On Wednesday, 23 December 2015, 21:57, "Sung Le [kqvn]" <> wrote:
CON BƯỚM ĐEN
Bút
ký của Nguyễn quang
Thành
Nguyên
Giáo sư trường Nữ trung học Đà nẵng
Lời người viết:
Lời người viết:
Bài viết này là nén nhang thắp lên để tưởng nhớ anh tôi là
Nguyễn quang Khóa, nguyên Trung tá phi công phản lực, Trưởng phòng kế hoạch
Không đoàn 41 Chiến thuật, xuất thân khóa 61A SVSQKQ đã chết tại trại tù số 3
Kỳ sơn, Tam kỳ, tỉnh Quảng nam.-Chân thành cảm ơn anh Phan Trừng,và anh Dan
Hoài Bửu, nguyên Trung tá phi công phản lực, bạn học cùng khóa của anh tôi, đã
giúp tôi hoàn thành bút ký này.
Quý vị nào là bằng hữu, chiến hữu hoặc cựu tù binh biết về cái
chết và mộ phần của anh tôi, xin liên lạc với tôi qua địa chỉ email: nguyenpierre24@yahoo.com. Xin đa tạ.
Gia đình tôi ít anh em.
Không phải do ba mẹ tôi hiếm muộn mà do thời gian ba tôi ở Pháp khá lâu. Hơn
mười năm từ khi mẹ tôi sinh ra anh, hai ông bà mới gặp lại nhau, nên tôi kém
anh tôi đúng một con giáp.Mặc dù khoảng cách tuổi tác sai biệt khá nhiều, nhưng
anh em tôi đều có điểm tương đồng là yêu thích toán học và ôm mộng viễn du. Vì
thế chúng tôi đều học ban khoa học Toán và tình nguyện gia nhập quân đội sau
khi đậu tú tài toàn phần:
Vòng trời đất dọc ngang,
ngang dọc.
Nợ tang bồng vay trả, trả
vay.
Chí làm trai, nam bắc đông
tây.
Cho phỉ sức vẫy vùng trong
bốn bể.
Mùa hè 1960, anh tôi nhập
học khóa 61A SVSQKQ. Khoảng tháng sau lại có giấy báo nhập học ban Toán của
trường Đại học sư phạm gửi về nhà, ba tôi mở ra, đọc đi đọc lại nhiều lần, mặt
đăm chiêu, ra chiều nghĩ ngợi nhiều lắm.Mười năm sau, tôi cũng vừa thi vào đại
học sư phạm, đồng thời làm đơn xin gia nhập trường Võ bị Đà lạt để được sống và
học tập trong khung cảnh hào hùng và thơ mộng của vùng đất cao nguyên, mà tôi
đã bị quyến rũ trước đây qua bài Ai Lên Xứ Hoa Đào của nhạc sĩ Hoàng Nguyên và
một số hình ảnh của người sinh viên sĩ quan Đà lạt trong đoạn phim giới thiệu
về trường Võ bị Quốc gia Đà lạt, đã chiếu tại trường vào dịp cuối năm lớp Đệ
nhất ( lớp 12 ) tại trường Quốc học, Huế.
Tôi đã trúng tuyển vào
trường đại học sư phạm nhưng không thấy giấy báo nhập học trường Võ bị Quốc gia
Đà lạt gửi về nhà. Vì thế, sau này tôi đã trở thành một giáo sư khoa học tại
một trường nữ trung học đúng theo ý nguyện của ba mẹ tôi, nhưng tôi không bao
giờ quên được hình ảnh hào hùng và lịch lãm của người trai thế hệ mà mình mơ
ước.Sau khi học đại học sư phạm được vài tháng, nhân một buổi ăn tối của gia
đình, ba tôi mới ôn tồn cho tôi biết là ông đã nhận được giấy báo của trường Võ
bị Quốc Gia Đà lạt gửi về nhà, nhưng ông không cho tôi biết, vì anh tôi đã là
pilote de guerre vào sinh ra tử trên bốn vùng chiến thuật ( ba tôi có thói quen
nói nửa Việt nửa Pháp, như ông thường viết các toa thuốc cho bệnh nhân ).
Anh tôi du học tại Hoa kỳ
năm 1961. Gia đình tôi đều đặn nhận được thư từ và hình ảnh của anh tôi, chụp
tại các trường huấn luyện phi công, luôn luôn kèm bên chiếc phi cơ đã bay, hoặc
các hình ảnh chụp tại các tiểu bang đã đi qua nhân dịp cuối tuần hoặc các dịp
lễ lạc. Tôi ước mơ một ngày nào đó mình cũng được như vậy. Ngoài thư từ gửi cho
gia đình, anh tôi còn gửi cho chị M.T., sinh viên trường CSYT, con gái của một
người bạn của ba tôi, mà ba tôi đã chấm theo tiêu chuẩn: Công-Dung-Ngôn-Hạnh
cho anh tôi, trong lúc hai người chưa một lần gặp gỡ.Nhiều lần tôi cảm thấy xót
xa cho chị, khi chị đưa lá thư anh gửi cho tôi xem với hai câu thơ mở đầu:
Người ơi, gặp gỡ làm chiTrăm năm biết có duyên gì hay không Năm 1963 anh về
nước.
Hai câu thơ trên trích trong
tập truyện Kiều của cụ Nguyễn Du mà anh đã lồng vào trong bức thư, gửi cho chị
M.T. như một định mệnh đã an bài.Ba tôi đã phải nói lời xin lỗi với cha mẹ chị,
vì việc đi hỏi chị là do ba tôi đơn phương quyết định.Một lần nữa, ba tôi lại
đăm chiêu, suy nghĩ nhiều lắm.Dĩ nhiên, anh tôi từ đó không về nhà, cứ ở mãi
Sài gòn. Lúc đầu, anh ở Liên Phi đoàn 33 Vận tải tại căn cứ Tân sơn nhất, sau
đó chuyển qua Phi đoàn 518 Khu trục tại căn cứ Biên hòa.Thỉnh thoảng anh gửi
thư cho ba mẹ tôi nói rằng anh quen một người con gái gốc Bắc, con của một sĩ
quan cấp tá, bạn của cậu tôi. Chị là sinh viên trường Đại học Luật khoa Sài gòn
và cũng là bạn cùng học tại ĐHLK với anh tôi ( sau khi ở Hoa kỳ về, anh lại ghi
danh học ĐHLK).Chị có tên rất ấn tượng: Phạm Chất L. Thư từ giữa hai anh chị
chất đầy như núi. Một lần vào cư xá thăm anh, tôi tò mò đọc được một lá thư của
chị gửi cho anh, với bài thơ mà tôi chỉ nhớ được hai câu:
Đời phi công có mấy người chung
thủy.
Mỗi đường bay thay một cánh
hoa yêu Hay một lá thư
khác:
Oublie, c'est le nom d'une
fleurN'oubliez pas, c'est le vœux de mon
cœur ( Xin người giữ lấy hoa
quên. Và đừng quên nhé lời nguyền trong tâm )
Chị cũng không quên ép vào
những trang thư tình màu tím một con bướm đen đậu trên nhánh hoa Forget Me Not.
Điều này làm tôi liên tưởng đến sự trùng hợp màu sắc một cách ngẫu nhiên: Bộ áo
bay của anh tôi màu đen với khăn quàng cổ màu tím, tôi thường thấy anh tôi mặc
trong những phi vụ đặc biệt. Đời phi công thật hào hùng và bay bướm.
Trong tủ sách anh tôi để lại
cho tôi học, tôi thích thú khi đọc cuốn Đời phi công của Toàn Phong, Chuyến bay
đêm (Vol de nuit ), Cõi người ta (Terre des hommes) của nhà văn phi công Saint
Exupery. Càng thích thú hơn, khi biết Toàn Phong là bút hiệu của Giáo sư Nguyễn
Xuân Vinh, tác giả cuốn Hình học Không gian không thua kém gì các cuốn
Géométrie dans L'espace của Le Bosse hoặc của Caronner mà anh em tôi xem như là
quyển Tự điển Toán Hình học Không gian. Suy cho cùng, toán học và văn chương
tuy thuộc hai phạm trù khác nhau nhưng luôn luôn có sự tương quan logic. Toán
học tuy khô khan, nhưng nhà toán học lại là người rất nhạy cảm. Sự nhạy cảm là
khởi đầu cho bao đề tài lãng mạn trong văn chương.
Thời gian dần trôi, tình
hình chiến sự ngày càng ác liệt, anh tôi được điều động ra căn cứ Đà nẵng. Ác
liệt nhất là trận đánh Tết Mậu Thân 1968 và sau đó là Mùa Hè Đỏ Lửa 1972.Phi vụ
oanh tạc, giải tỏa cố đô Huế dịp Tết Mậu Thân, chiếc Khu trục cơ
Skyraider AD6 do anh tôi lái bị bắn với chi chít lỗ đạn phòng không của
Bắc quân, đặc biệt là bánh đáp bị bắn gãy nhưng anh tôi đã đáp bụng an toàn.
Phi vụ oanh tạc, giải tỏa cổ thành Quảng trị, chiếc phản lực cơ A 37 của anh
tôi bị bắn rơi trên bầu trời cổ thành, anh đã nhảy dù thoát hiểm và may mắn
được một trực thăng cứu thoát, đưa về căn cứ Đà nẵng an toàn. Năm đó, tôi đang
học năm thứ hai. Vừa ra khỏi giảng đường, một con bướm đen to bằng bàn tay, bay
lởn vởn và đậu trên vai tôi vài tích tắc rồi biến mất. Sau đó tôi gặp một viên
thiếu úy phi công trực thăng đến trường tìm một người bạn, vô tình kể lại
chuyên anh ta vừa cứu thoát một thiếu tá phi công phản lực A 37 bị bắn rơi tại
Quảng trị, tôi nghe chuyện và hỏi tên người phi công lâm nạn, thì ra người phi
công phản lực đó chính là anh tôi.
Sau này, trong tập san Lý
Tưởng của binh chủng Không quân có đăng bài Cánh Thiên Thần Trên Bầu Trời Cổ
Thành Quảng Trị của ký giả L.R.viết về anh lúc cánh dù bung ra từ chiếc phản
lực cơ lâm nạn trên vùng trời lửa đạn.Bạn bè cùng khóa 61 A SVSQKQ và các khóa
sau đã có nhiều người ra đi không bao giờ trở lại như tráng sĩ Kinh Kha qua
sông Dịch không hẹn ngày về. Chiến tranh đồng nghĩa với mất mác, đau thương, cô
đơn và giá lạnh:
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi.
Mặt chinh phu trăng dõi dõi
soi......
Chinh phu, tử sĩ mấy người.
Nào ai mạc mặt, nào ai gọi
hồn.
Biến cố khó quên đối với gia
đình tôi xảy ra vào ngày 29/3/1975 sau khi tôi nhận bằng tốt nghiệp và sự vụ
lệnh bổ nhiệm làm giáo sư tại trường trung học được vài tháng. Đà nẵng đang
trong cơn hấp hối. Tình hình chiến sự vô cùng căng thẳng. Anh tôi một mình lái
xe jeep ra nhà, hối hả chở cha mẹ tôi vào phi trường Đà nẵng, còn tôi không
liên lạc được phải chạy một mình ra cảng Tiên sa mong thoát thân bằng đường
biển.Vừa đến cảng thì bị pháo kích dồn dập, tôi chỉ kịp nằm bẹp xuống một mương
nước, và chiếc vali trong tay tôi rơi lúc nào cũng không hề hay biết. Một quả
đạn pháo kích rơi ngay trước mặt tôi chừng mươi thước, đúng lúc một chiếc xe
jeep trờ tới, mọi người trên xe bị hất tung lên và trở thành tro bụi trong phút
chốc.
Quá hoảng sợ, tôi chạy lùi
theo một số người tìm đường ra biển Sơn trà.Lúc này có một vài chiếc phi cơ bay
vút qua, hướng ra biển Đông. Tôi ngửa mặt lên trời, ước gì ở trên cao có anh
tôi thấy để cứu vớt tôi. Thế nhưng, tất cả đều đã bay xa cho đến khi chỉ còn là
vài chấm đen trên nền trời ảm đạm.Lúc này tôi đã ra đến bờ biển Sơn trà, gặp
được một chiếc tàu đánh cá đang đậu cách bờ chừng vài trăm thước. Mừng quá, tôi
cởi vội quần áo và lao nhanh xuống biển. Lúc tay tôi chạm vào mạn tàu cũng là
lúc trên bờ xuất hiện vài người có vũ khí cầm tay, ra hiệu cho tàu vào bờ. Một
số người trên tàu vội vã kéo tôi lên đồng thời tàu nổ máy chạy thẳng ra
khơi.Nhóm người võ trang nhắm thẳng vào tàu bắn liên tục nhưng chỉ làm bị
thương một người trên tàu, còn lại đều vô sự.
Một tiếng sau, tàu này được
tàu hải quân Việt nam Cộng hòa cứu vớt và chuyển lên
một chiến hạm của hải quân Hoa kỳ.Trên boong tàu, tôi đưa mắt nhìn vào phía đất
liền. Mịt mù trùng khơi. Biển vây kín biển cả. Tiếng sóng vỗ ào ào. Tàu lắc lư
chao đảo. Tôi ngửa mặt lên trời, tự nhủ: Có phải đây là giờ phút vĩnh
biệt của anh em tôi? Đột nhiên bầu trời trở nên u ám, vài hạt mưa đã rơi nhanh
xuống sàn tàu.
Sau này, qua một người quen
cho biết: khuya 29/3/1975 anh tôi đã lên và lái một chiếc phản lực cơ A
37 ra phi đạo nhưng không thể cất cánh được vì đã bị hư hại. Vì thế anh tôi đã
trở thành tù binh tại trại tù số 3 Kỳ sơn, Tam kỳ, tỉnh Quảng nam.Hơn một năm
sau, trong lúc gia đình đang ăn cơm trưa, bỗng nhiên có một con bướm đen to
bằng bàn tay, bay vòng vòng trong phòng và đậu trên vai từng người rồi cuối
cùng đậu ngay chính giữa bàn thờ gia đình. Năm phút sau, nhận được tin báo là
anh tôi đã chết, nằm trong một bụi cây bên ngoài trại tù chừng 800 mét. Mọi
người đều sửng sốt, bàng hoàng nhưng không dám bật thành tiếng khóc.Đến khi
bình tĩnh lại, nhìn về phía bàn thờ, con bướm đen cũng đã vỗ cánh bay ra khỏi
nhà.Đêm hôm đó, tôi nằm mơ thấy anh tôi mặc bộ áo bay màu đen với khăn quàng cổ
màu tím, đang lái chiếc xe jeep về nhà nhưng máu đã đẫm ướt phi bào.Sáng dậy,
nhớ lại giấc mơ đêm qua, tôi cảm thấy một vị đắng, chua cay tràn ngập cổ họng.
Tôi nghe như đâu đây phảng
phất tiếng hát .của một nữ ca sĩ nỗi tiếng một thời:
Ngày xưa khi anh vừa khóc
chào đời.
Mẹ yêu noi gương người trước
đặt lời......
Người phi công giữa khung
trời.
Vẫn còn mang số phận con
người.
Bất giác hai dòng nước mắt
tuôn trào lúc nào không hay.Hai mươi năm sau, một mình tôi trở lại vùng rừng
thiêng nước độc, nơi anh tôi đã bị lưu đày, khổ nhục. Trại tù giờ đây chỉ là
một vùng lau lách đầy cỏ dại, rất khó xác định. Nghĩ mình đã vượt núi, băng
rừng, lội suối trong mùa nước lũ, chẳng lẽ bó tay trở về.Trời đã nhá nhem tối,
tôi thì thầm khấn nguyện anh tôi. Bỗng từ đâu một con bướm đen to bằng bàn tay
bay đến trước mặt tôi, như có ý dẫn đường. Tôi tiếp tục khấn nguyện. Con bướm
đen bay vòng vòng, tôi chạy theo và bị té sấp vào một bờ đất.
Sau phút hoảng hốt, tôi lồm
cồm bò dậy và nhận ra một số nấm mộ nho nhỏ nằm khuất dưới đám cỏ dại. Tất cả
gồm 12 nấm mộ vô chủ. Người dân địa phương cho biết đó là mộ của tù binh tại
trại 3 Kỳ sơn. Tôi vội vàng hốt 12 nắm đất bỏ vào 12 bao nilon nhỏ và đánh dấu
theo số thứ tự, rồi đến nhà dân xin ngủ tạm qua đêm.Sáng hôm sau về lại Tam kỳ,
tìm đến nhà một thầy ngoại cảm. Thầy cho biết anh tôi nằm ở ngôi mộ số 3.Tuy
nhiên tôi vẫn mong trong tương lai, khi bài viết này của tôi được nhiều người
biết đến, tôi có thể có nhiều tin tức hữu ích và cụ thể để xác định chính xác
mộ phần của anh tôi. Con Bướm Đen - Gia Đình KQVNCH
Con Bướm Đen - Gia Đình KQVNCH CONBƯỚM ĐEN Bút ký của Nguyễn quang Thành
Con Bướm Đen - Gia Đình KQVNCH CONBƯỚM ĐEN Bút ký của Nguyễn quang Thành
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết