Date:
Fri, 30 May 2014 01:07:52 -0700
From: sangthai4
Subject: Truyện ngắn: Mẹ Tôi
From: sangthai4
Subject: Truyện ngắn: Mẹ Tôi
(Ghi chú: Xưa nay cứ tưởng Từ Dung là lấy họ của
chồng (cũ) là nhạc sĩ Từ công Phụng)
NGƯỜI
VIẾT: TỪ DUNG, CON GÁI ÚT HOÀNG ĐẠO
|
Bà Hoàng Đạo
|
Tôi không biết phải bắt đầu ra sao khi viết về mẹ tôi, vì có
rất nhiều điều để nói. Cũng có thể dưới con mắt chủ quan, tôi nghĩ
bà là một trong những người phụ nữ phương Đông tuyệt vời nhất trên
cõi đời này. Người mẹ dịu hiền mà tôi được may mắn biết đến, với
đầy đủ những đức tính về công, dung, ngôn, hạnh của một người đàn
bà Á Đông, đã hy sinh cả một cuộc đời mình cho chồng, cho con và cho
những nghĩa cử từ thiện ngoài xã hội với nụ cười luôn trên môi cùng
chiếc răng khểnh duyên dáng.
Công, Dung, Ngôn, Hạnh
Về mặt dung nhan, vẻ đẹp dịu dàng và đằm thắm của mẹ tôi đã
hơn một lần làm rung động những người phái nam có địa vị quan trọng
trong nhiều lãnh vực xã hội. Bà cao dong dỏng, thân hình đều đặn
thanh tú, nước da mịn màng trắng trẻo, dáng đi yểu điệu và uyển
chuyển, khuôn mặt trái soan, cặp mắt hơi hiếng (lé kim), mơ màng nhưng
sâu sắc, miệng cười duyên dáng với chiếc răng khểnh và cặp môi đầy
đặn.
Tôi có đọc vài cuốn sách viết về mẹ tôi với những lời mô tả
thiên lệch bắt nguồn từ những ghen ghét nhỏ mọn. Những người viết
này cố tình hạ thấp dung nhan, phẩm hạnh của bà vì đố kị nên những
người từng được tiếp xúc với bà vô cùng bất mãn vì những dối trá
trắng trợn đó.
Theo ý một số những người có dịp tiếp xúc với bà,
bà là một trong những người đẹp và hợp thời trang nhất tại Hà Nội
vào những thập niên 1930-40. Ngay cả về sau, khi đã trên bốn mươi tuổi
và có bốn người con lớn, bà vẫn là một phụ nữ có vẻ đẹp sang
trọng và thanh lịch có tiếng ở Sài Gòn.
Tôi còn nhớ, trong lúc ở giá để nuôi các con ăn học thành tài,
mẹ tôi đã từ chối khéo léo và khiêm nhượng những người đàn ông theo
đuổi bà và về sau họ vẫn quý mến và nể phục tư cách của mẹ tôi.
Một trong những người này đã qua đời đã giữ lòng thương quý mẹ
tôi ngay cả khi bà đã tạ thế. Khi ra đi nước ngoài, ông gửi thơ về
nhờ tôi đặt lên mộ mẹ tôi một bó hồng đỏ thắm mỗi tuần lễ, như ông
vẫn thường làm trước khi ra đi!
Mẹ tôi đã từ chối tất cả những người đàn ông đến sau, vì trong
trái tim của bà chỉ có hình bóng của một người yêu duy nhất, đó là
ba tôi, Hoàng Đạo Nguyễn Tường Long.
Về công, tức là tài năng khéo léo, ít có người phụ nữ nào có
tài nấu nướng những món ăn Việt cũng như Pháp tuyệt xảo như mẹ tôi.
Nào canh bóng, vây, bào ngư, nấm nhồi giò, chả nem rán, bánh chưng
gói, món Tây thì súp legume, bò hầm đậu, cua phá xi...
Các ngày giỗ chạp, tiệc rượu linh đình, một mặt mẹ tôi nấu ăn
và chỉ dẫn cho người giúp việc, một mặt tiếp đãi khách với nụ
cười hiền thục trên môi. Ai cũng phải mến yêu bà. Chị Thu tôi đã lớn
thì giúp một tay, còn tôi bé út nhất nhà (cách anh Lân đến 9 tuổi)
chỉ chạy chơi và chực ăn trứng luộc trên bàn thờ!
Sau này mẹ tôi mở tiệm Chả Cá Thăng Long (1959) ở đầu đường Phan
Thanh Giản. Tiệm rấtđắt khách và là một trong những tiệm ăn sang
trọng thanh lịch và ngon lành tinh khiết nhất Sài Gòn lúc bấy giờ.
Về ngôn, khoa ăn nói, mẹ tôi ăn nói nhã nhặn, điềm đạm và nhu
thuận, lúc nào cũng giữ vẻbình tĩnh. Bà cũng dạy các con phải ăn
nói đàng hoàng. Ngoài phái nam ra, phái nữ cũng thương mến bà, bạn
bè và các bà cô, dì hai bên họ đều tìm đến bà khi hoạn nạn, nhưng
cũng có một số nhỏ đem lòng ganh tị và tìm cách bôi nhọ thanh danh
bà.
Về phẩm hạnh, không ai có thể chối cãi rằng mẹ tôi là một phụ
nữ đảm đang, hy sinh cả cuộc đời cho chồng, cho con mà không hề phàn
nàn, than vãn.
THỜI THƠ ẤU CỦA MẸ TÔI - BA MẸ TÔI GẶP GỠ NHAU
Sinh ra trong một gia đình quý phái, trưởng giả, mẹ tôi lại
có những đức tính đơn giản, tốt bụng hay thương người. Ông ngoại tôi
làm tham tá công chánh dưới thời Pháp thuộc, bà ngoại tôi là một
mệnh phụ đài các nhưng khôn ngoan, biết quản lý tài sản của ông tôi,
biết tiết kiệm. Mẹ tôi lại là con một nên được lo toan rất chu đáo,
quá chu đáo đến nỗi mẹ tôi cảm thấy ngộp thở. Bà ngoại tôi tính
tình độc đoán, muốn chồng con phải phục tùng theo cách sinh hoạt của
bà.
Thậm chí mẹ tôi chỉ được quyền chơi những đồ chơi bà ngoại cho
phép. Mẹ tôi kể lại rằng một lần ông ngoại lén cho mẹ một con búp
bê mà mẹ tôi thích, khi bà ngoại biết được, bà lập tức vứt
đi. Mẹ tôi khóc và nhớ mãi chuyện ấy. Bà ngoại rất yêu mẹ tôi, nhưng
cụ vẫn giữ tính khắc nghiệt đó nên có những đụng chạm cãi vã không
thể tránh được giữa hai mẹ con.
Khi ba mẹ tôi gặp gỡ nhau, họ bị tiếng sét ái tình đánh choáng
váng. Một bên cảm vì sắc, một bên mến vì tài. Ba tôi tuy ít nói,
nhưng có lối châm biếm khôi hài thật duyên dáng và sâu sắc đã chinh
phục được trái tim trong trắng của mẹ tôi.
Tính cách khôi hài này
được thể hiện trong tập “Trước vành móng ngựa”. Mối tình của ba mẹ
tôi là nguồn hứng khởi của mối tình của Duy và Thơ trong “Con đường
sáng”. Là một phụ nữ có tâm hồn nhạy cảm và chịu ảnh hưởng phong
trào văn hóa mới vì mẹ tôi theo học trường Pháp và tốt nghiệp
trường Pháp, bà thông cảm và hỗ trợ chí hướng phi thường của ba tôi,
người đã từ chối chức tri huyện khi tốt nghiệp cử nhân luật, sau lại
bỏ chức biện lý vì chống lại tòa án Pháp thuộc ngày đó.
Điều này
thể hiện trong tác phẩm “Trước vành móng ngựa”.
Phải là một phụ nữ phi thường mới thấu hiểu và tôn trọng một
tâm hồn phi thường như ba tôi, và mới hy sinh tuổi xuân sắc để giúp đỡ
chồng một cách đắc lực trong quá trình tranh đấu cho dân tộc và đất
nước.
Lần đầu khi đi xem mắt mẹ tôi tại tòa biệt thự của bà ngoại
tôi ở bãi biển Sầm Sơn, ba tôi đã bị tiếng sét ái tình. Mối tình
đẹp như thơ đó đã bị cả hai bên gia đình phản đối, bên nội vì lý do
bà nội tôi không chuộng gia đình trưởng giả, bên ngoại vì không cho
là đủ môn đăng hộ đối. Nhưng ba mẹ tôi đã vượt thắng tất cả để tìm
đến nhau và lập gia đình!
MỘT CUỘC HÔN NHÂN ĐẦY HY SINH VÀ CHIA LY
Chị cả tôi, chị Minh Thu, ra đời năm 1934, là tác phẩm đầu tiên
của sự kết hợp tuyệt vời đó. Năm kế là anh Nguyễn Tường Ánh và
cách một năm nữa là anh Nguyễn Lân. Ba mẹ tôi những tưởng anh Lân là
con út rồi vì lúc đó ba tôi rất ít khi ở nhà, ông đã bị quay vào
guồng máy thời cuộc lúc ấy. Khi ba tôi bị bắt, bị tra tấn tại sở
mật thám và sau bị đi đày ở Vụ Bản, Chân Lạp Sơn, mẹ tôi rất lo
buồn và đi lại tiếp tế nhiều lần.
Tháng Tám, 1946, ba tôi cầm đầu
phái đoàn hòa giải, trong đó có cả người của Việt Nam Quốc Dân
Đảng, của bên Việt Minh, và có nhân viên bộ Công Chính là kỹ sư Đỗ
Xuân Dung để xem tình hình nước lụt ở Việt Trì (ngã ba sông Hồng
Đào) và ba tôi bị bắt. Khi được thả ra, ba tôi sang Trung Hoa gặp gỡ
bác Nguyễn Tường Tam và các anh em khác.
Thời gian đó mẹ tôi thường
xuyên mang vật phẩm và tiền bạc sang tiếp tế cho ba tôi và các anh em
khác. Ngoài ra, một tay bà lo dạy dỗ các con, chăm sóc mẹ già và
cũng một tay bà lo toan hỗ trợ người chồng cách mạng lưu vong nơi
xứ người. Phụ nữ như thế không phải ở thời đại nào cũng có!
Ba mẹ tôi lúc ấy như Chức Nữ Ngưu Lang, chẳng được thường xuyên
gặp gỡ nên mỗi lần trùng phùng thật quý giá vô cùng! Tôi là kết
qủa của một trong những lần gặp gỡ đó. Ba tôi gởi thư về dặn mẹ
nếu là con gái thì đặt tên Từ Dung, con trai thì Duy hoặc Giản. Như
vậy Từ Dung là tên cúng cơm của tôi chứ không phải tên hát xướng đặt
theo một nhân vật khác! Từ Dung có nghĩa là hình Dung giống mẹ, vì
ba tôi lúc nào cũng tưởng nhớ mẹ tôi.
Tôi ra đời ngày 30 tháng Mười năm 1946 tại Hà Nội trong tình
thương yêu của cả nhà. Ba tôi vẫn ở biền biệt bên Trung Hoa nên chẳng
thấy mặt tôi, chỉ nhận được tin tức qua thư tín gia đình.
Lần gặp gỡ cuối cùng của ba mẹ tôi năm 1948 tại Hongkong rồi sau
đó ba tôi bị một cơn đau tim tạ thế trên đường đi xe lửa về Quảng
Châu, lúc đó tôi được 19 tháng. Được tin sét đánh, mẹ tôi phải lo
tiền bạc quay trở lại chôn cất ba tôi tại Quảng Châu. Hiện
nay không còn biết mộ phần nằm đâu nữa vì các nấm mồ đều bị
khai quật dưới chế độ Cộng Sản!
Kể từ đó, mẹ tôi ở vậy nuôi con cho đến khi các con khôn lớn. Bố
con tôi chỉ biết nhau qua hình ảnh thư từ. Tôi được nghe kể lại về ba
tôi qua lời nói của mẹ, của anh chị và của cậu tôi, Như Phong Lê Văn
Tiến.
Tôi nghĩ rằng tôi được thừa hưởng óc khôi hài châm biếm của ba
tôi, cũng như dòng máu văn chương chảy cuồn cuộn trong tim óc!
Tại Hà Nội, gia đình tôi sống tại đường Lý Thái Tổ, Hàng Vôi.
Trường Hàng Vôi là ngôi trường đầu tiên trên con đường học vấn của
tôi. Năm 1990, trước khi rời Việt Nam, tôi ghé thăm ngôi nhà gia đình và
ngôi trường thơ ấu. Ngôi nhà xinh đẹp hai tầng có cây bàng trước sân
giờ đây ngăn ra cho tám hộ ở, phòng ngăn bằng vải rideau. Bàn thờ tổ
tiên vẫn còn nguyên chỗ cũ nhưng chỉ còn một ông lão còn nhớ về
nguồn gốc căn nhà.
Trở lại năm 1954, chúng tôi rời căn nhà thân yêu lên đường vào Nam
trên một chiếc phi cơ quân đội. Tôi mới có 8 tuổi nên chỉ nhớ là mẹ
tôi vội trở lại miền Bắc để thanh toán mấy căn nhà ở Hà Nội của
bà tôi và gom tiền bạc để sinh sống trong Nam. Lúc đó sắp sửa đóng
cửa ra vào hai miền nên các anh chị, tôi lo lắng sợ mẹ tôi bị kẹt lại
Hà Nội.
Khi mẹ về, chúng tôi hết sức mừng rỡ. Chúng tôi tạm ở chia với
họ hàng bên ngoại một căn nhà đường Đặng Dung, Tân Định. Đó là thời
gian đẹp nhất của đời tôi! Mẹ con, anh chị em đoàn tụ yêu mến nhau.
Tôi ở tuổi bắt đầu ý thức được tình cảm quý báu của gia đình. Ý
nguyện của tôi là anh chị em tôi sẽ trở lại quây quần như thời đó!
Khi đến học lớp Tư trường Huỳnh Thị Ngà thì tôi gặp khó khăn
với cô giáo Nam Kỳ với giọng đọc chính tả mới lạ. Tôi có đến mười
lỗi trong bài “Lạc vào rừng” vì tôi không hiểu gì cả. Các bạn
chế nhạo accent Bắc kỳ và gọi tôi “Bắc kỳ ăn rau muống”. Đó là bài
học đầu tiên của tôi về kỳ thị địa phương dạy tôi sau này chống lại
mọi thứ kỳ thị trên cõi đời này!
ĐỜI SỐNG TẠI SAIGON
Cùng lúc ấy, mẹ tôi mở tiệm phở và chả cá Thăng Long trên
đường Trần Quang Khải, Tân Định, sau chuyển về tiệm chả cá Thăng Long
trên đường Phan Thanh Giản. Sau này ngẫu nhiên quán cà phê nhạc Từ Dung
của tôi mở năm 1978 cũng lại tọa lạc trên con đường Trần Quang Khải
và người hầu bàn trưởng tại chả cá Thăng Long tên là anh Tư lại trở
thành người pha cà phê chính của quán Từ Dung.
Tiệm chả cá Thăng Long do họa sĩ Nguyễn Gia Trí trang hoàng có
một vẻ Á Đông trang nhã với những chiếc cột đỏ, những tấm bình
phong và hình vẽ đặc biệt Việt Nam rất mỹ thuật. Một tấm tranh dân
gian của Phạm Tăng treo dọc cả bức tường trong căn phòng riêng của
quán. Bức tranh này sau tôi bị một tay văn sĩ hạng b, c gì đó lừa
lấy mất!
Căn nhà mẹ tôi mua rộng lớn, một bên mở tiệm, còn một bên gồm
năm phòng để gia đình tôi ở. Tiệm luôn đông khách tấp nập và các danh
nhân, nghệ sĩ như Mặc Thu, Nguyễn Hoạt, bác Nhất Linh, Chu Tử thường
xuyên đến ăn chả cá. Thế nhưng vấn đề tài chính không mấy khả quan
vì mẹ tôi quá tốt bụng, luôn nuôi ăn ở và trả lương cho 6,7 người giúp
việc nên tiền vào tuy khá nhưng ra cũng lắm. Mẹ tôi không bao giờ từ
chối mở hầu bao giúp cho những người đến cầu cứu gia đình tôi!
Lúc đó chị Minh Thu, anh Tường Ánh lập gia đình nhưng lúc đầu
anh Ánh vẫn ở chung với mẹ tôi. Các anh chị có gia đình riêng nên
không còn gần gũi nhau như xưa. Tôi cảm thấy mẹ buồn nhưng không biết
an ủi mẹ ra sao, chỉ biết rúc vào lòng mẹ. Khi anh Ánh và vợ dọn đi
ở riêng trong một căn nhà mẹ mua cho anh, tôi được thừa hưởng căn phòng
trống cạnh phòng anh Lân. Trước mặt hai căn phòng là một sân cement
nhỏ trồng vài cây cảnh như cây trúc đào, cây mận sai trái vì tôi chôn
xác con mèo dưới gốc cây.
Đằng sau phòng tôi là một cây trứng cá trái mọng nước và rất
ngọt. Căn phòng này đã ghi một ấn tượng sâu đậm về thời thơ ấu của
tôi sống êm đềm trong tay mẹ hiền. Có phòng riêng rồi nhưng tôi vẫn
đòi ngủ với mẹ để được hít mùi da thịt của bà, thơm mùi nước hoa
Guerlain và mùi phấn. Tôi cũng đòi mẹ ngâm thơ Kiều hoặc hát quan họ
cho nghe như lúc còn bé tí. Cũng vì vậy mà tôi rất thuộc Kiều và
những bài thơ ru em.
Mẹ tôi yêu nhạc Đông phương nhưng cũng mê nhạc cổ
điển Tây phương, nên khi mẹ mất, gia đình tôi mở nhạc Bach và Beethoven
bên quan tài để hương hồn mẹ tôi về thưởng thức, thay vì giọng ê a
của các vị sư hay kinh của các cha cố!
Sau này mẹ tôi bắt đầu gặp khó khăn về tài chính nên phải bán
đi một số nữ trang. Lúc đó là đầu thập niên 1960, quân đội Mỹ đổ
sang Việt Nam nên mẹ tôi theo trào lưu cũng dẹp tiệm chả cá và cho Mỹ
thuê một bên nhà để mở nhà hàng có âm nhạc tên là Kontiki. Đêm nào
tôi cũng được nghe tiếng đàn hát vọng sang từ bên nhà hàng của ban
nhạc Đăng Tiến, thỉnh thoảng tôi cũng sang hát chơi những bản như
Autumn leaves, A very precious love, Mona Lisa....
Tôi khoảng 16 tuổi, tuổi đầy mộng đẹp và bắt đầu mơ đến tình
yêu!
Mấy năm sau mẹ tôi bán căn nhà rộng lớn đường Phan Thanh Giản và
mua căn nhà nhỏ hơn có ba phòng ngủ và một căn gác ở Ngã năm bình
hòa đường Chu Văn An.
Nhiều người ngăn cản bà mua căn nhà này vì nó
nằm cuối ngõ cụt và có mộ phần đằng sau nhà nên theo địa lý rất
xấu. Không biết có phải là mê tín không mà sau này mẹ tôi bị ung
thư nặng và chết tại nhà đó, bà ngoại tôi cũng chết theo ở tuổi 98
vì quá đau đớn, mẹ tôi là con duy nhất của cụ, cậu tôi Như Phong
Lê văn Tiến bị bắt giam cũng ở đó, gia đình vợ chồng tôi thì phân
tán, chia ly.
Năm Mậu Thân 1968 nơi này là tử địa của tàn quân Việt
Cộng, sau khi VC thất bại trong trận tổng công kích Saigon đã rút lui
về nơi đây. Ngôi nhà chúng tôi bị đạn bắn từ máy bay xuống lỗ chỗ
đầy những vết đạn, cũng may là khi cả khu phố bốc cháy như một con
rồng lửa thì bỗng dừng lại khi tới nhà chúng tôi. Thật là một phép
lạ!
Tôi giúp mẹ, bà ngoại và hai mẹ con bác giúp việc chạy khỏi
nhà, chân phải chạy lung tung tránh xác VC nằm đầy ngõ và tránh tầm
đạn của hai bên bắn nhau. Một ông hỏi ông khác «ai đánh ai?», ông kia
trả lời «quân mình đánh quân ta»!
Từ lúc đó mẹ tôi bị ung thư bên cánh tay trái và căn bệnh kéo
dài tới năm 1975 thì mẹ tôi mất. Người y sĩ đã hết lòng chữa
chạy cho mẹ là bác sĩ Trần Ngọc Ninh, một người bạn thân của gia
đình. Hai bác sĩ khác của gia đình tôi là bác sĩ Phan Huy Quát và
bác sĩ Kỳ Quan Thân.
Cánh tay xinh đẹp, nuột nà, trắng bóc của mẹ tôi chỉ để đeo
những nữ trang qúy giá nay đã bị cắt đi đến hai lần, và sau
cùng căn bệnh quái ác đã ăn vào tủy sống làm mẹ hôn mê trong 24
tiếng đồng hồ trước khi từ gĩa cõi đời. Trước khi bị hôn mê, căn
bệnh ăn vào tủy làm bà thấy mọi vật nhuộm muôn màu muôn sắc.
Không có gì diễn tả nổi nỗi đau đớn của người mắc bệnh ung
thư. Lầu 5 của viện ung thư ở Gia Định phải rào lại vì nhiều người
trong cơn đau đã nhảy xuống tự vận. Trong khoảng cuối cùng của cuộc
đời đầy hy sinh, chịu đựng, đau đớn, bà vẫn tiếp tục làm phước, giúp
người. Bà bảo trợ cho một số người bị ung thư trong viện, trong số
đó có một anh binh sĩ trẻ, đẹp trai như Alain Delon. Anh bị ung thư
xương chân, chỉ trong vài tháng là từ trần. Mẹ tôi, lúc đó đã phải
dùng tới codein cho bớt đau và bò lết dưới đất rên la, cũng vẫn lo
cho anh trong những ngày chót của cuộc đời anh!
Tại sao một phụ nữ hiền hậu như mẹ tôi và có lòng thương người
lại phải chịu một số phận đớn đau như vậy? Khi mẹ tôi chết đi, bà
không bám víu vào một niềm tin tôn giáo nào cả vì bà không tìm thấy
đức tin nơi cuối đời. Lúc gần chết, bà cảm thấy hoang mang...
Khi nhìn ngắm xác mẹ trong chiếc áo trắng tôi mặc cho bà và
cành hoa lan trắng trước ngực bà, tôi mới ý thức được nỗi mất mát
lớn lao đến thế nào. Đã quá muộn để chiều chuộng mẹ, để nói rằng
mẹ ơi con yêu mẹ, để cám ơn bà cho tôi đời sống hôm nay và niềm tin
ngày mai.
Có một con bướm trắng bay quanh quan tài của mẹ nhiều lần trước
khi hạ huyệt, có phải chăng linh hồn mẹ muốn từ giã các con lần
cuối?
Từ Dung xin thay mặt người quá cố cũng như các anh chị gửi lời
cám ơn anh Sơn con của cô Thế đã lo việc rải tro xuống biển cho bà và
mẹ chúng tôi tại Việt Nam để linh hồn bà và mẹ chúng tôi được siêu
thoát và xin Chuá ban phước lành cho anh và gia đình anh.
Chấm hết
TỪ DUNG
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết