NHÂN NGÀY QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA NGÀY 19 THÁNG 6 (1965-2015): "CHIẾM
LẠI CON ĐƯỜNG, CỬA SẬP, CHIẾM LẠI KỲ ĐÀI"
DO NGƯỜI ANH HÙNG THỦY QUÂN LỤC CHIẾN VNCH TRUNG TÁ NGUYỄN VĂN PHÁN TƯỜNG THUẬT
ỦY BAN TRUY TỐ TỘI ÁC ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
TRUNG TÂM ĐIỀU HỢP TRUNG ƯƠNG
P.O. Box 6147, Fullerton, CA 92834
Điện thoại: 626-257-1057
Email: ubtttadcsvn.vg@gmail.com
NHÂN NGÀY QUÂN LỰC VIỆT NAM
CỘNG HÒA NGÀY 19 THÁNG 6 (1965 - 2015)
Để độc giả có thể thấy những hy sinh cao
cả của quân lực VNCH nói chung và binh chủng Thủy Quân Lục Chiến VNCH nói
riêng, đã đem xương trắng, máu đào của họ để bảo vệ quê hương, bảo vệ đồng bào
Huế, bảo vệ thành phố Huế, xin quý độc giả đọc bài tường thuật của
người anh hùng Trung Tá Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Phán,
người đã chỉ huy trận đánh chiếm lại vùng Tây Lộc, Cửa Sập, và Kỳ Đài trong Tết
Mậu Thân 1968.
Liên
Thành, UBTTTADCSVN
_________________________
Chiếm
Lại Con Đường, Cửa Sập, Chiếm Lại Kỳ Đài
Từ Cai Lậy về thủ đô, nhập ngay vào đánh
giải tỏa trại Cổ Loa của Thiết giáp và Xóm Mới của Gia Định xong xuôi. Quái
Điểu, Tiểu đoàn I Thủy Quân Lục Chiến, về nằm dọc đường Ngô Tùng Châu. Mười hai
giờ khuya họp Tiểu đoàn, hai giờ sáng có mặt tại phi trường Tân Sơn Nhứt, bốn
giờ sáng lên máy bay bay đi, đi đâu không biết. Đồ khô và tái trang bị không
lãnh kịp. Cứ lên phi trường rồi hay. Đó đây những loạt pháo kích, những loạt
đại liên rời rạc, những đốm hỏa châu lủng lẳng trên bầu trời. Tôi để lại đằng
sau một Sàigòn mang nặng bộ mặt chiến tranh. Những chiếc máy bay C-130 khổng lồ
nuốt gọn 800 Quái Điểu và đưa chúng tôi lên cao trong đêm tối mịt mùng.
- Đi đâu bây.
- Nha Trang, tao nghe Nha Trang đang có đánh nặng.
Lượm Đại đội trưởng đại đội 1 (dân Nha Trang) trả lời, Tôn Đại đội trưởng đại
đội 2 cãi:
- Đà Lạt.
Phán Phu Nhân nói:
Đi đâu cũng được, đổi vùng là khoái rồi.
(Khi vào quân trường, Phán trình diện: Tui chánh quán làng Phú
Nhơn, ở gần hồ Tịnh Tâm, quận Thành Nội Huế. Thế là sau đấy, giữa lửa đạn và
thịt đổ xương rơi, qua tiếng thét trong máy truyền tin cái tên ngụy trang “Phu
Nhân” ra đời nghe thật lạ tai!)
- Máy bay chi bay mãi ri
bây.
Thời tiết xấu và rồi bánh xe
phi cơ cũng chạm đất, những cặp mắt đổ đồn ra khung cửa sổ máy bay. Phú Bài!
Cơn gió cắt da, bãi cát trắng trải dài, mưa nặng hột. Thiếu áo lạnh, tất cả đều
cuốn Poncho, đứng nhìn đoàn người gánh gồng xuôi ngược, hấp tấp và lo sợ, một
số về Truồi, một số lên Dạ Lê và An Cựu.
Phú Bài đó, Tịnh Tâm, Cầu Kho
đó. Mạ, dì, chị em mình đó mà không liên lạc được. Tình hình không biết sao,
ruột như lửa đốt. Trách nhiệm nặng nề, tôi nằm trằn trọc suy nghĩ thật nhiều để
chờ sáng mai. Kỷ niệm thời đi học về trong trí tôi, đẹp quá, nhẹ nhàng quá,
vụng dại quá.
10 Giờ sáng, đoàn xe GMC đưa
chúng tôi về Huế. Qua Dạ Lê, đồng bào hỗn loạn, nét lo âu hiện rõ trên mặt. Tới
An Cựu, dân chúng thưa thớt, nhà hai bên đường đóng kín cửa, dọc quốc lộ 1 từ
Huế về Phú Bài. Binh sĩ Nhảy Dù từng toán nhỏ dìu nhau âm thầm đếm bước. Những
cái nhìn như nhắn gửi như lo sợ giùm chúng tôi. Mạnh, Đại Úy Nhảy Dù cùng khóa
cho tôi biết:
- Huế tang thương và điêu tàn
lắm Phán ơi, Thừa cùng khóa chết, Phạm Duy Đà Lạt bị thương…
Mạnh khắp người băng bó, được
hai đệ tử dìu về phía phi trường Phú Bài, Mạnh tiếp:
- Phán, mày cẩn thận, không
yểm trợ, không thực phẩm, không tiếp liệu, thời tiết quá xấu. Tụi nó chiếm hết
thành phố. Đại Nội, Gia Hội. Tụi nó chốt rất kỹ chỉ còn một cái lõm nhỏ ở Bộ Tư
Lệnh Sư Đoàn I ở Mang Cá.
Sau này được nghe nói: Vì
nghe tin Tướng Trưởng bị kẹt nặng, nên đại bàng Lê Quang Lưỡng, Lữ đoàn trưởng
Lữ đoàn Nhảy Dù đã đưa quân đi bộ từ cây số 17 về Huế để cứu Tướng Trưởng. Tôi
xin Tướng Lưỡng cho tôi được nghiêng mình chào một cách đầy kính phục cho cái
tình nghĩa huynh đệ không bút nào tả nổi này. Để đáp trọn tình nghĩa, Lữ đoàn
của Đại Tá Lưỡng cũng hao hụt nặng nề.
Đoàn xe dừng lại bên hông đại
học Văn Khoa, cách con đường là trường Trung học Kiểu Mẫu vừa mới xây, đối diện
là đài phát thanh Huế. Và trước mặt là cầu Tràng Tiền, chiếc cầu tượng trưng
cho xứ Huế, chiếc cầu đã hàng ngàn, hàng vạn lần qua lại, đầy ắp kỷ niệm.
Nhìn qua chợ Đông Ba và phố
Trần Hưng Đạo mà lòng quặn thắt. Một mái chợ đã sập, những cột khói ngút trời
cách khoảng. Những cột khói khác vươn lên…Cả thành phố đã chết. Huế tôi tang
thương đến thế sao? Một nhịp cầu đã sập, tôi nghĩ vành khăn tang trắng đã cuốn
lấy Huế.
Xuống tàu tại chân Cầu Tràng
Tiền, xuôi dòng sông Hương xanh biếc qua Gia Hội, quẹo trái sông Hàng Bè, cầu
Đông Ba đó, có tiệm La Ngu ngày xưa chúng tôi thường mua dụng cụ học trò. Tiếp
tục xuống ngang tiệm gạo mụ Đội, có người con gái đẹp não nùng tên Xuân, mà con
trai Huế lứa tuổi tôi đều hơn một lần đi qua đó để nhìn người con gái trời cho
đẹp. Đến Bao Vinh, dân chúng nhớn nháo khi thấy một đơn vị lớn đang đổ bộ tại
bến đò.
Tôi hướng dẫn đơn vị vào Mang
Cá nhỏ để tới bệnh viện Nguyễn Tri Phương. Địch chào đón bằng hàng loạt hỏa
tiễn 107 và 122. Tất cả nằm sát vào bờ tường để tránh pháo và tìm chỗ phòng
thủ. Tôi cho lệnh Sự, Trung Úy Đại đội phó kiểm soát con cái và chuẩn bị cơm
chiều. Trung Úy Sự là sĩ quan trẻ, có tài và đầy nhiệt huyết, xuất thân khóa 19
Võ Bị Đà Lạt, thủ môn hội tuyển Nha Trang, đúng là đa năng đa hiệu. Tôi dự buổi
họp Tiểu Đoàn khẩn cấp và quan trọng, tiểu đoàn trưởng ra lệnh:
- Phu Nhân rành địa thế dẫn
đầu, 8 giờ sáng mai xuất phát. Kế tiếp là Tôn đại đội 1, Lượng đại đội 2 . Tiếp
đến là Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn cùng đại đội chỉ huy, sau cùng là Tòng đại đội 4.
Mục tiêu Phu Nhân phải chiếm
là trường tiểu học Trần cao Vân. Trước trường có thành Quân Cụ, vào khoảng 1
đại đội ta đóng tại đó, không biết còn hay mất. Phán hỏi:
- Còn phi trường thành nội
thì sao? Tình hình trong Đại Nội, Thiếu Tá có nắm vững không?
- Không rõ, tụi nó chiếm hết,
chốt rất kỹ. Tất cả các cửa thành nội tụi nó đều chiếm và chốt rất kỹ. Cửa Hữu,
cửa Chánh Tây, cửa Sập, Cửa An Hòa, cửa Đông Ba, Kỳ đài Phu Văn Lâu…tụi nó đều
chiếm hết.
Trong óc tôi, 1 bản đồ chi
tiết hiện ra rất rõ cho một cuộc hành quân, mà tình hình tôi nắm không được
vững. Tôi cố tìm một con đường ngắn, an toàn cho đơn vị để tới mục tiêu. Có rất
nhiều đường đưa tới đường Trần Cao Vân, nơi từ 9 đến 19 tuổi tôi đã bao nhiêu
lần đi lại. Con đường nào cũng đầy hoa và mộng. Nay tôi đang tìm một con đường
không có máu để cho anh em chúng tôi đi.
8 giờ sáng, tất cả đã gọn
gàng, sẵn sàng di chuyển. Ba trăm thước đường từ Mang Cá đến nhà tôi sao quá
dài. Bồn chồn, nóng ruột vì nơi đó có mạ tôi, dì tôi, chị tôi, và em trai út
của tôi đang trông ngóng. Không biết có bị gì không? Thiếu úy Duật Trung đội
trưởng trung đội dẫn đầu. Duật xuất thân khóa 21 Đà lạt, hăng say, gan, thích
xóc đĩa và gái đẹp, uống rượu rất ít, chỉ phá mồi. Phan và BCH kế tiếp, Thiếu
úy Nghênh, trung đội trưởng trung đội 1 tiếp theo. Nghênh kinh nghiệm, gan lì,
thích đánh phé nhưng đánh nhỏ, rượu rất ít và không thích gái. Sau cùng là
Thượng sĩ Hải, trung đội trưởng trung đội súng nặng. Hải người Nùng, lì lợm già
chiến trường, không rượu, không gái, không thuốc lá.
Hai bên đường dân chúng đứng
chen chúc, vẻ mặt hớn hở thật tội nghiệp cho họ. Lần lần những khuôn mặt quen
thuộc hiện ra, những cánh tay vẫy chào, nào mụ Đội Dậu, mụ Ba, ông Sung, ông
Dung, anh Thiên chủ bàn Ping pong…Những tiếng nói đó đây: “Anh Phán đó tề! anh
Phán”, tiếng gọi lớn và lan dài suốt con đường tôi đi.
Con hẻm sát bên hồ Tịnh Tâm
là đường vô nhà tôi, mạ tôi đó, di, chị và em tôi đó. Xao xuyến quá! Tôi đi
nhanh đến ôm Mạ tôi, dì và chị tôi khóc như mưa, thằng em luống cuống chạy
quanh, bị Mạ tôi nạt: “Mi chạy vô lấy khúc cá kho khô và đòn bánh tét gói lại
đem ra đây bới cho anh mi”. Mạ tôi dụi vào tay tôi chai dầu Nhị Thiên Đường
“Con xức cho khỏi gió”. Lính đi ngang hỏi nhau “Mạ Đại Úy sao đầu trọc lóc như
vậy bây”. “Bà ấy đi tu để phước cho con, tụi mình cũng được hưởng ké đấy”. Phán
và âm thoại viên vẫn còn dừng lại: “Nhà mình có răng không mạ? Bà con thân
thuộc có ai bị chi không?” Nhà ông Quế chủ quán Chiêu bị trúng 2 trái, nhưng
người thì không răng. Nhà mình bị ngói đổ một góc, cây đào bị gãy ngọn. Còn
thằng Chi không biết đi mô. Chi là bạn tôi xuất thân khóa 17 Võ Bị Đà Lạt. Tôi
xót xa đắng miệng:
- Thôi con đi. Mạ và gia đình
đừng lo cho con.
Mạ tôi khóc òa, tôi thật não
lòng. Những tiếng gọi anh Phán, anh Phán, tiếp tục vang lên cho đến giữa hồ
Tịnh Tâm.
Tiếng gọi, giọt nước mắt và
những cánh tay chào vẫy, phải chăng nhắc nhở trách nhiệm của tôi, bây giờ là
lúc đền đáp ơn sâu nghĩa nặng. Vinh dự này thật khổ. Máu nóng sôi trong người,
tôi và hai âm thoại viên vượt lên đi với Trung đội đầu. Cuối hồ Tịnh Tâm là
đường Tịnh Tâm, tôi cho lệnh quẹo tay mặt theo đường lên nhà ông Ngự Đạt. Như
vậy bên hông mặt của con cái tôi lúc nào cũng có bức thành và cái hồ che chở.
Cuối đường Tịnh Tâm quẹo trái là trường Tiểu học Đoàn Thị Điểm, nhưng tôi không
đi con đường này. Tiếp tục thẳng qua một con hẻm nhỏ, con đường đã bao lần đi
lại, nào ăn cắp me, nào ăn trộm sấu, nào hái xoài, nào đào sen, nào học thi,
nào thăm người yêu…,con đường nào cũng nhắc tôi bao kỷ niệm yêu dấu không quên.
Đến Canh Nông, chưa thấy phản
ứng nào của địch, gần sân bay Tây Lộc dân chúng thưa thớt và kinh hãi. Tôi cho
dừng quân bên này đường, một ông già mách:
- Con đường ni bị bắn rất
rát, từ trong cửa Hòa Bình Đại Nội bắn ra.
- Còn sân bay thành nội ra
sao ôn, có ai không?
- Đánh nhau mấy ngày ni dữ
lắm, mà tui cũng không biết răng, không biết mình hơn hay thua nữa.
Tôi chỉ con đường và hướng
dẫn Duật:
- Băng qua khỏi con đường
này, đến một xóm nhà, qua 1 cái cổng thì bên trái là thành Quân Cụ. Nghênh và
Mã Khện yểm trợ hông mặt cho Duật, và sau đó băng qua đường theo tôi.
Con đường chỉ có 5 thước mà
hơn 1 giờ mới vượt qua với 6 thằng em rớt rụng trên mặt đất. Lần theo mép đường
tới sát ống cống, tôi cho dừng lại, phi trường vắng tanh, tôi bảo Duật:
- Mày cho một thằng con nhỏ
qua trước làm đầu cầu bên kia ống cống, chờ đó cho tất cả con cái mày qua rồi
vào thành Quân Cụ, chờ tau lên.
Thành Quân Cụ cao khỏi đầu
người, không liên lạc được với người bên trong. Tất cả con cái nằm sát thành để
tôi và đám cận vệ bò tới cổng chính. Loáng thoáng thấy nón sắt, field jacket,
giây ba chạc. không phải tụi nó đâu, chắc chắn là bạn rồi, thằng đệ tử tôi gọi
lớn “Ê Thủy Quân Lục Chiến đây”. Một loạt đạn bay qua khỏi đầu một cách rùng
rợn. Bò lết vào tới trong đồn, ông đồn trưởng nói tiếng Huế đặc sệt, ông Trung
Úy Cát, thủ môn nỗi tiếng của Huế:
- Đại Úy ơi, bảy ngày không
ra nổi, nó bao hết, trường Trần Cao Vân, Đại Nội, xóm nhà Bảo sanh, sau lưng
trường cách một cái hồ tụi nó cũng chiếm luôn. Dân chúng chạy hết rồi không còn
ai cả. Tụi nó pháo liên miên, không cho ngóc đầu, đủ loại cối 61, 82, hỏa tiển
107, 122. Tôi rán cố thủ ở đây được ngày mô hay ngày nấy, còn ngoài nớ tôi
không liên lạc được nên không biết tình hình các nơi khác ra răng.
Tôi trở ra báo cáo về Tiểu
đoàn. Lệnh của Tiểu đoàn trưởng:
- Phu Nhân chiếm cho bằng
được trường Trần Cao Vân, dọn sạch chung quanh. Tiểu Đoàn Trưởng và Bộ Chỉ Huy
sẽ lên ở trại Quân Cụ.
Quan Sát địa thế thêm một lần
nữa, trước mặt trường là cái am lên đồng, bên cạnh là quán hớt tóc lợp tranh,
chỉ có một ghế ngồi, sát đó là ngã ba đường chạy lên cửa sập, một chạy về
trường Đào Duy Từ, và một chạy đến trường Trần Cao Vân. Có bốn năm cái đầu lố
nhố bên trong trường.
Duật phải chiếm am trước,
trong trường bắn ra mãnh liệt, có cả B40. Tôi ra lệnh Nghênh và Mã Khện cầm
chân hỏa lực trong trường học. Duật chiếm xong am không một tổn thất. Tôi gọi
Thượng sĩ Hải đem hai đại liên và một 57 không giật lên tăng cường cho Duật, để
Duật yểm trợ cho Mã Khện vào trường. Sau 45 phút dùng mưu kế cùng với hỏa lực
và sự gan dạ, kinh nghiệm, Mã Khện đã chiếm được một lớp học của trường, Nghênh
tràn vào cùng với Mã Khện lục soát và làm sạch sẽ.
Hỏa lực từ góc Thành Nội đổ
dồn về phía trường học, không sao, đã có thành của các lớp học che chở. Tôi kêu
Sự:
- Pháo binh có chưa, kêu về
đại bàng Thanh Hóa cứ bắn vào góc thành cho tau. Đến chiều vẫn không có một
trái pháo bắn, anh em tôi có 7 đã lót đường cho mục tiêu, và 3 bị thương nặng.
Tôi lên sát Duật và bảo đem cây 57 đến:
- Nhắm ngay vào góc thành,
tụi nó bắn rát quá cứ phơ cho tau, trật trúng gì không cần, chỉ cần tiếng nổ.
Qua một vạt đất trống, trong
một ngôi nhà gạch có bóng người lấp ló, Duật quay 57 nhắm thằng:
- Nhột quá, cho em bung cái
nhà này đi.
Tôi bỗng thấy có bóng đàn bà,
tôi la lớn:
- Khoan bắn, nhà thầy Tiềm.
Tôi băng qua đám đất trống
đến gặp cô và các cháu. Không thấy thầy, tôi chào cô và giới thiệu tôi học sử
địa trong trường Bồ Đề với thầy và khuyên cô về dưới phố. Tôi trở lại vị trí mà
lòng nao nao buồn. Giờ này vẫn không có pháo làm sao khóa góc thành đó lại.
Duật bảo con cái đào hầm cho kỹ tôi dặn: -“Mày cố thủ tại đây cho Tiểu Đoàn
lên”. Rồi cùng đám đệ tử lúp xúp chạy đến tiệm hớt tóc để quan sát ngã ba đường
và góc Thành Nội, chợt nghe tiếng đàn bà rên la quằn quại, sau cùng chỉ còn
tiếng rên nho nhỏ. Nơi góc quán tối tăm, một người đàn bà máu me khắp nửa thân
thể, vừa bị thương nặng, lại vừa sanh ra một bào thai lờ mờ tượng hình đứa bé
trông giống như con rắn mối. Xót xa, chịu không nổi, tôi ra lệnh đem chôn đứa bé
đã chết và chuyển người mẹ về đồn Quân Cụ cho bác sĩ Tựu giúp.
Đến đây 13 người chết, và 3
bị thương nặng để trải thảm cho đơn vị.
Tối đó, Bộ chỉ huy Tiểu Đoàn
đến trại Quân Cụ. Sáng hôm sau, Tiểu đoàn trưởng cho Đại đội 2 của Tôn, và Đại
đội 1 của Lượm, dưới sự chỉ huy của đại ca Đã, Tiểu đoàn phó, chiếm nhà Bảo
Sanh. Đoạn đường có 30 thước, cách một hồ nhỏ mà phải trả bằng 50 đứa con thân
yêu, sau 8 tiếng đồng hồ mới chiếm được nhà bảo sanh. Tôn bị thương ngay từ
phút đầu, Lộc Đại đội phó lên thay.
Mười ngày tiếp theo, nhìn
nhau qua một con đường vừa đủ xe chạy mà hai bên đều khựng. Mưa vẫn rơi, ray
rứt, lê thê, thỉnh thoảng cơn mưa gió thật lạnh thổi qua. Có những trận tấn
công chớp nhoáng của địch vào đại đội của Lượm và Lộc, đều bị đánh bật lui.
Ngược lại, ta cũng nhiều lần cố tràn qua bên kia, nhưng không chiếm được một
tấc đất. Hai bên tải thương đều thấy nhau rất rõ, Lượm bị hao hụt nặng, Phu
Nhân lên thay.
Tôi và con cái bò lên từng
toán một, địch và ta đã sát nhau, ngóc đầu lên là đạn xuyên qua mũ sắt ngay.
Hơn nửa ngày mới trám hết vị trí của Lượm. Lượm và Tòng về phòng thủ cho Tiểu
Đoàn. Tối đến pháo địch đủ loại nổ vang trời. Xác chết của anh em nằm trên mặt
đường mà không lấy được. Phía bên kia 4, 5, xác địch vẫn để yên, tụi nó không
dám ra lấy về. Cố giữ đất, giữ vị trí và làm vài cuộc tấn công nhỏ vẫn không
qua đường được.
Từ căn nhà hai tầng cuối nhà
Bảo Sanh, một thượng liên và một trung liên nồi của tụi nó kiểm soát con đường
rất kỹ, dưới sự chỉ huy của một đứa con gái mặc áo choàng màu xám, tóc xõa dài,
nhưng không thấy rõ mặt. Tay đứa con gái chỉ tới chỉ lui thì đạn nổ dồn về
hướng đó. Tôi nhắm bắn 2 phát M16 nhưng hụt, nó trốn nhanh vào sau cửa và mất
luôn.
Hai mươi ngày nằm chịu pháo
và bị bắn sẻ, tối nào hai bên cũng rà máy và chửi nhau. Theo dõi máy, đột nhiên
tôi bắt được một câu báo cáo “Bồ câu hết thóc!’, và suy nghĩ địch quân đang hết
đạn. Nếu cứ nằm như thế này, một lúc nào đó địch quân chỉ cần ho thật to mình
cũng mất vị trí ngay, chỉ vì áp lực quá nặng nề, tổn thất nhiều, tinh thần anh
em quá mệt mỏi. Tôi đi đến kết luận riêng: “Nếu mình không đánh nó, chắc chắn
nó sẽ tấn công mình”. Tôi trình với tiểu đoàn trưởng:
- Thiếu Tá cho tôi luôn hai
thằng để tôi tấn công tụi nó, tôi thấy tinh thần anh em xuống quá, và sức khỏe
càng ngày càng hao hụt.
Thiếu Tá tiểu đoàn trưởng
không cho, bắt ráng giữ vị trí. Phu Nhân năn nỉ:
- Nếu không thì cho tôi đột
kích, tôi cùng vài toán nhỏ tràn qua đường đánh đột kích rồi về. Mình phải
chứng minh cho địch quân thấy mình còn dư sức ăn thua đủ, thời địch không dám
tấn công mình.
Tiểu đoàn trưởng nói:
- Làm kế hoạch xong cho tôi
hay.
Tại hầm của tôi anh em đang
chờ họp gồm: Lộc, Đại đội trưởng đại đội 2. Sự, Đại đội phó của tôi, Duật,
Nghênh, và Mã Khện. Tôi nói:
- Nằm chờ lâu tau chán quá,
chỉ muốn qua đột kích tụi nó rồi rút về.
Tất cả im lặng tôi nói tiếp:
- 4 giờ sáng mai mình đột
kích. Nếu giữ được vị trí, tau cho tràn luôn. Bây giờ tau chọn 4 toán. Toán 1:
Phán, Điểu, Việt, Can, Dư và Phúc mang máy. Toán 2: Duật và 3 người thật nhanh
và gan dạ. Toán 3: Nghênh và 3 người. Toán 4: Thượng sĩ nhất Hải, và 3 người
trang bị thật nhẹ, mỗi người 20 quả lựu đạn và 2 băng đạn cong ráp ngược cho
M16. Sự và Lộc dẫn con cái ra sát bờ tường, khi thấy khói xanh thì lùa tất cả
tràn qua, nếu thấy khói màu vàng thì yểm trợ tối đa cho tụi tao dọọc về. Sự và
Lộc về lo cho con cái. Đúng 4 giờ sáng có mặt tại vị trí.
Duật, Nghênh và Hải ở lại,
tôi nhìn anh em thật lâu rồi cho biết:
- Tau theo dõi tụi nó báo cáo
qua máy, hình như tụi nó thiếu đạn, do đó tau quyết định cuộc đột kích hôm nay.
Tôi nghiêm mặt và lạnh lùng
nói:
- Hai ông Duật và Nghênh tôi
chỉ định phải đi với tôi, riêng ông Hải tôi cho ông suy nghĩ lần nữa. Lần này
đi khó trở về, ông con cái đông, muốn ở lại vị trí tôi cho phép, và tôi hứa
rằng, tôi không nghĩ ông thiếu can đảm.
Suy nghĩ một lát, Thượng sĩ
Hải trả lời:
- Đại Úy cho tôi ở lại vị
trí.
Tôi vui vẻ bằng lòng và gọi
Mã Khện đến, Mã Khện đồng ý đi và xin đem theo Hạ sĩ nhất Mười. Tôi tiếp:
- Bây giờ các ông về chọn
người xong lên gặp tôi.
Tôi ngồi suy nghĩ miên man,
liều, phải liều mới cứu được đơn vị.
4 giờ, các toán trưởng lên
gặp tôi có cả Trung Úy Sự . Tôi hỏi lần chót:
- Có ai xin ở lại, cho tôi
hay.
Không ai trả lời, tôi căn dặn
Sự, nhắc Lộc khi thấy khói xanh thì sao, khói vàng thì sao, phải nhớ kỹ. Tôi
đưa 3 toán trưởng bò đến hầm của nhóm tiền đồn ở sát ngã tư đường. Tôi chỉ từng
căn nhà bên kia đường:
- Cái thứ nhất gần ngã tư là
mục tiêu của tau, cái thứ hai có hàng rào là của Nghênh, căn thứ 3 cũng có hàng
rào và cây nhãn cao là của Mã Khện, căn thứ thứ 4 có mấy bụi chuối lớn là của
Duật. Tất cả hãy quan sát cho kỹ và chọn một con đường tiến quân thích hợp,
không cần báo cáo, miễn sao cho thích hợp thôi.
Tôi tiếp tục quan sát mục
tiêu của tôi, căn nhà bằng gạch có nhà trên nhà dưới, kế đó là cầu tiêu xây
bằng đá lợp tôn, sát đường là cái giếng xây bằng xi-măng. Trước sân có hai cây
vú sữa cao và sai trái. Tôi biết phải làm gì để chiếm căn nhà đó, tôi quay lại
nói:
- Lần chót tôi hỏi các ông có
ý kiến gì không? Đúng 4 giờ sáng mai tôi sẽ chiếm trước, sau đó tùy các ông
bằng mọi cách, phải hốt cho bằng được các mục tiêu tôi ấn định.
Tôi trở lại vị trí, đặn dò
Điểu, Can, Việt, Dư và Phúc mang máy:
- Tối nay miễn gác, 3 giờ
sáng gặp tau ở đây.
Sau đó tôi gặp Tiểu đoàn
trưởng để trình bày kế hoạch, ông nói:
- Nguy hiểm quá, không được,
chết cả lũ.
Tôi nói:
- Nếu Thiếu Tá không làm bây
giờ, một vài ngày nữa, tụi nó chỉ cần ho là lính mình chạy hết.
Cuối cùng ông chấp nhận:
- Nhớ là có gì thì trở về
liền, càng sớm càng tốt.
Tôi dạ nhưng trong đầu tôi
nghĩ khác. Trước mắt tôi bây giờ không có gì ngoài đoạn đường từ tiền đồn qua
cái giếng, lên cầu tiêu, tới nhà dưới, chiếm nhà trên. Tôi nằm suy nghĩ miên
man cho đến 3 giờ sáng.
Trước khi bò ra tuyến xuất
phát, tôi nhắc Sự và Lộc một lần nữa cho chắc ăn, 4 giờ kém 10 sáng, toán tôi
có mặt ở tiền đồn. Trời vẫn mưa, mưa ở xứ Huế có dư âm của ngày Tết. Trời tối
không thấy gì, tôi ngại bắn lầm nhau, gắng chờ một chút nữa, đến 5 giờ sáng mưa
vẫn không tạnh, trời vẫn còn tối mù. Năm giờ rưỡi, cái giếng đã nhìn thấy được.
Chuẩn bị, tôi cảm thấy hồi hộp. Chỉ cần 4 cái nhảy vọt là qua bên kia đường,
nhưng khó như đi lên trời, vì con đường này là con đường tử thần làm ranh giới
bên ta và bên địch, và 20 ngày trời không nuốt nổi một thước đất. Rách bao
nhiêu cũng không qua được. Bây giờ mình cắt băng khánh thành, phải làm để cứu
đơn vị, phải hy sinh để cứu đồng đội. Vừa suy nghĩ xong tôi phóng vụt qua bên
bờ giếng, kế tiếp là Điểu, Việt, Can, Dư băng theo. Tất cả ngồi ôm thành giếng,
mồ hôi ra như tắm, dù trời lạnh như cắt. Điểu và Cam chiếm cầu tiêu, bỗng một
loạt đạn nổ dòn và thật gần, tôi quay nhìn ra đường, Phúc và cái máy nát mình
nằm trên mặt đường nhựa, dưới làn đạn mịt mùng của địch. Tôi thét lớn:
- Dư, Việt, chiếm nhà bếp.
Tôi theo sát lên cầu tiêu,
bên cạnh Điểu và Can. Súng và pháo nổ dồn dập, một B40 nổ ngay trên đầu mái tôn
cong, cả ba thầy trò đều bị miểng nhỏ đâm đầy mặt, tóc râu và lông mày đều bị
cháy. Cầu tiêu nhỏ quá, nên tôi cùng Điểu và Can lên nhà bếp. Tôi ra lệnh:
- Điểu và Dư chiếm nhà trên,
lục soát thật kỹ.
Để Việt ở lại, tôi và Can
cũng lên nhà trên, Điểu và Can giữ cửa chính nhìn ra sân, tôi và Dư giữ cửa sổ
nhìn ra sau vườn có nhiều luống khoai lang.
Trời sáng hẳn, tôi lắng tai
nghe nhà bên cạnh, chẳng có gì cả, bèn bò trở ra bờ giếng và thấy Nghênh, Duật,
Mã Khện vẫn còn bên kia đường. Tôi toát mồ hôi, tôi nhìn thẳng vào mấy ông rất
nghiêm và lấy ngón tay ngoắc. Tôi không dám gọi lớn, mấy ông kia gật đầu. Tôi
bò trở lên nhà trên. Lựu đạn, súng nhỏ, súng lón, nổ khắp nơi, và nhất là phía
bên tay mặt tôi. Tôi biết rằng con cái tôi đã băng được qua đường. Tôi hỏi khẽ:
- Thấy gì không Dư?
Dư lắc đầu. Tôi nghe tiếng
thì thào sát vách tường phía ngoài, tôi đoán 7, 8 người đang ở trong một cái
hầm, tôi dùng ngón tay đẩy nhẹ cửa sổ. Một loạt đạn từ phía nhà đối diện xuyên
ào, ào vào cửa sổ. Bỗng Dư chỉ tay về phía các luống khoai. Tôi đếm đủ 11 người
đang bò qua, Ka Ki Nam Định, súng AK và B40, cách vách tường khoảng 20 thước.
Tôi đưa súng lên định bóp cò thì Dư kéo lại ra dấu đừng bắn, dùng lựu đạn. Tôi
dựng cây súng xuống thật nhẹ, hai tay rút hai trái lựu đạn miệng cắn chốt, Dư
cũng thế, 4 trái lựu đạn ném ra cùng một lúc, tiếng nổ xé trời, rồi 4 trái tiếp
theo. Bên ngoài tường, tiếng thét lớn rồi tiếng rên và sau đó là im lặng, tụi
còn lại, bò sát vào chân tường. Nhìn ra cửa, 5 xác còn nằm vắt trên luống
khoai. Một loạt đạn nổ và tôi nghe:
- Chết em, Đại Úy.
Tôi sững sờ nhìn Dư, tay trái
ôm ngón út của bàn tay mặt đầy máu, ruột của Dư đổ ra lòng thòng. Dư ngã vật ra
chết tại chỗ. Nơi Dư đứng có một lỗ hổng nhỏ ở vách tường. Vì mãi nhìn qua cửa
sổ mà không để ý ở phía dưới. Nguyên một họng AK thọc qua lỗ tường để sát vào
bụng Dư và nhả đạn. Tôi bắn một loạt M16 ra cửa sổ, và cứ thế, hết quả này đến
quả khác, tôi ném tất cả lựu đạn của tôi ra ngoài bờ tường. Hai thằng em đã hy
sinh, còn 4 thấy trò phải giữ vững vị trí. Phía bên tay phải tôi, súng vẫn nổ
dữ dội. Đến 10:30 sáng tôi cho Điểu liên lạc với Nghênh, Duật và Mã Khện. Điểu
băng người ra đi, bốn căn nhà cách nhau 10 phút đi bộ, hơn một tiếng đông hồ
sau Điểu mới về, báo cáo là tất cả đã chiếm được mục tiêu. Có đoạn đường nào xa
và xấu hơn đoạn đường tôi đang đi!
Toán của Duật, 1 chết, 1 bị
thương. Toán Mã Khện 2 chết. Toán Nghênh, 1 chết, 1 bị thương. Tất cả là 6
chết, 2 bị thương. Chúng tôi còn 11 người tại tuyến.
Điểu bò ra giếng, cố đem qua
cho tôi một cái máy. Cột máy vào một đầu dây và quăng đầu dây kia qua cho Điểu
kéo. Can mở máy, tôi liên lạc với Tiểu Đoàn Trưởng:
- Tôi sẽ cho tràn ngập vị trí
với 2 thằng của Lộc và thằng 3 của tôi.
Đại bàng hỏi:
- Tại sao từ sáng đến giờ
không chịu liên lạc với tôi? Tôi ra lệnh rút về ngay.
Phán nài nỉ:
- Đây là dịp may, tinh thần
anh em đang lên, tôi xin Đại bàng cho làm luôn.
Đại bàng Thanh Hóa nói bằng
bạch văn không ngụy trang:
- Nếu anh không rút về, tôi
sẽ đưa anh ra tòa án quân sự.
Khí giận bừng bừng, tôi tắt
máy không trả lời, trên tay vẫn cầm trái khói xanh. Suy nghĩ thật kỹ! Suy nghĩ
thật kỹ! Hơn mấy giờ để đánh mục tiêu, 4 căn nhà và một con đường ngập máu. Mưa
vẫn lạnh như cắt da, và mồ hôi tôi vẫn ra như tắm. Cuối cùng tôi đành bảo Điểu
chuyển lệnh cho các toán:
- Rút về ngay, mạnh toán nào
rút toán đó, không chờ đợi. Mang thương binh theo, xác chết bỏ lại.
Năm thước đường, đi đã khó về
còn khó hơn. Mỗi bóng người nhúc nhích là đạn nổ hàng loạt, liên hồi, đạn bắn
chéo bốn phía, đạn lưới thật dày trên mặt đường và khắp vị trí. Làm sao trở về
đây! Con cái bên kia đường đưa mắt theo dõi. Toán tôi bò ra giếng, bỗng mấy
bóng đen vụt qua đường như sao sẹt, nhào vào bờ và được anh em kéo ra sau. Đạn
nổ dòn tan cày nát mặt đường. Đây là mấy đứa bị thương nặng, tưởng là di chuyển
không nổi, nhưng khi nghe lệnh rút, chúng thu hết tàn lực vùng chạy về chớp mắt
không kịp thấy.
Hỏa lực ba phía nổ vùi vào vị
trí chúng tôi, các toán đột kích không còn liên lạc với nhau, Điểu và Can vẫn
giữ căn nhà. Địch kiểm soát con đường bằng mấy cây thượng liên và trung liên,
chúng bắn liên miên. Bên kia đường, Sự và Lộc đáp lễ bằng hỏa lực cơ hữu của
Khăn Tím và của 2. Tôi lấy chân đạp vào thành giếng phóng người băng qua đường,
lăn mình, nhảy, chạy và té ào vô bờ lề. Anh em kéo vôi tôi vô sau, tôi dừng lại
bảo Lộc và Sự bắn từng loạt một để tụi nó dzọt về. Nhìn thấy Việt ngồi thành giếng
trố mắt ngó về mà tội nghiệp. Sống và chết cách nhau có một con đường. Tôi hồi
hộp xót xa cho mấy thằng em, tôi vừa quay mặt thét:
- Bắn kèm mấy cây thượng
liên.
Thì những bóng người bay dzọt
qua đường, tim tôi thắt lại, đạn nổ mịt mù. Lần lượt tôi gặp Nghênh, Duật, Mã
Khện và tất cả anh em.
Tôi ôm ghì từng đứa, tụi nó
còn sống cả, Can và Việt nhào đến ôm tôi một cách dữ dội, đậm đà trìu mến, lính
với tay sờ người nắm nhẹ áo tôi:
- Đại Úy, tóc râu Đại Úy cháy
hết rồi, mặt bị nhăm nhiều chỗ.
Cả đại đội bất chấp đạn địch,
đứng dậy nhìn nhau hãnh diện sung sướng. Tôi báo cáo Tiểu Đoàn: “Tất cả đã về
vị trí”. Bỗng tôi thấy thiếu một cái gì, tôi nhìn Can và Việt hỏi:
- Thằng Điểu đâu?
Tụi nó nói: “Lần cuối chúng
em thấy nó vừa khóc vừa chạy lung tung tìm xác Đại Úy ở bên ấy”.
- Thôi chết tau rồi, tau phải
cứu nó, hai thằng bây theo tau.
Tôi, Can và Việt bò trở ra
đường. Bỗng nhiên một bóng người nhảy qua khỏi hàng rào, nhảy qua khỏi miệng
giếng phóng nhanh qua đường, nhào lăn rào rào vào vị trí la lớn:
- Ê, tui bây thấy anh Hai đâu
không?
Điểu đứng dậy nước mắt đầm
đìa, tôi lao đến ôm Điểu:
- Tao định qua kiếm mầy đây.
- Trời anh Hai, tụi nó nói
anh Hai chết rồi, em đi lục hết căn nhà mấy chục lần, chỉ không dám ra ngoài
hè, mà không thấy xác anh Hai đâu. Hôm qua Mạ có dặn nhỏ với em, phải sát cánh
bên anh Hai, nếu có gì thì cũng phải nhớ đem anh Hai về cho Mạ…
Tóc tai, mày, râu ria Điểu
cháy nám, áo quần rách bươm, nó khóc mùi mẫn vì thấy tôi còn sống. Rồi nó lại
bẽn lẽn cúi đầu, hai hàng nước mắt lã chã rớt xuống đất. Trong một cuộc chiến
bạc bẽo lại có một chút tình nghĩa trao nhau qua mấy giọt nước mắt nóng hổi.
6 giờ chiều, xuống trình diện
Tiểu đoàn trưởng, ông nói ngay:
- Ông làm những chuyện nguy
hiểm quá, lỡ kẹt bên đó thì nói làm sao với Lữ Đoàn?
Tôi dạ dạ, vâng vâng cho qua
rồi nghiêm mặt đề nghị:
- Thưa Thiếu Tá, ngày mai cho
tôi tấn công, tôi tin chắc sẽ tràn ngập vị trí tụi nó. Cho tôi thêm 2 thằng của
Lộc, để 1 thằng của Lượm đi sau thu dọn chiến lợi phẩm. Chỉ xin Thiếu Tá cho
tôi hai chiếc tank kèm 2 bên hông của tôi. Ông hỏi:
- Có chắc ăn không Phán?
Tôi cương quyết:
- Chắc, và nếu tràn được vị
trí, Thiếu Tá cho phép tôi đánh thẳng lên Kỳ Đài nếu kịp thời gian. Theo tôi,
Tiểu Đoàn trưởng nên trình lên ông Già Hự (Đại Tá Đàm Quang Yên Tư Lệnh Phó).
Ông Già chấp nhận.
Tôi trở về họp các Trung đội
trưởng:
- Ngày mai 8 giờ sáng, Đại
đội 3 Khăn Tím bên trái, đại đội 2 của Lộc bên phải, dàn hang ngang, lấy con
đường bên cửa Sập làm chuẩn, tiến song song. Sau khi 2 chiếc tank yểm trợ bằng
hỏa lực xong, cả hai Đại Đội xung phong tràn ngập, vượt qua mỗi chốt thật
nhanh, không cần thâu lượm chiến lợi phẩm, để cho Đại đội 1 đi sau làm chuyện
đó. Tất cả balô và đồ ăn để lại, trang bị thật nhẹ, khi tới xóm nhà sát cửa
thành thì chờ tôi.
Đúng 8 giờ sáng ngày hôm sau,
dàn quân, hai chiếc tank Ontos hạng nặng tiến lên, mỗi chiếc trang bị 6 cây đại
bác 106 ly. Tôi chỉ vị trí cho 2 trưởng xa người Mỹ, rồi ra lệnh khai hỏa. Hy
vọng 12 cây 106 này sẽ san bằng mục tiêu trước mặt cho con cái tôi được dễ dàng
đôi chút. Nhưng mỗi chiếc tank chỉ bắn một phát đạn duy nhất, rồi chạy lùi biến
mất, không biết chạy về đâu. Tôi hết hồn, quân đã dàn xong, bắt buộc tôi phải
ra lệnh xung phong. Tôi hét thật lớn, hét khản cả cổ: XUNG PHONG! Cả một đoàn
quân, dàn hàng ngang, không một ai nhúc nhích. Con đường trước mặt, con đường
của 21 ngày máu và nước mắt, con đường tráng nhựa đẹp đẽ, nhưng băng qua là đi
vào cõi chết. Tôi tức giận chửi thề lung tung, rồi chụp cây đại liên M60 của
một người lính bên cạnh, bắn một loạt dài, rồi một mình tôi vừa bắn, vừa băng
qua đường cùng với toán cận vệ: Can, Việt, Điểu và 2 thằng mang máy. Qua khỏi
đường xông tới trước, tiếng đại liên của tôi nổ dòn. Đúng lúc ấy cả đoàn quân
hô xung phong và ào qua đường. Sau đó đoàn người vượt nhanh qua mặt tôi và lướt
tới trước. Súng nổ vang rền, đoàn quân tiến đều. M16 bắn vãi vào chốt, lựu đạn
ném vào chốt, đạp chốt, băng chốt, lướt qua, cố giữ đội hình. Tiếng nổ inh tai
liên tục, đàn áp thật mãnh liệt và chạy tới trước. Đến 3 giờ chiều, chúng tôi
đến xóm nhà sát cửa Sập. Tôi ra lệnh:
- Mỗi ông cho tôi 1 toán 10
người, băng thật nhanh đến áp sát mặt thành xong, ngồi xuống. Toán kế tiếp chạy
đến leo lên vai toán thứ nhất để toán này đổ dồn lên thành. Khi bám được mặt
thành thì tác xạ tối đa và bằng mọi cách giữ vững vị trị làm đầu cầu.
Con cái tôi hành động đẹp còn
hơn tài tử xi nê. Tiếng đạn lớn, nhỏ nổ rền, hai toán lên thành chiếm xong vị
trí.
Tôi cho con cái đem bàn ghế
ra chất sát tường và leo lên ngay. Tiếng đạn và pháo địch vẫn mãnh liệt trên
nóc thành, phải khóa lại.
Một chặng đường xương máu đã
vượt qua, bây giờ mục tiêu chính, mục tiêu của niềm hãnh diện, mục tiêu của ơn
sâu nghĩa nặng: Kỳ Đài Huế.
Đây là nơi tượng trưng linh
thiêng của dân tộc nói chung, và cho Huế nói riêng.
Duật và 20 người tiến chiếm 6
cây súng thần công to lớn, từ đó Duật dùng hỏa lực kềm địch ở cửa Ngọ Môn, yểm
trợ cho Nghênh và Mã Khện chiếm Kỳ đài.
Phản ứng của địch bắt đầu
yếu, 5 giờ 12 phút chiều, màu áo rằn ri Thủy Quân Lục Chiến VNCH đã làm chủ Kỳ
Đài.
Một thằng em rút đâu trong
người ra một lá cờ vàng 3 sọc đỏ thật lớn. Tôi gọi về Tiểu đoàn:
- Tất cả sạch sẽ, xin Thiếu
Tá cho tôi treo cờ.
Tôi còn nhớ rõ lệnh của Trung
Tướng Lê Nguyên Khang:"Một người lính Thủy Quân Lục Chiến duy nhất còn
sống sót cũng phải dựng lại cho được ngọn cờ vàng tại Phú Văn Lâu.”
Trong niềm vui sướng tột
cùng, Hạ sĩ Hạnh thét lớn:
Thủy Quân Lục Chiến!
Xong lấy trái hỏa châu đập
mạnh, định bắn pháo bông lên trời ăn mừng.
Trong cơn say chiến thắng,
Hạnh xoay ngược đầu hỏa châu vào mình, hỏa châu nổ xuyên bụng. Hạnh cười tươi:
- Em không sao Đại Úy.
Phán nghĩ thằng em này tỉnh
táo quá, chắc nó chết. Và nó chết thật.
Tiểu đoàn trưởng bảo Phu Nhân
giữ đầu máy chờ. Sau này tôi được nghe: “Khi báo cáo về Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn I,
Chuẩn Tướng Trưởng xin Thủy Quân Lục Chiến dành vinh dự treo cờ cho Sư Đoàn I”.
Sáng hôm sau ngày 24 tháng 2 năm 1968 (dương lịch), Phạm Văn Đính dẫn một đơn
vị của Sư Đoàn I từ cửa Thượng Tứ lên Kỳ đài làm lễ thượng kỳ.
Hạnh phúc vô biên khi Cờ VNCH
được dựng lại tại Kỳ Đài Phú Văn Lâu sau 23 ngày bị cộng quân cho treo cờ của
lực lượng Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ, một tổ chức CS được lãnh đạo bởi Lê Văn
Hảo và Thích Đôn Hậu
Nhìn lá
cờ vàng bay phất phới trên nền trời màu xám của Huế, tôi hãnh diện thật sự vì
một thằng con của Huế đã góp phần dựng lại ngọn cờ này.
Trung Úy Sự trình tôi:
- Thằng Hạnh chết, mình còn
67 người.
Đại đội ra đi hơn 170 người,
sau 24 ngày, với bao nhiêu lần bổ sung quân số, chỉ có 3 mục tiêu: Con đường,
Cửa Sập, và Kỳ đài mà bây giờ chỉ còn lại 67 người.
Sáng hôm sau, tôi về phối trí
đóng quân lục soát ở khu vực cửa Đông Ba, nhà Thương Nhỏ, chợ Xép. Ngã tư Anh
Danh.
Bộ chỉ huy của tôi đóng tại
một tiệm cầm đồ, tiệm này có Tôn và Lưu cùng học với tôi một lớp hồi còn nhỏ.
Trong nhà không còn ai cả. Chiều hôm đó tôi gặp lại rất nhiều bạn bè cũ. Tình
hình chưa được an ninh hoàn toàn, nhưng đóng quân ở đây, chúng tôi nhẩn nha hơn
trước nhiều. Tôi đi kiểm soát các vị trí và cho lệnh lục soát tàn quân địch.
Lính canh bắt giải tới một
người đàn ông lớn tuổi, gầy ốm, ăn mặc lếch thếch, áo vest nhàu rách, tóc tai
rối bù, và dơ bẩn, miệng nói lí nhí. Người lính nói với tôi:
- Lịnh giới nghiêm đã 11 giờ
đêm, sao ông này còn lang thang trên hè phố, em nghi quá.
Tôi sững sờ nhìn người đàn
ông:
- Thầy Cao Hữu Triêm, trời ơi
thầy.
Tôi gọi mấy tiếng lớn mà thầy
cũng không nghe, thầy tiếp tục lẩm bẩm rất nhỏ, tôi cầm tay mời thầy ngồi:
- Con là học trò cũ của thầy
đây.
Một ánh mắt lạc lỏng xa vời:
- Ờ ờ, sao con khỏe không,
thầy mấy ngày ni chưa ăn chi cả.
Lính tôi kiếm cơm trắng và
một đĩa gà luộc về, mời thầy xơi. Tụi nó còn kiếm được một bình trà nóng mời
thầy. Sau một hồi thầy tỉnh tảo và cho biết:
- Cô và cháu nhỏ sắp vào Đà
Nẵng, thằng con lớn bị chết rồi. Thầy không muốn về nhà nữa, rồi thầy khóc,
giọt nước mắt lăn dài trên đôi má nhăn nheo.
- Thôi, thầy ở đây với con
cho yên.
Tôi nói lính của tôi thay
nhau hầu hạ thầy ân cần, đến ngày thứ tư thầy đòi đi, tôi thu xếp để thầy vào
Đà Nẵng. Từ đó tôi mất tin tức của thầy. Mong thầy bình yên.
Được sinh ra và lớn lên ở
Huế, tôi cố trả một phần nào chữ hiếu cho nơi chôn nhau cắt rún. Máu của tôi,
của anh em tôi, của đồng bào tôi đã tạo thành một cơn sóng thần cuốn đi tất cả
kẻ thù, để dựng lại ngọn cờ trên Kỳ Đài tượng trưng cho Huế.
Hai mươi năm sau, hồi tưởng
lại máu và xương kia đã theo giòng Hương Giang cuốn tôi và bằng hữu ra biển,
bắt làm người biệt xứ.
Lạy trời, một ngày nào đó,
cũng Cô Đô đó, cũng Kỳ Đài đó, cho tôi được góp phần dựng lại ngọn cờ một lần
nữa để đền đáp ơn sâu và nghĩa nặng nơi tôi đã sinh ra, nuôi tôi lớn lên và cho
tôi làm người.
TQLC/VNCH Trung Tá Nguyễn Văn Phán
***|||***
Bốn mươi năm
sau, kể từ ngày bị buộc phải buông súng, sống kiếp đời lưu vong, hào khí của
người anh hùng TQLC/ VNCH vẫn còn đây:
Khi Tôi Chết, Đừng Đưa Tôi Ra Biển
Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển
Đưa tôi về Lao
Bảo, Khe Sanh
Để đêm nghe vang động khúc quân hành
Ôi lính chiến một thời kiêu hãnh quá.
Khi tôi chết đừng đưa tôi ra biển
Đưa tôi về Ben-Hét, Đắc-Tô
Nơi bạn bè tôi xây mộng giang hồ
Nguyện trấn giữ dãy Trường Sơn yêu quí.
Khi tôi chết đừng đưa tôi ra biển,
Đưa tôi về Bình Giả, Chiến khu D
Cho hồn tôi siêu thoát với lời thề
Thân chiến sĩ nguyện xin đền nợ nước.
Khi tôi chết đừng đưa tôi ra biển
Đưa tôi về Cái Nước, Đầm Dơi
Đêm U Minh nghe tiếng thét vang trời
Mừng chiến thắng để dâng về Tố quốc
Khi tôi chết đừng đưa tôi ra biển
Trả tôi về với dân tộc Việt Nam
Gói thân tôi ba sọc đỏ màu vàng
Xin liệm kín với hồn thiêng sông núi.
Thơ của TQLC Trung Tá NGUYỄN VĂN PHÁN
Người Anh Hùng Thủy Quân Lục
Chiến, Trung Tá Nguyễn Văn Phán! Huế muôn đời cám ơn anh, cám ơn những người
lính Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam Cộng Hòa đã đem xương, trắng máu đào, bảo vệ
non sông, bảo vệ Huế.
Anh và đồng đội anh ra đi hơn 170 người, để bảo vệ con đường
Thành Nội, bảo vệ cửa thành Cố Đô Huế, lấy lại Kỳ Đài, dựng lại ngọn cờ đã mất
trong tay quân thù suốt 23 ngày.
Ngày chiến thắng, khi ngọn cờ vàng bay phất phới trên tường
thành cố Đô Huế, khi mà muôn ngàn giọt lệ của đồng bào Huế tuôn rơi vì được
nhìn lại ngọn cờ vàng do chính tay các anh chíến sĩ Thủy Quân Lục Chiến VNCH
dựng lại, thì anh và hơn 170 chiến sĩ Thủy Quân Lục Chiến chỉ còn lại 67 người.
Hơn 103 chiến sĩ Thủy Quân Lục Chiến đã vị quốc vong thân.
Tổ quốc Việt Nam, hồn thiêng sông núi, anh linh tiền nhân ghi
công các anh.
Dân Huế đời đời ghi ơn những chiến sĩ Thủy Quân Lục Chiến Việt
Nam Cộng Hòa.
[trích sách Huế Thảm Sát Mậu Thân 68, trang 94 - 121, Tác giả
Liên Thành]
Orange County, California, 19/5/2015
Liên
Thành, UBTTTADCSVN
http://ubtttadcsvn.blogspot.com/2015/05/nhan-ngay-quan-luc-viet-nam-cong-hoa.html
__._,_.___
Posted
by: <vneagle_
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết