Nhớ về một người bạn:
Anh Nguyễn Hữu Thông, Trung Đoàn Trưởng
42 mất tích sau 30/4/1975
Bài
của GS Nguyễn Lý-Tưởng, cựu Dân Biểu VNCH
-Hơn
mười năm rồi không gặp nhau mà anh còn nhớ đến tôi. Cám ơn anh nhiều. Nghe tin
anh vào học trường sĩ quan Đà Lạt (khóa 16), chương trình đào tạo bốn năm, về
văn hóa tương đương Đại học như bên Mỹ, tương lai sẽ là cấp chỉ huy quan trọng
trong quân đội. Mừng cho anh.
Anh
Thông đáp lại:
-Tôi
cũng được tin anh đã vào được trường Đại Học Sư Phạm, tương lai sẽ làm Giáo Sư
ban Tú Tài, trong các bạn cũ, phần nhiều vào ngành Cảnh sát, dạy tiểu học hay
vào quân đội. Vào được Sư Phạm như anh và cô Thanh (cháu Cha Định) rất ít. Bạn
cũ ngày xưa chưa có ai học Y Khoa, Dược Khoa,v.v...
hiện
ở vùng này nhưng nó sống một mình, không đi theo voi đàn. Có lần vua Bảo Đại đi
săn với viên Đại Tá người Pháp tại Quảng Tri, bi voi này đuổi. Đại Tá người Pháp
bị voi giết chết, chôn tại Quảng Trị gần nghĩa trang Công Giáo Trí Bưu. Nhưng
voi không xúc phạm đến vua vì nó nhận ra đó là chủ cũ của nó nên nó bỏ đi. Có
người giải thích sự kiện này, theo họ thì các vua nhà Nguyễn thường sử dụng một
thứ nước hoa đặc biệt dành cho hoàng gia, vì thế voi đã quen với mùi nước hoa
này, nhận biết đó là vua nên bỏ đi...Chúng tôi cũng đi qua những đồi cỏ xanh
tươi của Làng Vei trong khi ở Quảng Trị, Đông Hà mùa này đồng khô, cỏ cháy vì nắng
nóng và gió lào...
Năm 1963 xảy ra vụ tranh đấu của Phật giáo chống
TT Ngô Đình Diệm khắp miền Trung và Sài Gòn, rồi biến cố 1/11/1963, đảo chánh lật
đổ chế độ đệ I Cộng Hòa, chiến tranh càng ngày càng leo thang, năm 1964, quân Mỹ
công khai đổ bộ vào bãi biển Đà Nẵng, Mỹ bắt đầu tăng quân số tại Việt Nam và
cho B.52 ném bom Bắc Việt...Mùa Xuân 1966, nhân vụ Trung Tướng Nguyễn Chánh
Thi, Tư Lệnh Quân Đoàn I tại Đà Nẵng bị cách chức, Thượng Tọa Thích Trí Quang
hô hào Phật tử xuống đường ủng hộ Nguyễn Chánh Thi, đòi lật đổ Thiệu- Kỳ (Trung
Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia và Thiếu Tướng Nguyễn
Cao Kỳ, Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương)...Lúc đó tôi có mặt ở đại học Huế
nên biết rõ hoạt động của nhóm sinh viên thân Cộng và sự xâm nhập của cán bộ CS
nằm vùng tại Huế và các tỉnh Miền Trung nhất là trong các trường học. Ngày
31/5/1966, Thiếu Tướng Hoàng Xuân Lãm, Tư Lệnh Sư Đoàn 2 BB tại Quảng Ngãi được
đưa lên làm Tư Lệnh Quân Đoàn I sau khi các Tướng Nguyễn Văn Chuân, Tôn Thất
Đính và Huỳnh Văn Cao được Trung Ương đưa ra thay thế Nguyễn Chánh Thi nhưng
không ổn định được tình hình. Thiếu Tướng Hoàng Xuân Lãm với quyết tâm dẹp loạn,
được sự phối hợp của Biệt Động Quân, Thủy Quân Lục Chiến, Nhảy Dù,v.v. đã tái lập
trật tự. Sau cuộc bầu cử Quốc Hội Lập Hiến 9/1966, tôi được về Bộ Giáo Dục làm
việc tại Văn Phòng Công Cán Ủy Viện đặc trách Thanh Niên bên cạnh Tổng Trưởng
là BS Nguyễn Văn Thơ...Hiến Pháp do Quốc Hội Lập Hiến soạn thảo, được ban hành ngày
1/4/1967, tiếp đến là tổ chức bầu cử Tổng Thống, Thượng Nghị Viện, Hạ Nghị Viện...Tôi
đã nộp đơn ứng cử Dân Biểu tại tỉnh Thừa Thiên, trong khi đi vận động bầu cử
Dân Biểu, tôi tình cờ gặp anh Thông đang chỉ huy một tiểu đoàn từ Quảng Trị vào
Huế tăng cường an ninh cho cuộc bầu cử. Anh Thông hứa sẽ giới thiệu tôi là bạn
của anh từ thời còn học tiểu học và xin lính của anh ủng hộ. Ngoài anh Thông,
tôi còn được anh Phạm Văn Đính (Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Hắc Báo
kiêm
Quận Trưởng Quảng Điền (Thừa Thiên) và anh Trần Sơn (chỉ huy lính Nhảy Dù) đang
đóng quân tại cây số 17 (trên Quốc Lộ I) hứa giúp...Kết quả cuộc bầu cử
23/10/1967, tôi đắc cử Dân Biểu tại tỉnh Thừa Thiên. Trong một lần đến thăm
Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm, tôi có giới thiệu với Trung Tướng anh Nguyễn Hữu
Thông, Tiểu đoàn trưởng thuộc Sư Đoàn 1 BB là bạn học với tôi khi còn nhỏ, đồng
hương Quảng Trị, xuất thân từ trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt khóa 16 năm, là người
đạo đức, gương mẫu, cấp chỉ huy giỏi, được cảm tình của mọi người. Trung Tướng
Lãm cũng là người đồng hương Quảng Trị, là cựu sinh viên Võ Bị Đà Lạt, du học
Pháp, du học Mỹ...Cụ Hoàng Trọng Thuần, thân sinh của Trung Tướng là bạn thân của
cha tôi...nên rất quý tôi. Trung Tướng có hứa sẽ quan tâm đến anh Thông khi có
cơ hội sẽ tiến cử anh. Mấy năm sau, tôi được tin anh Thông đã lên Trung Tá,
Trung Đoàn Phó Trung Đoàn 2 BB trấn giữ vùng Đông Hà, Bến Hải, phía Nam vĩ tuyến
17. Khoảng 1973, 1974, tôi xem TV Sài Gòn thấy anh Thông, mang cấp bậc Đại Tá,
đang ở trong hầm chỉ huy của Trung Đoàn 42 SĐ 22 BB tại Pleiku.
Sau
ngày 30/4/1975, tôi đã trải qua nhiều nhà tù dưới chế độ CSVN, từ Nam chí Bắc,
tôi đã từng sống chung trong tù với các tướng lãnh, sĩ quan VNCH...gặp ai tôi
cũng hỏi tin tức về anh Thông...nhưng chỉ biết anh mất tích vào giờ chót, còn
việc sống chết ở đâu...thì không ai biết rõ. Tôi rất thương và chỉ biết cầu
nguyện cho anh mà thôi.
Năm
1988, tôi được ra khỏi nhà tù CS , từ Miền Bắc trở về Sài Gòn, nhân dịp LM
Simon Nguyễn Văn Lập, cựu Viện Trưởng ĐH Đà Lạt, mừng 50 năm Linh Mục tại giáo
xứ Fatima Bình Triệu, tôi có đến chúc mừng ngài. Trong số cựu sinh viên có mặt
trước sân nhà thờ, có một người chạy đến vỗ vai chúc mừng tôi “còn sống trở về
sau 13 năm tù” Tôi không nhớ người đó là ai? Vì lâu ngày quá, gương mặt ai cũng
thay đổi.
-Anh
không nhận ra tôi à? Tôi là Thanh cháu cha Định đây.
GS Nguyễn Thị Thanh, dạy Pháp văn, vợ GS Trần
Văn Thuấn, chị Thanh cùng học Sư Phạm Huế với tôi là cháu Cha Định DCCT, người
bà con với anh Nguyễn Hữu Thông. Trước 1975, Cha Định có tổ chức Trung Tâm Văn
Hóa Duy Linh tại đường Nguyễn Thông gần Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn, ngài mời tôi
tham gia sinh hoạt văn hóa “duy linh”, lâu lâu có việc gì cần, ngài cho ông
già...chạy xe mobylette đến gặp tôi...Ngài biết tôi là bạn học cùng lớp với anh
Thông khi còn nhỏ và cũng là bạn học với anh Thuấn tại trường Thiên Hựu, chúng
tôi đều quen nhau. Có lần Cha Định trao cho tôi hồ sơ của GS Nguyễn Thị Thanh,
nhờ tôi xin với Bộ Giáo Dục cho GS Thanh
về dạy ở Huế vì ngài biết tôi là đàn em của BS Nguyễn Văn Thơ, Tổng Trưởng Giáo
Dục lúc đó. Ngoài ra tôi còn là Dân Biểu và cũng đã từng làm việc tại Bộ Giáo Dục
thời BS Nguyễn Văn Thơ nên hy vọng lời nói của tôi sẽ được việc...Kết quả, GS
Thanh được về Huế để gần gia đình bên chồng. Qua câu chuyện với chị Thanh, tôi
được biết Cha Định hiện sống tại vùng Phương Lâm-Định Quán, mai danh ẩn tích
sau ngày 30/4/1975...Ngài đã qua đời tại VN cách nay mấy năm. Gia đình GS Trần
Văn Thuấn – Nguyễn Thị Thanh hiện sống tại Sài Gòn.Tết năm 1989, LM Trần Văn Lộc (con ông bà Trần Văn Lợi ở Phủ Cam, Huế) mời tôi cùng đi thăm Cha Bề Trên Nguyễn Văn Đệ Dòng Bosco ở Thủ Đức, họp mặt đồng hương Quảng Trị. Tôi biết Cha Đệ có bà con với anh Thông, ngài cũng là cháu Cha Định DCCT Huế. Lần đầu tiên tôi đi thăm Cha Đệ...Tôi nghe tiếng Cha Đệ là người khôn ngoan, học giỏi, có uy tín trong Dòng Bosco, lại là người bà con với Cha Định, anh Thông...nên cũng muốn đi thăm ngài cho biết nhau. Tâm trạng của tôi, lúc đó mới thoát cảnh tù tội dưới chế độ Cộng Sản...nghe nói chuyện “họp mặt đồng hương” tôi cũng ngán, nhưng vì có Cha Trần Văn Lộc chở đi, nên tôi không ngại...Cha Lộc cũng đã từng bị tù vì liên quan đến vụ chuyển thư của Đức Cha Điền ở Huế cho Tòa Thánh (qua Tòa Đại Sứ Pháp ở sài Gòn)...Hôm đó, Cha Đệ dâng Thánh Lễ Tạ Ơn đầu năm và cho bà con “ăn Tết”...Tục ở quê tôi đi thăm nhau ngày Tết gọi là “đi ăn Tết” tất nhiên phải có bánh trái rượu thịt dọn ra để mời khách...Quả thật Cha Đệ vẫn còn giữ cái tục xưa của quê hương...Tôi vừa ra khỏi nhà tù mà được đãi một bữa ăn có rượu thịt, bánh tét, bánh chưng như “ăn Tết” ngày xưa ở Quảng Trị...thật không có gì thích thú bằng. Được nói chuyện với Cha Đệ tôi mới thấy được ngài là người khôn ngoan, đạo đức đúng như lời người ta nói. Tôi qua Mỹ được gặp Đức Cha Hoàng Văn Tiệm, Giám Mục Bùi Chu, cũng là bạn thân của Cha Đệ, dòng Thánh Bosco...Ít lâu sau nghe tin Cha Đệ được về làm Giám Mục Phó GP Bùi Chu, phụ tá cho Đức Cha Tiệm. Ai cũng ngạc nhiên về cái tin này, nhất là dân Bùi Chu ở Mỹ. Nhưng tôi không ngạc nhiên vì tôi biết Đức Cha Tiệm là đàn anh của Cha Đệ, người biết Cha Đệ hơn ai hết. Đức Cha Hoàng Văn Tiệm đã đề nghị với Tòa Thánh thì còn ai hơn nữa. Rồi từ Bùi Chu, Đức Giám Mục Nguyễn Văn Đệ lại được Tòa Thánh đưa qua làm Giám Mục Chánh Tòa GP Thái Bình, vựa lúa Miền Bắc, là tỉnh có dân số đông nhất Miền Bắc, tất nhiên là nơi quan trọng đối với Giáo Hội Công Giáo Việt Nam. Thái Bình có một nhà thờ mới, nguy nga, tráng lệ, được xem là đẹp nhất Việt Nam lúc đó. GP Huế có ba Đức Cha là người Quảng Trị (ĐC Tổng Giám Mục Têphanô Nguyễn Như Thể người làng Cây Da và Đức TGM Phanxico Xavie Lê văn Hồng người làng Trí
Bưu)
Đức Cha Bùi Văn Đọc (người làng An Lộng, Triệu Phong, Quảng Trị, gia đình vào lập
nghiệp tại Dalat...Đức Cha Đọc hiện là Tổng Giám Mục Sài Gòn) nay thêm Đức GM
Nguyễn Văn Đệ, người làng Thạch Hãn...rõ ràng là con cháu Đức Mẹ La Vang. Người
ta thường nói: “Quảng Trị là đất phát về tôn giáo” xưa cũng như bây giờ, bên
Công Giáo cũng như bên Phật Giáo...đều có những nhà lãnh đạo danh tiếng.
Năm
1994, sau hai lần tù dưới chế độ CSVN tổng cộng 14 năm, tôi và gia đình được định
cư ở Mỹ, tình cờ tôi được gặp chị Phùng Ngọc Hiếu, Giáo Sư Quốc Văn tại trường
Nguyễn Hoàng (Quảng Trị) trước 1972...chị là vợ anh Thông...Tôi rất mừng khi được
biết chị đã vượt biên cùng các con, hiện các cháu đã thành đạt, có người là Bác
Sĩ Y Khoa tại Hoa Kỳ...Một số bạn bè ngày xưa của tôi và anh Thông như anh Nguyễn
Hữu Minh (người Thạch Hãn) anh Nguyễn Văn Bình (Thạch Hãn), anh Nguyễn Văn Phẩm
(Thạch Hãn) anh Lê Đình Học (Trí Bưu) anh Lê văn Vĩnh (Trí Bưu)...thường liên lạc
với tôi...các bạn xưa vẫn còn nhớ anh Thông...Cá nhân tôi không quên gương mặt
anh Thông, da sạm nắng, dưới mắt có nốt ruồi...Anh Thông người cao lớn hơn tôi
nhiều, tướng bề ngoài đúng là sĩ quan, là cấp chỉ huy trong quân đội...còn tôi,
tầm vóc vừa phải, hơi gầy từ khi còn nhỏ, thích làm thơ, viết văn, dạy học, hoạt
động chính trị, tranh đấu...Một người là võ, một người là văn, tuy không có cơ
hội sống gần bên nhau nhưng chúng tôi vẫn nhớ đến nhau.
Chị
Hiếu (vợ anh Thông) có cho tôi biết lần cuối cùng chị nhận được tel của anh
Thông từ chiến trường gọi về nhà ở Nha Trang là đêm 31/3/1975, sau đó thì không
còn liên lạc được với anh ấy nữa. Sau ngày Ban mê thuột bị Việt Cộng chiếm
đóng, Tổng Thống Thiệu ra lệnh cho Thiếu Tướng Phạm Văn Phú bỏ Pleiku, toàn bộ
Quân Đoàn II rút về Nha Trang. Cuộc rút lui đó là một thất bại vô cùng thảm khốc
của Quân Đội VNCH, đã làm tan rã toàn bộ Quân Đoàn II. Trên đường từ Pleiku về
Phú Bổn, dân chúng bỏ nhà cửa chạy theo lính, đã bị Việt Cộng chận đánh, pháo
kích chết rất nhiều. Nghe nói đơn vị của anh Thông đã về bãi biển Quy Nhơn, thế
cùng, lực tận, nhiều người bơi ra ngoài khơi hy vọng được tàu của Mỹ và hải
quân VNCH cứu vớt. Anh Thông cũng có mặt trong những người đó, đã kiệt sức và mất
tích có thể ở trên biển. Trường hợp anh Thông, có một bác sĩ quân y đã viết một
bài đăng trên nhật báo Người Việt ở Cali, nói rằng anh Thông đã tự tử chết bên
cạnh đồng đội, chôn dưới cột cờ bệnh viện tại Nha Trang. Nhưng câu chuyện đó
cũng không thuyết phục lắm vì gia đình cũng đã đi tìm mà không có chứng tích.
Tôi
cũng có người bạn là Trung Tá Trần Văn Sơn, người làng Bố Liêu, Triệu Phong, Quảng
Trị, liên đoàn trưởng liên đoàn Nhảy Dù, cũng bị mất tích vào giờ chót trước
khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng tại Sài Gòn, nghe nói lúc đó đơn vị của
anh đang chiến đấu tại Phan Rang. Trường hợp anh Phạm Văn Đính, Trung Tá Trung
Đoàn Trưởng thuộc Sư Đoàn 3 đóng tại căn cứ Bastogne gần Đông Hà, vào mùa Hè
1972, quân Bắc Việt tấn công Quảng Trị, anh bị địch bao vây, không có tiếp viện
nên bắt buộc phải ra đầu hàng giặc để cứu mạng sống cho lính. Các anh Nguyễn Hữu
Thông, Trần Văn Sơn và Phạm Văn Đính là ba người bạn đã giúp tôi trong cuộc bầu
cử Dân Biểu tại Thừa Thiên vào tháng 10/1967 đều đã ra đi.
Anh
Trần Tiễn San, Thiếu Tá Biệt Động Quân là con trai của Cụ Trần Điền (Nghị Sĩ
VNCH bị VC thảm sát trong Tết Mậu Thân 1968 tại Huế), là bạn bọc cùng lớp với
tôi tại trường Thiên Hựu Huế, cho tôi biết về Khóa 16 Võ Bị Đa Lạt như sau:
Khóa 16 nhập học vào cuối năm 1959 và mãn khóa vào cuối năm 1962. Vì nhu cầu
chiến trường vào thời chiến nên Bộ Tổng Tham Mư đã rút ngắn chương trình học lại
chỉ có ba năm thay vì bốn năm. Điều kiện nộp đơn thi tuyển không đòi hỏi phải
có văn bằng Tú Tài II, nhưng sau một năm học, trường cho sinh viên đi thi để lấy
văn bằng Tú Tài II, những người thiếu điểm văn hóa bị đưa về Trường Hạ Sĩ Quan
Đồng Đế (Nha Trang) tiếp tục học một năm và sẽ tốt nghiệp với cấp bậc Chuẩn Úy
hiện dịch. Từ Khóa 19 trở đi, bắt buộc phải có bằng Tú Tài II mới được thi nhập
học, sau bốn năm, các sĩ quan tốt nghiệp được cấp bằng tương đương với Cử Nhân
Khoa Học ứng dụng. Khi thi vào khóa 16 Đà Lạt, anh Thông chưa có Tú Tài II,
nhưng anh là một sinh viên siêng năng học tập và đã thành công trong Quân Đội.
Năm 1972, Đại Tá Đạt bị tử trận tại Tân Cảnh, lúc đó anh Thông là Trung Tá
Trung Đoàn phó, lên làm Trung Đoàn Trưởng, đã tổ chức lại hàng ngũ và đã đẩy
lui được sự tấn công của địch, anh được thăng cấp Đại Tá tại mặt trận. Năm
1973, anh được lên Đại Tá thực thụ.
GS
Nguyễn Lý-Tưởng, Cựu Dân Biểu VNCH
(viết
ngày 20/7/2017 kỷ niệm 63 năm ký kết hiệp định Geneve, chia cắt đất nước
20/7/1954)
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết