Lam Hà
Buồn!...
Lam Hà là bút hiệu của cựu Đại Uý, cựu Học Sinh TH
Phan Chu Trinh Đà Nẵng, Sĩ Quan Tuỳ Viên cho Trung Tướng Ngô Quang Trưởng
Tư Lệnh QĐ1/QK 1 /VNCH. Bài dưới đây trích từ Nhật Ký của một Tuỳ
Viên Tưởng Ngô Quang Truởng..
Ngày 23 tháng 10, năm 2010, tôi đi dự lễ tiễn đưa Đại Tá
Đặng văn Phước về nơi an nghỉ cuối cùng. Ông là Không Đoàn Trưởng
Không Đoàn 51, và chính ông là người đã nhận tín hiệu cuả tôi qua cái
đèn bấm và cái Samsonite, ông đã can đảm đáp xuống cột cờ BTL/HQVI
Duyên Hải để cứu Trung tướng Ngô Quang Trưởng Tư Lịnh Quân Đoàn I và
tôi, ra khỏi vùng nguy hiểm vào khoảng 2 giờ sáng ngày 29 tháng 3 năm
1975.
Sau đó chúng tôi ghé núi Sơn Trà bốc Chuẩn Tướng Khánh,
Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Không Quân, rồi trực chỉ phi trường Non Nước để nhập
cùng anh em Thủy Quân Lục chiến Việt Nam.
Tôi muốn giữ im lặng sau cuộc chiến, như bao nhiêu chiến
binh chuyên nghiệp khác. Nhưng tôi không thể nào quên được bài báo của
Tiến Sĩ Lê Mạnh Hùng đã đăng trong tuần báo Viet Tide cuả ông Vũ
quang Ninh (chủ nhiệm) và cô Mai Khanh (chủ bút).
Là người học sử, hay viết sử, phải tôn trọng “sử xanh”,
và là những người có phương tiện truyền thông để dẫn dắt dư luận quần
chúng, xin diễn đạt vô tư, chính xác, và nhất là để cho các thế hệ
con cháu biết sự thật là tại sao thế hệ cha ông phải chiến đấu và đã
chiến đấu như thế nào.
Bài báo đã đăng ở trang 71 (Viet Tide số 421)
Lá thư tôi hỏi và trang báo xin đăng đã bị phớt lờ.
Chúng tôi, những người đã tận tình phục vụ quê hương xứ
sở, quên cả thân mình, cha mẹ, vợ con cùng thân bằng quyến thuộc, đã
làm hết khả năng và bổn phận của người quân nhân trong cuộc chiến, rất
buồn lòng khi bị đánh giá sai sự thật.
Hôm nay, giờ này, khi tôi đang viết những dòng chữ nầy
thì có nhiều người đã ra đi, có nhiều người ở lại quê nhà, và cũng có
nhiều người đang chịu trăm cay nghìn đắng trong khắp bốn phương trời ở
xứ người.
Trong lúc đó những ngưòi bạn cũ cũng như quân thù đã
tìm cách bôi nhọ, hay đổ tội cho QLVNCH , để nhằm mục đích tự tôn
vinh hay che dấu mặc cảm phản bội đồng minh.
Ba câu hỏi của tôi không được trả lời thì bây giờ tôi cũng
xin được nói lên để mọi người cùng biết:
1. Khi Đà Nẵng đang cơn hấp hối, tôi đã theo sát Tư Lệnh
Quân Đoàn I cho đến ngày ra khỏi nước.
2. Tương quan lực lượng đôi bên.
2a. Lực lượng quân đội Cộng Sản:
Những lực lượng Tiền Phương Cộng Sản đang bao vây Đà Nẵng
gồm:
- Các Sư đoàn 324B, Sư Đoàn 325,
- Một Trung đoàn chiến xa,
- Hai Trung Đoàn Pháo làm nỗ lực chính.
Tất cả theo Elephant Valley tấn công phía Bắc Đà Nẵng.
- Một nỗ lực thứ hai là Sư Đoàn 711 cùng Mặt trận 44 tiến
chiếm khu Kỹ Nghệ An Hòa (quận Đức Dục) và quận Đại Lộc rồi tiến về
phía Nam Đà Nẵng.
Thành phố coi như nằm giữa hai gọng kềm của địch.
Tôi nhớ một phái đoàn dân chính gồm có các đại diện dân
cử, đảng phái và thân hào nhân sĩ khoảng 10 người, trong số nầy tôi
biết dân biểu Phước (cựu HS Phan Chu Trinh và chúng tôi thường gọi là
Phước Lít), Giáo sư Trần ngọc Quế (giáo sư trường Phan chu Trinh và
là một người cuả một đoàn thể chính trị), họ đến để yêu cầu Tư Lệnh
Quân Đoàn có biện pháp quân sự để Đà Nẵng không nằm chịu trận địa pháo
như lòng chảo Điện Biên Phủ.
Những đơn vị địch ở phía bắc đèo Hải Vân như:
- Các Sư Đoàn 304, SĐ 308, SĐ 320 B và SĐ 312 đang ở đâu?
Có phải chúng đang ở sau lưng những nổ lưc chính không?
Đó là chưa kể những đơn vị địch ở Quân Khu II dồn lên vì
QĐ II đã mất trước rồi.
2b. Lực lượng phía QĐVNCH gồm có:
- Sư Đoàn 3/BB, Sư Đoàn /TQLC trừ (vì Lữ Đoàn 147 xem
như đã xoá sổ ở phía bắc đèo Hải Vân).
- Không Quân thì tất cả máy bay phải xuôi nam theo lệnh Bộ Tổng Tham
Mưu.
- Pháo binh còn vài khẩu.
- Hải Quân chỉ có khả năng vận chuyển hạn chế.
- Sư Đoàn Dù thì đã hoàn toàn rút về Nam.
Quân thất trận đi tìm gia đình, dân lánh nạn từ phía Bắc
và phiá Nam đổ về Đà Nẵng, khoảng 1.5 triệu người. Bình thường Đà Nẵng
chỉ có khoảng 300,000 dân. Người đi đứng chật đường không thể chen
chân được; dĩ nhiên trong số hổn loạn nầy có cả đặc công cùng tiền
sát viên pháo binh Cộng Sản..
Đến đây thì Tiến Sĩ Lê Mạnh Hùng cùng quí độc giả đã thấy được quân số
tham chiến đôi bên.
Sơ lược những biến cố cuối cùng tại Huế và Đà Nẵng:
- Đêm 25 tháng 3, 1975 Trung Tướng Ngô Quang Trưởng ra
lệnh các lực lượng ở Huế rút về ĐN.
- Ngày 26 tháng 3 Trung Tướng Trưởng và tôi bay trực thăng
dọc theo bờ biển và tôi thấy tận mắt quân dân bồng bế, gánh gồng dẫn
dắt nhau di chuyển về phía Nam. Đi đầu là ĐPQ/NQ tỉnh Quảng Trị và Thừa
Thiên. Kế đến là SĐ 1 rồi đến TQLC. Dân chúng thì chạy lẫn lộn trong
đoàn quân và phiá sau. Đa số trong số họ là gia đình quân nhân. Trông
thảm thương như cảnh Lưu Bị dắt dân Tân Dã chạy về Diễn Châu trong
chuyện Tam Quốc Chí.
Trung Tướng Trưởng muốn tôi lên tầng số để Trung Tướng
nói chuyện với Đại Tá Lương, Lữ Đoàn Truởng LĐ 147. Về sau tôi được
biết qua Trung Tâm hành Quân QĐI là đoàn người đến cửa Tư Hiền thì
tan tác vì không qua được cửa Tư Hiền. Hải Quân và Công Binh nhận
lãnh công tác đánh đắm một chiếc tàu Hải Quân làm cầu nổi như dự định
trong buổi họp trước đó tại BTL/QĐI, nhưng họ đã không thực hiện được.
Thêm nữa đoàn người bị VC tác xạ và mạnh ai nấy chạy. Bộ
Binh và ĐPQ/NQ về đến Đà Nẵng được khoảng 1/3; Nhưng số nầy tan hàng
trong hổn loạn để lo đi tìm gia đình nên không còn kiểm soát được.
Sư Đoàn 1 coi như bị xoá sổ cùng với ĐPQ/NQ ở phía Bắc
đèo Hải Vân.
Trong ngày 26 tháng 3, 1975 Lữ Đoàn 147 TQLC không bốc được nên Lữ
Đoàn đã chiến đấu đến khi hết đạn. Một số tự tử và một số bị địch bắt.
Ngày 26 tháng 3, 1975 Huế xem như đã mất.
Tình hình phía Nam đèo Hải Vân cũng bi đát chẳng kém
gì Huế.
Ngày 10 tháng 3 thì hai quận Hậu Đức và Tiên Phước bị tràn ngập bởi
Trung Đoàn 52 và Sư Đoàn 711 của Việt cộng.
Ngày 24 tháng 3 Tiểu Khu Quảng Tín rút chạy về Đà Nẵng,
và cũng ngày nầy Tiểu khu Quảng Ngãi rút về Chu Lai.
Ngày 26 tháng 3 Sư Đoàn 2 rút ra Cú Lao Ré. Thành phố Đà
Nẵng lên cơn sốt hỗn loạn. Cướp bóc đã xảy ra tại kho gạo gần thương
cảng.
Sáng ngày 28 tháng 3 Tư Lệnh Quân Đoàn cho triệu tập các
cấp chỉ huy để tìm biện pháp vãn hồi trật tự và tái trang bị cho những
đơn vị có mặt trong thành phố. Nhưng kế hoạch không thi hành được vì không
đủ quân số tác chiến, và hầu như một số lớn sĩ quan đã bỏ phòng sở để
đi lo chuyện gia đình. Tôi thấy chỉ có văn phòng Tư Lệnh còn làm việc
còn tất cả phòng ban trong bộ tư lệnh hầu như ngừng lại hết.
Vào khoảng 2 chiều ngày ngày 28 tháng 3 Tiểu khu Quảng
Nam xem như mất liên lạc. Trung Tướng Trưởng và Tôi chỉ bay đến chi
khu Hoà Vang rồi phải trở lại BTL/QĐ. Chi Khu Hòa Vang ở sát phi trường
Đà Nẵng. Như vậy QĐI chỉ còn lại Thành Phố Đà Nẵng và Phi Trường chưa
bị Việt cộng chiếm mà thôi.
Lực lượng đáng kể để phòng thủ Đà Nẵng chỉ còn Sư Đoàn 3 và 3 Lữ Đoàn
TQLC mà thôi.
Trong suốt những tháng ngày ở Mỹ, Trung Tướng Trưởng vẫn
thường gặp và đặt giả thuyết với các cấp chỉ huy thuộc quyền rằng nếu
khi ấy chúng ta tử thủ Đà Nẵng thì chúng ta có giữ được không? Và việc
gì sẽ xãy ra.?
Bây giờ tôi xin chuyển câu hỏi nầy lại cho quí độc giả.
Đến đây tôi cũng xin nhắc đến Sư Đoàn 3:
Sư Đoàn được thành lập với chủ lực là Trung Đoàn 2 cuả
SĐ1 BB cùng với quân nhân đủ mọi thành phần: quân nhân văn phòng,
quân phạm, hay bị trù dập và bị tống ra Sư Đoàn 3, và Sư Đoàn nầy ra
trấn ải địa đầu giời tuyến. Sư Đoàn bị mang tiếng “chạy làng” khi Việt
cộng ồ ạt tràn qua vùng giới tuyến phi quân sự, để tấn công quân ta.
Ai giỏi hơn ai để không “chạy làng”?
Khi lực lượng Đồng Minh chưa rút đi, thì lực lượng cuả
họ gồm:
- Sư Đoàn 3/ TQLC/ Hoa Kỳ
- Thêm Trung Đoàn 1/ TQLC/ Hoa Kỳ tăng phái.
- Sư Đoàn 101 Nhảy Dù/ HK,
- Lữ Đoàn 5 Cơ Giới.
Một tiểu đoàn cuả họ vừa tăng phái lẫn cơ hữu vào khoản
1,500 quân nhân – bằng quân số một trung đoàn chiến đấu của ta.
Hoả lực cuả một Sư Đoàn / Hoa Kỳ chấp cả Hoả lực cuả QĐVNCH
không địch nổi. Họ có hỏa lực cuả Không, Hải, Lục yểm trợ tối đa. Mất
một sư đoàn là rung chuyển cả nước Mỹ. Một sư đoàn chiến đấu nhưng cả
250 triệu người yểm trợ cả phương tiện lẫn tinh thần. Ngày tôi theo
Tiểu Đoàn 3/1 TQLC /Hoa Kỳ hành quân ở vùng Quảng Nam thì một hồi
chánh viên nói cho biết rằng các đơn vị Việt cộng rất sợ đụng trận với
Mỹ. Tôi hỏi lại anh ta: vậy chúng tôi, QLVNCH, đánh giặc dở hơn Mỹ phải
vậy không thì anh ta trả lời rằng không phải vậy - Chúng tôi ít sợ các
anh vì các anh bắn ít hơn nhiều, còn Mỹ thì họ bắn như mưa. Anh xem
các cây trong làng, có cây nào không đầy vết đạn chằng chịt. Thế
nhưng ngày tôi theo Tiểu Đoàn 2/1 TQLC / Hoa Kỳ, tăng phái cho Sư
Đoàn 3 / TQLC / Hoa Kỳ, tại phía nam Cồn Thiên vẫn phải chịu trận
pháo kích 61 và 82 ly cuả quân chính qui Việt cộng mấy tháng trời.
Đám quân sinh Bắc tử Nam còn dám tấn công các đơn vị Mỹ
ở vùng phi quân sự như ở Cồn Thiên, Khe Sanh huống gì một Sư Đoàn tân
lập như Sư Đoàn 3?
Những ngày cuối cùng cuả Đà Nẵng nếu không có Sư Đoàn
3, thì Sư Đòan / TQLC / VN không rút xuống tàu được. Sư Đoàn 3 đã bị
hi sinh ngăn chận địch và không có kế hoạch bốc Sư Đoàn 3.
Tổng Thống Thiệu đã đặt câu hỏi cho Trung Tướng Trưởng
là nếu rút, thì rút được bao nhiêu quân? . Ưu tiên vẫn là rút Sư Đoàn
Dù, Sư Đoàn /TQLC để có lực lượng làm hơi thở cuối cùng cuả VNCH.
Lữ Đoàn I Dù còn lại sau cùng chỉ được dùng để ứng chiến
nhằm nâng cao tinh thần quân dân mà không được phép xử dụng tác chiến.
Sư Đoàn / TQLC cũng vậy; phải làm sao rút được về Sài Gòn.
Khi Tư Lệnh Sư Đoàn 3 về họp lần cuối cùng đêm 28 tháng
3 tại BTL / Hải Quân/ VIDH thì chỉ được biết bất ngờ là phải rút về
vùng Horse Shoe gần sông Thu Bồn mà không thấy nói di tản Sư Đoàn 3.
Phương tiện và tình thế chỉ có thể lo cho 2 Sư Đoàn tổng
trừ bị mà thôi. Đến đây tôi xin trả lời nghi vấn cuả Đại Tá Phạm Bá
Hoa trong “Đôi Dòng Ghi Nhớ” rằng không có quan Xịa nào khuyên đừng
đánh cả. Phiá Việt cũng như Mỹ và kể cả Trung Tướng Trưởng chỉ muốn bảo
toàn lực lượng để lo chuyện khác về sau, và khả năng chỉ có thể lo
cho hai Sư Đoàn Tổng Trừ Bị mà thôi. Sư Đoàn 3 đã bị làm con chốt
thí.
Trong quân sử chiến tranh Cao Ly: khi chí nguyện quân Cộng
Sản Trung Hoa ồ ạt tấn công thì quân Mỹ và Nam Hàn phải rút về phiá
Nam. Sư Đoàn 1/ TQLC/ Hoa Kỳ phải làm nút chận cho quân bạn rút lui .
Sư Đoàn nầy đã chiến đấu oanh liệt; nhưng họ phải trả một giá quá đắt:
hơn 800 Sĩ Quan và nhiều ngàn binh sĩ hi sinh sau khi họ tự giải cứu
và rút sau cùng.
Sư Đoàn 3 cuả chúng ta không làm được như vậy, không có
quân bạn gíúp đỡ, để dựa lưng, trưóc mặt là địch, sau lưng là bạn. Sư
Đoàn đã phải tứ bề thọ địch.
Hơn nữa chính phủ và nhân dân cuả Sư Đoàn 1 / TQLC / Hoa Kỳ không bỏ
rơi họ, trong khi các bạn (Sư Đoàn 3) hoàn toàn bị bỏ rơi. Các bạn (
Sư Đoàn 3) đã chiến đấu oanh liệt trong một hoàn cảnh nghiệt ngã. Xin
đứng nghiêm kính chào các chiến hữu Sư Đoàn 3 đã nằm xuồng, hoặc đang
quằn quoại đau thương tại quê hương Quảng Đà!
Giờ phút cuối cùng tại Đà Nẵng:
Sáng sớm ngày 29 tháng 3, năm 1975 chúng tôi tiến ra bờ
biển để lội lên tàu. Ngoài TQLC ra, tôi đếm BB có khoảng 13 người:
Tr/T Trưởng, Tôi , Đại Tá Nguyễn Hữu Duệ (Tỉnh trưởng Thưà Thiên), Đại
Tá Kỳ (Tỉnh Trưởng Quảng Trị), Trung Tá Tuân (Phòng 3 QĐI) và mấy người
nữa tôi không nhớ tên.
Tôi đi lòng vòng để tìm một cái phao cho TR/T Trưởng nhưng
không tìm được. Các phi cơ trực thăng và Chinooks đang tiếp nhiên liệu
bằng cái mũ sắt. Họ phá hai chiềc để lấy nhiên liệu đổ vào một chiếc.
Đi đến đâu thì những người trên phi cơ cũng đều chĩa súng vào tôi.
Tôi gặp Thiếu tá Hiếu, người trước đây từng lái trực thăng
cho Tr/T Trưởng, và ông la to:
“Đừng bắn nó, nó là bạn tao,”
Ông hỏi: “Mầy có đi thì lên đi với tao.”
“Không,” tôi trả lời”
Thiếu tá có cái phao nào cho tôi một cái cho Tr/T Trưởng.”
“không, tao không có.
Mầy có đi không?” Ông lại hỏi
“Không, tôi còn phải lo cho Tr/T Trưởng “ tôi trả lời.
Ông chúc tôi may măn và tôi cũng chúc lại ông may mắn.
Tôi trở lại tìm TR/T Trưởng thì thấy Thiếu Tá Phương (TQLC)
đã nhường cái phao mang cho Tr/T Trưởng mặc dù Th/T Phương không biết
lội. Đại Tá Trí kẹp Tr/T trưởng một bên, một bên thì Th/T Phương kẹp.
Tôi vớ một khúc gỗ cuả một cái bunker cũ để làm cái phao. Một tay tôi
nắm thắt lưng TR/T Trưởng để đẩy ông, một tay ôm khúc gỗ và cả ba
chúng tôi dìu ông lội ra tàu.
Biển động, sóng lớn, không có cầu tàu. Nhiều lúc sóng phủ
tôi bị chìm lĩm. Chúng tôi lội đến vừa lút đầu thì lên được tàu.
Sau khi lên đến nơi thì TR/T Truởng mê sảng và tôi cũng
ngất đi một khoảng thời gian dài vì một phần đói, một phần uống nhiều
nước mặn khi sóng phủ, một phần vì quá mệt.
Theo Trung Uý Bình, Hạm Phó LST 404, thì Tr/T Trưởng
đã nói trong lúc mê sảng:
“Bây giờ Tổng Thống biểu tôi phải làm gì?”
“Làm như vậy thì làm sao tôi nói với các Tướng dưới quyền tôi được.”
Khi tàu đang lênh đênh ngoài khơi Đà Nẵng thì chúng tôi
nhận được lệnh Tổng Thống Thiệu “phải tái chiếm ĐN”.
“Bây giờ tôi đi với ai và lấy gì để tái chiếm.”
Tr/T Trưởng nói một mình và ông ra lịnh cho HạmTrưởng
đưa ông và TQLC xuôi Nam.
Trên đường xuôi Nam, tôi và Chuẩn Tướng Khánh, mỗi bữa
hai người chia nhau nửa muỗng cơm và nửa muỗng nước của anh em hải
quân nhịn miệng để dành cho. Chúng tôi không có thực phẩm và nước uống.
Theo anh em HQ cho biết tàu vừa xong công tác và trên đường về bến
thì nhận được lệnh quay trở ra Đà Nẵng vận chuyển QĐ I nên không có
tái tiếp tế.
Về đến Saì Gòn thì Tr/T Trưởng đã kiệt lực nên được đưa
vào Tổng Y Viện Cộng Hoà. Vài ngày sau ông tỉnh táo lại và đã khóc
khi tôi đứng bên giường bệnh cuả ông, và ông đã than thở rằng: “Nhờ
trời giúp tôi với Hòa mới vào được tới đây.”
Còn nhiều chi tiết nhưng bài báo giới hạn. Một ngày nào
thuận tiện tôi sẽ viết nhiều hơn. Trước khi tạm chấm dứt bài nầy tôi
xin thưa rằng trong sách “Tâm Tư Tổng Thống Thiệu” cuả Tiến Sĩ Nguyễn
Tiến Hưng có đề cập đến “Sư Đoàn 1 tự động tan hàng ở Huế” là không
đúng. Đối với Tr/T Trưởng một đôi khi một đaị đội BB do một Thiếu Úy
chỉ huy đang chạm địch ông cũng đáp xuống xem xét và tôi đã toát mồ
hôi hột vì sợ không bảo vệ được ông. Chuyện một đại đơn vị cấp Sư
Đoàn tự động giải tán mà Tr/Tướng Trưởng không biết, thì không thể
nào có thể xảy ra được. Chuyện lệnh lạc tiền hậu bất nhất cuả Tổng Thống
Thiệu thì có và đúng “solid 100%”. Tôi còn vài tài liệu để chứng minh
điều này.
Ngày tháng qua đi, qua đi…Mọi sự rồi cũng chẳng còn gì
cả. TT. Thiệu đã ra đi, Đại Tướng Viên đã ra đi, vị tướng tài ba và đức
độ Tr/T Ngô Quang Trưởng ngày nào của lòng tôi kính mến cũng đã ra
người thiên cổ. Các niên trưởng cuả tôi như Chuẩn Tướng Khánh, Đ/T Duệ,
Đ/T Phước cũng đã ra đi, và rồi chúng tôi cũng sẽ mờ dần theo năm
tháng… Nếu có còn chăng là đôi dòng lịch sử vậy xin tôn trọng “sử
xanh” và đừng bẻ cong ngòi bút vì bất cứ lý do nào.
“Biết thì nói rằng biết, không biết thì nói rằng không
biết.” Nếu dẫn chứng cho lập luận cuả mình thì xin nêu rõ xuất xứ
(foot notes). Xin đừng nói rằng nghe người nầy, người kia nói, là vô
căn cứ.
Tiến Sĩ Lê Mạnh Hùng và Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng đã
làm buồn lòng những người đã ra đi và những kẻ còn ở lại. Chúng tôi
đã từ bỏ tất cả kể cả gia đình thân yêu để làm hết sức mình cho tổ quốc,
cho quân đội và cho lý tưởng.
Quân đội nào cũng có một vài cấp chỉ huy hèn mọn, khi địch
chưa đến đã bỏ chạy. Quân Đoàn I cũng không ra ngoài cái thông lệ tầm
thường đó; nhưng không phải tất cả cấp chỉ huy đều hèn nhát bỏ chạy về
đến Sài Gòn trong lúc còn 100,000 quân còn ở lại chiến đấu tại Đà Nẵng.
Tôi là một cá nhân nhỏ bé tầm thường nhưng may mắn còn
sống sót sau biến cố 1975. Ở một góc độ nhỏ bé nào đó tôi đã thấy, đã
nghe và đã chịu đựng những điều đã xảy ra vì vậy tôi phải nói cho những
người không còn nói được nữa, hay họ không bao giờ muốn nói.
Nhìn lại một góc chiến trường xưa....
2/ Cổ Thành Quảng Trị… Trị-Thiên vùng dậy
Cổ Thành Quảng Trị
48 giờ nghỉ dưỡng quân tại hậu cứ, ở ngã tư An Sương, Hốc
Môn, đối với tôi, ra Saigon làm một chầu cà phê ở quán Mai Hương,
Pagode thế là đủ.
Khi chưa kết hôn, 7 ngày phép với tôi là… quá dài, tới
ngày thứ tư, tôi đã thấy bồn chồn, ngày thứ năm, tôi nhớ đồng đội, nhớ
đơn vị… Rồi tôi không thể nghỉ phép hết ngày thứ sáu. Tôi về đơn vị,
không khí ở đó mặn nồng hơn, vui vẻ hơn, so với những ngày phép ở
ngoài, sao nó lạt lẽo, đôi khi vô vị. Đúng vậy, chẳng có mùi vị gì hết.
Vì vậy, khi người bạn học cũ hỏi tôi:
“Mày mới từ tử địa An Lộc về, giờ lại ra Miền Trung, bộ
không ngán súng đạn sao?”
“Bây chừ thì chưa, bây chừ tao thấy đi hành quân với đơn
vị, anh em, mà lại còn về Huế nữa, là… vui lắm.”
Với cái vui ấy, tôi cùng anh em 81 Biệt Cách Nhảy Dù lên
mấy chiếc C-130 của quân đội Mỹ, bay ra phi trường Phú Bài ngày 28
Tháng Sáu, năm 1972.
Chúng tôi phải đi gấp vì lệnh của tổng thống đấy.
Hôm đại lễ kỷ niệm Ngày Quân Lực 19 Tháng Sáu năm 1972,
tổng thống đọc diễn văn và ra lệnh cho Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa,
trong vòng 3 tháng, phải chiếm lại Cổ Thành Quảng Trị. Kể từ hôm tổng
thống ra lệnh, đến ngày chúng tôi lên máy bay chỉ mới 9 ngày. Ngoài ấy,
Tướng Ngô Quang Trưởng đang là tư lệnh chiến trường, ngoài các đơn vị
của Quân Đoàn I, thì các Sư Đoàn Dù, Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến cũng
đã có mặt rồi. Không những Quân Đội chúng ta giữ được phòng tuyến
sông Mỹ Chánh, mà lại còn đang phản công ra phía Bắc con sông nầy.
Xuống ở phi trường Phú Bài, chúng tôi được quân xa đưa
thẳng ra PK.17, tức là Đồn Cây Số 17, như dân chúng thường gọi. Đây
là căn cứ của Trung Đoàn 3, Sư Đoàn 1 Bộ Binh. Trung Đoàn đã ra trận,
chỉ còn một ít binh sĩ ở lại phòng thủ doanh trại.
Đêm đó, như thường lệ, trước mỗi cuộc hành quân, chúng
tôi nhận 7 ngày lương khô và được Đại Tá Chỉ Huy Trưởng Phan Văn Huấn
chỉ thị nhiệm vụ cho từng đại đội. Ông đã được vinh thăng đặc cách đại
tá tại mặt trận Bình Long, An Lộc, cũng như về sau này tất cả quân
nhân khác trong đơn vị có tham dự tại chiến trường An Lộc, mỗi người
đều được thăng một cấp.
Tôi, đại đội trưởng Đại Đội 4, cùng Đại Úy Nguyễn Ích Đoan,
đại đội trưởng Đại Đội 1, được lệnh đưa hai đại đội ngày mai lên đường
tăng phái cho Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù của Thiếu Tá Lê Văn Mễ. Đơn vị nầy
mới từ Charlie về, vừa bổ sung tái huấn luyện, ra Quảng Trị hồi đầu
tháng 5, ngay sau khi thành phố Quảng Trị bị mất, nay đang hành quân
từ phòng tuyến Mỹ Chánh, tiến dọc theo các ngọn đồi sát chân núi Trường
Sơn, phía Tây Quốc Lộ 1. Mục tiêu của Tiểu Đoàn 11 Dù là Nhà Thờ La
Vang. Tiểu Đoàn 11 Dù đã hoàn thành nhiệm vụ.
Đại đội tôi được quân xa chuyển đến gần ngã ba đường vào
xã Ưu Điềm, từ đây chúng tôi men theo hai bên Hương Lộ, để di chuyển
về hướng Mỹ Chánh, vượt qua cầu Mỹ Chánh vào khoảng trưa, Đại Đội
phân làm 2 cánh, tiến ra hướng Bắc, ở hai bên Quốc Lộ mới do Công
Binh Mỹ vừa xây xong.. Đường nầy không đi qua Diên Sanh, Phủ Lỵ Hải
Lăng cũ. Trong một ngày đường là chúng tôi tới khu vực Đại Lộ Kinh
Hoàng.
Một khung cảnh quá khủng khiếp
hiện ra trước mắt, đã làm cho máu tôi ứa trào lên. Tại sao Việt cộng
tàn ác đến như vậy?
Đó là câu hỏi đầu tiên hiện ra
trong trí tôi. Những cái ác mà tôi không thể tưởng tượng nỗi, không
thể chịu đựng nỗi, không thể chấp nhận được. Tôi vốn là một Phật tử
mà. Nhưng dù là một Phật tử, máu tôi không thể không sôi sục dâng
trào trước cảnh tượng bất nhân, tàn ác đó..
Trên mặt đường nhựa, xác người
dân nằm la liệt, ngổn ngang. Thây người chết ở mọi tư thế khác nhau,
nằm sấp, nằm ngửa, nghiêng. Xác thì chân tay dang ra, xác thì chân
hay tay co lại. Xác nầy chồng lên xác kia, dồn đống, có xác một mình
co quắp bên lề đường… Cái mất đầu, cái mất tay, mất chân.
Có xác đàn ông, có xác đàn bà, có xác trẻ em, có xác không
còn nhìn ra là đàn ông hay đàn bà nữa. Không thể nào tả hết được!!!
Đoạn đường Việt Cộng giết người nầy, xảy ra ngay ngày Việt
Cộng chiếm thành phố Quảng Trị, ngày 1 Tháng Năm, năm 1972 và những
ngày tiếp sau đó.
Vậy là đồng bào nằm đây đã gần hai tháng, da thịt đã rữa.
Có nơi xương trắng đã bày ra, sọ, tay chân hay xương sườn. Dù quân
nhân mặc đồ trận hay thường dân, thì đồ trận, áo quần cũng đã phai
màu, mục nát. Mái tóc dài của mấy mẹ, mấy chị, mấy cháu đã tróc khỏi
sọ não, bay là đà theo từng cơn gió thoảng, trên mặt cát còn xông đầy
mùi tử khí.
Họ là những người trốn chạy, dù họ là dân sự hay quân nhân.
Họ trốn chạy Cộng Sản. Họ trốn chạy chiến tranh. Họ trốn chạy tên bay
đạn lạc, dù không biết rõ của phe bên nào. Giết chết những người trốn
chạy! Vậy là vô nhân đạo, là vô lương tri, là kẻ giết người dã man, họ
đã đi tới chỗ tận cùng của lương tâm.
Trên mặt đường và cả hai bên vệ đường, bên cạnh xác người
là lỗ chỗ các hố sâu của đạn súng cối, đại bác, hỏa tiễn mà giặc cộng
đã nhẫn tâm rót xuống để giết hại đồng bào và những trẻ thơ vô tội.
Xe cộ nằm dọc theo đường đi, mũi xe hướng về Nam, xe quân
đội, xe dân sự, xe hàng, xe đò chở khách, xe lớn nhỏ đủ các loại. Nhiều
chiếc bị cháy sạm đen, nhiều chiếc bị đạn pháo bắn hư hại một phần
hay hoàn toàn. Rải rác đây đó là các loại xe gắn máy, Vespa,
Lambretta, Honda, Mobylette và khá nhiều xe đạp, hầu hết, bị hư, cong
vành bể lốp chỉ còn là đồ phế thải.
Dù là một người lính trận, từng vào sinh ra tử, tôi không
dám nhìn kỹ những cái xác ấy. Kinh hoàng quá! Kinh hoàng quá! Tàn ác
quá! Tàn ác vô cùng tận!!!
Chúng tôi lặng yên di chuyển trong đau buồn và tức giận,
vừa sẵn sàng súng đạn để phản công nếu địch phục kích, lại cũng vừa để
tránh địch phát hiện. Chúng sẽ pháo, pháo dồn dập nếu thấy chúng tôi.
Đêm mùa Hè, trời tối chậm, chúng tôi được lệnh dừng quân
nghỉ qua đêm. Tôi cho lệnh các trung đội đào hố cá nhân phòng thủ ở cả
bốn hướng, trải rộng dọc theo hai bên Quốc Lộ 1, để tránh tổn thất
khi bị địch pháo kích, đồng thời là để phản ứng ngay nếu bị địch tấn
công. Tôi và Ban Chỉ Huy Đại Đội đóng cạnh một chiếc xe GMC của phe
ta bỏ lại.
Đêm trôi đi trong bóng tối tĩnh mịch, thỉnh thoảng có ngọn
gió thổi qua, tôi thấy dễ chịu đôi chút. Nhưng suốt cả đêm, tôi chỉ
chợp mắt từng chặp. Tôi không sợ chết, nếu thần chết có đến, tôi sẽ
chống lại, như cái bản năng sinh tồn của muôn loài muôn vật.
Chính tôi đã viết trên tường Đài Tử Sĩ ở An Lộc: “Cổ
lai chinh chiến kỷ nhân hồi.” Nói câu đó, và khắc viết lại câu nói đó
của người xưa, tức là tôi đã chấp nhận cái kỷ kiến ấy rồi, có chi mà
tôi phải thắc mắc.
Nhưng những thây người nằm ngổn ngang đang rửa mục,
trên đoạn đường đi qua hồi chiều ám ảnh tôi, làm tôi không ngủ được.
Chiến tranh là tàn ác. Những người đi đánh trận như tôi, vì Tổ Quốc,
vì đồng bào, tôi chấp nhận nó. Nhưng với những người nằm chết kia, tôi
thấy tội nghiệp cho họ, hay như câu Mạ tôi thường nói: “Tội vô cùng.”
Tội cho họ quá, không làm sao một con người còn có lương tâm, có thể chấp
nhận được.
Sáng hôm sau thức dậy, nhìn vô thùng xe, nhìn chung quanh
lại đầy rẫy xác người chết khô, nằm co quắp, nằm dọc dài trên thảm
cát, bên vệ đường.
Thật là quá thương tâm, não ruột. Tôi không kềm chế được
nỗi xúc động, hai dòng nước mắt ứa trào.
Đại đội tiếp tục tiến ra hướng Bắc, tới một cây cầu, có
phải là Cầu Dài như tên dân chúng thường gọi, đã bị sụp đổ, chúng tôi
phải trầm mình lội nước vượt qua sông.
Tôi xem lại bản đồ, bên cạnh Quốc Lộ 1, về phía trái hướng
Tây, song song với Quốc Lộ là đường xe lửa Saigon-Đông Hà. Bên kia đường
xe lửa là khu đồi hoang, lúp xúp cây dại, cây mua và cây sim. Có lẽ vùng
nầy tới mùa hoa nở, hoa mua và hoa sim phủ kín ngọn đồi. Nó giống như
những ngọn đồi miền Trung, Bình Trị Thiên hay Thanh Nghệ Tĩnh vậy.
Đây là “Những đồi hoa sim, màu tím hoa sim, tím cả chiều hoang biền
biệt.” Tiếc rằng, tôi cũng là người chiến binh, không có thì giờ lang
thang qua những đồi sim nầy để thấy màu tím của quê hương.
Di chuyển thêm chừng cây số nữa, bên trái là một căn cứ pháo binh của
Sư Đoàn Dù, tình cờ tôi gặp Chuẩn Úy Hoàng Công Thức, Khóa 25 Sĩ Quan
Trừ Bị Thủ Đức, là em một người bạn học cùng xóm, con trai Thầy Hoàng
Văn Ngũ, giáo sư Sinh Ngữ Trường Trung Học Công Lập Nguyễn Tri
Phương, Huế. Anh là Tiền Sát Viên Pháo Binh của Sư Đoàn Nhảy Dù, đang
hoạt động vùng nầy.
Sau cùng, đại đội tôi cũng đã tiếp cận tuyến phòng thủ
của Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù, tôi trình diện Mê Linh, tức là Thiếu Tá Lê
Văn Mễ, tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 11 Dù. Cùng gặp Mê Linh với tôi
sau đó là Đại Úy Nguyễn Ích Đoan, đại đội trưởng Đại Đội 1 Biệt Cách
Nhảy Dù.
Mê Linh giao nhiệm vụ cho hai đại đội Biệt Cách Dù là tái chiếm Nhà
Thờ La Vang, tên mới là Vương Cung Thánh Đường La Vang: “Đại đội các
anh phải chiếm lại nhà thờ nầy và giữ nó, không cho địch chiếm lại.”
Có nghĩa là Dù đã chiếm nó. Đó là công lao của “Hùng Móm,” nhưng Hùng
phải bỏ nó lại đi tiếp xuống để đánh vào thành phố Quảng Trị, thừa cơ
hội đó, VC chiếm lại mục tiêu nầy.
Con đường tiến quân của Cộng Sản đánh vào Quảng Trị là
con đường từ Ba Lòng xuống Như Lệ, Phước Môn, bên hữu ngạn Sông Thạch
Hãn, theo một con đường bỏ hoang đã lâu, có cái tên cũ là đường Bảo Đại.
Nó không giống như con đường Trần Lệ Xuân ở Phước Long, con đường đi
lấy gỗ rừng của dân xe be khai thác gỗ.
Ở đây, đường Bảo Đại là con đường đi săn của nhà vua trước
năm 1945, khi ông vua ham săn bắn nầy còn ngồi trên ngai vàng. Quân Cộng
Sản đã theo con đường này, đưa quân chiếm lại Nhà Thờ La Vang. Nó cũng
có nghĩa là khi Tiểu Đoàn 11 Dù từ hướng Tây đánh vào thành phố, thì
coi như Tiểu Đoàn đưa lưng ra cho địch từ sau đánh tới. Trong ý nghĩa
đó, hai đại đội Biệt Cách Dù có nhiệm vụ lấy lại Nhà Thờ La Vang, và
giữ nó là nhằm mục đích bẻ gãy ý đồ của địch.
Bây giờ chúng tôi lại phải áp dụng chiến thuật sở trường:
đánh đêm.
Vị trí giữa địch và ta đã thay đổi. Trước kia, chúng ta
ở trong đồn, VC công đồn, chúng phải đánh ta vào ban đêm, chúng ta
khó phát hiện địch. Bây giờ thì chúng ta phải công đồn, chúng ta cũng
đánh đêm, địch không thể phát hiện được ta.
Nhà Thờ La Vang mặt quay về hướng Đông. Đại Đội 1 đánh
từ hướng Tây Tây Nam, phía có Hang Đá Đức Mẹ. Đại Đội 4 tôi cũng đánh
từ hướng Tây, Tây Bắc, phía có con đường đi lên Nhà Thờ Phước Môn ở
phía Tây Nhà Thờ La Vang, gần chân núi Trường Sơn hơn.
Vào nửa đêm, chúng tôi âm thầm hai cánh quân tiến sát vòng
đai Nhà Thờ La Vang, vừa dàn quân lại gặp một trận mưa lớn, chúng tôi
án binh bất động.
Trời vừa sáng, dứt cơn mưa, quan sát các bố phòng của địch,
tôi điện báo cho Đại Úy Đoan để phối hợp tác chiến, rồi bắt đầu phát
lệnh xung phong, tấn công chớp nhoáng, ào ạt, địch quá bất ngờ, nên một
số đã bị tiêu diệt, một số vất súng đầu hàng, vài ba tên tháo chạy
vào bên trong nhà thờ, dùng B.40, AK.47 tác xạ chống trả, nhưng đã bị
cánh quân hướng Tây Bắc của Đại Đội 4 chúng tôi ném lựu đạn triệt hạ
20 tên và bắt sống 05 tên. Chúng tôi 03 tử thương và 12 bị thương.
Thu dọn chiến trường xong, Đại Đội 1 được lệnh ở lại bố phòng Nhà Thờ
La Vang. Đại Đội tôi tiếp tục tiến về hướng Đông Đông Bắc để thanh
toán mục tiêu kế cận là Chi Khu Mai Lĩnh.
La Vang 1972
Chi Khu Mai Lĩnh, thuộc Quận Mai Lĩnh, tọa lạc trên đoạn
đường rẽ, tên thường gọi là Ngã Ba Long Hưng, là con đường cũ đi vào
thành phố, phía ngoài sân vận động Quảng Trị cũ, kế cận trường trung
học Nguyễn Hoàng.
Trên con đường tiến quân từ Nhà Thờ La Vang đến Chi
Khu Mai Lĩnh, đại đội tôi bị tử thương một khinh binh và một tiểu đội
trưởng vì đụng chốt VC tại ngã ba đường La Vang và Quốc Lộ 1. Nhổ chốt
là sở trường của Biệt Cách Nhảy Dù, theo chiến thuật của Đại Tá Huấn.
Pháo Binh cho nổ một tràng vào vị trí địch, buộc địch phải lụt đầu xuống,
núp trong các hố cá nhân. Các viên đạn cuối là đạn lép. Trong khi, nghe
tiếng đạn đi, VC còn núp, thì chúng tôi biết đó là đạn lép, không có
gì nguy hiểm, liền nhanh chóng áp sát chỗ chúng ẩn núp, nhờ đó, chúng
tôi thanh toán bọn chúng không mấy khó khăn.
Đại đội tôi cũng áp dụng chiến thuật đánh đêm để tiến chiếm Chi Khu Mai
Lĩnh. Đơn vị VC chốt lại đây không đông, khoảng 15 hay 20 tên, chúng
nằm trong các công sự có sẵn trong Chi Khu để chống trả, và vì thế mà
chúng đã không ngờ binh sĩ của đại đội tôi, một nửa ém quân bên
ngoài, thỉnh thoảng tác xạ súng phóng lựu M.79 vào bên trong Chi Khu,
một nửa lợi dụng trời tối đen như mực đã bò vào nằm sát bên ngoài
công sự, khi chúng tác xạ chống trả đã để lộ mục tiêu, nên bị chúng
tôi ném lựu đạn giết chết và làm trọng thương hầu hết.
Ở lại trấn thủ Chi Khu Mai Lĩnh được hai hôm, đại đội tôi được lệnh
tăng phái cho Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù, Tiểu Đoàn Trưởng là Thiếu Tá Bùi
Quyền, Thủ Khoa Khóa 16 Võ Bị Đà Lạt, đang hành quân ở phía Đông Thành
Cổ. Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn đang đóng tại khu vực Thôn An Thái cách Cổ
Thành khoảng 3 km về hướng Đông Nam. Trình diện danh tánh, cấp bậc, chức
vụ với Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5, Thiếu Tá Bùi Quyền nhìn tôi nói
đùa:
“Tôi thì nhỏ con, Trung Úy Lực thì to con, vậy tôi gọi
ông là Lực Đô nhé, à… à… mà Lực Đô nói lái là Lộ Đức, vậy thì Lộ Đức
là ám danh đàm thoại vô tuyến tôi đặt cho trung úy trong cuộc hành
quân này, trung úy, có chịu không?”
Nói xong, Thiếu Tá Quyền cười vui vẻ vì cái sáng kiến độc
đáo của ông. Nhờ ông, mà cái biệt danh Lộ Đức đã đeo đẳng theo tôi từ
đó cho tới bây giờ.
Hôm sau Đại Đội 3 của Đại Úy Phạm Châu Tài cũng được điều
động đến tăng cường cho Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù.
Thiếu Tá Bùi Quyền họp các đại đội trưởng Tiểu Đoàn 5 Nhảy
Dù và Biệt Cách Dù để ban lệnh hành quân. Ông giao cho tôi nhiệm vụ tấn
công chiếm cứ nhà thờ Hạnh Hoa Thôn, thuộc làng Cổ Thành, quận Triệu Phong.
Đai Đội 3 là lực lượng trừ bị. Thôn nầy ở bên sông, đẹp như cái tên của
nó, nằm trên con đường đất hẹp, từ phía Đông Thành Cổ ra tới bờ sông
Vĩnh Định, Thôn Hạnh Hoa có những ngôi nhà cổ, vườn rộng, cây lá xanh
tươi, nhiều gốc mai lưu niên, có thể là trồng từ lâu lắm, đã mấy chục
đời.
Nhà thờ Hạnh Hoa nhỏ, đối diện với bên kia đám ruộng nhỏ
là nhà thờ Tri Bưu cao lớn, có tháp chuông vươn khỏi những ngọn tre
làng.
Địch đang chiếm cứ trong nhà thờ.
Đánh trận ở đây, khi thấy địch chiếm đóng nhà thờ, tôi
thường nhớ lại một câu trong bài hát: “Hoa trắng thôi cài trên áo
tím”:
“Từ khi giặc tràn qua Xóm Đạo,
Anh làm chiến sĩ giữ quê hương.”
Vâng, tôi là người chiến sĩ giữ quê hương và tôi đang đuổi
giặc ra khỏi xóm quê nầy, mặc dù tôi chẳng có một em nhỏ nào cả “để
nghe khe khẽ lời em nguyện” mà chỉ có “Luyến thương chan chứa Tình
Quê Mẹ” mà thôi.
Hình như quân Cộng Sản chỉ quen với chiến thuật tấn công
hơn là chiến thuật phòng thủ. Nhờ vậy chúng tôi lần nữa sử dụng kỹ
thuật đánh đêm. Tôi bung bốn trung đội men theo các nhà dân bị đổ
nát, song hành tiến sát nhà thờ Hạnh Hoa Thôn.. Lại một trận mưa rào
đổ xuống đã giúp xóa bớt tiếng động di hành của chúng tôi, và nhờ đó
mà đại đội đã vào chiếm cứ nhà thờ không một tiếng súng nổ. Đáng buồn
là khi trời hừng sáng, địch đã nổ súng phản công và trong lần đụng độ
này, tôi mất người hiệu thính viên mà tôi rất thương mến: Hạ Sĩ Chấn.
Anh đã hy sinh ngay khi đang cầm ống nghe liên lạc báo cáo với Bộ Chỉ
Huy Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù, thì bị một viên đạn địch bắn trúng đầu.
Vào ngày hôm sau, từ tờ mờ sáng đại bác của VC tác xạ liên
hồi từ hướng Tây vào các vị trí phòng thủ của các đơn vị Nhảy Dù, đại
đội tôi và rải rác quanh khu vực phía Đông của Cổ Thành. Vừa ngưng
pháo thì VC bắt đầu mở cuộc tấn công qui mô với một đơn vị Cộng quân
đông hơn quân số đại đội tôi tới khoảng 5 lần.
Bọn chúng từ một ngôi làng ở hướng Bắc Thôn Hạnh Hoa, ồ
ạt xung phong biển người tấn công vào nhà thờ Tri Bưu và nhà thờ Hạnh
Hoa. Chúng tôi sử dụng hết hỏa lực của mình để ngăn giặc. Nhưng kỳ lạ
chưa? Bọn chúng như điên cuồng, như rồ dại, như uống bùa mê thuốc lú,
hết lớp nầy ngã xuống, lớp sau tiến lên. Lớp sau ngã xuống, lớp sau nữa
tiến lên. Không những chúng tôi ngạc nhiên, thấy kỳ lạ mà còn kinh hoảng
nữa, tự hỏi: “Sao bọn chúng ngu xuẩn, điên rồ vậy?” Cứ tình trạng nầy,
đại đội tôi, với quân số ít ỏi, chưa kịp bổ sung sau trận An Lộc, sẽ
bị chúng tràn ngập mất thôi.
Nhưng cuối cùng, trước hỏa tập TOT của Pháo Binh Dù và
Sư Đoàn 1, cùng sự chiến đấu dũng cảm của các Đại Đội Tiểu Đoàn 5 Nhảy
Dù và Đại Đội 4 chúng tôi. Bọn chúng quay đầu tháo chạy như lũ chuột,
bỏ lại trên bãi chiến trường la liệt xác chết của đồng bọn, của những
tên giặc cộng cuồng tín, vô thần, mất hết cả lương tri, nhân tính.
Tôi ngồi nghỉ mệt, lật tấm bản đồ ra xem lại vị trí của
mình, tôi bỗng chợt nhớ câu chuyện của một người bạn cũ kể lại. Tết
năm Mậu Thân, VC dùng con đường nầy để tiến quân đánh vào Thị Xã Quảng
Trị, ngay tại điểm nầy, chỗ tôi đang ngồi, Thôn Hạnh Hoa, VC đụng phải
một Tiểu Đoàn Nhảy Dù và thiệt hại không ít. Nhờ đó mà Quảng Trị được
yên hơn Huế là vì vậy.
Hèn chi, VC cố chiếm lại nhà thờ Hạnh Hoa Thôn, là vì nó
nằm trên con đường chiến thuật. Mất nhà thờ Hạnh Hoa Thôn, là chúng mất
con đường tiếp cận với binh lính của chúng đang cố thủ trong Cổ
Thành. Giữ được nhà thờ Hạnh Hoa Thôn là đại đội tôi đã đóng góp sức
mình cho công việc tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị.
Tình hình chiến sự ở khu vực cận Cổ Thành vẫn còn sôi động,
súng đạn từ trong bắn ra từ ngoài bắn vào nổ liên tục. Tiểu Đoàn 5 Dù
được tăng cường thêm Đại Đội 1 và Đại Đội 2 Trinh Sát Dù, đang nỗ lực
tấn công chiếm Cổ Thành. Thiếu Tá Bùi Quyền ra lệnh cho Đại Đội 3 và
Đại Đội 4 Biệt Cách Dù, cùng tiến lên chiếm lĩnh phòng thủ tại Nhà Thờ
Tri Bưu, để phụ trách sườn cánh phải, hướng Bắc của Cổ Thành.
Tôi dẫn đại đội thi hành nhiệm vụ. Chẳng còn thằng cùi hủi nào trong
nhà thờ Tri Bưu cả. Bọn chúng đã bị Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù triệt hạ hầu hết
trong lần tập kích trước, nên rút chạy cả rồi.
Ngay cả nhà dân chúng chung quanh nhà thờ, dân thì đã di
tản đã lâu, từ đầu trận đánh, bây giờ chẳng còn thằng nào bén mảng đến
đây.
Tôi vẫn cho binh sĩ lục soát kỹ ở nhà thờ, không có gì hết, ngoài một
số xác chết của đám “sinh Bắc tử Nam” bị sình thối, nằm vương vãi một
vài nơi, trong và ngoài khuôn viên nhà thờ. Nhưng tôi rất buồn khi
nhìn lên Bàn Thờ Thánh, tượng Chúa Giê Su còn đó, một mình trên Thập
Giá. Cha xứ và con chiên chạy trốn giặc Cộng hết cả rồi. Cảnh tượng ấy
làm cho tôi thấy đau lòng hơn cả câu thơ của Phạm Văn Bình: “Chúa buồn
trên Thánh Giá. Mắt nhạt nhòa mưa qua!” Tôi không khóc, vốn dĩ từ nhỏ
tôi ít khi khóc. Nhưng xúc động thì tình cảm của tôi không thua kém ai,
nhất là khi tôi nhìn lên gác chuông nhà thờ. Gác chuông đã bị đổ sập,
chỉ còn một nửa. Là một Phật tử, không mấy khi tôi vào quì lạy trong
nhà thờ để nhìn lên tượng Chúa, nhưng gác chuông nhà thờ là một hình ảnh
không xa lạ gì với số đông người Việt Nam. Vì vậy, khi nhìn cái gác
chuông bị gãy đổ, lòng tôi xúc động hơn. Nơi đây không còn tiếng
chuông nhà thờ nữa, tiếng chuông rộn rã mà tôi đã từng nghe khi tôi
còn tuổi ấu thơ.
Đại đội được lệnh nằm án ngữ tại nhà thờ Tri Bưu, ban đêm
bung quân ra bên ngoài, để ngăn chặn địch có thể trở lại quấy phá.
Trong một lần kích đêm, tiểu đội tiền đồn của Trung Sĩ Khưu Công Quí
đã bắn tử thương 02 giặc cộng đang mò mẫm đi vào hướng khu nhà đổ nát
của dân, tôi nghĩ chắc để tìm kiếm lương thực (?). Không lâu sau đó,
Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù ra lệnh Đại Đội 3 và 4 chúng tôi đưa
quân về hướng Đông, tiếp cận Cổ Thành. Có đơn vị Nhảy Dù đang chờ ở
đó.
Từ nhà thờ Trí Bưu, đại đội đi lom khom, lẩn khuất trong
các khu vườn nhà dân, từ vườn nầy qua vườn khác, để tránh địch phát
hiện. Tới phía ngoài Cổ Thành, trong vị trí bố phòng của các đại đội
Nhảy Dù, tôi nhìn thấy có một số binh sĩ Nhảy Dù tử thương, bị
thương, đang nằm trên các băng ca, chưa kịp di tản. Cũng vào lúc đó
hàng loạt trái đạn do Pháo Binh tác xạ, rồi tiếp theo sau là các chiến
đấu cơ A.37, Skyraider của Không Quân Việt Nam đang thay nhau oanh tạc,
nổ dồn dập, inh ỏi trên Kỳ Đài Cổ Thành Quảng Trị. Nhưng, bỗng dưng,
không rõ từ đâu có hai chiến đấu cơ loại F.5 của Mỹ, bay vào khu vực
giội bom, nổ lạc hướng về phía phòng thủ của Nhảy Dù, gây nên tổn thất
nặng nề về nhân mạng cho Đại Đội 51 và 52 của Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù và
một ít cho hai Đại Đội 3 và 4 Biệt Cách Nhảy Dù đang bố phòng kế cận.
Sự kiện nầy làm cho quân số của Nhảy Dù hao hụt nhiều hơn. Họ tham
gia cuộc hành quân tái chiếm Quảng Trị kể từ đầu Tháng Năm cho đến giờ,
vậy là đã hơn 2 tháng. Hai tháng đánh trận liên miên, ngày đêm không
ngơi nghỉ, sức voi cũng không chịu nổi. Tôi nghĩ thầm mà thấy thương cho
các chiến hữu của tôi.
Ngày 27 Tháng Bảy, năm 1972, ba lữ đoàn Nhảy Dù và hai
Đại Đội 3 và 4 Biệt Cách Dù có lệnh triệt thối để bàn giao chiến trường
cho Thủy Quân Lục Chiến. Vì là lực lượng tăng phái, Đại Đội 3 và 4 Biệt
Cách Dù được rút trước. Nhảy Dù còn ở lại, chờ quân bạn tiến lên tiếp
nhận phòng tuyến.
Barbara và Helène là hai cao điểm nằm ở thượng nguồn,
giữa sông Ba Lòng và sông Nhùng về phía Tây Tỉnh Quảng Trị, gần Trường
Sơn. Đỉnh Helène cao hơn, thường bị mây mù bao phủ sớm chiều, nhất là
về mùa mưa, mây che mờ mịt. Còn Barbara thì thấp hơn một chút, ít mây
mù hơn, thuận tiện công việc quan sát đường chuyển quân của Cộng Sản
quanh mật khu Ba Lòng.
Rút khỏi Quảng Trị, mấy chiếc Chinook bốc thả Đại Đội 1
và Đại Đội 4 Biệt Cách Nhảy Dù xuống căn cứ Barbara, với nhiệm vụ là
từ cao điểm này, tung các toán thám sát của đại đội, thâm nhập vào
phía Nam mật khu Ba Lòng để theo dõi, phát hiện sự chuyển, rút quân của
địch, mà hướng dẫn pháo binh tác xạ và khu trục oanh kích.
Căn cứ nầy trước kia là của quân đội Mỹ trú đóng. Họ đã
rút đi, nay chỉ còn lại những công sự ngầm và hàng rào phòng thủ bao
quanh phòng tuyến.
Chiến trường Quảng Trị vẫn còn tiếp diễn, nhưng có lẽ địch
đã núng thế rồi, không còn hy vọng gì giữ Cổ Thành lâu hơn được nữa,
do đó, các toán thám sát đã báo cáo thấy địch rút quân ra nhiều hơn
là đưa quân vào tăng cường cho quân phòng thủ trong thị xã. Các toán
thám sát nhận lệnh theo dõi và định vị chính xác đường mòn, căn cứ địch.
Từ đó, tôi thông báo về Bộ Chỉ Huy để xin pháo binh và phi cơ tiêu diệt.
Công việc cứ tuần tự như thế cho đến khi nghe tin chiến
thắng. Sư Đoàn Thủy Quân Lục chiến đã giương cao ngọn Cờ Vàng ba sọc
đỏ của Tổ Quốc Việt Nam trên Cổ Thành Quảng Trị, hôm ấy là ngày 16
Tháng Chín, năm 1972, trước kỳ hạn ba tháng của Tổng Thống Nguyễn Văn
Thiệu, tổng tư lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Có một điều, trong suốt gần ba tháng dài cùng phối hợp
chiến đấu bên cạnh các tiểu đoàn Dù, tôi vẫn không hiểu tại sao Liên
Đoàn 81 Biệt Cách Dù là một đơn vị tinh nhuệ, chiến đấu can trường,
đã mang lại nhiều chiến công hiển hách, mà gần nhất là An Lộc điển
hình, nhưng khi đưa vào chiến trường Quảng Trị lại không là một nỗ lực
chính, giao phó riêng một vùng trách nhiệm như hồi Mậu Thân ở Ngã Ba
Cây Quéo, Cây Thị, hay vừa qua tại An Lộc, mà lại xé lẻ, riêng rẽ từng
đại đội, để tăng cường cho các tiểu đoàn Dù và đặt dưới quyền điều động,
sinh sát của họ mà thôi.
Phải chi với sở trường đánh địch trong thành phố, với chiến
thuật du kích, đánh đêm tài tình, điêu luyện, với tài chỉ huy mưu lược
của Đại Tá Phan Văn Huấn, khi tham chiến tại Quảng Trị mà được hoạt động
riêng rẽ, chắc chắn Liên Đoàn sẽ lại tái diễn thêm một kỳ công, chiến
tích lẫy lừng, để sớm mang lại chiến thắng, rút ngắn thời gian tái
chiếm Cổ Thành Quảng Trị mà Sư Đoàn Dù đã đổ máu không phải là ít.
Thế là tàn một trận chiến. Lòng tôi vui mừng vì chúng ta đã chiến thắng,
nhưng không khỏi bâng khuâng tự hỏi: “Tại sao họ không ở yên ngoài
kia mà đem quân xâm lăng chúng ta, tạo ra hàng vạn, hàng vạn người
sinh Bắc tử Nam.” Câu hỏi không dễ trả lời, nhưng có bao nhiêu người khi
gây ra một cuộc chiến, nghĩ đến câu: “Nhất tướng công thành, vạn cốt
khô!”
Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù trong đó có Đại Đội 4 Biệt
Cách Nhảy Dù do tôi chỉ huy, một lần nữa đã góp một phần công lao,
xương máu, để viết lên thêm một chiến thắng oai hùng, lừng lẫy trong
trang Sử Chiến Tích của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, để mãi mãi lưu
truyền cho Hậu Thế.
***
Cùng chung chiến hào
“Mình ba đứa hôm nay gặp nhau….
Xuất thân khác quân trường
Thủ Đức hay Võ Bị,
Đều chung một con đường.
Xông pha khắp chiến trường,
Vẫy vùng nơi trận địa,
Hy sinh vì lý tưởng.
Quyết bảo vệ quê hương.
Tay buông súng đầu hàng,
Nhục hờn căm lính trận,
Tha hương chung phận số,
Kiếp lưu đày vong nô.
Bốn phương về hạnh ngộ,
Áo trận dẫu mờ phai,
Vẫn kiêu hùng phong độ.
Bất tử mãi thiên thu.
|
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết