Subject:
Coi Xi Nê Sài Gòn trước năm 1975.
Coi Xi Nê Sài Gòn trước năm 1975.
Lâm vĩnh
Thế.
Sài Gòn Thứ Bảy Bảo Tuấn
YouTube
Dạo quanh các rạp chiếu phim của Sài Gòn xưa.
Chúng
tớ sẽ kể lại câu chuyện về những rạp cinéma của thành phố Sài Gòn 60 năm về
trước.
Phim ảnh là một hình thức nghệ thuật/giải
trí ra đời từ xưa và luôn chiếm vị trí thiết yếu trong danh mục “sở thích của
tôi”. Trải qua nhiều thập kỷ, thú xem phim gắn liền với quá trình hình thành và
phát triển của xã hội – con người. Những rạp cinéma này từng chứng kiến hành
trình thay da đổi thịt của nền điện ảnh nước nhà giữa phố thị Sài Gòn phồn hoa.
Để hiểu hơn về nét đẹp của kiến trúc
xưa ở Sài Gòn nóí chung, và hoài cổ chút cảm giác của ông bà ta thời ấy khi bước
chân vào rạp chiếu phim như thế nào, hãy cùng chúng tớ thưởng thức chùm ảnh các
rạp chiếu phim ở Sài Gòn trước 1975.
Rạp EDEN hoạt động từ thời pháp thuộc cho đến tận năm 1975.
Một phim Western điển hình.
Tấm bảng phía sau em có ghi: phụ đề chữ việt – Technicolor.
Vị trí và kiến trúc của rạp REX rất gần với rạp REX tại thủ đô Paris của Pháp.
“Hòn ngọc Viễn Đông” có rất nhiều rạp
chiếu phim nổi tiếng là vậy, nhưng có 1 điều thật sự bất ngờ ấy là: Cinéma cổ
nhất Việt Nam lại tọa lạc giữa thủ đô Hà Nội. Trước khi kết thúc bài viết này,
chúng mình cùng trở về đất Hà Thành năm 1920 để ngắm rạp phim cổ xưa nhất nhé!
Rạp Pathé do người Pháp xây dựng tại Hà Nội vào năm 1920.
Lâm Vĩnh Thế: Nhớ Lại Chuyện Coi Xi
Nê ở Sài Gòn Trước 1975
Coi Xi Nê Sài Gòn Trước Năm 1975 – Lâm Vĩnh Thế
Thân gửi các bạn Bài viết cũ, nhưng tác giả đã điều chỉnh lại. Hy vọng rằng, sau khi đọc bài này, các bạn sẽ tìm lại một chút tuổi thơ của ngày tháng cũ, trong đó có Cúp Cua đi coi xi cà là ma ếch cốp.tdpPosted by BIENXUA on MAY 7, 2019
Coi Xi Nê Sài Gòn Trước Năm 1975 – Lâm Vĩnh Thế
Thân gửi các bạn Bài viết cũ, nhưng tác giả đã điều chỉnh lại. Hy vọng rằng, sau khi đọc bài này, các bạn sẽ tìm lại một chút tuổi thơ của ngày tháng cũ, trong đó có Cúp Cua đi coi xi cà là ma ếch cốp.tdpPosted by BIENXUA on MAY 7, 2019
Lâm Vĩnh Thế: Rạp Casino Đakao
– Nguồn: Internet: Từ lúc còn học tiểu học tôi đã khoái coi xi nê rồi. Lên
Trung Học, Đại Học tôi còn mê hơn nữa, gần như tuần nào cũng có đi coi xi nê.
Sau này, khi đã ra đi làm, lập gia đình rồi, đi xem xi nê với bà xã tôi vẫn tiếp
tục là một trong những phần giải trí quan trọng hàng tuần của tôi. Trong khoảng
thời gian một phần tư thế kỷ, 1950-1975, tôi đã được coi rất nhiều phim xi-nê đủ
thể loại. Bài viết này là một cố gắng ghi lại những gì tôi còn nhớ được về các
rạp xi-nê ở Sài Gòn, và một số phim thật hay mà tôi đã xem và thích trong khoảng
thời gian đó.
Nhớ Về Các Rạp Xi Nê: Trước
năm 1975, Sài Gòn có rất nhiều rạp xi nê, lớn nhỏ đủ cả. Đi xem xi nê là
một trong những thú giải trí quan trọng nhứt của người Sài Gòn, từ người bình
dân lao động ít học cho đến giới trí thức, từ người trẻ học sinh Sinh viên còn
đi học cho đến người lớn tuổi đã ra đi làm. Chính vì vậy, Sài Gòn có đủ các loại
rạp xi nê thich hợp với túi tiền của các loại khán giả và các rạp này trình chiếu
đủ tất cả các loại phim thích hợp với ý thích thưởng ngoạn của mọi người.
Chúng ta hảy cùng nhau đi một vòng Sài Gòn, để nhớ lại các rạp xi nê của
ngày xưa, của những năm trước 1975.
Trong khu vực Đakao – Tân Định:
Ngay trong vùng Đakao – Tân Định nhỏ bé, nơi tôi lớn lên, như tôi còn nhớ
được, đã có tất cả là 6 rạp chiếu bóng. Trước hết là rạp ASAM nằm trên đường
Đinh Tiên Hoàng (trước năm 1954 mang tên là đường Albert 1er), gần ngã tư với
đường Phan Thanh Giản (trước năm 1954 mang tên là đường Legrand de la Liraye).
Gần Chợ Đakao, cũng trên đường Đinh Tiên Hoàng, trước khi đến Cầu Bông là rạp
Casino Đakao. Gần bên hông Chợ Tân Định, trên đường Trần Văn Thạch (trước
năm 1975 mang tên là đường Vassoigne), là rạp Moderne. Cách mặt trước Chợ Tân Định,
phía bên kia đường, độ chừng 200 mét, trên đường Hai Bà Trưng (trước năm 1954
mang tên là đường Paul Blanchy), hướng về phía Cầu Kiệu, là rạp Kinh Thành. Rạp
thứ năm, có lẽ nhiều người không biết vì nó rất nhỏ mà cũng không sống lâu, là
rạp Nam Tân, nằm trên đường Nguyễn Bỉnh Khiêm (trước năm 1954 mang tên là đường
Dr. Angier), ngay ngã tư với đường Phan Đình Phùng (trước năm 1954 mang tên là
đường Richaud và sau 1975 đổi tên là Nguyễn Đình Chiểu), xéo góc với địa điểm về
sau là Đài Phát Thanh Sài Gòn. Ngoài việc xem phim tại rạp Nam Tân, tôi
còn có một kỷ niệm khó quên là đã có một lần tôi giúp việc quảng cáo cho rạp
như sau: Lúc chuyện này xảy ra tôi đang học Lớp Ba (cours élémentaire tại
Trường Tiểu Học Nam Đakao), hôm đó là một buổi sáng Thứ Bảy không có đi học,
tôi theo một người bạn cùng lớp tên Nhựt, nhà ở đường Đinh Tiên Hoàng, đi bộ
lên rạp Nam Tân rất sớm, độ sau 7 giờ, vào gặp ông Quản lý rạp, xin làm việc và
được ổng mướn ngay.
Công việc của hai chúng tôi rất đơn giản: đi theo cái xe ngựa
nhỏ mà rạp Nam Tân đã mướn có một bác lớn tuổi đánh xe, hai bên xe có treo hai
tấm bảng quảng cáo cho cuốn phim mà rạp đang chiếu; hai chúng tôi thì chia nhau
một đứa phụ trách đánh trống còn đứa kia thì phân phát các tờ chương trình về
cuốn phim. Xe ngựa đi thông thả qua các khu phố chung quanh Chợ Đakao và Chợ
Tân Định, các bọn trẻ trong các khu vực này chạy theo xe ngựa khá đông để xin
các tờ chương trình. Khoảng hơn 9 giờ thì xe ngựa trở về rạp Nam Tân và hai đứa
chúng tôi được ông Quản lý phát cho mỗi đứa một vé để coi hát vào buổi trưa hôm
đó, vậy thôi, không có lãnh tiền bạc chi hết. Trong thập niên 1960, rạp xi-nê
thứ 6 xuất hiện, đánh bại tất cả các rạp khác trong khu Đakao – Tân Định: Đó là
rạp Văn Hoa, trên đường Trần Quang Khải, gần Đình Nam Chơn, tại địa điểm trước
kia của rạp cải lương Thuận Thành, nơi đóng quân thường trực của đoàn cải lương
Phụng Hảo của nữ Nghệ sĩ Phùng Há. Rạp Văn Hoa là một rạp lớn, có máy lạnh, và
chiếu toàn phim mới. Sau năm 1975, các rạp xi nê của vùng Đakao – Tân Định
này lần lượt đóng cửa hết, chỉ có rạp Casino Đakao là còn tiếp tục hoạt động, với
tên mới là rạp Cầu Bông. Rạp Cầu Bông – Nguồn: Internet. Tôi đã có
thật nhiều kỷ niệm với rạp Casino Đakao vì nhiều lý do. Trước hết là vì đó là rạp
xi nê gần nhà tôi nhứt. Từ nhà tôi ở số 54 đường Faucault (sau năm 1954, đổi
tên thành Nguyễn Phi Khanh và giữ nguyên cho đến bây giờ), đi ra đầu đường, về
hướng Đakao, chỉ khoảng hơn 200 mét thì đã đến đường Đinh Tiên Hoàng, quẹo
trái, đi về hướng Cầu Bông, chưa tới 100 mét thì đã đến trước rạp hát. Mỗi khi
có chuyện đi ra Chợ Đakao hay đi vô Bà Chiểu, tôi đều phải đi ngang qua rạp hát
này, mỗi khi như vậy, tôi đều dừng lại trước rạp một lúc để ngắm các tấm pa-nô
vẻ quảng cáo, hay các bích chương in màu cho cuốn phim đang chiếu tại rạp. Tôi
cũng đã nhiều lần được vào xem phim “cọp” tại rạp hát này. Thời đó tại các rạp
xi nê chỉ có người lớn mới phải mua vé, trẻ con đi theo cha mẹ hay người lớn
thì đều không phải mua vé.
Tôi và các bạn cùng xóm thường đến trước rạp, chờ
xem có những người lớn đi coi hát một mình thì đến năn nỉ họ dắt vào, phần lớn
họ đều đồng ý, vì họ không có mất mát gì cả, mà lại giúp được bọn trẻ chúng
tôi. Những người soát vé của rạp đều biết mặt bọn tôi, nhưng họ cũng lờ đi, cho
chúng tôi vô xem cọp. Có thể nói rạp Casino Đakao là rạp xi nê tôi đã coi
nhiều phim nhứt trong thời gian tôi còn học Tiểu học. Trong khu vực Bà
Chiểu – Gia Định: Vùng Bà Chiểu, trung tâm của tỉnh lỵ Gia Định, nơi đặt Tòa
Hành Chánh của tỉnh này, chỉ cách khu Đakao của Quận 1, Sài Gòn bởi Kinh Nhiêu
Lộc nơi có chiếc Cầu Bông bắt ngang qua, thì trước sau có tất cả 3 rạp. Đó là:
1) rạp Huỳnh Long nằm trên đường Châu Văn Tiếp, một con đường nhỏ, ngắn,
chạy ngang trước Lăng Ông (Lăng Đức Tả Quân Lê Văn Duyệt) cho tới hông Chợ Bà
Chiểu; 2) rạp Đại Đồng nằm trên đường Nguyễn Văn Học (bây giờ đổi tên thành Nơ
Trang Long); và 3) rạp Cao Đồng Hưng, nằm trên đường Bạch Đằng, gần Chợ Bà Chiểu,
trên đường đi ra khu Hàng Xanh. Rạp Huỳnh Long có trước hai rạp kia khá lâu và
có một thời gian chuyên chiếu phim Ấn Độ. Trong khu vực Sài Gòn: Đa
số các rạp xi nê lớn ở Sài Gòn trước năm 1975 đều tập trung tại 3 quận: Quận Nhứt,
Quân Nhì và Quận Ba. Tôi thật sự không còn nhớ rõ rạp nào ở quận nào nên chỉ
xin nhớ tới đâu nói tới đó thôi, hoàn toàn không theo thứ tự thời gian được xây
cất. Trước hết phải nói đến những rạp nằm trong khu vực trung tâm của thành phố
Sài Gòn (Saigon downtown).
Đa số các rạp xi nê này là những rạp lớn nhứt và
cũng được nhiều người Sài Gòn biết đến và ưa thích nhứt. Trên con đường
Catinat (từ 1954 đổi tên thành đường Tự Do, và hiện nay là đường Đồng Khởi) từ
Nhà Thờ Đức Bà chạy xuống tới bờ sông Sài Gòn, chỉ dài khoảng trên dưới nửa cây
số, đã có tất cả 3 rạp xi nê. Rạp đầu tiên và cũng là lớn nhứt là rạp Eden, nằm
bên trong Hành Lang Eden (Passage Eden). Hành Lang Eden là khu hành lang thương
mại với những cửa hiệu bán mỹ phẫm, hàng vải, và các tặng phẩm dành cho giới
thượng lưu của Sài Gòn. Hành lang gồm có gồm 3 nhánh với 3 cửa ra vào: cửa
chánh mở ra đường Catinat, bên cạnh nhà sách Albert Portail (sau đổi tên thành
Xuân Thu), 2 cửa phụ thì một trổ ra đường Lê Lợi, và một ra đường Nguyễn Huệ. Rạp
Eden, nằm ở cuối hành lang chánh, có lầu, và thường trình chiếu các phim mới,
phần lớn là các phim của Pháp. Tôi đã xem phim rất nhiều lần tại rạp Eden này,
có một lần mua vé ngồi trên lầu. Rạp xi-nê thứ nhì trên đường Catinat này, ngược
hẳn với rạp Eden, là một rạp rất nhỏ, tên gì thì tôi không còn nhớ nữa. Rạp
này, đúng ra, nằm trên một con đường nhỏ và ngắn, chỉ dài độ trên dưới 100 m,
đi từ đường Catinat ra tới đường Charner (sau 1954 đổi tên thành đường Nguyễn
Huệ, hiện nay là phố đi bộ rất nổi tiếng của Sài Gòn), về sau dẹp đi, và một phần
trở thành một quán ăn không có tên nhưng khá nổi tiếng, mà giới Văn nghệ sĩ trẻ
của Sài Gòn, đặc biệt là Nhà báo Trường Kỳ, thường gọi là Quán Bà Cả Đọi.
Tôi
chỉ xem có một phim duy nhứt tại cái rạp nhỏ bé này, phim tên gì thì tôi không
còn nhớ, chỉ nhớ đó là một phim ca nhạc với Ca sĩ Tây Ban Nha nổi tiếng thời bấy
giờ (thập niên 1950) là Luis Mariano (1914-1970). Rạp xi-nê thứ ba nằm ở gần cuối
đường Catinat là rạp Majestic Sài Gòn (gọi như thế để phân biệt với rạp
Majestic thứ nhì nằm trong Chợ Lớn). Rạp này chuyên trình chiếu các phim của
Pháp. Mở đầu phim bao giờ cũng có một đoạn phim đen trắng ngắn, chiếu hình một
chiếc lư hương đang tỏa khói, với một lời giới thiệu (mà Xướng ngôn viên là một
người Bắc với một giọng nói rất trầm ấm) như sau: “Đây là một phim độc
quyền của hảng Ciné-Theâtre d’Indochine, của những rạp Majestic.” Đây
là một trong những rạp xi-nê mà tôi thích nhứt và, dĩ nhiên, cũng là rạp mà tôi
đi xem phim thường nhứt. Về sau, cuối thập niên 1960, rạp Majestic đóng cửa, và
địa điểm này trở thành ca vũ trường Maxim, nơi trình diễn thường xuyên của đoàn
ca vũ nhạc nổi tiếng của Nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ, với hai nữ Ca sĩ nổi danh Sơn
Ca và Họa Mi. Cũng trong khu vực trung tâm Sài Gòn này, trên đường Nguyễn
Huệ, trước măt Tòa Đô Chánh, ngó ngang qua cửa vào Hành Lang Eden, vào đầu thập
niên 1960 (1962), rạp chiếu bóng lớn nhứt và hiện đại nhứt của Sài Gòn là rạp
Rex được khai trương. Rạp này được trang bị những tiện nghi hiện đại dành
cho một rạp chiếu bóng. Dàn máy lạnh có công suất cực cao khiến cho 1.200 khán
giả run cầm cập. Có người đi xem phim phải mang theo áo chống lạnh. Màn ảnh
của Rex là màn ảnh đại vỹ tuyến Todd-AO rộng đến 150 m2. Phim được chiếu tại
đây là phim 70mm với dàn máy chiếu đặc biệt chỉ có ở Rex. Khán giả đến với Rex
được tận hưởng khung cảnh rất trang nhã và sang trọng.”
[3] Trong những năm đầu thập năm
1970, rất gần với rạp Rex, nhưng trên đường Lê Lợi, kế bên trụ sở của Cơ Quan
Thông Tin của Hoa Kỳ (USIA = United Stated In formation Agency), có thêm rạp
Mini Rex (có 2 phòng chiếu phim A và B), là một rạp nhỏ nhưng rất sang trọng,
ghế ngồi toàn là ghế bành rộng rãi, thoải mái, giá vé cao và chiếu toàn phim mới.
Từ trước rạp Mini Rex đi thêm độ 100 mét về hướng Chợ Bến Thành, đến ngã
tư với đường Pasteur (trước 1975 là đường Pellerin), thì gặp rạp xi-nê Casino
Sài Gòn nằm ngay ngã tư đó. Đây cũng là một rạp xi-nê lớn có lầu, và chiếu toàn
phim mới. Trong khu vực trung tâm Sài Gòn còm còn có thêm 6 rạp xi-nê nữa.
Đó là các rạp xi-nê sau đây: Rạp Đại Nam trên đường Trần Hưng Đạo, gần
ngã tư với đường Nguyễn Thái Học, ngó xéo qua Trường Nam Tiểu Học Tôn Thọ Tường.
Trước khi rạp Rex xuất hiện thì rạp Đại Nam (cùng một chủ với rạp Rex) được xem
là lớn nhứt, có lầu, chiếu toàn phim mới, và chiếu theo xuất. Rạp Hồng
Bàng, sau đổi tên là Rạng Đông, nằm trên đường Pasteur, gần khu Chợ Cũ, thuộc
loại trung bình, có một thời gian chuyên chiếu phim Nhật Bản. Rạp Nam Việt,
nằm trên đường Tôn Thất Đạm, trong khu Chợ Cũ, tương đối nhỏ, phần nhiều là chiếu
phim cũ, và chiếu theo xuất. Rạp Vĩnh Lợi, nằm trên đường Lê Lợi, gần bên
Bệnh Viện Đô Thành, thuộc loại rạp cở trung bình, chuyên chiếu phim cũ, và chiếu
thường trực (permanent). Rạp Lê Lợi, ở cuối một hành lang nhỏ, trên đường
Lê Thánh Tôn, gần tới cửa Bắc của Chợ Bến Thành, là một rạp nhỏ, chuyên chiếu
phim cũ, và chiếu thường trực; đây là rạp được giới học sinh – Sinh viên Sài
Gòn ưa thích nhứt vì giá vé rất rẻ và đặc biệt là chiếu trường trực nên muốn ngồi
xem bao lâu cũng được. Rạp Long Thuận, ở góc đường Trương Công Định và
Nguyễn An Ninh, gần cửa Tây của Chợ Bến Thành; rạp nầy rất nhỏ, chuyên chiếu
phim cũ và chiếu thường trực; đây là rạp xi-nê chiếu thường trực của Sài Gòn,
và đã không còn nữa khi sang thời Đệ Nhị Cộng Hòa.
Bên ngoài khu trung tâm Sài Gòn, còn
có thêm một số khá lớn rạp xi-nê nữa, đó là các rạp với tên liệt kê theo thứ tự
mẫu tự sau đây: Đại Đồng, trên đường Cao Thắng, gần ngã tư với đường Phan
Thanh Giản. một rạp hạng trung, chuyên chiếu phim cũ, Khải Hoàn, ngay trước
bồn binh, nơi gặp nhau của các đường Phạm Ngũ Lảo, Cống Quỳnh, và Ngô Tùng
Châu, rạp này lớn, có máy lạnh, và chiếu phim mới theo xuất. Kim Châu,
trên đường Nguyễn Văn Sâm, gần Chợ Cũ, là một rạp cở trung, chỉ chiếu các phim
hạng B. Kinh Đô, trên đường Lê Văn Duyệt, rạp khá lớn, tương đương với rạp
Đại Nam, luôn luôn chiếu phim mới, nhưng không tồn tại lâu, sau trở thành trụ sở
của Cơ quan Viện trợ Mỹ USAID. Long Phụng, trên đường Gia Long, gần Ngã
Sáu Sài Gòn, chuyên chiếu phim Ấn Độ. Long Vân, trên đường Phan Thanh Giản,
gần Ngã Sáu Chợ Lớn, một rạp lớn, và tương đối mới, ra đời khoảng năm 1962.
Nam Quang, tại ngã tư hai đường Lê Văn Duyệt và Trần Quý Cáp, khu Chợ Đủi,
một rạp khá lớn, và tương đối lâu đời tại Sài Gòn, đã đóng cửa trong thập niên
1960. Olympic, trên đường Hồng Thập Tự, một rạp rất lớn, chiếu phim mới,
về sau trở thành một rạp cải lương, nơi đóng quân của đoàn Kim Chung. Thanh
Bình, trên đường Phạm Ngũ Lảo, gần bên chợ Thái Bình. Văn Cầm, trên đường
Trần Hưng Đạo, một trong những rạp xi-nê cũ nhứt của Sài Gòn, không còn hoạt động
từ thập niên 1960. Việt Long, trên đường Cao Thắng, gần ngã ba với đường
Trần Quý Cáp (nối dài), một rạp khá lớn và cũng chiếu các phim hay.
Trong khu vực Chợ Lớn: Trong
khu Chợ Lớn cũng có một số khá lớn những rạp xi-nê đủ cả lớn và nhỏ, phần nhiều
chiếu phim Trung Hoa của Hồng Kông. Đó là các rạp với tên liệt kê theo thứ tự mẫu
tư sau đây: Đại Quang, trên đường Tổng Đốc Phương, chuyên chiếu phim
Trung Hoa. Eden Chợ Lớn, trên đường Tổng Đốc Phương, chuyên chiếu phim Âu
Mỹ. Hào Huê, trên đường Nguyễn Hoàng, chuyên chiếu phim Trung Hoa. Lệ
Thanh, trên đường Phan Phù Tiên, chuyên phiếu phim Trung Hoa. Lido, trên
đường Đồng Khánh, bên cạnh khu Đại Thế Giới, chuyên chiếu phim Âu Mỹ. Majestic
Chợ Lớn, trên đường Tổng Đốc Phương, thuộc hệ thống Ciné-Théâtred’Indochine,
chuyên chiếu phim Âu Mỹ. Palace, trên đường Trần Hưng Đạo, chuyên chiếu
phim Trung Hoa. Trong các rạp của khu Chợ Lớn, tôi chỉ được xem phim tại
rạp Lệ Thanh mà thôi.
Nhận Xét Chung Về Phim Xi-nê Trước
1975: Có thể nói là tôi đã được xem một số rất lớn những phim đã được chiếu
tại các rạp xi-nê ở Sài Gòn từ thập niên 1950 cho đến trước ngày 30-4-1975. Sau
đây là những nhận xét chung về các phim đã được trình chiếu tại Sài Gòn trước
năm 1975. Trước năm 1954, phần lớn các phim được chiếu ở Sài Gòn thuộc loại
phim đen trắng, rất ít có phim màu, với đa số là phim của các nước Âu Châu, nhứt
là Pháp và Ý. Sau năm 1954, dưới ảnh hưởng của Viện trợ Mỹ, phim của Hoa Kỳ bắt
đầu trở bên phổ biến, và sau một thời gian ngắn thì chiếm hẳn ưu thế. Phim màu
hoàn toàn thay thế cho phim đen trắng, khởi đầu là loại mầu Kinemacolor, sau đó
chuyển sang Technicolor, và sau cùng là Eastmancolor. Sang thập niên 1960, thì bắt
đầu xuất hiện các phim màn ảnh lớn như CinemaScope, Panorama, VistaVision, Todd
Ao, và thỉnh thoảng có một vài phim thuôc loại phim ba chiều (hay phim nổi,
3-D, khi xem phim phải mang kính đặc biệt, một tròng xanh, một tròng đỏ, do rạp
hát cung cấp, sau khi xem xong phim thì trả lại tại cửa). Từ khoảng cuối thập
niên 1950 bắt đầu có phim Ấn Độ, phim Nhật Bản, sau đó là các phim của Hồng
Kông. Về nội dung thì phải nói là có đủ tất cả các thể loại: Tình cảm,
xã hội, lịch sử, thần thoại, chiến tranh, gián điệp, trinh thám, cao bồi, phiêu
lưu mạo hiểm, và khoa học giả tưởng. Lúc đầu đa số các phim đều nói tiếng Pháp
(phim Pháp), hoặc chuyển âm tiếng Pháp (phim Anh Mỹ). Về sau một số lớn các
phim nói tiếng Pháp này có phụ đề Việt ngữ. Các phim Nhật Bản và Hồng Kông thì
đều có phụ đề Việt ngữ. Nhớ Lại Một Số Phim Hay Tiêu BiểuGiai đoạn phim
đen trắng:
Phim tình cảm: Một trong những phim tình cảm hay nhứt trong giai đoạn phim đen trắng là phim La valse dans l’ombre, tên chuyển ngữ sang tiếng Pháp của phim Mỹ. Waterloo Bridge do hảng phim Metro-Goldwyn-Mayer (thường được gọi tắt là MGM) sản xuất năm 1940, với hai Tài tử nổi tiếng của thời đó là Robert Taylor và Vivien Leigh, và dàn dựng bởi nhà Đạo diển lừng danh của giai đoạn đó là Mervyn LeRoy. Nội dung cuốn phim là câu chuyện tình rất lãng mạn, và bi thảm giữa một Sĩ quan quý tộc và một cô Vũ nữ gặp nhau lần đầu trên chiếc cầu Waterloo ở Luân Đôn, dưa trên một kịch bản có cùng tên rất nổi tiếng của năm 1930. Cuốn phim này đã là một thành công lớn, được rất đông khán giả ưa thích, và đã được đề nghị 2 giải Oscar cho Best Music và Best Cinematography. Năm 1956, cuốn phim Gaby với 2 tài tử John Kerr và Leslie Caron chính là một phiên bản mới của cuốn phim này.
Phim tình cảm: Một trong những phim tình cảm hay nhứt trong giai đoạn phim đen trắng là phim La valse dans l’ombre, tên chuyển ngữ sang tiếng Pháp của phim Mỹ. Waterloo Bridge do hảng phim Metro-Goldwyn-Mayer (thường được gọi tắt là MGM) sản xuất năm 1940, với hai Tài tử nổi tiếng của thời đó là Robert Taylor và Vivien Leigh, và dàn dựng bởi nhà Đạo diển lừng danh của giai đoạn đó là Mervyn LeRoy. Nội dung cuốn phim là câu chuyện tình rất lãng mạn, và bi thảm giữa một Sĩ quan quý tộc và một cô Vũ nữ gặp nhau lần đầu trên chiếc cầu Waterloo ở Luân Đôn, dưa trên một kịch bản có cùng tên rất nổi tiếng của năm 1930. Cuốn phim này đã là một thành công lớn, được rất đông khán giả ưa thích, và đã được đề nghị 2 giải Oscar cho Best Music và Best Cinematography. Năm 1956, cuốn phim Gaby với 2 tài tử John Kerr và Leslie Caron chính là một phiên bản mới của cuốn phim này.
[4] Phim xã hội: Một
trong những phim xã hội xuất sắc trong giai đoạn phim đen trắng là phim Sur
les quais, tên chuyển ngữ tiếng Pháp của cuốn phim Mỹ có nhan đề là On
the Waterfront, cuốn phim đánh dấu bước đầu phát triển sự nghiệp của nam
Tài tử nổi tiếng Marlon Brando. Cuốn phim này do hảng phim Columbia phát hành
năm 1954, dưa trên thiên phóng sự điều tra đã đoạt giải Pulitzer năm 1949, về
chuyện bạo lực và tham nhũng trong nghiệp đoàn công nhân bến tàu tại thành phố
Hoboken, Tiểu bang New Jersey. Đạo diễn là Elia Kazan, với giàn Tài tử gạo cội
gồm các nam Tài tử Marlon Brando, Karl Malden, Lee J. Cobb, Rod Steiger, và nữ
Tài tử Eva Marie Saint. Phim được đề cử 12 giải Oscar của năm 1954, và đoạt được
8 giải trong đó có các Oscar cho: Giải Oscar cho Phim Hay Nhứt (Academy
Award for Best Picture), Giải Oscar cho Đạo Diển Xuất Sắc Nhứt (Academy Award
for Best Director cho Elia Kazan), Giải Oscar cho Nam Tài tử Chánh Xuất Sắc Nhứt
(Academy Award for Best Actor cho Marlon Brando), Giải Oscar cho Nữ Tài tử Phụ
Xuất Sắc Nhứt (Academy Award for Best Supporting Actress cho Eva Marie Saint).
[5] Phim cao bồi: Một trong những
phim cao bồi (tiếng Anh là phim Western) hay nhứt trong giai đoạn phim đen trắng
là phim Le train sifflera trois fois, tên chuyển ngữ tiếng Pháp của
phim Mỹ có tựa đề là High Noon, với Tài tử nổi tiếng Gary Cooper
trong vai chánh. Nội dung của cuốn phim là câu chuyện của một vị Cảnh sát trưởng
(Sheriff) của một thị trấn nhỏ bị mọi người bỏ rơi, phải một mình đương đầu với
một bọn côn đồ tìm đến trả thù. Cuốn phim này được hảng United Artists phát
hành năm 1952, gây chấn động trong giới điện ảnh Hoa Kỳ, được đề nghị cho 7 giải
Oscar của năm đó, và đã đoạt được tất cả 4 giải Golden Globe Awards, và 4 giải
Academy Awards (tức Oscar) như sau: Giải Golden Globe cho Nam Tài tử
Chánh (Golden Globe Award for Actor in a Leading Role cho Gary Cooper), Giải
Golden Globe cho Nữ Tài tử Phụ (Gloden Globe Award for Best Supporting Actress
cho nữ Tài tử Katy Jurado, nữ Minh tinh gốc Mể Tây Cơ đầu tiên được trao giải
này), Giải Golden Globe cho Nhạc Nền của phim (Golden Globe Award for Music –
Score cho Dimitri Tiomkin), Giải Golden Globe cho Hình Ảnh Phim Đen Trắng
(Golden Globe Award for Cinematographby – Black and White), Giải Oscar cho Nam
Tài tử Chánh (Academy Award for Best Actor cho Gary Cooper), Giải Oscar cho Ráp
Nối Phim (Academy Award for Film Editing cho Elmo Williams và Harry W.
Gerstad), Giải Oscar cho Nhạc Nền của Phim (Academy Award for Music – Score cho
Dimitri Tiomkin), Giải Oscar cho Bản Nhạc Chánh của Phim (Academy Award for
Music – Song cho Dimitri Tiomkin và Ned Washington, là 2 Tác giả của bản nhạc “Do
Not Forsake Me, My Darling”). Có hai điều cần nói thêm về cuốn phim
đen trắng xuất sắc này: 1) Người nữ Minh tinh chánh trong phim này, đóng vai
người vợ của viên Cảnh sát trưởng, chính là nữ Minh tinh Grace Kelly, về sau rất
nổi tiếng, đã được Giải Oscar Cho Nữ Tài tử Chánh (Academy Award for Best
Actress, 1955) trong phim The Country Girl cùng đóng chung với
nam Danh ca Bing Crosby, qua năm sau, 1956, Grace Kelly kết hôn với Ông Hoàng
Rainier của Vương Quốc Monaco và trở thành Bà Hoàng Grace of Monaco; 2) Bản nhạc
chánh của cuốn phim, Do Not Forsake Me, My Darling, sau đó được đưa vào đĩa hát với giọng
ca của nam Ca sĩ Frankie Laine và trở thành Top Hit của năm đó. Về sau, cặp bài
trùng Dimitri Tiomkin – Frankie Laine sẽ được Hollywood sử dụng nhiều lần nữa
trong các phim Western nổi tiếng khác như Gunfight at the OK
Corral và Last Train from Gun Hill.
[6] Giai đoạm phim màu:
Phim lịch sử: Một trong những phim
hay nhứt của thể loại lịch sử trong thời kỳ phim màu là phim Autant
en emporte le vent,
tên chuyển ngữ tiếng Pháp của phim Mỹ Gone
With The Wind,
dựa trên cuốn tiểu thuyết nổi tiếng có cùng tên của Tác giả Margaret Mitchell.
Cuốn phim mô tả đời sống của người dân tại Miền Nam Hoa Kỳ, qua nhân vật nữ
chính là Scarlett O’Hara, trong thời gian trước và sau Cuộc Nội Chiến Hoa Kỳ
(American Civil War, 1861-1865), với 2 nam nữ Minh tinh chánh là Clark Gable và
Vivien Leigh. Cuốn phim này do hảng phim MGM sản xuất vào năm 1939, và đạt
được một thành công rực rỡ, được đề nghị tất cả 13 giải Oscar của năm đó, và
sau cùng đoạt được 8 giải như sau: Giải Oscar cho Phim Hay Nhứt (Academy Award
for Best Picture cho nhà Sản xuất David O’Selznick), Giải Oscar cho Đạo Diễn xuất
Sắc Nhứt (Academy Award for Best Director cho Victor Fleming), Giải Oscar cho
Truyện Phim Dựa Trên Tiểu Thuyết Xuất Sắc Nhứt (Academy Award for Best Adapted
Screenplay truy tặng cho Sidney Howard lúc đó đã qua đời), Giải Oscar cho Nữ
Tài tử Chánh Xuất Sắc Nhứt (Academy Award for Best Actress cho Vivien
Leigh), Giải Oscar cho Nữ Tài tử Phụ Xuất Sắc Nhứt (Academy Award for Best
Supporting Actress cho Hattie McDaniel, nữ Tài tử da đen đầu tiên được trao tặng
Oscar), Giải Oscar cho Hình Ảnh Phim Màu (Academy Award for Best Cinematography
– Color cho Ernest Haller và Ray Rennahan), Giải Oscar cho Ráp Nối Phim
(Academy Award for Film Editing cho Hal C. Kern và James E. Newcom), Giải Oscar
cho Dàn Cảnh Nghệ Thuật (Academy Award for Art Direction cho Lyle Wheeler).
Cuốn phim này về sau còn được phát hành thêm rất nhiều lần nữa vào các
năm 1942, 1947, 1954, 1961, 1967, 1971, 1974, 1989, 1998, và gần đây nhứt là
năm 2014.Theo sách Guinness World Records (về các Kỷ lục thế
giới), cuốn phim này, tính đến năm 2014, đã có số thu là 3, 44 tỷ đô la Mỹ, và
trở thành cuốn phim thành công nhứt trong lịch sử điện ảnh.
[7] Phim chiến tranh: Một
trong những phim về Đệ Nhị Thế Chiến làm khán giả say mê là cuốn phim Les
canons de Navarone, tên
chuyển ngữ tiếng Pháp của cuốn phim Mỹ có tựa đề là The Guns of
Navarone, do 3 nam Tài tử nổi danh thủ vai chánh là Gregory Peck, David
Niven, và Anthony Quinn. Nội dung phim kể lại câu chuyện hào hùng của một toán
Biệt kích Đồng Minh thi hành một sứ mệnh vô cùng khó khăn là phá hủy một pháo
đài gần như bất khả xâm phạm của quân Đức với những cổ đại pháo khổng lồ đe dọa
nặng nề các chiến hạm của Đồng Minh trong vùng biển Aegean, là một biển nhỏ giữa
Hy Lạp và Thổ Nhỉ Kỳ. Cuốn phim do hảng phim Columbia phát hành năm 1961,
được đề nghị tất cả 7 giải Oscar của năm đó nhưng chỉ đoạt được một Oscar duy
nhứt cho Xảo Thuật Xuất Sắc Nhứt (Academy Award for Best Special Effects cho
Bill Warrington và Chris Greenham). [8] Tuy không đọat được nhiều Giải Oscar,
cuốn phim này rất thành công về thương mại, chiếm hạng nhì về số thu của năm
1961. Một điều hiếm có là buổi chiếu ra mắt lần đầu tiên của phim (World premiere)
vào ngày 27-4-1961 đã diễn ra tại Luân Đôn dưới sự chủ tọa của chính Nữ Hoàng
Elizabeth II và Hoàng Tế Philip.
Phim trinh thám: Một trong những
phim trinh thám xuất sắc của giai đoạn phim màu là phim Le crime était
presque parfait, tên chuyển ngân tiếng Pháp của cuốn phim Mỹ có tựa đề là Dial
M for Murder của
Đạo diễn lừng danh Alfred Hitchcock với hai Tài tử chánh, do hảng phim Warner
Bros. phát hành năm 1954. Nội dung của cuốn phim là câu chuyện của một ông chồng
ghen tức vì người vợ ngoại tình, và quyết định giết vợ. Kế hoạch giết vợ được
tính toán và chuẩn bị rất kỹ lưởng, tỉ mỉ nhưng khi thực hiện thì sự việc không
diễn ra được như đã được tính toán trước, và, sau cùng, hung thủ vẫn bị sa lưới
do một sơ hở rất nhỏ. Cuốn phim là một thành công do tài Đạo diễn của
Hitchcock, một bực thầy của thể loại phim trinh thám, bí mật, và căng thẳng
(mystery-thriller-suspense). Tuy không nhận được bất cứ một gỉai thưởng Oscar
nào, cuốn phim đã được phần đông các nhà Phê bình phim ảnh khen ngợi. Một trong
tính cách tiêu biểu của Hitchcock là ông luôn luôn có đóng một vai thật phụ
trong tất cả các phim do ông Đạo diễn, và phim Dial M for Murder này
cũng không đi ra ngoại cái lệ đó: Sau khi cuốn phim bắt đầu được 13 phút, gương
mặt ông xuất hiện trong một tấm ảnh đen trắng chụp tại một buổi họp mặt của một
nhóm Sinh viên và Giáo sư. Năm 1998, phim A Perfect Murder, do hai
Tài tử Michael Douglas (đóng vai người chồng) và Gwyneth Paltrow (đóng vai người
vợ), là một phim quay lại (remake) của cuốn phim nổi tiếng này.
Phim gián điệp: Một trong những
phim gián điệp hay nhứt trong giai đoạn phim màu là cuốn phim L’Homme
qui n’a jamais existé, tên chuyển ngữ tiếng Pháp của cuốn phim Anh với tựa
đề là The Man Who Never Was, do hảng phim 20th Century Fox
phát hành vào năm 1956, với sự tham gia diễn xuất của các Minh tinh nổi tiếng
Clifton Webb và Gloria Graham. Nội dung truyện phim như sau: Năm 1943, lực
lượng Đồng Minh sắp sửa đổ bộ lên đảo Sicily ở phía Nam nước Ý; để đánh lừa
quân Đức, tình báo Anh tạo ra một kế hoạch đặt tên là Operation Mincemeat nhằm
khiến cho Đức phải tin là Đồng Minh sẽ đổ bộ lên Hy Lạp. Để thực hiện kế
hoạch này, tình báo Anh đã sử dụng một xác người chết vì sưng phổi, ngụy trang
thành một vị Thiếu Tá Thủy Quân Lục Chiến Anh tên là William Martin, bị rớt máy
bay trên biển Địa Trung Hài, xác trôi vào bờ biển của Tây Ban Nha tại một thị
trấn mà tình báo Anh đã biết có sự hiện diện của một Điệp viên giỏi của Đức.
Xác chết của Thiếu Tá Martin có mang một cặp tài liệu về kế hoạch đổ bộ lên Hy
Lạp của Đồng Minh. Kế hoạch thành công và Hitler đã ra lệnh cho các đơn vị đang
trú đóng phòng thủ ở đảo Sicily phải di chuyển ngay sang Hy lạp. Nhờ vậy kế hoạch
đổ bộ lên Sicily của Đồng Minh đã thành công dễ dàng. Cuốn phim dựa vào một
chuyện có thật. Người tạo ra kế hoạch Mincemeat là Hải Quân Trung Tá Anh tên
Ewen Montagu (do nam Tài tử Clifton Webb thủ vai) đã viết lại câu chuyển này
trong cuốn sách của ông có cùng tên xuất bản năm 1953, và chính Montagu cũng đã
có đóng một vai nhỏ trong cuốn phim này.
Phim Nhật Bản: Cuốn phim Nhật
Bản đầu tiên gây chú ý với khán giả khắp thế giới nói chung và tại Việt Nam nói
riêng, là phim Bảy người Hiệp sĩ (Seven Samurai), do Akira Kuroshawa Đạo điễn,
và nam Tài tử Toshiro Mifune đóng vai chánh, do hảng phim Toho phát hành năm
1954. Nội dung phim như sau: Dân chúng trong một ngôi làng luôn bị một bọn
cướp đe dọa, đã quyết định tìm thuê một số Hiệp sĩ lang thang (ronin) đến giúp
họ bảo vệ làng. Có tất cả 7 Hiệp sĩ đã đồng ý tham gia, và họ đã giúp dân làng
thắng và diệt được bọn cướp, nhưng 4 người trong số họ đã hy sinh. Cặp bài
trùng Akira Kuroshawa – Toshiro Mifune còn cộng tác trong một số phim khác,
trong đó nổi tiếng nhứt là phim Rashomon (Địa Ngục Môn). Một điểm cần nói thêm
là cả 2 phim Bảy người Hiệp sĩ và Rashomon về sau đều được Hollywood phóng tác
thành phim theo thể loại cao bồi (Western). Phim Bảy người Hiệp sĩ được phóng
tác thành phim The Magnificent Seven (tên chuyển ngữ tiếng Pháp là Les sept
mercenaires) do hảng phim United Artists sản xuất vào năm 1960 với một giàn Tài
tử gạo cội gồm: Yul Brynner, Eli Wallach, Steve McQueen, Charles Bronson,
Robert Vaughn, James Coburn, và Minh tinh người Đức Horst Buchholz. Mới đây,
năm 2016, Hollywood lại làm lại phim The Magnificent Seven một lần nữa, do hảng
phim MGM sản xuất, với vai chánh do nam Tài tử da đen nổi tiếng (đã từng đoạt
giải Oscar 2 lần) Denzel Washington đãm nhận, và có sự tham gia của nam Tài tử
Hàn Quốc nổi tiếng Lý Bỉnh Hiền (Lee Byung-hun). Phim Rashomon được phóng tác
thành phim The Outrage, do hảng phim MGM sản xuất năm 1964 với các Tài tử nổi
tiếng Paul Newman, Laurence Harvey, Edward G. Robinson, William Shatner, và
Claire Bloom.
Phim Hồng Kông: Cùng lúc với
phim Nhật Bản, phim Hồng Kông cũng được chiếu ở các rạp xi-nê ở Sài Gòn. Phần lớn
là phim võ thuật và kiếm hiệp. Những Tài tử tên tuổi của Hồng Kông như Vương
Vũ, Địch Long, Khương Đại Vệ, Trịnh Phối Phối trở nên quen thuộc với khán giả
Sài Gòn. Một trong số những phim có số thu cao nhứt là phim Độc Thủ Đại Hiệp với
Khương Đại Vệ đóng vai chánh. Sang đầu thập niên 1970, một loạt phim võ thuật với
nam Tài tử Lý Tiểu Long trong vai chánh đã làm say mê khán giả xi-nê Sài Gòn:
Tinh Võ Môn, Đường Sơn đại huynh, Long tranh hổ đấu, v…v.... Cùng một lúc, khán
giả xi-nê Sài Gòn lại bắt đầu được thưởng thức một loạt phim tình cảm, xã hội,
dựa trên các tiểu thuyết đang ăn khách của nữ Tác giả Quỳnh Dao, như Hải âu phi
xứ, Mùa thu lá bay, với cặp tài tử Chân Trân và Đặng Quang Vinh. Tôi đã được
xem các phim này tại rạp Lệ Thanh trong Chợ Lớn.
Phim Ấn Độ: Cuốn phim Ấn Độ đầu
tiên được chiếu ở Sài Gòn, nếu tôi nhớ không lầm, là tại rạp Thanh Bình, là một
phim màu, thuộc thể loại thần thoại. Điều đặc biệt nhứt khiến mọi người đều nhớ
về phim Ấn Độ là phần âm nhạc của các phim, với âm điệu réo rắt, nhưng nghe rất
nhàm chán, vì gần như tất cả bài hát đều nghe giống hệt nhau. Sau đó, trong một
thời gian, người Sài Gòn được xem cả một loạt phim xả hội cùng do cặp Tài tử
Ganeshan và Savitri đóng các vai chánh. Về sau chỉ còn một rạp duy nhứt tiếp tục
chiếu phim Ấn Độ là rạp Long Phụng ở cuối đường Gia Long, gần Ngã Sáu Sài Gòn.
Thay Lời Kết: Xem xi-nê là một thú
giải trí rất được ưa chuộng của gần như tất cả các tầng lớp người Sài Gòn trước
1975. Không phải như hiện nay với máy vi-tính và với kỹ thuật video, thời đó muốn
xem phim mọi người phải đi đến các rạp xi-nê ở rải rác khắp thành phố, từ vùng
Đakao – Tân Định, Bà Chiểu – Gia Định, ra đến trung tâm Sài Gòn, Chợ Cũ, và vào
tận cả trong khu người Hoa ở Chợ Lớn. Phần lớn các rạp xi-nê đều chiếu theo xuất,
chỉ có một số chiếu thường trực suốt ngày. Phim trình chiếu thì có đủ tất cả
các thể loại: tình cảm, xã hội, lịch sử, cao bồi, trinh thám, gián điệp, v…v…..
Phần lớn là phim Mỹ với chuyển âm tiếng Pháp, hay phụ đề tiếng Việt. Trong giai
đoạn này, phần lớn các phim Mỹ đều có cốt truyện rất hay, với kỹ thuật sản xuất
(dàn dựng, màu sắc, âm thanh, ráp nối phim, vv) có chất lượng cao và các nam nữ
Tài tử đều diễn xuất thật xuất sắc.
Ghi Chú: Trần Đăng Chí. Rạp xi-nê Sài Gòn trước
1975,tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: Rạp Xi-Nê Sài Gòn Trước 1975. Trong
số khá nhiều tài liệu trực tuyến trên Internet về các rạp xi nê ở Sài Gòn trước
1975, tài liệu này có thể được xem là đầy đủ nhứt.
Bùi Thanh Kiên. Phương ngữ Nam Bộ: ghi chép & chú giải. Tập 1: A – K. Hà Nội: Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, 2015. Tr. 286: Cọp: phó từ, tiếng lóng: khỏi phải trả tiền, thí dụ: coi hát cọp, hút thuốc cọp. Nhớ về rạp xi-nê Rex, rạp tối tân nhất Đông Nam Á trước 1975, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây:https://www.cochinchine-saigon.com/nho-ve-rap-xi-ne-rex-rap-toi-tan-nhat-dong-nam-a-truoc-1975/Waterloo Bridge (1940 film), tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây:Waterloo Bridge (1940 film)
On the Waterfront, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây:On the Waterfront
High Noon, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây:https://en.wikipedia.org/wiki/High_NoonGone with the Wind (film), tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây:https://en.wikipedia.org/wiki/Gone_with_the_Wind_(film)The Guns of Navarone (film), tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây:The Guns of Navarone (film)
The Guns of Navarone (film)The Guns of Navarone is a 1961 British-American epic adventure war film directed by J. Lee Thompson. The screenp…
Nguồn: Lâm Vĩnh Thế: Nhớ Lại Chuyện Coi Xi Nê ở Sài Gòn Trước 1975
Bùi Thanh Kiên. Phương ngữ Nam Bộ: ghi chép & chú giải. Tập 1: A – K. Hà Nội: Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, 2015. Tr. 286: Cọp: phó từ, tiếng lóng: khỏi phải trả tiền, thí dụ: coi hát cọp, hút thuốc cọp. Nhớ về rạp xi-nê Rex, rạp tối tân nhất Đông Nam Á trước 1975, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây:https://www.cochinchine-saigon.com/nho-ve-rap-xi-ne-rex-rap-toi-tan-nhat-dong-nam-a-truoc-1975/Waterloo Bridge (1940 film), tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây:Waterloo Bridge (1940 film)
On the Waterfront, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây:On the Waterfront
High Noon, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây:https://en.wikipedia.org/wiki/High_NoonGone with the Wind (film), tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây:https://en.wikipedia.org/wiki/Gone_with_the_Wind_(film)The Guns of Navarone (film), tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây:The Guns of Navarone (film)
The Guns of Navarone (film)The Guns of Navarone is a 1961 British-American epic adventure war film directed by J. Lee Thompson. The screenp…
Nguồn: Lâm Vĩnh Thế: Nhớ Lại Chuyện Coi Xi Nê ở Sài Gòn Trước 1975
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết