Theo tin mới nhận được:
Bill S-219 is recently
PASSED by the Canada Senate today Dec 8, 2014. Whereas it comes into force when
it receives Royal Assent, it will be cited as "The Journey to Freedom Day Act".
Dự luật S-219 vừa được
Thượng Viện Canada phê chuẩn ngày hôm nay, 8 tháng Chạp 2014. Đến khi dự luật
được chấp thuận bởi Nữ Hoàng, nó sẽ được gọi dưới cái tên là "Luật về Ngày Kỷ Niệm Hành Trình Đến
Tự Do".
Những giọt
nước mắt cảm động khi tìm được tên thân nhân tử nạn trên biển đông khắc trên
bia đá
~~~~~~~~~~~~~~~~
__._,_.___
On Wednesday, December 10, 2014 3:40 AM,
pleasehelp1975
SOS .... SOS ...
SOS......
CÓ AI
CHẤP NHẬN KHÔNG ? DANH XƯNG NGÀY QUỐC HẬN 30/ 4 ĐÃ BỊ BIẾN MẤT
LÀM LỢI CHO VIÊT CỘNG
LÀ ĐỒNG LÕA VỚI TỘI ÁC
( Quốc
Hận 30/4 là ngày được chính thức công nhận trong luật pháp Canada, cho nên dù tên gọi là Journey to Freedom Day hay Black Friday ... )
NHỮNG
QUÂN NHÂN CÁNG CHÍNH VNCH LÀ JOURNEY TO FREEDOM GO TO THE HELL AT
APRIL 30 / 1975
............
Những
suy tư về ngày 30/4 được chánh thức công nhận bằng luật pháp Canada.
Nguyễn Sỹ Thùy Ngân
Vô cùng tri ân Thượng
Nghị Sĩ Ngô Thanh Hải, người đã làm việc cho chính phủ Canada nhưng luôn đem
trái tim Việt Nam ra để giúp đở và hướng dẩn cộng đồng mình làm việc ngày càng
có hiệu quả hơn bằng cách vận động trực tiếp về Hành Pháp với Thượng Viện
Canada.
Vì muốn biết tận tường
buổi bỏ phiếu ở Thượng nghị Viện ra sao, nên vào giờ chót tôi quyết định xin
theo phái đoàn do anh Phát Hội Cựu Sĩ Quan Thủ Đức hướng dẩn lên Ottawa.
Tôi được may mắn là
một trong 10 người (danh sách trình lên để tham dự là 12, nhưng có 2 người bị
bịnh trước khi khởi hành) đến chứng kiến cuộc bỏ phiếu tại Thượng Viện Canada
ngày Dec. 8, 2014.
Có tận mắt thấy cuộc
bỏ phiếu mới thấy được tấm lòng của Thượng Nghị Sĩ Ngô Thanh Hải và thấy được
sức mạnh của sự đồng lòng trong cộng đồng chúng ta qua việc cùng nhau gởi email
thỉnh nguyện thư tới các Thượng Nghị Sĩ ở Thượng Viện. Mặc dù chỉ trong vòng
thời gian rất ngắn mà email của cộng đồng Việt mình đã tràn ngập Mail Box của
các Thượng Nghị Sĩ (TNS)
Các TNS ở Thượng Viện
rất quan tâm khi nhận được nhiều email của chúng ta gởi đến, và đó cũng là một
trong những yếu tố quan trọng để giúp cho việc vận động thông qua Bill S-219
được thuận lợi hơn.
Được biết:
Black April là cái tên được TNS Ngô Thanh Hải
đề nghị từ trước nhưng đã không được thông qua, vì phần đông những TNS không rỏ
ý nghĩa và cũng không thấy thoải máy khi chúng ta dùng chử Black.
Theo Thủ Tướng Harper thì chử Black là
chử rất sensitive, khuyên chúng ta nên tránh! Và ông là người đề nghị cái
tên: Journey to Freedom Day (Hành trình đi tìm tự do) thì dễ
hiểu và đầy đủ ý nghĩa hơn.
Và đó là lý do tại sao
chúng ta có cái tên: Journey to Freedom Day.
Và cũng nhờ cái tên nầy
mà đã được sự đồng cảm và ủng hộ của hầu hết các TNS ở Thượng Viện với 45 phiếu
thuận của các TNS Đảng Bảo Thủ, 4 phiếu chống và 14 phiếu trắng của các TNS
Đảng Tự Do và Độc lập.
Mục đích chánh của
chúng ta là muốn ngày 30/4 là ngày được chính thức công nhận trong luật pháp
Canada, cho nên dù tên gọi là Journey to Freedom Day hayBlack
Friday mà lá Cờ Vàng được công nhận đại diện chánh thức, mới là
việc chính yếu.
Xin đừng vì cái tên
gọi không đúng ý mình mà bàn ra tán vào làm hoang mang dư luận, gây chia rẻ
trong cộng đồng mình thì không có ích lợi gì!
Xin hãy vui mừng vì dự
luật nầy đã được thông qua và hãy đón nhận cái tên do Thủ Tướng Canada đề nghị Journey
to
Freedom Day một cách trân quí và vì TNS Ngô Thanh Hải
đã âm thầm làm việc rất tận lực mới được kết quả tốt đẹp nầy.
Xin ghi lại đây những
gì đã nghe và thấy trong ngày chứng kiến cuộc bỏ phiếu tại Thượng Viện Canada
ngày Dec. 8, 2014 vừa qua với lòng biết ơn vì Bill S- 219 đã đươc thông qua,
nhưng khi viết lại những dòng chử nầy, sao lòng tôi thấy vẩn còn day dứt và
mang nhiều suy tư khi nhớ lại lúc nhìn phái đoàn Việt 10 người, đồng loạt quấn
khăn Cờ Vàng chỉnh tề, đứng từ trên cao giơ tay chào đáp lể lúc giới thiệu phái
đoàn Việt Nam đến chứng kiến cuộc bỏ phiếu. Lúc đó toàn thể TNS ở Thượng Viện đã
hướng về phái đoàn Việt Nam vổ tay chào đón một cách nồng nhiệt, thế mà lúc đó
tôi lại thấy mắt mình…cay cay, vì sao giờ phút nầy, đứng ở nơi đây, sao chỉ có
10 người mà không là 100 người hay nhiều hơn thế nữa?
Câu hỏi nầy đã làm tôi
trăn trở, cùng lúc nhớ tới lời TNS Ngô Thanh Hải đã nhắc nhở chung cho chúng ta
là:
-Thấy nước(Tổ
Quốc) chứ không thấy người (có cách làm khác)
Có nghĩa là chúng ta
có chung cùng nhịp đập của trái tim thương yêu dân tộc và có cùng mục đích là
tranh đấu cho một quê hương không Cộng Sản, nhưng mổi người chúng ta vì quá tha
thiết nên có những cách đấu tranh khác biệt nên vì thế mà chưa hiểu hết nhau.
Cho nên chúng ta nên
đặt lợi ích của viêc tranh đấu cho đất nước được tự do là trên hết, chứ không
nên lấy sự khác biệt của cách làm việc mà cho là quan trọng để rồi dẩn đến kết
quả là sự tách biệt xa rời nhau làm mất đi sức mạnh của tính đoàn kết.
Từ nay, chúng ta chỉ “thấy
nước, chứ không thấy người” khi làm việc chung với nhau nhé!
Nguyễn
Sỹ Thùy Ngân
Dec. 09, 2014......
NGÀY QUỐC HẬN LÀ NGÀY QUỐC HẬN
Trần Gia Phụng
Biến cố 30-4-1975 là một sự
kiện quan trọng trong lịch sử Việt Nam. Nhiều sách báo đã viết về biến cố nầy.
Nhân sắp đến ngày 30-4, ở đây chỉ xin ôn lại diễn tiến trong ngày 30-4-1975 tại
Sài Gòn.
1.- DIỄN TIẾN NGÀY 30-4-1975
Từ 26-4-1975, quân cộng sản
bao vây Sài Gòn từ năm hướng: hướng bắc (Quân đoàn 1 CS), hướng tây bắc (QĐ 3
CS), hướng đông (QĐ 4 CS), hướng đông nam (QĐ 1 CS), hướng tây và tây nam (Đoàn
232 và SĐ 8 thuộc Quân khu 8 CS). Chiều 26-4, CS bắt đầu tấn công, đánh phá
vòng đai phòng thủ bên ngoài, chiếm Long Thành, Trảng Bom, Nhơn Trạch, Bà Rịa,
cắt đường số 4 từ Sài Gòn đi miền Tây.
Đối đầu với lực lượng lớn
mạnh nầy, quân đội Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) bảo vệ thủ đô Sài Gòn chỉ gồm Quân
đoàn III (hai sư đoàn 5 và 18), các chiến đoàn tập họp từ các sư đoàn của QĐ I
và QĐ II di tản vào Sài Gòn, các lữ đoàn TQLC, Dù, các liên đoàn BĐQ, một số
trung đoàn Pháo binh, Kỵ binh thiết giáp và Nghĩa quân, Địa phương quân. Các
đơn vị nầy đều thiếu quân vì trước đó đã bị tấn công, phải di tản, đồng thời thiếu
trang bị võ khí, đạn dược và thiếu nhiên liệu cần thiết.
Chiều
28-4, ngay sau khi cựu đại tướng Dương Văn Minh vừa nhận chức tổng thống, 5
chiếc A-37 trước đây của Không quân VNCH bị CS tịch thu, nay dưới sự hướng dân
của Nguyễn Thành Trung, cựu trung úy phi công VNCH, vốn là đảng viên CS cài vào
Không quân VNCH, bay đến thả bom sân bay Tân Sơn Nhứt. Tối hôm đó, CS tiếp tục
pháo kích vào sân bay Tân Sơn Nhứt làm hỏng các phi đạo. Phi trường không thể
sử dụng được, nên phải dùng trực thăng đề di tản.
Hôm sau 29-4, CS chiếm được
các căn cứ Nước Trong, Long Bình, thành Tuy Hạ (quận Long Thành, tỉnh Biên
Hòa), Đồng Dù (Củ Chi), Hậu Nghĩa. Sáng 30-4 quân CS bắt đầu tiến vào nội thành
Sài Gòn. Trước sự đe dọa của CSVN, ảo vọng thương thuyết của Dương Văn Minh hoàn
toàn tan vỡ. Cuối cùng, lúc 10G 24 phút sáng 30-4-1975, qua đài phát thanh Sài
Gòn, Dương Văn Minh, với tư cách tổng thống tổng tư lệnh quân đội, nhận chức
trước đó hai ngày, ra lệnh toàn thể quân đội VNCH ngưng chiến đấu, hạ khí giới.
Sau đây là nguyên văn lời Dương Văn Minh:
“Đường lối, chủ trương của
chúng tôi là hòa giải và hòa hợp dân tộc để cứu sinh mạng đồng bào. Tôi tin
tưởng sâu xa vào sự hòa giải giữa người Việt Nam để khỏi phí phạm xương máu của
người Việt Nam. Vì lẽ đó, tôi yêu cầu tất cả các anh em chiến sĩ Việt Nam Cộng
Hòa hãy bình tĩnh ngưng nổ súng và ở đâu thì ở đó. Chúng tôi cũng yêu cầu anh
em chiến sĩ chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam ngưng nổ
súng, vì chúng tôi ở đây đang chờ gặp chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng Hòa
Miền Nam Việt Nam để cùng nhau thảo luận lễ bàn giao chính quyền trong vòng
trật tự, tránh sự đổ máu vô ích cho đồng bào.” (Trần Đông Phong, Việt
Nam Cộng Hòa, 10 ngày cuối cùng, Fountain Valley, CA: Nxb. Nam Việt, 2006,
tr. 358)
Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh,
tổng tham mưu phó quân đội VNCH, thay mặt trung tướng Vĩnh Lộc, tổng tham mưu
trưởng (vắng mặt), ra lệnh cho tất cả quân nhân các cấp phải nghiêm chỉnh thi
hành lệnh của tổng thống Dương Văn Minh.
Lúc
11G 30 phút ngày 30-4-1975, xe tăng của Đại đội 4, Lữ đoàn Thiết giáp 203 CS
tiến vào dinh Độc Lập. Lúc đó, một số cán bộ Trung đoàn 66 thuộc Sư đoàn 304
CS, do đại úy trung đoàn phó Phạm Xuân Thệ dẫn đầu, đến phòng họp dinh Độc Lập,
nơi có mặt tổng thống Dương Văn Minh và nội các của thủ tướng Vũ Văn Mẫu. Đại
úy Thệ đã nói thẳng với Dương Văn Minh và Vũ Văn Mẫu rằng các ông bị bắt làm
tù, phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện và không có gì bàn giao cả. Sau đó,
quân CS áp tải Dương Văn Minh tới đài Phát thanh để đọc lời tuyên bố đầu hàng.
Tại đài phát thanh, các sĩ quan CS soạn tại chỗ lời đầu hàng, và buộc cựu đại
tướng Dương Văn Minh phải đọc như sau:
“Tôi, đại tướng Dương Văn
Minh, tổng thống chính quyền Sài Gòn, kêu gọi quân đội Việt Nam Cộng Hòa hạ vũ
khí, đầu hàng vô điều kiện quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam. Tôi tuyên bố
chính quyền Sài Gòn, từ trung ương đến địa phương phải giải tán hoàn toàn, giao
toàn chính quyền từ trung ương đến địa phương lại cho chính phủ Cách mạng Lâm
thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam.” (google.com.vn)
(vào chữ Dương Văn Minh, tìm 30-4.)
Trước áp lực của họng súng
quân thù, cựu đại tướng Dương Văn Minh đành phải đọc bản văn do CS soạn sẵn, “kêu
gọi quân đội Việt Nam Cộng Hòa hạ vũ khí, đầu hàng vô điều kiện quân Giải phóng
Miền Nam Việt Nam.” Quân đội VNCH liền ngưng chiến đấu, tự nhiên rã ngủ,
trong khi còn nhiều đơn vị vẫn muốn tiếp tục chống cộng, nhất là Quân đoàn IV
vẫn còn nguyên vẹn, chưa thất trận. Việt Nam Cộng Hòa hoàn toàn sụp đổ.
2.- NGÀY QUỐC HẬN
Thông thường, người ta tản
cư hay di tản khi chiến tranh bùng nổ. Người ta bỏ chạy để tránh lửa đạn. Đàng
nầy, chiến tranh chấm dứt ngày 30-4-1975, lửa đạn không còn, mà người ta bỏ
chạy, chạy xa thật xa, nghĩa là người ta sợ cái gì còn hơn lửa đạn.
Ngay
khi CS chiếm Sài Gòn, khoảng 150,000 người Việt bỏ ra nước ngoài, trong đó
khoảng 140,000 đến Hoa Kỳ và khoảng 10,000 đến các nước khác. (Nguồn: UNHCR,
The State of the World's Refugees - Fifty Years of Humanitarian Actions, ch. 4,
tr. 81.) Cộng sản Việt Nam tố cáo những người di tản là tay sai đế quốc Mỹ.
Theo luận điệu nầy, trưa ngày 30-4-1975, Trịnh Công Sơn lên đài phát thanh Sài
Gòn phát biểu rằng: “Những kẻ ra đi
chúng ta xem như là đã phản bội đất nước.” (Trích nguyên văn:http://ngoclinhvugia.wordpress.com/). Viên nhạc sĩ nầy còn hát bài “Nối vòng tay lớn”,
nhưng dân chúng không chấp nhận vòng tay lớn của CS, tiếp tục ra đi dù bị kết
tội “phản quốc”.
Sau
ngày 30-4-1975, càng ngày càng có nhiều người kiếm cách ra nước ngoài, dầu phải
hy sinh chính mạng sống của mình, tạo thành phong trào vượt biên. Theo thống kê
của Cao ủy Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc đưa ra năm 2000, từ ngày 30-4-1975 cho đến
cuối năm 1995, tổng số người di tản và vượt biên đến được các trại tỵ nạn là
989,100 (gần một triệu) kể cả đường biển lẫn đường bộ. Người ta phỏng chừng có
khoảng từ 400,000 đến 500,000 thuyền nhân bỏ mình trên biển cả hay bị hải tặc
bắt giết. Ngoài ra, phải kể thêm số người rời Việt Nam qua các hải đảo nhưng
không đậu thanh lọc và bị đuổi về nước. Nếu kể thêm chương trình ODP (Orderly
Departure Program) và chương trình HO do chính phủ Hoa Kỳ tài trợ, đưa vài trăm
ngàn người nữa ra nước ngoài bằng đường chính thức, thì tổng cộng tất cả các số
liệu trên đây, sau khi CS chiếm miền Nam Việt Nam, trên 1,500,000 người Việt đã
bỏ nước ra đi.
Đây chỉ là những người có điều kiện ra đi.
Còn biết bao nhiêu người muốn ra đi mà không đi được. Nghệ sĩ TrầnVăn Trạch đã
từng nói một câu bất hủ: "Ở Việt Nam hiện nay, cây cột đèn cũng muốn ra
đi.”
Trước khi quân cộng sản vào
Sài Gòn, nhiều chức quyền cao cấp VNCH đã di tản ra nước ngoài. Trong số các
chức quyền ở lại, có phó tổng thống rồi tổng thống Trần Văn Hương. Ngày
28-4-1975, trước khi bàn giao chức vụ tổng thống cho Dương Văn Minh, đại sứ
Pháp ở Sài Gòn cho người đến mời tổng thống Hương di tản. Ông Hương trả lời: “Nếu trời hại, nước tôi mất, tôi xin thề
là tôi sẽ ở lại đây và mất theo nước mình.” Sau khi Trần Văn Hương giao
quyền tổng thống cho Dương Văn Minh tối 28-4, thì hôm sau, ngày 29-4 đích thân
đại sứ Hoa Kỳ là Graham Martin đến gặp Trần Văn Hương và mời ông ra đi. Trần
Văn Hương trả lời như sau: “Thưa ông
đại sứ, tôi biết tình trạng hiện nay rất là nguy hiểm. Đã đến đỗi như vậy, Hoa
Kỳ cũng có một phần trách nhiệm trong đó. Nay ông đại sứ đến mời tôi ly hương,
tôi rất cảm ơn ông đại sứ. Nhưng tôi đã suy nghĩ kỹ và dứt khoát ở lại với nước
tôi. Tôi cũng dư biết rằng cộng sản vào được Sài Gòn, bao nhiêu đau khổ, nhục
nhã sẽ trút xuống đầu dân chúng miền Nam. Tôi là người lãnh đạo hàng đầu của
họ, tôi tình nguyện ở lại để chia sẻ với họ một phần nào niềm đau khổ tủi nhục,
nỗi thống khổ của người dân mất nước. Cảm ơn ông đại sứ đã đến viếng tôi.”
Sau khi nghe Trần Văn Hương trả lời, Martin nhìn trân trân vào ông Hương, rồi
ra đi mà chẳng bắt tay từ biệt. (Trần Đông Phong, sđd. tt.
352-355.)
Trần
Văn Hương thấy trước và nói rất đúng: “Tôi cũng dư biết rằng cộng sản vào
được Sài Gòn, bao nhiêu đau khổ, nhục nhã sẽ trút xuống đầu dân chúng miền Nam.” Nước
mất là mất tất cả. Mất tất cả các quyền tự do dân chủ, cả tôn giáo, văn
hóa, mất tài sản, nhà cửa, đất đai, ruộng vườn, có người mất luôn cả thân nhân
nữa. Trước ngày 30-4-1975, dầu chưa hoàn thiện, dầu bị giới hạn vì chiến tranh,
chế độ Cộng hòa vẫn là chế độ tự do, dân chủ, tôn trọng dân quyền và nhân quyền.
Khi mới chiếm được miền Nam,
cộng sản bắt ngay sĩ quan, công chức, cán bộ của VNCH còn lại trong nước giam
giữ dài hạn, không tuyên án trên các vùng rừng thiêng nước độc. Số lượng sĩ
quan, công chức và cán bộ VNCH bị bỏ tù khoảng hơn 1,000,000 người tại trên 150
trại giam; theo đó, khoảng 500,000 được thả về trong 3 tháng đầu, 200,000 bị
giam từ 2 đến 4 năm, 250,000 bị giam ít nhất 5 năm, và năm 1983 (tức sau 8 năm)
còn khoảng 60,000 người bị giữ lại. (Spencer C. Tucker, Encyclopedia of
the Vietnam War, a Political, Social, and Military History, Volume
Two, Santa Barbara, California, 1998, tr. 602.)
Số liệu nầy theo dư luận chung,
còn thấp hơn so với số lượng người và số năm bị thực giam. Ngoài ra, trong số
trên 1,000,000 người bị tù sau năm 1975, theo những cuộc nghiên cứu ở Hoa Kỳ và
Âu Châu, có khoảng 165,000 nạn nhân đã từ trần trong các trại tù "cải
tạo". (Anh Do & Hieu Tran Phan, “Millions of lives changed forever
with Saigon's fall”, nhật báo Orange County Register, số ngày Chủ
Nhật, 29-4-2001, phụ trang đặc biệt về ngày 30-4, tt. 2-3.) Sau khi bắt giam
hàng triệu công chức quân nhân trên toàn cõi miền Nam Việt Nam, cộng sản trấn
áp dân chúng miền Nam bằng nhiều phương thức khác nhau:
Thực
hiện chế độ hộ khẩu, ai ở đâu ở yên đó, không được di chuyển, không có quyền tự
do đi lại. Muốn đi lại phải xin giấy phép khó khăn. Về kinh tế, cộng sản đổi
tiền nhiều lần một cách tàn bạo. (Đổi lần đầu ngày 22-9-1975, 500 đồng VNCH lấy
1 đồng mới. Đổi lần thứ hai ngày 3-5-1978 và lần thứ ba ngày 14-9-1985.) Cộng
sản tổ chức đánh tư sản mại bản, tư sản dân tộc, tư sản nhỏ (tiểu tư sản), lục
soát nhà cửa, tịch thu vàng thật, rồi lập biên bản là “kim loại có màu vàng”,
để đổi vàng giả.
Cộng
sản cướp nhà cửa, buộc những người khá giả phải hiến đất, hiến nhà để khỏi bị
tù. Tại thành phố, CS đưa vào quốc doanh tất cả những xí nghiệp, cơ sở kinh
doanh do CS quản lý. Tại nông thôn, CS quốc hữu hóa toàn thể đất đai, ruộng
vườn; nông dân phải vào hợp tác xã, làm việc chấm công để lãnh lúa, dân chúng
gọi là “lúa điểm” tức “liếm đũa”. Cộng sản buộc dân chúng phải đi kinh tế mới,
sống trên những vùng khô cằn, nghèo khổ. Cộng sản thi hành chính sách ngăn sông
cấm chợ, để CS độc quyền lưu thông và phân phối hàng hóa. Tất cả chính sách của
CS nhắm làm cho dân chúng nghèo khổ cho CS dễ cai trị.
Chính
sách cai trị của CS sau năm 1975 đưa Việt Nam đến bờ vực thẳm, nguy hại cho
chính CS. Trước tình hình đó, CS mở phong trào đổi mới từ năm 1985. Cộng sản
đổi mới để tự cứu mình chứ không phải để cứu dân tộc Việt Nam. Từ đó, Việt Nam
thay đổi dần dần, nhất là từ khi Việt Nam gia nhập WTO vào đầu 2007. Tuy nhiên
dầu đổi mới về kinh tế nhưng cộng sản vẫn duy trì độc quyền chính trị, lo sợ
"diễn biến hòa bình", định hướng kinh tế xã hội chủ nghĩa, không cho
tự do báo chí, bóp nghẹt tự do dân chủ, không tôn trọng dân quyền và nhân
quyền. Cho đến nay, ở trong nước chưa có một tờ báo tư nhân, chưa có một tổ
chức hay đoàn thể chính trị nào đứng ngoài quốc doanh.
Như
thế, ngày CS vào Sài Gòn, chấm dứt chế độ VNCH, là một biến cố lịch sử có tầm
vóc lớn lao, làm thay đổi dòng sinh mệnh dân tộc, ảnh hưởng lâu dài cho đến
ngày nay. Ngày 30-4 cũng là ngày mở đầu thảm họa chẳng những cho dân chúng miền
Nam mà cho cả toàn dân Việt Nam khi chế độ cộng sản càng ngày càng bạo tàn,
tham nhũng và nhất là lộ rõ bộ mặt tay sai Trung cộng, dâng đất, nhượng biển,
quy lụy Bắc Kinh để duy trì quyền lực. Vì vậy dân chúng gọi ngày nầy là ngày
Quốc hận. Hai
chữ Quốc hận do dân chúng tự động đặt tên cho ngày 30-4 và truyền khẩu với nhau
thành danh xưng chính thức, chứ không có một chính phủ, hay một đoàn thể chính
trị nào đặt ra. “Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ.”
3.-
NGÀY QUỐC HẬN LÀ NGÀY QUỐC HẬN
Những người vượt biên được gọi chung là
thuyền nhân. Thuyền nhân là từ ngữ được dịch từ chữ “boat people” trong tiếng
Anh, xuất hiện từ cuối thập niên 70 để chỉ những người Việt bỏ nước ra đi sau
khi cộng sản cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam.
Người
Việt vốn ràng buộc với đất đai, ruộng vườn, chỉ ra đi trong hoàn cảnh bất đắc
dĩ mà thôi Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, số lượng người Việt bỏ nước ra đi
lên đến hàng triệu người. Đặc điểm nổi bật của phong trào thuyền nhân là tất cả
những người vượt biên đều tự nguyện ra đi, tự mình muốn ra đi, hoàn toàn tự
phát ra đi theo từng gia đình, từng nhóm nhỏ. Không có một đảng phái, một thế
lực chính trị hay một nước ngoài nào can thiệp hay tổ chức cho thuyền nhân ra
đi. Có khi, nhà cầm quyền CS lợi dụng lòng khao khát ra đi tìm tự do của dân
chúng để bán bãi, hay tổ chức vượt biên bán chính thức nhằm lấy vàng. Dầu ra đi
trong kế hoạch mà CS gọi là “bán chính thức”, người ra đi vẫn là những người tự
nguyện muốn rời bỏ Việt Nam để tránh nạn độc tài cộng sản.
Như
thế, vượt biên hay thuyền nhân là một phong trào của vài triệu người, kéo dài
trong nhiều năm và nhiều địa điểm khác nhau. Phong trào nầy là hậu quả của ngày
Quốc hận 30-4. Ngày 30-4 là ngày đánh dấu sự thành công của chế độ độc tài toàn
trị, gây tang thương cho dân tộc Việt Nam. Nỗi đau nầy càng ngày càng nhân lên
khi CSVN càng ngày càng đàn áp phong trào dân chủ quốc nội. Chỉ vì lòng yêu
nước, người Việt biểu tình phản đối Trung Quốc xâm lược mà cũng bị CSVN bắt
giam thì trên thế giới, chuyện nầy chỉ xảy ra ở Việt Nam.
Hai
sự kiện ngày Quốc hận 30-4 và Phong trào thuyền nhân hoàn toàn khác nhau và không
thể lẫn lộn nhau. Ngày 30-4 là ngày kỷ niệm Quốc hận của toàn dân. Phong trào
thuyền nhân ban đầu chỉ khoảng 1,500,000 người. Nếu ngày nay, dân số thuyền
nhân phát triển lên khoảng 3,000,000, thì ở trong nước, dân số tăng lên mấy
chục triệu người.
Vì vậy, để kỷ niệm phong trào
vượt biên, ngày 28-4-2009, toàn thể Hạ viện Hoa Kỳ đã thông qua nghị quyết số
342 do dân biểu liên bang Hoa Kỳ gốc Việt Nam là Cao Quang Ánh đề xướng, ấn
định ngày 2-5-2009 là “Ngày Vinh Danh Người Tỵ Nạn Việt Nam” tại Hoa Kỳ (tức thuyền
nhân Việt cộng them những người ra đi theo chương trình ODP và HO). Sau đó,
ngày 12-8-2009, Hội đồng thành phố Westminster, (thuộc Orange County, tiểu bang
California) thông qua nghị quyết số 4257, ấn định ngày Thứ Bảy cuối cùng của
mỗi tháng Tư hằng năm là “Ngày Thuyền Nhân Việt Nam”. Westminster là thành phố
có Tượng đài Chiến sĩ Việt Mỹ, khánh thành ngày27-4-2003, và từ đó là nơi diễn
ra lễ Kỷ niệm ngày Quốc hận hàng năm của Cộng đồng Người Việt Tỵ nạn CS.
Cả hai nghị quyết trên đây
đều chọn một ngày khác với ngày 30-4 để kỷ niệm phong trào thuyền nhân, nhằm
tránh làm mất ý nghĩa quan trọng của ngày Quốc hận 30-4. Chỉ có cộng sản và
những người làm tay sai cho CS mới cố tình vận động chuyển đổi ngày Quốc hận
30-4 thành ngày Thuyền nhân, nhằm làm giảm nhẹ tội lỗi của cộng sản Việt Nam
trước lịch sử, trong khi tội lỗi của cộng sản đối với dân tộc Việt Nam không
thể xóa bỏ được.
Mưu toan nầy hoàn toàn thất
bại vì Cộng đồng Người Việt Hải ngoại quyết liệt phản đối, chỉ vì một lý do đơn
giản, thật đơn giản: NGÀY QUỐC
HẬN LÀ NGÀY QUỐC HẬN, không thể nào khác hơn được và không có chữ nào đúng
hơn được.
TRẦN GIA PHỤNG
(Toronto, 01-02-2012)
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết