đàn áp Phật giáo của
chính quyền.
Việc Thượng toạ Thích Quảng Đức tự
thiêu giữa đường phố Sài Gòn cùng những phát biểu của bà Ngô Đình Nhu (tức
dân biểu Trần Lệ Xuân) làm chế
độ Ngô Đình Diệm bị báo chí phương Tây đả
kích kịch liệt và mất hết mọi sự ủng hộ từ phương Tây.
Ngày 1 tháng 11 năm
1963, nền Đệ nhất Cộng hòa bị lật đổ bởi một nhóm quân nhân dưới sự chỉ huy
của một số tướng lĩnh (trong đó có tướng Dương Văn Minh); về
sau, ngày này được xem là ngày Quốc khánh của Đệ nhị Cộng hòa Việt Nam. Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Cẩn đều
bị giết. Theo như hồi ký của bộ trưởng Bộ quốc phòng Mỹ Robert McNamara,
chính CIA đã hậu thuẫn
cho việc lật đổ này và McNamara xem đó là một sai lầm nghiêm trọng mà Hoa Kỳ
mắc phải. Tuy nhiên việc sát hại ba anh em Diệm-Nhu-Cẩn không phải là chủ
trương của Hoa Kỳ.
Kể
từ đây, sự phụ thuộc của Việt Nam Cộng hòa vào viện trợ của Hoa Kỳ, về tài chính
cũng như về quân sự, nhất là theo quan điểm một số người, sự can thiệp của tòa
đại sứ Mỹ vào công việc nội bộ về chính trị và quân sự của Việt Nam Cộng hòa
ngày càng lên cao.
Thời kỳ quân quản 1963-1967
Hai tướng Nguyễn Cao Kỳ (người
đầu tiên bên trái) và Nguyễn Văn Thiệu(thứ
6 từ trái sang phải) đại diện Việt Nam Cộng hòa tại hội nghị SEATOnhóm họp tại Manila năm 1966
Tiếp
sau đó là giai đoạn khủng hoảng lãnh đạo chính trị ở miền Nam bởi một loạt đảo
chính liên tiếp cho đến khi tướng Nguyễn Văn Thiệu thiết
lập nền Đệ nhị Cộng hòa Việt Nam.
Trong thời gian 20 tháng miền Nam phải chứng kiến hơn 10 biến cố chính trị (chỉnh lý 1964 của
tướng Nguyễn Khánh; thành
lập Tam đầu chế; phong trào chống Hiến chương Vũng Tàu;
chính phủ dân sự Trần Văn Hươnglên rồi
đổ; chính phủ dân sự Phan Huy Quát lên
rồi đổ; đảo chính hụt ngày 13 tháng 9, 1964 của
tướng Dương Văn Đức và Lâm Văn Phát; đảo chính hụt ngày 20 tháng 2, 1965 của
đại tá Phạm Ngọc Thảo). Phe quân đội lần lượt truất phế nhau cùng những chính
phủ dân sự được dựng lên rồi phải rút lui. Cùng khi đó về mặt xã hội, các khối Phật giáo và Công giáo nhiều
lần xuống đường biểu tình làm áp lực. Về mặt pháp lý bản Hiến pháp năm 1956 bị
vô hiệu hóa. Thay vào đó là một loạt hiến chương có tính cách tạm thời như:[3]
1.
Hiến
chương 4 tháng 11 năm 1963
2.
Hiến
chương 7 tháng 2 năm 1964
3.
Hiến
chương 16 tháng 8 năm 1964 (thường gọi là Hiến chương Vũng Tàu)
4.
Hiến
chương 20 tháng 10 năm 1964.
Về
mặt quân sự, Việt Nam Cộng hòa, Hoa Kỳ cùng với các đồng minh tiếp tục chiến
đấu chống lại các hoạt động quân sự của lực lượngMặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam
Việt Nam do Liên Xô, Trung Quốc và khối xã hội chủ nghĩa hậu
thuẫn trong Chiến tranh Việt Nam.
Thứ tự sự kiện mở đầu
|
Hội đồng giám sát, cố
vấn
|
Lãnh đạo quân đội
|
Thủ tướng chính phủ
dân sự
|
thời gian
|
1. Đảo chính 1.11.1963
|
Hội đồng Quân nhân Cách mạng
|
Dương Văn Minh
|
Nguyễn Ngọc Thơ
|
11.1963-01.1964
|
2. Chỉnh lý 30.01.1964
|
Hội đồng Quân nhân Cách mạng
|
Nguyễn Khánh
|
01.1964-08.1964
|
|
3. Cải tổ 28.06.1964
|
Ủy ban lãnh đạo lâm thời (Tam đầu chế)
|
Nguyễn Khánh
|
Nguyễn Khánh
|
08.1964-10.1964
|
4. Hiến chương 10.1964
|
Thượng Hội đồng Quốc gia(dân
sự)
|
Nguyễn Khánh
|
Trần Văn Hương
|
10.1964-01.1965
|
5. Chính phủ Trần Văn Hương giải tán 27.01.1965
|
Hội đồng Quân lực
|
Nguyễn Khánh
|
Phan Huy Quát
|
02.1965-06.1965
|
6. Chính phủ Phan Huy Quát giải tán 14.06.1965
|
Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia
|
Nguyễn Văn Thiệu
|
Nguyễn Cao Kỳ
|
06.1965-09.1967
|
Hiện trường vụ đánh bom của
quân du kích Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam
Việt Nam vào cư xá Brinks năm 1964
Đệ nhị Cộng hòa 1967-1975
Bài chi tiết: Đệ nhị Cộng hòa Việt Nam
Bài chi tiết: Tuyển cử 1967 Việt Nam Cộng hòa
Tháng
6 năm 1966 (?), Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia do
tướng Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ điều hành tuyên bố mở cuộc bầu cửQuốc hội lập hiến vào
ngày 3 tháng 9. Theo đó 118
đại biểu đắc cử gồm nhiều thành phần và đến 1 tháng 4 năm 1967 thì ra tuyên
cáo bản Hiến pháp Đệ nhị Cộng hòa Việt Nam.
Hiến pháp này là cơ sở pháp lý của Việt Nam Cộng hòa cho đến 30 tháng 4 năm
1975[4].
Cuộc
tổng tuyển cử tổng thống và Quốc hội diễn ra ngày 3 tháng 9 năm 1967 với 11
liên danh tranh cử trong đó có những ứng cử viên như chính trị gia kỳ cựu như Phan Khắc Sửu và Trần Văn Hương. Trong
số hơn sáu triệu cử tri thì năm triệu người đi bầu, tức tỷ lệ 80%. Liên danh
Nguyễn Văn Thiệu-Nguyễn Cao Kỳ đắc cử với 35% số phiếu. Về nhì là luật sư Trương Đình Dzu với
17%.[5]
Tháng
6 năm 1969, trong vùng kiểm soát của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt
Nam đã diễn ra Đại hội đại biểu quốc dân và thành lập ra Chính phủ Cách mạng
lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam,
do Huỳnh Tấn Phát làm
chủ tịch và Hội đồng Cố vấn doNguyễn Hữu Thọ làm
chủ tịch.
Năm
1971 là cuộc Tổng Tuyển cử thứ nhì của nền Đệ nhị Cộng hòa. Kỳ này Tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu tái đắc cử nhiệm kỳ thứ hai một cách dễ dàng vì không có đối
thủ nào khác ra tranh cử. Khi sự việc này xảy ra, nhiều người cho là do điều
luật mới thông qua ngày 3 Tháng Sáu năm 1971 nhằm hạn chế khả năng tham gia
của ứng cử viên đối lập. Theo đó thì ứng cử viên phải có 40 chữ ký ủng hộ của dân biểu hay nghị sĩ Quốc hội
và 100 chữ ký của các thành viên trong hội đồng tỉnh.[6] Dương Văn Minh và Nguyễn Cao Kỳ vì
không thỏa mãn được quy định trên đã phải rút tên.
Vào
năm 1973, sau Hiệp định Paris (được
thảo luận giữa bốn bên tham chiến là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hoa Kỳ, Cộng
hòa Miền Nam Việt Nam và Việt Nam Cộng hòa), quân đội Hoa Kỳ đã rút khỏi Việt
Nam. Việt Nam Cộng hòa cố gắng trì hoãn việc ký kết hiệp định, nhưng phía Mỹ
đã có quyết định dứt khoát về việc này và gây áp lực cho chính phủ Việt Nam
Cộng hòa. Cuối cùng, Việt Nam Cộng hòa phải chấp nhận ký kết hiệp định.
Bị
mất viện trợ về tài lực và quân sự từ phía Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hòa không thể
tự đứng vững được. Năm 1975, sau khi thất
thủ Ban Mê Thuột (nay gọi là Buôn Ma Thuột), trước
sự tấn công mãnh liệt của Quân Giải phóng, cộng
thêm các sai lầm chiến lược, quân đội Việt Nam Cộng hòa đã nhanh chóng tan rã,
mất quyền kiểm soát lãnh thổ. Nhiều tướng lãnh cao cấp Việt Nam Cộng hòa đã tự
ý rời bỏ hàng ngũ. Tổng thống Dương Văn Minh, người
được đề cử chức vụ này vào ngày 29 tháng 4 năm
1975, đã ra lệnh đầu hàng vô điều kiện trước Quân Giải phóng và Mặt trận Dân
tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam vào ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Chính
quyền Việt Nam Cộng hòa bị giải thể và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa
Miền Nam Việt Nam thay thế chính quyền Việt Nam Cộng
hòa quản lý miền Nam Việt Nam. Chính phủ mới này nằm dưới sự chỉ đạo của Đảng
Lao động Việt Nam cho đến khi nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam được
thành lập, sáp nhập hai chính phủ. Việt Nam chính thức thống nhất vào ngày 2 tháng 7 năm 1976.
Tổ chức chính quyền Việt Nam Cộng hòa thời Đệ nhị Cộng hòa
Hiến pháp 1967 xác
lập cơ cấu tổ chức chính quyền Việt Nam Cộng hòa rất hoàn chỉnh, theo mô hình
của nhà nước Hoa Kỳ. Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa đã thể hiện khá đầy đủ tinh
thần của chủ nghĩa hợp hiến.
Lập
pháp
Trụ sở Quốc hội (sau thành trụ sở Hạ nghị viện) Việt Nam
Cộng hòa; nay là Nhà hát lớn Thành phố Hồ Chí Minh
Quyền lập pháp thuộc
về Quốc hội với Hạ nghị viện (159
thành viên được gọi là dân biểu với
nhiệm kỳ 4 năm) và Thượng nghị viện (60
thành viên được gọi là nghị sĩ, nhiệm kỳ 6
năm). Thượng viện được bầu theo liên danh. Một liên danh có thể có ứng cử viên
từ nhiều vùng khác nhau nhưng chung một liên danh. Hạ viện thì chọn theo số
phiếu từng địa phương căn cứ trên dân số. Tính đến năm 1974 thì mỗi dân biểu
đại diện khoảng 50.000 cử tri.[7]
Trong
159 ghế Hạ viện thì có 6 ghế dành riêng cho người Việt gốc Miên,
6 ghế cho người Thượng, 2 ghế
cho người thiểu số di cư từ thượng du miền Bắc, và 2 ghế cho người Chàm.[7]
Quốc
hội có những quyền hạn sau:
·
Biểu
quyết các đạo luật
·
Phê
chuẩn các hiệp ước và hiệp định quốc
tế
·
Quyết
định việc tuyên chiến và nghị hòa, quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh
·
Kiểm
soát chính phủ trong
việc thi hành chính sách quốc gia
·
Hợp
thức hóa sự đắc cử của dân biểu hoặc nghị sĩ quốc hội
·
Quyền
khuyến cáo thay thế từng phần hay toàn thể Chính phủ với đa số 2/3 tổng số dân
biểu và nghị sĩ. Nếu Tổng thống không có lý do đặc biệt để khước từ, sự khuyến
cáo sẽ có hiệu lực. Trong trường hợp Tổng thống khước từ, Quốc hội có quyền
chung quyết sự khuyến cáo với đa số 3/4 tổng số dân biểu và nghị sĩ.
Ở
tỉnh, thị xã có Hội đồng tỉnh, thị xã, Đô thành Sài Gòn có Hội đồng Đô thành,
đều do dân bầu trực tiếp với nhiệm kỳ 3 năm; thành viên Hội đồng gọi là nghị
viên. Các Hội đồng này có thẩm quyền quyết định ngân sách và các vấn đề dân
sinh của địa phương.
Hành
pháp
Người dân đi bầu năm 1967
Tổng
thống
Tổng thống là
người nắm quyền hành pháp, do dân bầu
lên với nhiệm kỳ 4 năm và có những quyền hạn sau:
·
Ban
hành các đạo luật
·
Hoạch
định chính sách quốc gia
·
Bổ
nhiệm Thủ tướng và các
thành viên của Chính phủ, cải tổ một phần hay toàn bộ Chính phủ (hoặc tự ý,
hoặc sau khi có sự khuyến cáo của Quốc hội)
·
Bổ
nhiệm các đại sứ, các tỉnh trưởng, thị trưởng, đô trưởng
·
Chủ
tọa Hội đồng Tổng trưởng
·
Tổng
tư lệnh tối cao của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa
·
Chủ
tịch Hội đồng An ninh Quốc gia
·
Ký
kết và ban hành các hiệp ước và hiệp định quốc tế
·
Tuyên
bố tình trạng báo động, giới nghiêm bằng sắc luật.
Sau
vụ tu chính hiến pháp Tháng
Giêng năm 1974 thì nhiệm kỳ tổng thống đổi từ 4 thành 5 năm. Ngoài ra tổng
thống và phó tổng thống được phép tái đắc cử 2 lần thay vì 1 lần.[7]
Phó Tổng thống
Phó Tổng thống có
những nhiệm vụ sau:
·
Chủ
tịch Hội đồng Văn hóa Giáo dục
·
Chủ
tịch Hội đồng Kinh tế Xã hội
·
Chủ
tịch Hội đồng các Sắc tộc.
Phó
Tổng thống không được kiêm nhiệm một chức vụ nào trong Chính phủ.
Chính quyền Trung ương
Thủ tướng điều
khiển Chính phủ và các
cơ cấu hành chính quốc gia. Thủ tướng chịu trách nhiệm về sự thi hành chính
sách quốc gia trước Tổng thống.
Thủ
tướng do Tổng thống bổ nhiệm.
Chính
quyền Trung ương được tổ chức thành 19 Bộ; đứng đầu mỗi bộ
là tổng trưởng:
1. Bộ Ngoại giao
2. Bộ Quốc phòng
3. Bộ Nội vụ
4. Bộ Thông tin
5. Bộ Chiêu hồi
6. Bộ Tài chánh
7. Bộ Kinh tế
8. Bộ Tư pháp
9. Bộ Phát triển Nông thôn
10. Bộ Cải cách Điền địa và Pháp triển Nông–Ngư nghiệp
11. Bộ Công chánh
12. Bộ Giao thông và Bưu điện
13. Bộ Giáo dục
14. Bộ Y tế
15. Bộ Xã hội
16. Bộ Lao động
17. Bộ Cựu chiến binh
18. Bộ Phát triển Sắc tộc
19. Bộ Đặc trách liên lạc Quốc hội
Ngoài
ra còn có 3 Quốc vụ khanh:
1. Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa
2. Quốc vụ khanh đặc trách tái thiết và phát triển
3. Văn phòng Quốc vụ khanh
Đứng
đầu các Bộ là các Tổng trưởng hoặc Bộ trưởng. Các Tổng
trưởng và Bộ trưởng là các thành viên của Chính phủ, thành viên của Hội đồng
Nội các (Hội đồng Tổng trưởng).
Các
Tổng trưởng, Bộ trưởng do Thủ tướng đề cử lên Tổng thống, Tổng thống bổ nhiệm.
Thủ
tướng và các thành viên Chính phủ có thể tham dự các phiên họp của Quốc hội
hoặc của các Uỷ ban để trình bày và giải quyết về các vấn đề liên quan đến
chính sách quốc gia và sự thi hành các chính sách quốc gia do Tổng thống hoạch
định.
Chính quyền địa phương
·
Đô
thành Sài Gòn, thị xã: đứng
đầu là đô trưởng, thị trưởng
·
Cấp
tỉnh: đứng đầu là tỉnh trưởng. Vào thời Đệ nhị Cộng hòa thì tỉnh trưởng là
quân nhân. Phó tỉnh trưởng mới là dân sự.
·
Cấp
quận (tương đương quận hay huyện ngày nay): đứng đầu là quận trưởng
·
Cấp
xã: đứng đầu là xã trưởng
Tư
pháp
Luật
pháp
Luật
pháp Việt Nam Cộng hòa được xây dựng căn cứ theo Bộ Hoàng Việt Hộ luật (1936-39)
do triều đình Huế ban hành ở Trung Kỳ cùng Bộ Dân luật (1883) áp dụng ở Nam
Kỳ. Hình luật thì có Bộ Hoàng Việt Hình luật (1933),
Tố tụng tu chính của Trung Kỳ (1935) và Hình luật Nam Kỳ Canh cải (1912). Di
sản luật pháp từ thời Pháp thuộc dần được thống nhất thành một bộ luật cho
toàn quốc năm 1972 với tên Bộ Hình luật Việt Nam[8] ban
hành ngày 20 Tháng Chạp năm 1972. Theo đó có năm
hạng:
·
Bộ
luật Hình sự tố tụng; Bộ luật này đã được Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ban
hành qua Sắc luật số 027/TT-SLU[9]
·
Bộ
Dân luật; Sắc luật số 028/TT/SLU[10]
·
Bộ
Quân luật và các văn kiện thi hành của Bộ Quốc phòng
·
Bộ
luật Dân sự và Thương sự tố tụng; Sắc luật số 030/TT/SLU
·
Bộ
luật Thương mại 1972. Phần này gồm 5 quyển và 1051 điều quy định các điều
khoản tổng quát về nhà buôn, nhiệm vụ của các nhà buôn và các cửa hàng thương
mại; thương hội; hành vi thương mại; thương mại hàng hải; khánh tận, phá sản và thanh
toán tư pháp.
Cơ quan Tư pháp Trung ương
Bài chi tiết: Tối cao Pháp viện Việt Nam Cộng hòa
Tối cao Pháp viện Việt Nam Cộng hòa gồm
9 thẩm phán, sau tăng
thành 15 thẩm phán do Quốc hội tuyển chọn và Tổng thống bổ nhiệm. Nhiệm kỳ của
thẩm phán Tối cao Pháp viện là 6 năm. Tối cao Pháp viện có những quyền hạn sau
đây:
·
Giải
thích Hiến pháp, phán quyết
về tính hợp hiến hay không hợp hiến của các Đạo luật, Sắc luật, Sắc lệnh, Nghị
định, Quyết định hành chính
·
Phán
quyết về việc giải tán một chính đảng có chủ trương và hành động chống lại
chính thể cộng hòa.
Những
quyết định của Tối cao Pháp viện tuyên bố một đạo luật không hợp hiến hoặc
giải tán một chính đảng phải được 3/4 tổng số thẩm phán tán thành.
Ở
cấp Trung ương, ngoài Tối cao Pháp viện còn có Đặc biệt Pháp viện và Giám sát viện.
Đặc
biệt Pháp viện gồm có Chủ tịch Tối cao Pháp viện và 10 dân biểu, nghị sĩ, có
thẩm quyền truất quyền Tổng thống, Phó Tổng thống, Thủ tướng, Tổng trưởng, Bộ
trưởng, thẩm phán Tối cao Pháp viện trong trường hợp can tội phản quốc và các
trọng tội khác.
Giám
sát viện (tiếng Anh:
Inspectorate General) gồm từ 9-18 giám sát viện, 1/3 do Quốc hội, 1/3 do Tổng
thống và 1/3 do Tối cao Pháp viện chỉ định.
Giám
sát viện có thẩm quyền:
·
Thanh
tra, kiểm soát và điều tra nhân viên các cơ quan công quyền và tư nhân can tội tham nhũng, đầu cơ, hối mại quyền thế
·
Kiểm
kê tài sản của nhân viên các cơ quan công quyền, kể cả Tổng thống, Phó Tổng
thống, Thủ tướng, dân biểu, Nghị sĩ và Chủ tịch Tối cao Pháp viện
·
Có
quyền đề nghị các biện pháp chế tài và kỷ luật hoặc yêu cầu truy tố trước toà
án có thẩm quyền những đương sự phạm lỗi
·
Thẩm
tra kế toán các cơ quan công quyền và hợp doanh.
Cơ quan Tư pháp địa phương
Ở
địa phương, có các toà án thường (gồm các toà Thượng thẩm, toà Đại hình, toà
Sơ thẩm, tòa Hòa giải, toà Vi cảnh) và các toà án đặc biệt (gồm các toà Hành
chính, toà Lao động, toà án Điền địa, toà án Thiếu nhi (thành lập năm 1958),
toà án Cấp dưỡng, toà án Sắc tộc, toà án Quân sự đặc biệt - trong đó có các
toà án Quân sự tại mặt trận).
Cấp
thấp nhất là Tòa Vi cảnh, ở nông thôn có khi do quận trưởng chủ tọa. Cao hơn
thì có hệ thống Tòa Sơ thẩm có một chánh thẩm và ba phụ thẩm. Tòa Thượng thẩm
thời Đệ nhất Cộng hòa có
hai sở, một ở Sài Gòn, một ở Huế. Mỗi phiên tòa
này có ba thẩm án ngồi xử án.[11]
Các đơn vị hành chính cấp tỉnh
Bản đồ hành chính Việt Nam Cộng Hòa năm 1972 (theo CIA)
Bài chi tiết: Tỉnh (Việt Nam Cộng hòa)
Đầu
năm 1956, thành lập thêm các tỉnh Tam Cần (9/2/1956), Mộc Hóa (17/2/1956), Phong Thạnh (17/2/1956), Cà Mau (9/3/1956).
Theo
sắc lệnh 143-NV ngày 22 tháng 10 năm 1956 của chính quyền Việt Nam Cộng hòa
thì Nam phần (tức Nam Bộ) gồm 22 tỉnh và Đô thành Sài Gòn. Như vậy, toàn bộ
lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa lúc này có 35 tỉnh: Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Kon Tum, Pleiku, Darlac, Đồng Nai Thượng, Phước Long (tên
cũ:Bà Rá), Bình Long (tên
cũ: Hớn Quản), Long Khánh (tên
cũ: Xuân Lộc), Biên Hòa, Bình Tuy, Phước Tuy (tên
cũ: Bà Rịa-Vũng Tàu),Bình Dương (tên
cũ: Thủ Dầu Một), Tây Ninh, Gia Định, Long An (gộp Chợ
Lớn và Tân An), Kiến Tường (tên
cũ: Mộc Hóa), Kiến Phong (tên
cũ: Phong Thạnh), Định Tường (gộp Mỹ Tho và Gò Công), Kiến Hòa (tên cũ: Bến Tre), Vĩnh Long, Vĩnh Bình (tên
cũ: Trà Vinh), An Giang (gộp Long Xuyên và Châu Đốc), Phong Dinh (tên
cũ: Cần Thơ), Kiên Giang (gộp Rạch Giá và Hà Tiên), Ba Xuyên(gộp Bạc Liêu và Sóc Trăng), An Xuyên (tên
cũ: Cà Mau), Côn Sơn và Đô
thành Sài Gòn.
Ngày
19/5/1958, lập 2 tỉnh Lâm Đồng và Tuyên Đức từ
tỉnh Đồng Nai Thượng.
Ngày
23/1/1959, lập 2 tỉnh Quảng Đức và Phước Thành.
Ngày
21/1/1961, lập tỉnh Chương Thiện.
Năm
1962, lập 2 tỉnh Quảng Tín (31/7/1962)
và Phú Bổn (1/9/1962).
Năm
1963, lập 2 tỉnh Hậu Nghĩa (15/10/1963)
và Gò Công (20/12/1963).
Ngày
8/9/1964, lập 2 tỉnh Châu Đốc và Bạc Liêu.
Năm
1965, bỏ 2 tỉnh Côn Sơn (21/4/1965) và Phước Thành (6/7/1965).
Ngày
24/9/1966, lập tỉnh Sa Đéc.
Từ
đó cho đến năm 1975, Việt Nam Cộng hòa có 44 tỉnh và Đô thành Sài Gòn:
Quảng Trị | Thừa Thiên | Quảng Nam | Quảng Tín | Quảng Ngãi | Kon Tum | Bình Định | Pleiku | Darlac | Phú Yên | Phú Bổn | Khánh Hòa |
| Ninh Thuận | Tuyên Đức | Quảng Đức | Bình Thuận | Lâm Đồng | Phước Long | Bình Long | Bình Tuy | Long Khánh | Bình Dương | Tây Ninh | Phước Tuy | Biên Hòa | Hậu Nghĩa | Gia Định | Long An | Kiến Tường| Gò Công | Định Tường | Kiến Phong | Châu Đốc | Kiến Hòa | Vĩnh Long | Sa Đéc | An Giang | Kiên Giang | Vĩnh Bình | Phong Dinh | Ba Xuyên | Chương Thiện | Bạc Liêu | An Xuyên.
Đơn
vị đông dân nhất là Đô thành Sài Gòn; ít dân nhất là tỉnh Quảng Đức.[12]
Đứng
đầu tỉnh là tỉnh trưởng do tổng thống bổ nhiệm và báo cáo lên thủ tướng và bộ
trưởng Bộ Nội vụ. Trách nhiệm của tỉnh trưởng gồm soạn ngân sách, điều hành
lực lượng Nhân dân Tự vệ, giữ gìn an ninh trật tự và kiểm soát việc hành chánh.[13]
Các đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh
Bốn
mươi bốn tỉnh của Việt Nam Cộng hòa được chia thành 241 quận[14] sau
tăng lên 247 quận.[12] Quận
trưởng do tỉnh trưởng đề cử và thủ tướng bổ nhiệm.
Dưới
quận là xã và thôn. Toàn quốc có
2.589 xã.[15] Tính
đến năm 1974 thì chính phủ kiểm soát 2.159 xã.[16] Ngoài
Đô thành Sài Gòn ra còn có 10 thị xã tự trị trong
đó có Huế,Đà Nẵng, Qui Nhơn, Nha Trang, Cam Ranh, Đà Lạt, Vũng Tàu, Mỹ Tho, Cần Thơ và Rạch Giá.[17] Dưới
xã là thôn ấp, tổng cộng có hơn 15.000 đơn vị.[18]
Cấp tổng bị loại bỏ
dần kể từ năm 1962.
Việc
cai trị ở cấp xã trước kia tự trị thì năm 1956 thời Đệ nhất Cộng hòa hội
đồng xã phải do tỉnh trưởng bổ nhiệm.[19] Sang
thời Đệ nhị Cộng hòa thì việc điều hành ở cấp xã trả lại cho địa phương. Hội
đồng xã do cư dân 18 tuổi trở lên bầu ra. Những xã dưới 2.000 dân thì bầu ra
hội đồng 6 người. Xã trên 10.000 dân thì được bầu 12 người.[20]
Các quân khu
Diễn tập quân sự năm 1963
Về
mặt quân sự, năm 1961 thành lập
các vùng chiến thuật, đến tháng 7, 1970 đổi tên là
Quân khu. Lúc đầu có 3 vùng chiến thuật được đánh số 1, 2, 3, đến năm 1964 lập thêm
vùng chiến thuật 4. Mỗi vùng chiến thuật do 1 quân đoàn phụ trách. Dưới vùng
chiến thuật là các khu chiến thuật do 1 sư đoàn phụ trách. Bộ tư lệnh quân
đoàn đồng thời là Bộ tư lệnh vùng chiến thuật (trừ quân đoàn 2), còn Bộ tư
lệnh sư đoàn đồng thời là Bộ tư lệnh khu chiến thuật. Các vùng chiến thuật có
địa giới như sau:
·
Vùng
1 chiến thuật, Bộ chỉ huy ở Đà Nẵng, gồm 5 tỉnh:
o Khu 11 chiến thuật, gồm 2 tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên
o Khu 12 chiến thuật, gồm 2 tỉnh Quảng Tín, Quảng Ngãi
o Đặc khu Quảng Nam, gồm tỉnh Quảng Nam và thị
xã Đà Nẵng
·
Vùng
2 chiến thuật, Bộ tư lệnh vùng 2 chiến thuật ở Nha Trang, nhưng Bộ
tư lệnh quân đoàn 2 ở Pleiku (từ giữa tháng 3 năm 1975phải chuyển vể Nha Trang), gồm 12
tỉnh:
o Khu 22 chiến thuật, gồm 3 tỉnh Bình Định, Phú Yên, Phú Bổn
o Khu 23 chiến thuật, gồm 7 tỉnh Darlac, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Tuyên Đức, Quảng Đức, Lâm Đồng, và thị xã Cam Ranh
o Biệt khu 24, gồm 2 tỉnh Kon Tum, Pleiku
·
Vùng
3 chiến thuật, Bộ chỉ huy ở Biên Hòa, gồm 10 tỉnh:
o Khu 31 chiến thuật, gồm 3 tỉnh Tây Ninh, Hậu Nghĩa, Long An
o Khu 32 chiến thuật, gồm 3 tỉnh Phước Long, Bình Long, Bình Dương
o Khu 33 chiến thuật, gồm 4 tỉnh Bình Tuy, Phước Tuy, Long Khánh, Biên Hòa và thị
xã Vũng Tàu
·
Vùng
4 chiến thuật, Bộ chỉ huy ở Cần Thơ, gồm 15 tỉnh:
o Khu chiến thuật Định Tường, gồm 4 tỉnh Kiến Tường, Định Tường, Gò Công, Kiến Hòa
o Khu 41 chiến thuật, gồm 6 tỉnh Kiến Phong, Châu Đốc, Vĩnh Long, Vĩnh Bình, An Giang, Kiên Giang; sau
thêm Sa Đéc
o Khu 42 chiến thuật, gồm 5 tỉnh Phong Dinh, Chương Thiện, Ba Xuyên, Bạc Liêu, An Xuyên
Khi
4 vùng chiến thuật chuyển thành 4 Quân khu, thì bỏ cấp khu chiến thuật. Quân
khu 1 gồm ba tỉnh Quảng Nam, Quảng Tín, Quảng Ngãi và thành phố Đà Nẵng. Quân
khu 2 với diện tích 78.841 km vuông, chiếm gần phân nửa lãnh thổ Việt Nam Cộng
Hòa nhưng chỉ có gần 3 triệu dân sinh sống trong 12 tỉnh. Quân khu 3 có thêm
tỉnh Gia Định và Biệt khu Thủ đô (do Quân khu Thủ đô đổi thành), tổng cộng 11
tỉnh. Quân khu 4 có 16 tỉnh.
Các
thị xã về mặt quân sự là các tiểu khu, còn các quận là các chi khu.
Quân sự
Bài chi tiết: Quân lực Việt Nam Cộng hòa
Các sĩ quan Hải quân Việt Nam Cộng hòa tại Quân cảng Cam Ranhngày
1 tháng 1 năm 1971
Bác sĩ người Mỹ trong chương trình y tế cộng đồng MEDCAP và 1 binh
sĩ người Việt Nam - Hình chụp tại một ngôi làng nhỏ ở miền Nam
Quân lực Việt Nam Cộng Hòa là
lực lượng quân đội của chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Thành lập từ năm 1955 với nòng
cốt là lực lượng quân đội Quốc gia Việt Nam trong Liên hiệp Pháp, chủ
yếu là Bảo an đoàn, Bảo chính đoàn. Ngày
truyền thống (còn gọi là ngày Quân lực) là ngày 19 tháng 6.
Quân
lực Việt Nam Cộng hòa được trang bị hùng hậu với sức cơ động cao và hoả lực
mạnh, được sự hỗ trợ tích cực của Mỹ, và các đồng minh,
để chống lại Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam
Việt Nam, vốn được sự hậu thuẫn của chính phủ Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa. Quân lực Việt Nam Cộng hòa còn bị gọi là "quân đội Sài
Gòn" hay "quân ngụy" theo cách gọi của chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đương
thời. Quân lực Việt Nam Cộng hòa cũng là lực lượng chính trong cuộc đảo chính 1963 lật
đổ chế độ Ngô Đình Diệm, và
tham chính trong chính quyền cho đến ngày Việt Nam Cộng hòa sụp đổ.
Quân
lực Việt Nam Cộng hòa là một quân đội hiện đại, tốn kém, đòi hỏi kinh phí hoạt
động gần 3 tỷ đôla Mỹ mỗi năm. Nền kinh tế Việt Nam Cộng hòa không
thể cáng đáng được kinh phí này, nên Việt Nam Cộng hòa đã gần như phải dựa
hoàn toàn vào viện trợ kinh tế của Mỹ để có thể thực hiện phòng thủ quốc gia.
Khi Mỹ giảm viện trợ xuống còn 1,1 tỷ đô la vào năm 1974, nền kinh tế lâm vào
cuộc khủng hoảng với lạm phát ở mức 200%, Quân lực Việt Nam Cộng Hòa không còn
đủ kinh phí hoạt động, tình trạng thiếu đạn dược, vũ khí, xăng dầu đã dẫn đến
hỏa lực yếu và giảm tính cơ động.[21]. Sau sự kiện 30 tháng 4, 1975,
lực lượng quân đội này đã tan rã.
Ngoại giao
Tính
đến năm 1975 thì Việt Nam Cộng hòa đã thiết lập ngoại giao với 87[22] quốc
gia trên thế giới và 6 quốc gia ở cấp bán chính thức. Lập trường ngoại giao
của Việt Nam Cộng hòa là không chấp nhận bang giao với chính phủ nào muốn công
nhận chính phủ của Mặt trận Giải phóng miền Nam.[23] Có
hai trường hợp đáng ghi nhận là năm 1964 Việt Nam Cộng hòa đoạn giao với Indonesia, khi nước
này tuyên bố công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trước đó không lâu vào Tháng
Tám, 1963 thì Vương quốc Cao Miên cắt
đứt bang giao với Việt Nam Cộng hòa vì tình hình biên giới, nhất là đòi hỏi
của Nam Vang muốn thu hồi toàn đất Nam Kỳ vốn họ
cho là đất cũ của người Miên.[24]
Trong
khi đó chiến cuộc leo thang. Bắt đầu từ năm 1964 một số đồng minh của Việt Nam
Cộng hòa ngoài viện trợ tài lực hoặc nhân lực còn trực tiếp tham chiến như Hoa Kỳ (1964), Nam Hàn (03.1965), Úc (06.1965), New Zealand (07.1965), Thái Lan (02.1966),
vàPhilippines (10.1966).
Nhóm này mang tên Quân lực Thế giới Tự do (tiếng
Anh: The Free World Military Assistance Forces). Lực lượng quân sự
của các đồng minh dần dần rút đi vào năm 1972-73 với Hòa đàm Paris đang
diễn tiến và rồi kết thúc.[25]
Việt
Nam Cộng hòa là thành viên trong một số tổ chức quốc tế như Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á (SEATO),
Ủy ban Kinh tế của Liên hiệp quốc về Á châu và Viễn Đông ECAFE, Tổ chức Nông
nghiệp và Lương thực FAO (1950); Cơ
quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế IAEA (1957); Tổ
chức Hàng không Dân sự Quốc tế ICAO (1954);
Hiệp hội Phát triển Quốc tế IDA; Tổ chức Lao động
Quốc tế ILO (1950); Quỹ
Tiền tệ Quốc tế IMF (1956)[26]; Liên hiệp
Viễn thông Quốc tế ITU (1951); Tổ
chức Giáo dục, Khoa học, và Văn hóa Liên hiệp quốc UNESCO (1951);
Quỹ Thiếu nhi Liên hiệp quốc UNICEF, Liên hiệp Bưu
chính Quốc tế UPU (1951); Tổ
chức Y tế Quốc tế WHO (1950); Tổ
chức Khí tượng Thế giớiWMO (1955),[27] Ngân hàng Thế giới (1956),[28] và Ngân hàng Phát triển châu Á (1966).
Năm 1957, Việt Nam Cộng
hòa đứng đơn gia nhập Liên hiệp quốc do Hoa Kỳ đề cử.
Đại Hội đồng (General Assembly) bỏ phiếu 40 thuận, 8 chống. Việc này chuyển
lên Hội đồng Bảo an chung
quyết. Liên Xô muốn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cùng
gia nhập nhưng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bác bỏ việc này nên cuối cùng Liên Xô phủ quyết đơn
của Việt Nam Cộng hòa.[29]
Kinh tế
Bài chi tiết: Kinh tế Việt Nam Cộng hòa và Cải cách điền địa (Việt Nam Cộng hòa)
Nền
kinh tế Việt Nam Cộng hòa là một nền kinh tế thị trường, đang phát triển,
và mở cửa. Mức độ tự do
của nền kinh tế khá cao trong những năm 1963 đến 1973. Tuy nhiên,phát triển kinh tế vẫn
được triển khai dựa trên các kế hoạch kinh tế 5 năm hoặc
kế hoạch bốn năm. Nền kinh tế ổn định trong giai đoạn 1955-1960, sau đó do tác
động của chiến tranh leo
thang đã trở nên mất ổn định với những đặc trưng như tốc độ tăng trưởng kinh tế không
đều (có nhiều năm bị âm), tỷ lệ lạm phát cao,
thâm hụt ngân sách nhà nước vàthâm hụt thương mại.
Chính quyền đã phải tiến hành cải cách ruộng đất tới
hai lần.
Mỹ đóng vai trò
to lớn đối với phát triển kinh tế của Việt Nam Cộng hòa thông qua viện trợ kinh tế cũng
như hỗ trợ kỹ thuật. Giới thương nhân Hoa kiều cũng
nắm giữ một tỷ lệ đáng kể các ngành trong nền kinh tế.
Nhìn
chung, kinh tế Việt Nam
Cộng hòa có quy mô nhỏ và bị hạn chế vì tình hình bất ổn, sự tàn phá của chiến
tranh và lệ thuộc vào viện trợ ngoại quốc nhưng cũng đạt được một số thành
tích về nông nghiệp, công nghiệp, nâng cao
đời sống vật chất của người dân. GDP bình quân
đầu người năm cao nhất (1971) của người dân Miền Nam là 200USD (tuy nhiên
năm 1974 đã sụt xuống còn 54 USD do Mỹ cắt giảm viện trợ và tiền VNCH mất giá
khoảng 400% trong 2 năm).[30] Theo
tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, nền kinh tế có nhiều triển vọng "nếu hội đủ
điều kiện cần thiết để tiến tới chỗ thoát khỏi tình trạng lạc hậu".[31]
Văn hóa và xã
hội
Buổi lễ trao Giải thưởng Văn chương Toàn quốc năm 1961 ở
Sài Gòn
Vào
thời Đệ nhị Cộng hòa những
ngày nghỉ chính thức cho các công sở gồm có:
·
Tết
Tây 1 Tháng Giêng
·
Lễ
Lao động 1 Tháng Năm
·
Ngày
Quân lực 19 Tháng Sáu
·
Quốc khánh 1 Tháng 11
·
Giáng sinh 25
Tháng 12
Ngoài
ra còn có những ngày lễ cổ truyền tính theo âm lịch như
ngày Thích Ca thành đạo (8
Tháng Chạp), Tết Ta (1-7 Tháng Giêng, nghỉ chỉ ba ngày mồng 1 đến mồng 3), Giỗ Hai bà Trưng (cũng
là ngày Phụ nữ Việt Nam) (6 tháng 2), Giỗ Tổ Hùng Vương (10
Tháng Ba), Phật đản (rằm
Tháng Tư) (công nhận năm 1958)[32], Vu-lan (rằm
Tháng Bảy), và tết Trung thu (rằm
Tháng Tám).[33]
Một
thành tựu văn hóa tại Miền Nam là ngành tân nhạc với
khoảng 10.000 bản nhạc ra đời trong khoảng thời gian 1945-75.
Đại đa số những bản nhạc này sau năm 1975 đều bị chính quyền mới cấm lưu hành[34] thường
gọi là nhạc vàng.
Theo
nhà sử học Hoa Kỳ Andrew A. Wiest, nếu
xét riêng về mặt xã hội, ông nhận xét miền Nam có đời sống dân sự tự do hơn so
với miền Bắc và vùng do lực lượng Mặt trận Dân tộc kiểm soát. Theo ông, dù vẫn
còn nhiều khuyết điểm về mặt chính trị, trong suốt thời gian từ thập niên 1950 đến
hết cuộc chiến thì mỗi khi diễn ra những sự kiện quyết liệt như những năm 1954 (chia đôi
đất nước), 1968 (Tổng công
kích Tết Mậu Thân), 1972 (Mùa Hè Đỏ
Lửa), và 1975 thì dân
chúng di tản về vùng do Việt Nam Cộng hòa kiểm soát thay vì vùng do những
người cộng sản kiểm soát. Một thành tựu của Việt Nam Cộng hòa phải kể đến là
phát triển nền giáo dục.[30]
Chính
phủ đã hoàn tất việc xây dựng Thư viện Quốc gia Việt Nam, khởi công từ năm 1968 nhưng đến
năm 1971 mới khánh
thành tòa cao ốc. Lúc mở cửa, Thư viện có 121.000 đầu sách.[35] Năm
1975 khi chính quyền mới tiếp thu thì thư viện này có 200.000 đầu sách.[36] Dự
tính của chính phủ sẽ tiến tới việc thành lập Hàn lâm Viện nhưng bước đầu chỉ
có Ủy ban Điển chế Văn tự thuộc Bộ Văn hóa.[37]
Một
đặc điểm của xã hội miền Nam vào thời điểm đó là sự đa dạng của xã hội dân sự,
tức thành phần không thuộc chính phủ mà cũng không thuộc thị trường kinh
doanh. Những cơ sở tên tuổi trong ngành công tác xã hội là cô nhi viện Dục
Anh, Cô nhi viện Quách Thị Trang trại
giáo hóa thanh thiếu niên phạm pháp Thủ Đức, viện dưỡng lão Thị
Nghè, trung tâm hướng nghiệp Vườn Lài, Quán cơm xã hội Anh Vũ (phát cơm cho
người nghèo).[38] Cùng
đó là những đoàn thể tiêu biểu như Hội Hồng Thập Tự, tổ
chức Hướng đạo Việt Nam, Trường Bách khoa Bình dân,
nhóm Thanh niên Phụng sự Xã hội và gia đình Phật tử của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, Thiếu nhi Thánh thể, Phong trào Du ca Việt Nam, Hội Thanh niên Thiện chí,
v.v. Đây là một khác biệt lớn giữa hai miền Nam Bắc trong thời gian đất nước
chia đôi.[39]
Giáo dục
Bài chi tiết: Giáo dục Việt Nam Cộng hòa
Trước
năm 1954, ở miền Nam có
một chi nhánh của Viện Đại học Hà Nội (tiếng Pháp: Université
de Hà Nội) đặt tại Sài Gòn. Sau Hiệp định Genève 1954 chia
đôi đất nước, chi nhánh này cùng với một bộ phận của Viện Đại học Hà Nội
chuyển từ miến Bắc vào trở thành Viện Đại học Quốc gia Việt Nam.
Vào năm 1957, Viện Đại học Quốc gia Việt Nam trở thành Viện Đại học Sài Gòn theo
sau việc thành lập Viện Đại học Huế.[40] Đến
năm 1973, Viện Đại học Sài Gòn đã
đứng vào hàng quốc tế. Sau này các bác sĩ Việt Nam di tản sang Mỹ, chỉ cần một
hai năm đào tạo lại và học thêm tiếng Anh là hành nghề được ngay[41].
Ngoài Viện Đại học Sài Gòn,
Việt Nam Cộng hòa còn có các viện đại học khác như Viện Đại học Huế, Viện Đại học Đà Lạt, Viện Đại học Cần Thơ, Viện Đại học Vạn Hạnh, Viện Đại học Minh Đức,
Viện Đại học Hòa Hảo, Viện Đại học Cao Đài, v.v... Năm 1973, tổng số sinh
viên đại học lên tới 98.832 người so với chỉ 2.900 người vào năm 1955. Số học sinh
trung học trong cùng năm ấy là trên một triệu so với 43.000; và học sinh tiểu
học, trên ba triệu so với 401.000. Ngoài ra còn các trường đại học cộng đồng
(trường đại học hệ hai năm), trường huấn nghiệp và các chương trình công nghệ.[41] Các
trường đại học cộng đồng được thiết lập từ năm 1970 trở đi, đặt cơ sở ở Định Tường, Nha Trang, Sài Gòn, Đà Nẵng, Vĩnh Long...[40]
Triết lý giáo dục của
Việt Nam Cộng hòa là nhân bản, dân tộc, và khai
phóng. Điều này ghi cụ thể trong tài liệu Những nguyên tắc căn bản do
Bộ Giáo dục ấn hành năm 1959và sau đó được
ghi lại trong Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa 1967.[40] Hiến
pháp Việt Nam Cộng hòa nhấn mạnh quyền tự do giáo dục, và rằng "nền giáo
dục cơ bản có tính cách cưỡng bách và miễn phí", "nền giáo dục đại
học được tự trị", và "những người có khả năng mà không có phương
tiện sẽ được nâng đỡ để theo đuổi học vấn".[42]
Hạ tầng cơ sở
Máy bay DC-3 hãng Air Viet Nam và
hành khách năm 1961 ở phi trường Phú Quốc
Một
kết quả tốt của chiến tranh là mang tới cho Miền Nam một hạ tầng cơ sở khá
tốt, giúp phát triển kinh tế lâu dài dù việc xây dựng hạ tầng là rất tốn kém
và mất thời gian.
Giao thông đường hàng không
Ngoài
những phi trường lớn như Tân Sơn Nhất, Cam Ranh, Đà Nẵng, Nha Trang, Cần Thơ
và Biên Hòa có thể tiếp nhận phản lực đủ loại còn có những phi trường nhỏ ở Đà
Lạt, Huế, Kontum, Phú Quốc. Pleiku, Rạch Giá, và Qui Nhơn. Cộng thêm vào là
khoảng 100 sân bay nhỏ, rải rác khắp nơi, rất tiện cho việc liên lạc giữa các
địa phương.[43] Hãng Air Vietnam là
công ty không vận chính.
Giao thông đường thủy và đường bộ
Khánh thành Xa lộ Biên Hoà
Miền
Nam có tới 4.780 cây số sông, rạch (3.000 dặm Anh). Hải cảng lớn gồm Sài Gòn,
Cam Ranh, Đà Nẵng, Nha Trang, Rạch Giá. Còn đường xá có tới 21.000 km đường
trong đó gần 12.000 km là đường trải nhựa, đi được
quanh năm.[44] Cầu
các loại qua sông tới gần 4.000 cây rất nhiều cầu đã bị hư hỏng do chiến
tranh, nhưng sửa chữa lại thì cũng nhanh. Tính đến năm 1974 thì có 35.384 xe
vận tải nặng và 64.229 chiếc xe hơi, tổng cộng là
258.514 xe lưu thông trên hệ thống đó, chưa kể xe gắn máy, xe lam, xe xích lô máy và
phương tiện di chuyển với động cơ dưới 49cc vốn không thuộc dạng đăng ký.[45] Xa lộ xây dựng đầu
tiên là xa lộ Biên Hòa, khánh
thành ngày 28 tháng 4 năm 1961.
Đường sắt
Đường
sắt Xuyên Đông Dương đã làm xong từ năm 1936 nhưng đến thập niên 1950 thì
đoạn đường phía nam vĩ tuyến 17, khoảng
1/3 đã bị hư hại vì chiến tranh, không sử dụng được.[46] Còn
lại là hai khúc từ Đông Hà vào Đà
Nẵng và từ Sài Gòn ra Ninh Hòa. Việc tái
thiết kéo dài bốn năm cho đến năm 1959 thì xe lửa mới chạy
được suốt từ Sài Gòn ra Đông Hà, lần đầu tiên sau 12 năm gián đoạn.[47] Năng
suất đường sắt lúc đầu có nhiều triển vọng nhưng sang thập niên 1960 thì
tình hình an ninh là một cản trở lớn. Năm 1963 trở đi thì xe lửa hành khách
không chạy vào đêm nữa vì những đợt tấn công của quân cộng sản trên tuyến
đường từ Huế vào Sài Gòn.[48] Tính
đến năm 1971-1972 thì Việt Nam Cộng hòa có 1.240 km đường sắt nhưng
chỉ có 57% sử dụng được. Dù vậy, tổng lượng hành khách và hàng hóa chuyên chở
bằng đường sắt lại tăng dần.[49]
Năm
|
Tổng lượng hàng hóa
vận tải (tấn)
|
Số lượng hành khách
(triệu người)
|
1959[50]
|
440.000
|
2,658
|
1968
|
400.000
|
0,73
|
1969
|
530.000
|
1,75
|
1970
|
720.000
|
2,4
|
Hệ thống viễn thông và thông tin
Tính
đến năm 1970 Miền Nam có 20.000 điện thoại đăng ký.[51] Mạng điện thoại và điện tín thuộc ty bưu điện với
đường dây nối Sài Gòn với Đài Bắc, Calcutta, Manila, Osaka,Paris, Brussel, Bern, Bonn, Madrid và New York. Trong nước
hệ thống điện thoại nối Sài Gòn với 21 tỉnh lỵ.[52]
Hệ
thống phát thanh quốc gia Việt Nam, tức đài radio mang tên Vô tuyến Việt Nam (VTVN) vào giữa thập
niên 1960 bao gồm đài trung ương ở Sài Gòn và tám đài khu vực phát sóng từ
Huế, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Ban Mê Thuột, Nha Trang, Đà Lạt, và Cần
Thơ. Ngoài ra có những đài địa phương ở những tỉnh Quảng Nam, Phú Yên, Long
An, Kiến Tường, và Định Tường.[53] Đến
năm 1972 thì có tổng cộng 49 đài phát thanh và 5 đài truyền hình đặt
ở Sài Gòn, Huế, Quy Nhơn, Nha Trang và Cần Thơ.
Truyền
hình thì bắt đầu ngày 7 Tháng Hai 1966, lúc đầu chỉ
phát hình một giờ mỗi ngày.[54] Sau
vào đầu thập niên 1970 thời
lượng phát hình của Đài Truyền hình Việt Nam là
sáu giờ mỗi ngày vào buổi chiều. 80% dân chúng ở Miền Nam có thể bắt sóng xem
được.[55]
Nhật
báo trong nước có 48 tờ nhật báo phát hành, đại đa số bằng tiếng Việt nhưng
cũng có nhật báo bằng tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Hoa, và tiếng Miên. Tính
trung bình cho mỗi 1.000 người thì có 51 ấn bản báo chí.[51]
Rạp chiếu bóng tính
đến năm 1964 có 170 rạp chiếu phim 35mm, trong đó khoảng 100 rạp tập trung ở
vùng Sài Gòn, Chợ Lớn.[56]
Điện lực
Công
suất điện lực đạt 125 MW năm 1961[57] nhưng
với chiến cuộc tụt xuống còn 117 MW (1968). Sang năm 1971 lên được 278 MW.[58]
Phân
tích thành phần nguồn điện năm 1961 thì 56% bằng hơi nước, 43% bằng
dầu diezen và 1%
bằng thủy điện với đập Đa Nhim bắt
đầu hoạt động Tháng Tư năm 1961.[57]
Đánh giá
|
Bài viết (hoặc đoạn) này hiện gây tranh cãi về tính trung lập.
Đề nghị người gắn bản mẫu nêu lý do tại trang thảo luận. Nếu không có lý do tại trang thảo luận, bản mẫu có thể bị tháo bỏ. Xin đừng xóa bảng thông báo này cho đến khi kết thúc hoặc đạt được đồng thuận trong vấn đề này. |
Quan điểm của đối phương
Theo
quan điểm của đối phương tức Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt
Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thì
họ không công nhận sự hợp pháp của chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Họ xem nó chỉ
là một thứ "quốc gia giả hiệu"
để Hoa Kỳ hợp thức hóa mưu đồ chia cắt Việt Nam của Mỹ.[59]
Cũng
theo quan điểm của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam,
Việt Nam Cộng hòa được Hoa Kỳ lập ra để "dùng người Việt Nam đánh
người Việt Nam", ngăn chặn phong trào đấu tranh chính trị của quần
chúng, khống chế, dập tắt các cuộc đấu tranh cách mạng ở nông thôn, bình định
đồng bằng, lập ấp chiến lược để
dồn dân, chiếm đóng, khống chế quần chúng. Hoa Kỳ thí nghiệm cuộc chiến tranh
đó để rút kinh nghiệm đàn áp phong trào giải phóng dân tộc, đe doạ các nước mới
giành được độc lập, bắt các nước đó phải chấp nhận chủ nghĩa thực dân mới.[60]. Do vậy
một phần lớn người dân miền Nam không ủng hộ Việt Nam Cộng hòa mà đã đi theo phong trào Đồng khởi giành
chính quyền[61] Các chiến lược chiến
tranh của Hoa Kỳ và kế hoạch lập "Ấp chiến lược"
của Việt Nam Cộng hòa đã vấp phải sự chống đối mạnh mẽ của người dân miền Nam
nên đã phá sản.[62] Lực
lượng vũ trang của quân Giải phóng có
thể đánh nhiều trận táo bạo, có hiệu suất cao cũng là nhờ có sự hỗ trợ của
nhân dân miền Nam.[63].
Vùng quân Giải phóng kiểm
soát nhờ đó được mở rộng, chiếm phần lớn lãnh thổ miền Nam, trở thành hậu
phương trực tiếp và vững chắc giúp họ đương đầu được với quân đội Hoa Kỳ và
Việt Nam Cộng hòa.[64].
Quan điểm của chính quyền Mỹ
Tài
liệu được giải mật của Lầu Năm Góc vào
năm 2010 cũng viết: "Không có sự yểm trợ của Hoa Kỳ, Diệm hầu như
chắc chắn không thể đứng vững được ở miền Nam... Nam Việt Nam, về bản chất, là
một sáng tạo của Hoa Kỳ"[65] Thậm
chí tổng thống Mỹ Nixon trong lúc
tức giận còn từng nói: "Không thể để có cái đuôi chó phản lại cái
đầu con chó được."[66]
Trung
tướng Bernard Trainor, từng
phục vụ ở Việt Nam hai lần, của cả hai loại hình Chiến tranh đặc biệt và Chiến tranh cục bộ, so
sánh cuộc chiến ở Việt Nam với cuộc chiến tranh giành độc lập Hoa Kỳ: "Tôi
thấy cuộc kháng chiến của Việt Nam có nét tương đồng với cuộc Cách mạng của Mỹ.
Cũng như các nhà cách mạng Mỹ thời đó, người Việt quyết chiến đến cùng. Những
người dân Mỹ hồi đó đã đi tới một quyết định rằng độc lập là thiết yếu. Họ đặt
cược tính mạng và của cải của mình vào sự nghiệp giành độc lập... Hy vọng ban
đầu là thu phục trái tim khối óc của người dân, nhưng hy vọng này đã bị tan
tành bởi sự thất bại của chính quyền Sài Gòn trong việc giành tín nhiệm của
người dân và chiến lược Tìm và diệt của Westmoreland…".[67]
Quan điểm của giới chức Việt Nam Cộng hoà
Các
quan chức cấp cao Việt Nam Cộng hoà cũng công nhận sự lệ thuộc của họ vào Hoa
Kỳ. Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu đã
từng phát biểu: "Nếu Mỹ mà không viện trợ cho chúng tôi nữa thì
không phải là một ngày, một tháng hay một năm mà chỉ sau 3 giờ, chúng tôi sẽ
rời khỏi dinh Độc Lập!".[68]. Trong bài
viết "30/4/1975, Dương Văn Minh và tôi", Nguyễn Hữu Thái thuật
lại lời Tổng thống Dương Văn Minh đã
nói với ký giả Francois Vanuxem khi được ông này khuyên rút về Vùng 4 chiến
thuật để chờ Trung Quốc can thiệp nhằm tìm một giải pháp trung lập hóa Miền
Nam: "Hết Tây (Pháp) rồi đến Mỹ, chẳng lẽ bây giờ còn đi làm tay
sai cho Tàu nữa sao!".[69]
Ông
Hồ Ngọc Nhuận, một dân biểu thời Việt Nam Cộng Hòa trả lời phỏng vấn năm 2009: "Ngày
xưa tôi gọi đây là chiến tranh của Mỹ tại vì ổng (Mỹ) vô trong này từ cấp lớn
đến cấp nhỏ ổng đều ở trên đầu, ổng làm cố vấn hết. Từ trên xuống dưới là của
ảnh hết, súng cũng của ảnh, hành quân cũng của ảnh, đánh gì cũng của ảnh và
trách nhiệm cũng của ảnh. Còn ông tổng thống trước khi ổng chạy đi thì ổng lên
tiếng chửi Mỹ. Cái người ủng hộ Mỹ nhất mà cũng quay lại chửi Mỹ thì hỏi tôi
không chống Mỹ sao được?"[70]
Năm
2005, khi và trả lời phỏng vấn của báo Thanh Niên,
nguyên Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Cao Kỳ nhận
định rằng: "Mỹ luôn luôn đứng ra trước sân khấu, làm "kép
nhất". Vì vậy ai cũng cho rằng đây là cuộc chiến tranh của người Mỹ và
chúng tôi chỉ là những kẻ đánh thuê..."[71] Trong
bộ phim tài liệu của hãng PBS, ông kể rằng mình
cùngNguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Khánh,
và Nguyễn Chánh Thi từng
bị đại sứ Mỹ triệu tập và đập bàn ghế trách mắng thậm tệ, rằng "từ
nhỏ tới lớn, ngay cả cha ruột cũng chưa bao giờ chửi mắng tôi nặng nề và lâu
đến như vậy"[72] Tướng
tổng tư lệnh Nguyễn Khánh thì
phải rời khỏi Việt Nam bởi mệnh lệnh từ chính Đại tướng Mỹ Maxwell D. Taylor,
năm sau Nguyễn Chánh Thi cũng chịu chung số phận.[73]
Đại
tướng Cao Văn Viên viết
trong hồi ký: "Chúng ta không có trách nhiệm về chiến tranh.
Trách nhiệm về cuộc chiến ở đây là của người Mỹ. Chính sách đó do họ đề ra,
chúng ta chỉ theo họ mà thôi !"[74]
Chuẩn
tướng Nguyễn Hữu Hạnh thì
nói: "Tôi nói thật, trong tất cả các đời tổng thống Việt Nam Cộng
hòa, ai mà Mỹ không ưa thì người ấy bị hất đổ ngay... Người Mỹ họ có đường lối
của họ: đó là họ phải nắm chỉ huy ở miền Nam này. Họ chỉ huy trong mọi lĩnh
vực, từ chính trị, kinh tế tới ngoại giao Mỹ đều nắm hết."[75]
Nguyễn Văn Ngân,
nguyên trợ lý đặc biệt của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, đã
nhận xét: "Người Mỹ đã thay thế người Pháp với chính sách thực dân mới. Vào thế
kỷ XX, người Pháp nhân danh khai hóa để khai thác tài nguyên thuộc địa, nay
người Mỹ nhân danh dân chủ để khai thác xương máu người Việt trong việc thiết
lập một "tiền đồn chống Cộng" tại Đông Nam Á... Nền dân chủ mà người
Mỹ tán dương khi can thiệp vào Việt Nam là nền dân chủ được định nghĩa trong
quyền lợi của Mỹ, một thứ phó sản được dùng làm bình phong để thực hiện chính
sách chia để trị, thiết lập đạo quân thứ năm, khuyến khích tình trạng vô chính
phủ, nội loạn… để dễ bề khuynh loát và khi cần thiết để thực hiện các cuộc đảo
chính và ám sát lãnh tụ quốc gia bằng bàn tay của các tay sai bản xứ…"[76]
Quan điểm của lực lượng phản chiến tại Mỹ
Người biểu tình phản chiến Mỹ với sự châm biếm: Đế quốc
Mỹ và "Con rối Sài Gòn"
Năm
1972, Uỷ ban đối ngoại Thượng viện Hoa Kỳ tổ
chức một cuộc điều trần về cuộc chiến tranh Việt Nam suốt ba ngày liền, xoay
quanh chủ đề nguồn gốc, nguyên nhân của cuộc chiến Việt Nam và những bài học
rút ra từ đó. Bốn học giả có tên tuổi đại diện cho phong trào phản chiến Leslie Gelb, James Thomson, Arthur Schlesinger và Noam Chomsky, từng
nghiên cứu nhiều về Việt Nam, được Quốc hội Mỹ mời đến báo cáo góp ý kiến cho
Quốc hội về cuộc chiến tranh Việt Nam. Đánh giá về Việt Nam Cộng hòa, giáo sư Noam Chomsky của học viện MIT đã
nói:
"Chính phủ
Nam Việt Nam đã trở thành nơi ẩn nấp của những người Việt Nam từng đi theo
Pháp trong cuộc chiến đấu chống lại nền độc lập của đất nước họ. Chính phủ Nam
Việt Nam không có cơ sở thành trì trong nhân dân. Nó đi theo hướng bóc lột dân
chúng nông thôn và tầng lớp dưới ở thành thị, trên thực tế nó là sự tiếp tục
chế độ thuộc địa của Pháp"[77]
Theo
một góc nhìn khác, tiến sĩ Daniel Ellsberg, sĩ
quan Lầu Năm Góc và
là cố vấn Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ trong
buổi phỏng vấn với CNN và trong
quyển sách "Những Bí mật về Chiến tranh Việt Nam" đã viết:
"Không hề
có chiến tranh Đông Dương thứ nhất và thứ nhì, chỉ có một cuộc xung đột nối
tiếp trong một phần tư thế kỷ. Dùng ngôn từ thực tế, đứng về một phía (Mỹ),
ngay từ đầu nó đã là một cuộc chiến của Mỹ: mới đầu là Pháp-Mỹ, sau đến toàn
là Mỹ. Trong cả hai trường hợp, nó là một cuộc đấu tranh của người Việt Nam –
không phải là tất cả người Việt Nam nhưng cũng đủ để duy trì cuộc đấu tranh –
chống chính sách của Mỹ và những kinh viện, ủy nhiệm, kỹ thuật gia, hỏa lực,
và cuối cùng, quân đội và phi công, của Mỹ. Một cuộc chiến mà trong đó một
phía (Việt Nam Cộng hòa) hoàn toàn được trang bị và trả lương bởi một quyền
lực ngoại quốc – một quyền lực nắm quyền quyết định về bản chất của chế độ địa
phương vì những quyền lợi của mình – thì đó không phải là một cuộc nội
chiến..."[78]
Quan điểm của giới sử gia phương Tây
Nhiều
nhà sử học phương Tây thì xem chính thể này như là sản phẩm của chính sách can thiệp thực dân mới mà
Mỹ tiến hành tại Đông Nam Á.[77][79][80].
Nhà
sử học Frances FitzGerald viết: "Chiến
thắng của họ (Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam)
là chiến thắng của dân tộc Việt Nam - người Bắc cũng như người Nam. Khác xa
với một cuộc nội chiến, cuộc đấu tranh của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền
Nam là một sự khẳng định nguyên tắc thống nhất dân tộc mà chính quyền Sài Gòn
đã tuyên bố ủng hộ rồi phản bội"[81]
Nhiều
sử gia cho rằng chính thể này là một chính thể con rối của Mỹ.[82] Chuyên
gia bình định, Trung Tá Mỹ William R. Corson thừa
nhận rằng "vai trò của chế độ bù nhìn của Mỹ ở miền Nam Việt Nam
là "cướp bóc, thu thuế, tái lập lại địa chủ, và tiến hành trả thù chống
lại người dân". Nhà sử học James Gibson tóm
tắt tình hình: "Chế
độ miền Nam Việt Nam không có khả năng chiến thắng vì không có sự ủng hộ của
những người nông dân, nó đã có không còn là một "chế độ" theo đúng
nghĩa. Liên minh chính trị bất ổn định và hoạt động bộ máy thì quan liêu. Hoạt
động của chính phủ dân sự và quân sự đã hầu như chấm dứt. Mặt trận Dân tộc
Giải phóng đã gần như tuyên bố quyền kiểm soát tại các khu vực rộng lớn... nó
rất khác với một chính phủ Sài Gòn yếu ớt, không có nền dân chủ cơ bản và một
mong muốn mạnh mẽ cho sự thống nhất Việt Nam"[83].
Nhà
sử học Marilyn Young nhận
xét: "Sự tha
hóa tư sản của chính phủ Nam Việt Nam từ thời Diệm đã trở nên tồi tệ hơn khi
người khác kế nhiệm ông. Chính quyền Sài Gòn vô vọng, tham nhũng, đàn áp dân
chủ dữ dội. Đến cuối thập niên 1960 đã có hàng ngàn tù nhân chính trị ở Nam
Việt Nam. Bầu cử là một trò hề, không có quá trình cải cách khả thi cho chính
quyền Sài Gòn và kết quả là nhiều nhà cải cách tham gia cuộc đấu tranh vũ
trang của đối phương." Trong khi Việt Minh đã
giảm thuế, xóa nợ và cho thuê đất với nông dân nghèo, Diệm đã đưa giai cấp địa chủ trở lại.
Nông dân đã phải trả lại đất cho địa chủ rồi phải trả tiền thuê đất. Tiền thuê
đất này được thu bởi quân đội Nam Việt Nam. Điều này tạo ra một cơn giận dữ ở
nông thôn, quân đội Nam Việt Nam bị mắng chửi là "tàn nhẫn hệt như bọn
Pháp", kết quả là tại nông thôn, 75% người dân ủng hộ quân Giải
phóng, 20% trung lập trong khi chỉ có 5% ủng hộ chế độ Sài Gòn.[84]
Xem thêm
·
·
Giáo dục Việt Nam Cộng hòa – Wikipedia tiếng Việt
|
|||||||
|
|
|
|
|
|
|
|
Giáo dục Việt Nam Cộng hòa – Wikipedia tiếng Việt
Giáo
dục Việt Nam Cộng hòa là nền giáo dục Việt Nam dưới chính thể Việt Nam Cộng hòa. Triết lý giáo dục của Việt Nam Cộng hòa là nhân bản, dân tộc, và khai phón...
|
|||||||
View on vi.wikipedia.org
|
Preview by Yahoo
|
||||||
|
|||||||
Đứa nào bán nước!? - Dân Làm Báo
Biếm họa PHO (Danlambao)
Đời Mồ Côi
Em sinh ra đã không hề
biết mẹ
Hàng ngày Em theo chị để
ăn xin
Ngày đầu đường đêm ghế
đá công viên
Sống lay lắt nhờ đồng
tiền thiên hạ.
Nhiều
khi đói sữa thay bằng nước lã
Hai
chị em vật vã dạ cồn cào
Dế ve
Sầu nướng lót dạ đêm thâu
Mong
trời sáng xin cơm thừa hàng quán.
Cha
chết sớm mẹ bị người ta bán
Sang bên Tàu vào động
bán dâm
Nhà cửa ruộng nương
Đảng qui hoạch chẳng bồi
thường
Nghe
người nói cán bộ phường chia chác
Mình
sống được nhờ tấm lòng cô bác
Nín đi
nào chị sẽ hát ầu ơ
Mất mẹ
cha đời đói rét bơ vơ
Đừng
khóc nữa em thơ xin hãy hiểu.
Chuyện
xui xẻo đẩy đưa đời cô lựu
Chị bị
tông xe nằm ngất bên đường
Khi
mọi người đưa chị đến nhà thương
Chị đã
chết từ trên đường nhập viện.
Kẻ
tông chị là đảng viên say xỉn
Sợ liên quan chúng đã
biến vào đêm
Hết họ hàng giờ chỉ còn
mình em
Nên
ánh mắt mới buồn lên đến thế.
Anh
xin lỗi mấy tháng rổi mới kể
Chỉ
mong sao ánh mắt bé vơi buồn
Trẻ ăn
mày không được đảng yêu thương
Nhưng
còn có những trại cô nhi viện
Uyển Thi
danlambaovn.blogspot.com
MUA ĐÀN BÀ VN : Không ưng được đổi
lại
http://m.9gag.com/gag/6699050
Đây là thời đại siêu xa lộ
tin tức, đâu phải chúng muốn làm gì thì làm.
TIẾN LÊN HONG KONG !
TIẾN LÊN HONG KONG !
|
|||||||
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|||||||
View on www.youtube.com
|
Preview
by Yahoo
|
||||||
|
|||||||
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết