KHONG VE VIET NAM NEU
CON VIET CONG MUON CHONG TRUNG CONG PHAI DIET VIET CONG MUON DIET VIET CONG
PHAI DIET VIET GIAN
On Monday, March 14, 2016 2:15 PM, V Pham <v> wrote:
---------- Forwarded
message ----------
Nhìn Lại Những Nỗ Lực
Của Cựu Hoàng Đế Bảo Đại Trong Cuộc Đấu Tranh Giành Độc Lập Và Thống Nhất Cho
Đất Nước Và Dân Tộc Việt Nam
xin Trích một đoạn mà nhiều quý vị cho biết đã
rất bồi hồi xúc động khi đọc:
" ...Bảo Đại đã lên ngôi vào lúc chế độ quân chủ ở Việt
Nam đang ở tình trạng suy đồi và bị tấn công từ nhiều phía trong lúc chủ trương
dân chủ mỗi ngày mỗi thêm thắng thế. Người
ta không biết có bao nhiêu giọt nước mắt đã nhỏ xuống cho ông khi ông qua đời
như chúng đã được nhỏ xuống khi ông đọc chiếu thoái vị trước cửa Ngọ Môn hồi
năm 1945.
Phải chăng sau hơn nửa thế
kỷ, hơn 52 năm sau, tất cả đều đã thay đổi?
Có điều đất nước Việt Nam vẫn không
hề tiến bộ hơn, lãnh thổ quốc gia mà Bảo Đại đã thâu hồi hay xác nhận chủ quyền
và để lại cho những người kế vị ông đã bị hao mòn không ít, và người dân
Việt Nam bình thường vẫn chưa tìm lại được cuộc sống thanh bình, no ấm mà bất
cứ một vị vua nào trong lịch sử nước nhà đều mong mỏi với một xã hội trong đó “Triệu
tính âu ca lạc thịnh thì” như Trần Nguyên Đán
đã miêu tả xã hội Đại Việt cuối thời Nhà Trần.
----------
Forwarded message ----------
VIDEO
VIDEO Link dưới đây gồm cả phần 1 và 2:
VIDEO Link dưới đây gồm cả phần 1 và 2:
From: Son Pham <son.t.ph@gmail.com>
Date: 2015-07-05 11:55 GMT-07:00
Date: 2015-07-05 11:55 GMT-07:00
Em rất mừng vì anh Dương trông khỏe mạnh,
vẫn giữ được phong cách uy nghi và giọng nói hùng hồn lôi cuốn. Qua các
câu trả lời phỏng vấn thật sâu sắc của anh, khán thính giả
thấy ngay được kiến thức uyên thâm, và tinh thần yêu nước nồng nàn tha
thiết của anh đến tiền đồ dân tộc. Anh Dương không chỉ là "vị giáo sư
lịch sử và văn hóa Việt Nam duy nhất ở Hoa Kỳ của chúng ta" như nhà báo Phạm Trần giới
thiệu, mà còn là vị giáo sư lịch sử và văn hóa Việt Nam uy tín
nhất hiện nay trên thế giới, cả về kiến thức lẫn nhân cách đạo
đức. Mến chúc anh chị và gia đình nhiều sức khỏe và may mắn.
---------- Forwarded
message ----------
Xin bấm, click vào hàng chữ :
Xin bấm, click vào hàng chữ :
" Watch this Video on
YouTube"
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM và TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH :
Nhà Báo Phạm Trần Phỏng Vấn GS Phạm Cao Dương
Phần 1
:
Phần 2 :
BÀI VIẾT:
Nhìn Lại Những Nỗ Lực Của
Cựu Hoàng Đế Bảo Đại Trong Cuộc Đấu Tranh Giành Độc Lập Và Thống Nhất Cho Đất
Nước Và Dân Tộc Việt Nam
LINK:
Posted By: Phạm Cao Dương, TSon: February 05, 2013In: CHÍNH TRỊ-PHÁP LUẬT-QUÂN SỰ, LỊCH SỬ-TƯ TƯỞNG-TÔN GIÁO, TÀI LIỆU ĐẶC BIỆT1 Comment
Print Email
Nhân Dịp Căm Bốt Làm Lễ Quốc Tang Cho Cựu Hoàng
Sihanouk, Nhìn Lại Những Nỗ Lực Của Cựu
Hoàng Đế Bảo Đại Trong Cuộc Đấu Tranh Giành Độc Lập Và
Thống Nhất Cho Đất Nước Và Dân Tộc Việt Nam
Bài này được viết
theo lời yêu cầu của một số người trẻ trong đó nhiều người là sinh viên đại học
nhằm bổ khuyết cho sự hiểu biết của anh chị em này nói riêng và giới trẻ Việt
Nam nói chung về vị vua cuối cùng của Nhà Nguyễn nhân dịp 100 năm năm sinh của
ông cũng như về một giai đoạn lịch sử có quá nhiều góc tối hay góc khuất luôn
cả oan khuất và cũng nhân dịp đầu Xuân Quý Tỵ 2013 sắp tới.
Yêu cầu này
cũng đến không lâu khi Cựu Hoàng Norodom Sihanouk của nước láng giềng
thân cận nhất của Việt Nam, Vương Quốc Khmer hay quen thuộc hơn, Căm Bốt, vừa
mới băng hà và thi thể còn được quàn tại hoàng cung chờ ngày quốc táng.
Khi
liên lạc với tôi, như để chắc ăn, một trong những vị này đã dùng cả điện thoại
lẫn điện thư và để lại lời nhắn. Để đáp lễ, tôi cũng trả lời anh bằng điện thư
trước rồi sau đó gọi điện thoại cho anh. Hai chúng tôi thảo luận với nhau rất
lâu, không dưới một giờ đồng hồ về đề tài không mấy đơn giản nhưng vô cùng cần
thiết này. Câu chuyện phải nói là vô cùng hào hứng giữa hai người không cùng
thế hệ.
Vì vậy thay vì viết một bài dưới hình thức khảo cứu, tìm hiểu hay bài
học dùng trong lớp học như tôi thường làm, tôi xin được tóm tắt những gì chúng
tôi đã chia sẻ với nhau cho bài viết bớt khô khan và nhẹ nhàng hơn hầu người
bạn trẻ của tôi có thể đăng trên báo xuân của anh và các bạn của anh. Tôi cũng
tránh không nêu tên anh và tổ chức của anh để bài viết có thể được dễ dàng phổ
biến rộng rãi hơn cho những anh chị em thuộc những nhóm khác.
Nhu cầu cần được xét
lại
Cựu Hoàng Bảo Đại,
như sau này người ta thường gọi ông kể từ ngày ông thoái vị, thường bị nhiều
người, Việt Nam có, ngoại quốc có, tệ hơn trong đó có cả các sử gia, máy móc
theo nhau gọi là vua bù nhìn, tay sai của hết Tây đến Nhật, một ông vua chỉ ham
ăn chơi đàng điếm, một thứ playboy do người Pháp nặn ra và đặt lên ngôi để dễ
sai bảo. Ngay cả Sử Gia Trần Trọng Kim, khi được Học Giả Hoàng Xuân Hãn khuyên
là nên gặp ông để tìm hiểu, lúc đầu cũng đã từ chối, gọi ông là “thằng ngốc”- “thằng
ngốc, gặp nó làm gi?”- nhưng sau khi đã gặp rồi, nhà học giả
kiêm sử gia này đã phải thay đổi hoàn toàn nhận định mà ông đã có từ trước.
Ở
đây tôi không bàn về chuyện này mà chỉ nói tới những gì Bảo Đại đã làm ngay từ
khi vị cựu hoàng này còn là Đương Kim Hoàng Đế hay sau này là Cựu Hoàng và là
Quốc Trưởng của Quốc Gia Việt Nam. Đây là những đóng góp tôi nghĩ là không nhỏ,
nếu không nói là vô cùng lớn lao so với những đóng góp của những lãnh tụ khác
của Việt Nam, trong công cuộc đấu tranh giành độc lập và thống nhất cho quốc
gia và dân tộc của ông bằng đường lối hòa bình, phi bạo lực. Cho cá nhân ông,
những nỗ lực của ông đã không mang lại được những thành quả mà ông mong muốn.
Ông đã không bảo vệ được di sản mà tổ tiên ông để lại, đã không xây dựng được
một chế độ quân chủ lập hiến cho đất nước và thần dân của ông, điều ông muốn
làm ngay từ đầu, không giữ được sự đoàn kết dân tộc mà ông trịnh trọng ghi
trong chiếu thoái vị… Cuối cùng ông đã bị mọi người trách cứ, bỏ rơi và chết ở
xứ người. Thần dân cũ của ông không mấy ai để ý tới sự qua đời của ông, trái
với cái chết của một quốc vương khác trẻ hơn ông nhưng đồng thời với ông và
cũng phải đối phó với vấn đề độc lập của quốc gia giống như ông sau này. Tôi
muốn nói tới Cựu Hoàng Norodom Sihanouk của xứ Căm Bốt.
Giống nhưng khác với
Bảo Đại ở đường lối đấu tranh vì trong đời ông, Sihanouk đã có thời dùng bạo
lực để đàn áp đối lập, đã cộng tác với Khmer Đỏ, tổ chức Cộng Sản Căm Bốt chịu
ảnh hưởng của Trung Cộng của các lãnh tụ Pol Pot và Ieng Sary, một thời đã mang
họa diệt chủng đến cho xứ Căm Bốt khiến cho hàng triệu người dân của xứ này bị
tàn sát bằng đủ mọi phương tiện với hàng núi xương được phát hiện, cho đến nay
vẫn được bảo tồn coi như di tích của một thời đen tối nhất trong lịch sử của
dân tộc Khmer.
Còn Bảo Đại thì tuyệt đối không, kể cả việc ông đã từ chối không
chấp nhận cho người Nhật đứng ra bảo vệ lãnh thổ, hoàng cung và an ninh cho
chính ngôi vị và bản thân ông, chống lại cuộc nổi dậy của Việt Minh và những
người Cộng Sản hối Tháng Tám năm 1945 theo trách nhiệm giữ gìn trật tự mà quốc
tế giao cho họ.
Lý do đơn giản là vì Bảo Đại không muốn dùng ngưới ngoại quốc
để chống lại người Việt Nam, đồng bào của ông và thần dân của ông. Sihanouk đã
được chính quyền và người dân Căm Bốt thương tiếc bằng những giọt nước mắt nhỏ
xuống bên lề đường hay ở trên công viên trước hoàng cung ở Nam Vang hay ở nhiều
nơi ở Căm Bốt. Người ta đã long trọng đón thi hài của ông từ Bắc Kinh được đưa
về Nam Vang và long trọng làm quốc tang cho ông trong bốn ngày đầu tháng 2 năm
2013, vào lúc người Việt Nam ở trong nước cũng như ở Hải Ngoại sửa soạn mừng
đón Xuân Quý Tỵ.
Bảo Đại Phạm Quỳnh Ngô Đình Diệm
Nỗ lực canh tân đầu
tiên với Phạm Quỳnh và Ngô Đình Diệm
Trở về với những cuộc
tranh đấu của Cựu Hoàng Bảo Đại. Nhà vua đã bắt đầu sự nghiệp này của mình từ
rất sớm, ngay từ khi ông mới từ Pháp trở về nước đế chính thức lên ngôi, sau
hơn mười năm du học và hấp thụ được cả hai nền văn hóa Đông Tây qua sự rèn luyện
của Cựu Khâm Sứ Charles về phía người Pháp và Cử Nhân Lê Như Lâm với tư cách là
giảng tập hồi nhà vua còn ở Việt Nam rồi phụ đạo trong suốt thời gian ông ở
Pháp về phía người Việt, chưa kể tới những gì ông học được ở các trường
trung học Pháp nhất là ở trường Khoa Học Chính Tri ở Paris trong các năm
1922-1932, rèn luyện để làm vua và làm nguyên thủ quốc gia, điều
những nhà lãnh đạo trong lịch sử Việt Nam sau này không có.
Tranh đấu
này mang tính cách của một cuộc cải cách và đã được khơi mào bởi những vận động
của giới trí thức đương thời trước đó, đại diện là học giả Phạm Quỳnh của báo
Nam Phong xuyên qua những bài viết của họ Phạm về một chế độ quân chủ lập hiến
và về nhu cầu trả lại cho nhà vua quyền nội trị ở hai xứ Bắc Kỳ và Trung Kỳ và
trả lại tổ quốc cho ngươòi Việt Nam. Mở đầu, ngay từ tháng 9 năm 1932 Phạm
Quỳnh đã được cử làm Ngự Tiền Tổng Lý Văn Phòng hàm Thượng Thư để trực tiếp làm
việc với nhà vua.
Tiếp theo, ngày 10 tháng 12 năm 1932 bằng một đạo dụ, nhà vua
loan báo chính thức cầm quyền qua một chính thể quân chủ lập hiến kèm theo với
nhũng dự án cải tổ guồng máy cai trị, hệ thống quan lại, tổ chức giáo dục và tư
pháp, Viện Dân Biểu Trung Kỳ… Để thực thi những dự án này, ngày 2 tháng 5 năm
1933, như một biến cố bất ngờ, Bảo Đại lại ký một dụ khác loan báo tự mình chấp
chánh và thay thế sáu vị thượng thư già bằng những nhân vật trẻ trong đó có Ngô
Đình Diệm giữ Bộ Lại, Phạm Quỳnh giữ Bộ Học, Bùi Bằng Đoàn Bộ Hình…
Những việc làm đầu
tiên kể trên của Bảo Đại, mặc dầu đã đem lại những tia hy vọng cho người dân ở
hai xứ Bắc và Trung Kỳ về một vận hội mới cho đất nước, đã không tồn tại lâu
dài, một phần vì người Pháp cản trở vì trả lại quyền nội trị ở Bắc Kỳ và ở
Trung Kỳ là trở lại với Hòa Ước 1884 từ đó sẽ động tới các chức thống sứ Bắc Kỳ
và Khâm sứ Trung Kỳ, một phần là do mâu thuẫn nội bộ giữa phe quan lại cũ và
những trí thức mới, giữa những người đi vào hoạn lộ qua ngả quan trường và
những ngưuời đi vào đường này qua đường tắt cũng như giữa hai nhân vật chủ cốt
là Phạm Quỳnh và Ngô Dình Diệm mà nhà vua đặt hết tin tưởng vào coi như đôi xe
bổ khuyết, hỗ trợ cho nhau. Cuối cùng Ngô Đình Diệm đã từ chức, lôi cuốn theo
một vài nhân vật mà nhà vua tin cậy khác. Thất bại trong cố gắng đầu đời, nhà
vua trở thành “cô đơn, chỉ có một mình” để đến
khi Hoàng Xuân Hãn nhắc ông là phải làm gì vì giới thanh niên mong đợi, nhà vua
đã hỏi lại “Làm gì? Làm với ai?”
Có điều ông vẫn không hoàn toàn mất
hết hy vọng như sau này ông ghi trong hồi ký của ông: “Dù sao đi
nữa, sự có mặt của tôi trên ngôi vẫn làm cho giới trẻ giữ được niềm hy vọng.
Những người như Ngô Dình Diệm và Nguyễn Đệ lúc ấy sẽ lại ra giúp tôi theo chiều
hướng này” “Chắc ngưòi Pháp cho rằng tôi đã ngoan ngoãn biết
nghe theo lời của họ. Dù họ có tin rằng họ đã thắng một cách dễ dàng, tôi cũng
chẳng nên có lý do gì ngờ vực tôi. Tôi tin rằng nhân dân sẽ hiểu các hình thái
buông thả bên ngoài của tôi, bởi cái hình thái ấy cho thấy sự thờ ơ, lơ là với
nhiệm vụ của tôi…” và ông đã sống sót để chờ thời, không bị
rơi vào số phận của các VuaThành Thái và Duy Tân mà ông hiểu rõ hơn ai hết cũng
như bị mất tinh thần và trở thành một con người vô dụng.
Cơ hội mới: Nhật đảo
chính Pháp, 9 tháng 3 năm 1945 – Chính Phủ Trần Trọng Kim hay là Cuộc Cách Mạng
Phi Bạo Lực bị bỏ lỡ
Niềm hy vọng và sự
kiên nhẫn của Bảo Đại kể trên đã không uổng. Mười hai năm sau, năm 1945, cơ hội
lại đến với nhà vua một lần nữa. Lần này do người Nhật mang lại sau cuộc đảo
chính ngày 9 tháng 3 năm 1945 lật đổ người Pháp của họ. Không còn con đường nào
khác tốt hơn và cũng không để lỡ cơ hội bước đi nhũng bước khởi đầu, khi được
người Nhật yêu cầu nhà vua đã cho công bố bản Tuyên Ngôn Độc Lập đầu
tiên trong lịch sử Việt Nam hiện đại. Chính Phủ Trần Trọng Kim đã được thành
lập với các bộ trưởng đều là những nhà tân học có khả năng, và đạo đức nổi
tiếng đương thời đứng đầu bởi nhà giáo kiêm học giả Trần Trọng Kim, tác giả của
những bộ sách Giáo Khoa Thư và nhất là bộ
Việt Nam Sử Lược cho tới khi bài này được viết vẫn còn thông
dụng, với sự cộng tác của những tên tuổi quen thuộc với học giới dương thời như
Giáo Sư Hoàng Xuân Hãn, Luật Sư Vũ Văn Hiền, Luật Sư kiêm nhà báo Phan Anh,
Luật Sư Trần Văn Chương…
Mặc
dầu không tồn tại lâu dài, tất cả chỉ được hơn bốn tháng, thực tế còn ngắn hơn
nhiều, hoạt động trong hoàn cảnh chiến tranh, bị
Việt Minh đánh phá ngay từ đầu rồi tuyên truyền phá hoại và thiếu thốn đủ mọi
phương tiện, Chính Phủ Trần Trọng Kim đã tạo được những thành
tích đáng ca ngợi. Cả một chương trình hành động nhằm xây dựng một
nước Việt Nam mới đã được dự trù bao trùm mọi phạm vi sinh hoạt từ soạn thảo
hiến pháp, cải tổ thuế má, Việt Nam hóa giáo dục, thu hồi các nhượng địa, kể cả
xứ Nam Kỳ, cứu đói, chống nạn mù chữ … đều đã đồng thời được thực hiện. Quốc
hiệu Việt Nam với danh xưng đầy đủ là Đế Quốc Việt Nam đã được lựa chọn
cùng với bài Đăng Đàn Cung làm quốc ca, cờ quẻ ly nền vàng ba sọc đỏ
với hai sọc trên liền, sọc giữa đứt đoạn làm quốc kỳ.
Danh xưng bộ trưởng để
gọi những người đứng đầu các bộ được dùng để thay thế bằng danh xưng thượng thư
của thời trước, các tên Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ thay thế cho các tên Bắc Kỳ,
Trung Kỳ, Nam Kỳ mang nặng dấu vết của thời thuộc địa. Chương trình giáo dục
bằng tiếng Việt được biết dưới tên Chương Trình Hoàng Xuân Hãn đã
được soạn thảo và áp dụng và đã trở thành nền tảng cho nền giáo dục sau này, rõ
hơn những năm đầu của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, thời Quốc Gia Việt Nam và hai
thời Đệ Nhất và Đệ Nhi Cộng Hoà ở Miền Nam. Bài Đăng Đàn
Cung tuy được chọn làm quốc ca nhưng trên thực tế thì bài Tiếng Gọi Sinh Viên đã
được giới thanh thiếu niên, dưới sự hướng dẫn của các thày giáo ở các trường
hát mỗi ngày một nhiều, đã được phổ biến hơn không phải chỉ ở miền Bắc và miền
Trung mà luôn cả ở Miền Nam, miền đất cho đến khi Chính Phủ của Thủ Tướng họ
Trần được thành lập vẫn chưa thực sự được trả về với lãnh thổ quốc gia, để
sau này trở thành quốc ca, một hiện tương đã nằm trong ký ức của những người
thuộc thế hệ trẻ đương thời tới nay vẫn chưa hề phai nhạt.
Nỗ lực lần thứ hai
của Bảo Đại tuy nhiên cũng không tồn tại được lâu dài. Thế Chiến Thứ Hai chấm
dứt với sự đầu hàng của Nhật Bản đã một lần nữa làm cho nhà vua phải bỏ dở. Lợi
dụng cơ hội, Việt Minh cướp chính quyền ở Hà Nội và các tỉnh miền Bắc và áp lực
những thành phần thiên Cộng khiến cho ngày 25 tháng 8 năm 1945 ông phải xuống
chiếu thoái vị trao quyền cho Hồ Chí Minh và chính phủ lâm thời của ông này do
Việt Minh lãnh đạo. Với Chiếu Thoái Vị, Bảo Đại đã trở thành nổi tiếng với câu
nói: “ Trẫm để hạnh phúc của dân Việt Nam lên trên ngai vàng của Trẫm. Trẫm
thà làm dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ.”
Nỗ lực lần thứ ba:
Hiệp Định Élysée và sự thành Lập Quốc Gia Việt Nam – Thâu Hồi xứ Nam Kỳ về cho
lãnh thổ của dân tộc
Bỏ
qua những cố gắng của ông thời đầu thập niên ba mươi của thế kỷ trước và những
cố gắng của ông sau khi ông tuyên bố độc lập ngày 11 tháng 3 năm 1945 mà tôi
tóm tắt như trên, những biến cố ít người được biết đến, công lao lớn nhất mà
Hoàng Đế Bảo Đại đã thực hiện được cho những người Việt Quốc Gia không chấp
nhận chế độ Cộng Sản hay không sống nổi với chế độ Cộng Sản, đã ở lại, đã về
hay dự tính về những vùng kiểm soát của người Pháp vào nửa cuối thập niên 1940
là Hiệp Định Élysée mà ông đã đạt được ngày 8 tháng 3 năm 1949, sau một thời
gian dài thương thuyết, dưới hình thức trao đổi văn kiện giữa ông và Tổng Thống
Pháp Vincent Auriol. Với Hiệp Định Élysée Quốc Gia Việt Nam đã hình thành để
những ai không chấp nhận chính quyền Cộng Sản do Hồ Chí Minh lãnh đạo có chỗ
trở về trong danh nghĩa của những công dân của một nước Việt Nam độc lập.
Không
có Bảo Đại, không có Quốc Gia Việt Nam, tất cả đều được nhìn hoặc như là theo
Pháp để trở thành Việt gian làm bồi cho thực dân, đế quốc, hoặc là phải ở lại
vùng Việt Minh kiểm soát để sớm muộn cũng bị loại trừ và tiêu diệt. Điều này đã
xảy ra. Nói cách khác, Bảo Đại và Hiệp Định Élysée đã đem lại chính nghĩa
cho những người đương thời không chấp nhận chủ nghĩa và chế độ Cộng Sản. Chưa
hết, với Hiệp Định Élysée, Bảo Đại đã thâu hồi lại xứ Nam Kỳ cho Tổ Quốc Việt
Nam một cách hòa bình, không đổ máu mà Hồ Chí Minh và
Chính Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trước đó qua những thỏa ước 6 tháng 3 rồi
14 tháng 9 năm 1946 hay hội nghị Đà Lạt và Fontainebleau đã không làm được.
Lễ
thâu hồi đã chính thức được cử hành vào ngày 14 tháng 6 năm 1949. Với tư cách
Quốc Trưởng của Quốc Gia Việt Nam, lần đầu tiên ông đã từ Đà Lạt, thủ đô tạm
thời của ông về Saigon để long trọng đón phần đất đã từng là thuộc địa của Pháp
từ năm 1862 trở về với lãnh thổ quốc gia và người dân Nam Kỳ đã trở thành công
dân của Quốc Gia Việt Nam để cùng tham gia xây dựng lại đất nước dù là ở miền
Nam, miền Trung hay miền Bắc. Một người dân miền Nam không lâu sau đó đã được
bổ nhiệm đứng đầu miền Bắc. Đó là Đốc Phủ Sứ Nguyễn Văn Tâm, với danh vị Thủ
Hiến Bắc việt. Đây là một sự thực không ai có thể chối cãi được và khi nói xấu
ông người ta chỉ còn cách lơ đi không nói tới mà thôi.
Quốc Gia Việt Nam
thường được hiếu là tiền thân của Việt Nam Cộng Hòa, từ đó bị ngộ nhận là có
lãnh thổ chỉ là lãnh thổ của Miền Nam Việt Nam sau này tức từ vĩ tuyến 17 trở
xuống. Điều này không đúng. Bắt đầu từ thời điểm 14 tháng 6 năm 1949, khi Nam
Kỳ trở về với lãnh thổ của Quốc Gia Việt Nam và cho đến khi Hiệp Định Genève
được thông qua và trớ thành có hiệu lực, Chính Quyền Quốc Gia Việt Nam của Quốc
Trưởng Bảo Đại đã chính thức và hợp pháp kiểm soát những miền đất phía trên vĩ
tuyến này, từ Lào Kay, Lai Châu, Cao Bằng, Lạng Sơn, Móng Cáy… cho tới Hà Tiên
và mũi Cà Mau, từ đồng bằng cho tới các cao nguyên do người Pháp chiếm giữ
trước đó và trao trả. Nói cách khác, Quốc Gia Việt Nam có lãnh thổ bao
trùm đất đai của người Việt từ Bắc chí Nam, từ Biển Đông với các quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa (mà Thủ Tướng Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam Trần Văn Hữu đã long
trọng xác nhận ở Hội Nghị San Francisco vào hai ngày 6 và 7 tháng 9 năm 1951)
tới các cao nguyên và miền núi, sau này, từ ngày 14 tháng 6 năm 1949, bao gồm
luôn cả Miền Nam hay Nam Kỳ Lục Tỉnh thay vì chỉ có Miền Nam Việt Nam từ vĩ
tuyến 17 trở xuống tức lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoà về sau này.
Cờ vàng ba
sọc đỏ và bài Tiếng Gọi Thanh Niên sau này là Tiếng Gọi Công Dân đã được tung
bay hay được hát ở kháp nơi hay đới với giới trẻ đương thời, được học sinh các
trường trung và tiểu học, mới được mở cửa trở lại sau những ngày đầu của chiến
tranh, hát lên buổi sáng trước khi vào lớp. Quốc kỳ này và quốc ca này đã được
lựa chọn cùng thời với danh xưng Quốc Gia Việt Nam đã liên tục được duy trì qua
các thời Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hoà của Miền Nam Việt Nam trong suốt hai mươoi
năm tồn tại.
Sau này cà hai vẫn được bảo tồn và bảo vệ ở Hải Ngoại coi như
tượng hai biểu tương vừa thiêng liêng vừa thân thiết nhất của người Việt ở khắp
nơi trên thế giới. Một sinh hoạt bình thuờng đã thực sự hồi sinh. Các cơ
cấu từ chính trị, hành chánh, quân sự, văn hóa, giáo dục mang màu sắc nhân bản
vừa cổ truyền, vừa tân tiến theo trào lưu mới đã từng bước một thành hình và
làm nền tảng cho các sinh hoạt ở Miền Nam trước khi bị những người Cộng Sản phá
bỏ để thay thế bằng những tổ chức riêng của họ. Nên nhớ là với Thỏa Ước Sơ Bộ
ngày 6 tháng 3 năm 1946 Hồ Chí Minh ký với đại diện Cao Ủy Pháp ở Đông Dương
Jean Sainteny và Tạm Ước 14 tháng 9 ký với Bộ Trướng Pháp Quốc Hải Ngoại Marius
Moutet vấn đề thống nhất xứ Nam Kỳ chưa được giải quyết. Nói cách khác Nam kỳ
cho tới ngày 14 tháng 6, trước khi được Bảo Đại thu hồi vẫn thuộc quyền cai
quản của người Pháp theo các Hòa Ước 1862 và 1874.
Sau ngày 14 tháng 6 năam
1954, xứ này mới thực sự trở về với lãnh thổ của Quốc Gia Việt Nam, sau này là
Việt Nam Cộng Hòa và luôn luôn nằm ngoài lãnh thổ của nước Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hoà cho mãi đến sau ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Đối với những người
thuộc thế hệ sinh từ cuối thập niên 1920 và hai thập niên 1930, 1940, sự hình
thành của Quốc Gia Việt Nam đã đem lại cho họ một nền giáo dục nhân bản và tiến
bộ, vừa mang những đặc tính của thời xưa, vừa cởi mở, khai phóng để đón nhận
những tinh hoa của thời đại thay vì lang thang không được đi học trong nhiều
năm trong vùng “kháng chiến”. Nền giáo dục này đã cung cấp cho họ những điều
kiện cơ bản để tiến xa hơn về sau này. Cũng vậy với sự thành lập Quân Đội Quốc
Gia Việt từ đầu thập niên 1950 mà người ta hầu như đã quên.
Đối với những người
làm văn chương, âm nhạc và nghệ thuật sự thành lập Quốc Gia Việt Nam là thời kỳ
mở dầu cho một giai đoạn phát triển mới vừa tiếp nối giai đoạn canh tân, trẻ
trung, đầy sinh lực và lãng mạn của thời cuối thập niên 1930, đầu thập niên 1940
vừa tràn ngập hân hoan, hào hứng và tin tưởng vào cuộc đấu tranh giành độc lập,
thống nhất lãnh thổ và phát triển quốc gia dưới một chính quyền mới không Cộng
Sản. Rõ rệt nhất trong hiện tượng này là trường hợp của các nhạc sĩ trong đó có
Phạm Duy, Thẩm Oánh, Hùng Lân, Phạm Định Chương…, chỉ kể một vài tên tuổi quen
thuộc.
Nói về Hiệp Định
Élysée và những thỏa thuận giữa Bảo Đại và người Pháp trước đó, nhiều người cho
rằng Cựu Hoàng đã vội vã và không đòi hỏi đúng mức những gì co thể đòi hỏi
được. Các vị này chủ trương là phải đòi độc lập hoàn toàn. Điều này đúng nhưng
không thực tế. Thời điểm của những năm 1948, 1949 với sự thắng thế mỗi ngày một
rõ của Hồng Quân Trung Hoa ở Trung Quốc, cả hai phía người Pháp và Bảo Đại phải
cấp tốc giải quyết vấn đề. Không những thế, đuổi Pháp đi thì ngay lập tức lấy
gì để chống Việt Minh và ngay lập tức điều hành toàn thể mọi sinh hoạt của đất
nước? Vấn dề không đơn giản. Người ta không thể điều đình mà không tương nhượng
và dự trù cho những sự hợp tác tương lai.
Đóng góp cuối cùng:
Hiệp Ước Paris 04 tháng 06 năm 1954 – một nền Độc Lập hoàn Toàn cho Quốc Gia
Việt Nam
Hiệp
Định Élysée chỉ là khởi đầu. Nền độc lập do hiệp ước này mang lại chưa thực sự
hoàn toàn. Nhiều bước tiến khác còn phải được thực hiện. Bảo Đại đã tiếp tục và
đã hoàn tất được công tác này với sự trợ giúp của những trí thức hiểu rõ nước
Pháp và người Pháp, giỏi về chính trị và luật pháp có mặt ngay trên đất Pháp và
giảng dạy ngay tại các đại học Pháp, những người có đầy đủ học vị, thực học và
kinh nghiệm. Đích thân ông, ông đã phải sang Pháp, ở tại chỗ nhằm tự mình theo
dõi và đôn đốc. Sau một tiến trình đàm phán gay go và lâu dài, hai hiệp ước đã
thành hình. Với hiệp ước thứ nhất, Pháp công nhận hoàn toàn nền độc lập và chủ
quyền toàn vẹn của Quốc Gia Việt Nam và qua hiệp ước thứ hai, Việt Nam thỏa thuận
gia nhập Liên Hiệp Pháp. Đại Diện cho nước Pháp là Thủ Tướng Joseph Laniel và
đại diện cho Việt Nam là Thủ Tướng Bửu Lộc. Ngày được ghi là 04 tháng 6 năm
1954 và địa điểm là Paris, thủ đô của nước Pháp.
Bảo Đại đã không có được
niềm hạnh phúc mà cả đời ông ấp ủ là được chứng kiến lễ ký kết những hiệp ước
này. Ngày 7 tháng 5, Điện Biên Phủ thất thủ, Hiệp Định Genève đang thành
hình và cả hai văn bản đã bị vĩnh viễn xếp lại. Một lần nữa thành công của vị
Hoàng Đế cuối củng của Triều Nguyễn đã không trọn vẹn. Điều ta nên nhớ là trong
nỗ lực cuối cùng này, ông đã phải dời bỏ quê hương của ông sang Pháp để đích
thân gặp các nhân vật lãnh đạo Pháp, kể cả Tổng Thống Auriol, theo dõi và đôn
đốc các đại diện của mình, bị báo chí Pháp công kích vì đã đòi hỏi quá nhiều,
sau này lại còn bị mang tiếng là ham sống ở nước ngoài không chịu về nước.
Dù sao với hai hiệp ước đề ngày 04 tháng 6 này, ông đã đem lại được những gì
ông mong ước cho đất nước và cho thần dân Việt Nam của ông. Thiên Mạng của ông
sau đó không còn nữa. Điều đáng tiếc là ông đã không còn trờ về quê hương của
ông để làm công dân một nưóc độc lập như ông mong muốn được nữa. Người đời đã
quên ông và thần dân của ông dã quên ông hay nếu nhớ tới ông chỉ là nhớ để
trách cứ. Mà trách cứ thì luôn luôn dễ hơn là ghi nhận và nhất là ghi ơn. Người
ta đã đòi hỏi ở ông quá nhiều mà quên mất một điều là dù là vua, là thiên tử,
ông vẫn chỉ là con người, con người với tât cả mọi nhược điểm của con người,
nhiều khi không phải do bản chất của người ấy mà do hoàn cảnh gây ra.
Bảo
Đại đã lên ngôi vào lúc chế độ quân chủ ở Việt Nam đang ở tình trạng suy đồi và
bị tấn công từ nhiều phía trong lúc chủ trương dân chủ mỗi ngày mỗi thêm thắng
thế. Người ta không biết có bao nhiêu giọt nước mắt
đã nhỏ xuống cho ông khi ông qua đời như chúng đã được nhỏ xuống khi ông đọc
chiếu thoái vị trước cửa Ngọ Môn hồi năm 1945.
Phải chăng sau hơn nửa thế kỷ, hơn 52 năm sau, tất cả đều đã thay đổi? Có điều
đất nước Việt Nam vẫn không hề tiến bộ hơn, lãnh thổ quốc gia mà Bảo Đại đã
thâu hồi hay xác nhận chủ quyền và để lại cho những người kế vị ông đã bị hao
mòn không ít, và người dân Việt Nam bình thường vẫn chưa tìm lại được
cuộc sống thanh bình, no ấm mà bất cứ một vị vua nào trong lịch sử nước nhà đều
mong mỏi với một xã hội trong đó “Triệu tính âu ca lạc thịnh thì” như
Trần Nguyên Đán đã miêu tả xã hội Đại Việt cuối thời Nhà Trần.
Huntington Beach, CA ngày 03 tháng 02
năm 2013
TS Phạm Cao Dương
Lịch Sử Nào Cho Tuổi Trẻ Việt Nam?
Lịch Sử Nào Cho Tuổi Trẻ Việt Nam?
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết