Kính
thưa quý chiến hữu thân thương cùng quý dộc giã xa gần nội ngoại,
Dễ
tưỡng niệm Ngày Quân Lực 19/6 VNCH, chúng tôi sẽ fỗ biến tiếp tài-liệu:
Thân
ái,
Matthew
Trần
Chũ-trương
hệ thống BTGVQHVN-1,2&3 // HNN (2008)
Vài Nét Hoạt
Động của BIỆT KÍCH DÙ/QLVNCH tại Bắc Việt
của Trung Tá Nguyễn Văn Vinh
VNCH
đã giữ vững được cuộc sống tự do trong suốt 21 năm ngắn ngủi nhưng đầy gian
truân, máu và nước mắt, đầy sự hy sinh của biết bao nhiêu người.
Trong
số những sự hy sinh đó, phải nói tới sự hy sinh của người lính Biệt Kích Dù hoạt
động tại Bắc Việt. Số phận của họ rất bi thảm khi bị kẹt tại Bắc Việt. Bảng
tổng kết sơ khởi cho biết trong số những Biệt Kích Dù được thả ra miền Bắc có 7
người đã bị CS tuyên án tử hình và đã bị hành quyết, 9 người tử trận, 21 người
chết trong các trại tù khổ sai miền Bắc, 7 người chết sau khi được thả về, 2
người mất tích khi thi hành nhiệm vụ, 11 người bị chỉ định phải định cư tại các
nông trường hay hợp tác xã miền Bắc. Đa số những người còn lại đều bị tra tấn
dã man và bị bắt lao động khổ sai trong những trại tù khắc nghiệt nhất. Tại sao
hầu hết các biệt kích thả xuống miền Bắc đã bị CS bắt?
Bài
viết sau đây là của Trung Tá Nguyễn Văn Vinh, người trực tiếp phụ trách các
toán Biệt Kích Dù được thả xuống Bắc Việt, sẽ cho chúng ta biết những nét đại
cương về tổ chức các đơn vị Biệt Kích, các hoạt động của họ và cách thức điều
hành của cơ quan tình báo Hoa Kỳ.
o O o
Vài
nét về hoạt động của Biệt Kích Dù tại Bắc Việt
Ít ai biết đến các tên
P45, Sở
Bắc hay Sở
Khai Thác, tiền thân của Nha
Kỹ Thuật Bộ Tổng Tham Mưu.
Đó là những bí danh của một cơ quan tình
báo chiến lược, được thành lập từ cuối năm 1958, đặt trực thuộc Phủ Tổng Thống
và nằm trong mạng lưới chỉ huy của Đại
Tá Lê Quang Tung, Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt VNCH.
Cơ quan này được Hoa Kỳ yểm trợ cả về tài
chánh lẫn các phương tiện cần thiết để thực hiện cuộc chiến tranh không quy ước
chống miền Bắc CS.
Sau Hiệp định đình chiến Geneva, vĩ tuyến
17 được chọn làm vùng phi quân sự và sông Bến Hải là biên giới thiên nhiên,
ngăn cách 2 miền Nam Tự Do và Bắc CS. Quân đội viễn chinh Pháp, dưới áp lực của
Hoa Kỳ, đã phải kéo cờ tam tài xuống khỏi dinh Norodom, nhường chỗ cho quốc kỳ
VN tung bay tại dinh Độc lập vừa được đổi tên và đổi chủ.
Để đáp lại, quân đội Pháp đã
không nương tay, xóa sạch mạng lưới tình báo mà họ đã khổ công gầy dựng trong
nhiều năm tại miền Bắc. Đây là một sự thiệt hại khá lớn cho ngành tình báo non
trẻ của miền Nam.
Trong khi đó, CS đã để lại tại miền Nam vô
số cơ sở tình báo mà họ đã gầy dựng trong suốt thời kỳ chống Pháp, trong đó
phải kể đến các thân nhân của các cán bộ và bộ đội tập kết. Thêm vào đó, các
khuyết điểm to lớn chồng chất của 2 chế độ lỗi thời Thực dân và Phong kiến đã
làm mồi nuôi dưỡng các phong trào chống đối trong nội bộ miền Nam, rất thuận
lợi cho các cán bộ CS nằm vùng khai thác.
Dù vậy, ngành tình báo miền Nam, tuy phải
xây dựng trễ và phải đặt nền móng từ đầu, nhưng lại được hưởng ứng nồng nhiệt
vì đa số người Việt thời ấy, nhất là đồng bào di cư, các bộ lạc dân tộc thiểu
số, các đảng phái chính trị và tín đồ các tôn giáo, đã thấy rõ bộ mặt gian dối
của CS.
Có người đã chứng kiến những vụ tàn sát
hay đấu tố dã man các thành phần quốc gia yêu nước nhưng bất đồng chính kiến
với CS và có khi họ chính là thân nhân của các nạn nhân đó.
Ngoài ra, những tài liệu sống động như
cuốn phim Chúng
Tôi Muốn Sống đã gây được
một ấn tượng ghê tởm CS trong mọi tầng lớp nhân dân miền Nam.
Nắm được các yếu tố thuận lợi trên đây, Sở
Bắc đã gấp rút gửi nhân viên đến các trại định cư, liên lạc với các vị lãnh đạo
tinh thần cũng như các bộ lạc dân tộc thiểu số, chiêu mộ các thanh niên nhiệt
tình yêu nước còn thân nhân ở tại miền Bắc, để cấp tốc đưa về huấn luyện và tạo
vỏ bọc thuận lợi, đưa họ về quê quán hoạt động.
Từ những năm đầu tiên đến năm 1966, các
toán xâm nhập miền Bắc thường xử dụng một trong những phương cách sau đây:
- Nhảy dù đêm vào vùng mục tiêu.
- Xâm nhập đường biển bằng thuyền mẹ, và
từ đó sử dụng thuyền con bơi vào vùng công tác.
- Xâm nhập vào vùng phi quân sự, vượt sông
Bến Hải và lén lút đi bộ vào điểm công tác, móc nối với thân nhân đã nằm vùng,
hoặc giới chức được tín nhiệm tại địa phương. Trường hợp sau này thường phải xử
dụng “bona fides” để nhận nhau.
- Cử chuyên viên phục vụ tại Tòa Đại Sứ
của một vài nước thứ 3 như Lào, Cam-bốt, Pháp, Thái Lan hay Hong Kong … rồi từ đó tuyển mộ và huấn
luyện các công tác viên có khả năng, và tạo cho họ cái vỏ bọc thích hợp cũng
như giấy tờ hợp lệ để họ dễ dàng xâm nhập vào miền Bắc hoạt động. Phương pháp
này đã được nghiên cứu tỉ mỉ, nhưng vì quá tốn kém nên chỉ được thực hiện từng
giai đoạn.
Tuy có nhiều hình thức xâm nhập khác nhau
như vừa trình bày trên, nhưng trong bài này, tôi (Trung Tá Nguyễn Văn Vinh) chỉ xin đề cập
đến những toán Biệt Kích xâm nhập miền Bắc bằng đường hàng không mà thôi, vì
đây là phần việc mà chính tôi đã đảm nhận trong nhiều năm tại cơ quan tình báo
chiến lược này.
Những
chuyến bay đêm
Các toán Biệt Kích Dù thường được thả
xuống miền Bắc vào những đêm trăng. Mùa trăng thuận lợi cho công tác này bắt
đầu từ ngày mồng 10 – 20 âm lịch hằng tháng. Giờ giấc được chọn tùy thuộc vào
điều kiện an ninh và thời tiết tại vùng công tác. Để có đủ phương tiện đối phó
với các bất trắc có thể xảy ra khi toán chạm đất, các nhân viên Biệt Kích Dù
phải mang theo các trang bị cá nhân khá nặng nề. Ngoài súng tiểu liên Swedish
K. của Thụy Điển hoặc Sten của Anh hay Uzi của Do Thái có trang bị ống giảm
thanh và 3 đơn vị hỏa lực, họ còn phải đèo thêm các dụng cụ khác trên 20 món,
nào bidon nước, bản đồ vùng mục tiêu, địa bàn, lựu đạn, 3 ngày lương khô, đèn
bấm, pamean, dao găm, túi cứu thương cá nhân, cà mèn, pháo hiệu (pen flare),
đồng hồ đeo tay, radio v.v…
Các dụng cụ này thường được mua ở các nước
thứ 3 và không một trang cụ nào được mang nhãn hiệu Hoa Kỳ hay miền Nam VN. Các
đồ trang bị tập thể nhưng dụng cụ phá hoại, đồ cứu thương, lương thực dự trữ
dùng cho 3 tháng v.v…đều được đóng thành kiện. Máy truyền tin dự trữ và máy
beacon là máy phát tín hiệu có tầng số nhất định, được đặt tại kiện hàng số 1.
Các toán viên khi nhảy dù xâm nhập vào đêm, chiếc dù có thể bị ảnh hưởng của
gió, bạt ra xa cách bãi thả 1-2 km. Nhưng nhờ các radio cá nhân, họ có thể dễ
dàng bắt tín hiệu từ máy beacon phát ra, để đi về hướng tập trung.
Thông thường, các nhân viên quê quán vùng
nào được thả về mục tiêu vùng đó. Để đảm bảo an ninh cho công tác, mục tiêu và
nhiệm vụ của toán chỉ được thuyết trình vào giờ chót, trước khi lên máy bay.
Các chuyến xuất phát trong những năm đầu
đến năm 1964, chính cơ quan Trung Ương Tình Báo Hoa Kỳ đã yểm trợ cho các
chuyến bay bí mật này và lộ trình duy nhất được xử dụng là Tân Sơn Nhất – Đà
Nẵng – Vùng mục tiêu.
Tại Đà Nẵng, đợi lúc trời tối, phi cơ cởi
bỏ hết mọi huy hiệu trước khi khởi hành xâm nhập vào vùng hành quân. Phi cơ
được xử dụng là loại DC7 hoặc DC6. Phi hành đoàn thường là người Trung Hoa. Tuy
nhiên, cũng có lúc phi hành đoàn là người VN, được tuyển chọn trong số sĩ quan
có khả năng và được tín nhiệm nhất của Không Quân Việt Nam. Phó TT Nguyễn Cao
Kỳ hồi còn mang lon Đại úy, đã nhiều lần làm phi công chính thức cho các phi vụ
đặc biệt này.
Đến cuối năm 1966, Trung Ương Tình Báo Hoa
Kỳ rút vào bóng tối, nhường chỗ cho MAC-SOG, một cơ quan tình báo quân sự, thay
thế yểm trợ cho Nha Kỹ Thuật.
Khi cường độ chiến tranh VN đi đến giai
đoạn khốc liệt nhất thì nhu cầu tin tức gia tăng cao, do đó số toán Biệt Kích
Dù hoạt động phải được tăng cường nhiều hơn. Các phương tiện xâm nhập cũ được
thay thế bằng C123 hoặc C130 và nơi phát xuất được chuyển sang Nakor-Phanum,
một sân bay nằm sát biên giới Thái-Lào hoặc sân bay đón nằm ở phía Đông -Bắc
Thái Lan. Từ các nơi đó các toán Biệt Kích Dù được chuyển qua trực thăng CH3 để
bay băng qua lãnh thổ Lào, tiến về vùng mục tiêu nằm trên ranh giới Lào-Việt.
Cũng có lúc mục tiêu được lựa chọn nằm sâu trong nội địa Bắc Viêt.
Trực thăng là phương tiện xâm nhập vừa rẻ
tiền vừa tiện lợi nhưng lại là phương tiện kém an toàn nhất, vì tiếng động cơ
quá lớn, địch dễ phát hiện. Phải chăng đây là một trong những nguyên nhân thất
bại của công tác Biệt Kích tại miền Bắc?. Vấn đề này đã được phía VN quan tâm
và nêu lên nhiều lần trong các phiên họp Việt-Mỹ, nhưng phía đối nhiệm không
quan tâm.
Số
phận những con chim lạc loài
Đến cuối năm 1968, trong số gần 40 toán
được cho xâm nhập bằng đường hàng không và đường bộ để hoạt động dài hạn, chỉ
con có 5 toán là còn giữ được liên lạc với Trung Ương, đó là các toán Tourbillon (1962), Ares
(1962), Remus
(1963), Easy
(1963) và Eagle
(1963).
Theo đánh giá chung của các chuyên viên
hữu trách Việt – Mỹ thì cả 5 toán này hình như đã bị địch kiểm soát, nhưng cá
nhân tôi vẫn còn tin tưởng một toán, đó là toán Ares.
Sự tin tưởng này có thể đúng vì lý do sau
đây:
Vào những năm đầu ở trại “cải tạo”, tôi
thường bị cán bộ, không biết thuộc cơ quan nào và cấp nào, đã thay nhau thẩm
vấn tôi về các toán Biệt Kích. Một trong những lần thẩm vấn ấy, tôi bị 3 tên
cùng một lúc thay nhau hạch hỏi suốt buổi sáng, khiến tôi không còn sức chịu
đựng, tôi đã bị gục ngã vì tức giận và xây xẩm. Họ cho người dẫn tôi về phòng,
nhưng 2 giờ sau lại kéo tôi lên tiếp tục thẩm vấn. Họ dùng đủ trò ma giáo “hỉ,
nộ, ái, ố”, … lúc thì mời tôi hút thuốc lá “có cán” (tức loại thuốc có đầu lọc,
một loại thuốc cao cấp vào thời ấy), lúc lại đập bàn quát mắng, khinh bỉ. Họ
chưa bao giờ đánh đập tôi lúc thẩm vấn, nhưng họ đã dùng những lời rất cộc cằn
và thô lỗ để áp đảo tinh thần tôi.
Một điều làm tôi quan tâm hơn cả là họ hỏi
tôi rất nhiều về toán Ares, như trưởng toán tên gì, quê quán ở đâu, tuổi tác độ
bao nhiêu, dáng điệu bên ngoài như thế nào, có những đặc điểm gì, những liên hệ
gia đình, địa chỉ của các người thân lúc ở miền Nam, v.v… Tôi thầm nghĩ nếu
Ares đã thật sự nằm trong tay họ thì mắc mớ gì họ phải hỏi tôi những chuyện
thừa thải ấy. Tôi có lý do để không trả lời họ, vì Ares đã xuất phát năm 1962,
trước khi tôi được thuyên chuyển về Sở Bắc. Tuy nhiên, hôm nay tôi xin nói ra
đây những gì tôi có thể nói ra được. Một vài chi tiết khác tôi thấy chưa thể
tiết lộ lúc này vì có thể phương hại đến sự an toàn của toán đó, nếu quả thật
toán đó đến nay vẫn còn dấu được tung tích.
Ares hay Hạ
Long có tên thật là …, một cán bộ trung cấp và là đảng
viên CS bị khai trừ vì bất mãn. Anh đã theo đoàn người di cư vào Nam năm … và
được một giới chức miền Nam báo cáo lên ông Ngô Đình Nhu. Tổng Thống Diệm và
ông Nhu đã lưu tâm và giúp đỡ cho người này. Sau đó, Sở Bắc đã cử người đến
tiếp xúc thuyết phục và bố trí cho anh trở về Bắc hoạt động. Anh đã đồng ý và
đã được đưa xâm nhập vào Vịnh Hạ Long năm 1962, rồi từ đó tiến dần về cảng Hải
Phòng và nhà máy điện Uông Bí. Đây là 2 mục tiêu mà anh có nhiệm vụ theo dõi và
báo cáo mọi sinh hoạt. Ares tỏ ra rất tích cực trong mọi nhiệm vụ giao phó, và
điều rất kỳ lạ là anh đã mộ mến Tổng Thống
Ngô Đình Diệm một cách khác thường. Hàng năm,
trước ngày Song
Thất hoặc 26/10, anh đều có đánh điện chúc mừng
TT Diệm và nguyện trung thành phục vụ tổ quốc.
Khi nghe tin TT Diệm bị giết qua đài phát
thanh, anh rất thắc mắc và sau khi được Trung Ương xác nhận, anh đã tỏ ra chán
nản tột độ. Dù vậy, anh vẫn thi hành mọi công tác giao phó một cách chu đáo.
Những chuyến tàu cập bến Hải Phòng, nhất là các tàu chở vũ khí hay quân dụng,
đã được anh theo dõi và báo cáo khá chi tiết. Ngoài nhiệm vụ trên, anh còn báo
cáo kết quả oanh tạc của một số mục tiêu khác nhau như cầu Hàm Rồng và nhà máy
điện Uông Bí ở quanh vùng Hải Phòng.
Để giúp anh thi hành nhiệm vụ trong thời
gian anh bị bị bịnh sốt rét, Trung Ương đã chấp thuận đề nghị của anh, tuyển mộ
thêm người em ruột và một hai người khác trong họ hàng, để phụ anh thực hiện
quan sát các mục tiêu ở xa. Trong những năm 1966, 1967 và 1968, bệnh sốt rét
của anh trở nên trầm trọng, nhưng Trung Ương không tiếp tế cho anh được vì địa
điểm nhận tiếp tế của anh nằm trong Vịnh Hạ Long đã bị lộ. Thêm vào đó, vùng
biển Hải Phòng bị Mỹ gài mìn khiến mọi cố gắng tiếp tế bằng thuyền cho anh đều
không thể thực hiện được.
Khoảng giữa năm 1968, do lời yêu cầu của
phía VN, Hoa Kỳ đã tìm được kế hoạch tiếp tế cho Ares. Trung Ương báo ngay cho
anh tọa độ một số bãi thả tiếp tế và yêu cầu toán đến tận nơi nghiên cứu và báo
ngay địa điểm ưu tiên được chọn. Sau khi nhận phúc đáp, Trung Ương đã hướng dẫn
các chi tiết mà toán phải thi hành để có thể nhận tiếp tế đúng như dự liệu.
Đến ngày N, giờ G, một đoàn phản lực đã
xuất hiện bắn phá một số mục tiêu ở Hải Phòng, cùng lúc đó một phản lực cơ khác
đã bắn một thùng “container” đựng hàng tiếp tế xuống thửa ruộng đã ấn định và
được Ares đánh dấu bằng 2 cụm khói trắng như đã chỉ thị. Cách tiếp tế này đã
được thực tập 2 lần tại trại Long Thành và cả 2 lần đều đem lại kết quả mong
muốn. Trong container đựng hàng tiếp tế, ngoài lương thực, thuốc men, áo quần
còn có 10 khâu vàng để toán trao đổi thực phẩm hoặc thuốc men mỗi khi cần đến.
Ngoài các vật dụng trên, còn có 4 lá thơ, trong đó có một lá thơ thăm hỏi của
Trưởng công tác, còn 3 lá thơ khác được dán bì kín. Toán được chỉ thị dán tem
vào và tuần tự gởi đến một địa chỉ trung gian tại Thái Lan. Mỗi thơ đều có dấu
hiệu riêng mà toán không được biết lý do.
Chỉ trong một thời gian ngắn, 2 thơ có nội
dung thường đã đến tay người nhận, thơ còn nguyên xi không bị mở, nhưng thơ thứ
3 có “gài” một tài liệu bí mật giả tạo lại không đến tay người nhận. 2 tháng
sau, khi được Trung Ương hỏi về lá thơ này thì toán cho biết, trên đường đi tới
bưu điện, bị còi báo động, đương sự phải chạy tìm hầm trú ẩn, không may đánh
rơi lá thơ xuống vũng bùn nên đương sự đã không gửi. Lý do này đã khiến bạn
đồng minh Hoa Kỳ nghi ngờ lòng trung thành của Ares.
Nhiệm
vụ mới
Đến năm 1968, sau đợt tấn công của địch
vào dịp Tết Mậu Thân, Nha Kỹ Thuật phải lãnh nhận thêm rất nhiều công tác ngoại
biên với những toán mới được thành lập:
– Các toán STRATA
là những toán quân nhân được huấn luyện thuần thục để thi hành những công tác
đột kích hay phá hoại các căn cứ địch nằm trên lãnh thổ Bắc Việt.
– Các toán PICK-HILL
là những toán người Miên gốc Việt hoạt động trong lãnh thổ Cam-bốt, có nhiệm vụ
quan sát và phá hoại các căn cứ địa của VC nằm trên lãnh thổ nước láng giềng Cam-bốt.
– Các toán EARTH-ANGEL,
còn được gọi là Đề Thám, là những toán được thành lập với thành phần tù binh bộ
đội Bắc Việt hồi chánh. Các toán này hoạt động rất đắc lực, được trang bị như
bộ đội chánh quy miền Bắc. Nhờ đó họ len lỏi vào vùng địch khá dễ dàng và đã
nhiều phen lập được nhiều thành tích đáng kể. Một số toán viên sau đó đã gia
nhập Quân đội VNCH.
– Các toán SINGLETON
hoạt động riêng biệt từng cá nhân. Họ là những Việt kiều từng sống nhiều năm
tại Cam-bốt, được móc nối trở lại hoạt động nằm vùng tại Mimote, Krek, Sihanoukville,
Kratié, Ba Thu v.v… Đây là những nơi địch đặt căn cứ quân sự và hoạt động rất
mạnh. Các nhân viên này có nhiệm vụ theo dõi, báo cáo hoạt động địch và hướng
dẫn phi cơ oanh tạc lúc cần thiết.
Ngoài các toán hoạt động như trên, còn có
chương trình công tác lừa địch và ly gián địch, được gọi là chương trình Borden,
mà toán viên là những tù binh bộ đội Bắc Việt cứng đầu. Họ được học nhảy dù vài
hôm trước khi được trang bị như một toán viên rất trung thành của miền Nam: một
bản đồ, lệnh hành quân, thơ giới thiệu v.v… Các thứ này được dấu kín trong áo nhảy
và chỉ được trao cho toán viên tù binh cứng đầu mặc vào trước khi được thả dù
xuống vùng địch chiếm đóng.
Các chương trình mới này đã đem lại những
kết quả hết sức khích lệ, nên phía Hoa Kỳ đã yêu cầu phía VN chấm dứt liên lạc
với 5 toán còn lại ở miền Bắc, bằng cách ra lệnh cho các toán ấy tìm cách xâm
nhập qua Lào, trình diện với bộ đội Vang Pao hoặc rút về miền Nam. Tuy nhiên,
nhiều tháng sau khi lệnh được ban hành, không một toán nào xuất hiện.
Hướng
về những người anh em kiêu hung
Các Biệt Kích Dù bị CS bắt đã phải chịu đủ
thứ cực hình. Tuy vậy, họ vẫn giữ vững tinh thần quốc gia và đồng đội. Thái độ
cương quyết của họ đã phải làm các cán bộ CS khâm phục và gọi họ là những người
“không cải tạo được”. Mãi đến một thời gian lâu sau khi VNCH bị chiếm đóng, CS
mới tuần tự tạm trả tự do cho các tù nhân Biệt Kích.
Người được trả sớm nhất đã phải ở tù suốt
15 năm và người lâu nhất trên 20 năm.
Khi họ trở về, chúng ta đã biết thêm được
nhiều chuyện đã xảy ra khi họ công tác tại Bắc Việt. Tuy nhiên, vẫn còn một số
toán bặt tin, trong đó có toán VOI do anh
Trần
Hiếu Hòa làm trưởng toán cùng với 4 toán viên.
Toán Ares mà tôi đã đề cập ở trên và một
vài toán khác nữa, cũng đang nằm trong danh sách những toán mất tích này.
Phải chăng họ đã bị thủ tiêu hay đã hy
sinh trên đường thi hành nhiệm vụ.“Hy
sinh trong bóng tối, tất cả vì Tổ quốc”, đó là phương châm hành động mà mọi Biệt
Kích đã chấp nhận khi gia nhập vào binh chủng này.
Tôi còn nhớ năm 1970, các sĩ quan trong Bộ
chỉ huy Nha Kỹ Thuật đã được xem một cuốn phim mà một đơn vị VNCH vừa tịch thu
được của bộ đội Bắc Việt khi tấn công vào một căn cứ địch ở Mimot, Cam-bốt.
Cuốn phim ghi lại phiên tòa xét xử một toán Biệt Kích mang tên toán Jackson,
hoạt động tại vùng Nghệ Tĩnh. Bản cáo trạng rất dài, luận tội rất nặng “nào là
tay sai đế quốc Mỹ, tay sai Ngô Đình Diệm, nào là xúi dục nhân dân lật đổ chính
quyền và phá hoại tài sản nhân dân v.v…
Toán Jackson đã bị bắt toàn bộ với tất cả
vũ khí và chất nổ khi toán phá chiếc cầu thứ 2 tại Cửa Lò. Hầu hết toán viên đã
lãnh án tử hình, chỉ 1-2 người lãnh án chung thân. Điều làm anh em chúng tôi
xúc động và hãnh diện, là được chứng kiến thái độ hiên ngang và bình tĩnh của
các toán viên khi bản án tử hình được tuyên đọc.
Theo lời một nhân chứng quê ở Thọ Ninh, bà
con với một toán viên cho biết, 6 người lãnh bản án tử hình đã bị bắn ngay sau
đó, và lời nói cuối cùng của họ là:
Việt Nam Cộng Hòa muôn năm !
Tổng Thống Ngô Đình Diệm muôn năm !
Anh em chúng tôi là những người đã đi qua
nhiều trại “cải tạo” ở miền Bắc và đã được nghe nói rất nhiều về những việc làm
đáng phục của anh em Biệt Kích. Trong số đó có các vị linh mục, đại đức tuyên
úy, các bạn bè của tôi đã sống chung trại với các anh ấy. Ngoài ra, các tù hình
sự miền Bắc mà đa số chúng tôi thường gọi họ bằng danh từ “bọn hình sự”, vì
phần đông họ thuộc thành phần bất hảo, trộm cướp, đâm chém, giết người … khi
được hỏi về anh em Biệt Kích thì họ tỏ vẻ rất khâm phục.
Họ nói với tôi:
“Các anh Bê Ka là những người
rất hào hùng, cán bộ trại cũng phải nể, các anh ấy rất kỷ luật và đoàn kết với
nhau, họ thương nhau và giúp đỡ nhau. Khi một người bị biệt giam được thả hay
bị ốm, là các anh khác tìm cách giúp đỡ. Dù ai cũng đói, nhưng họ nhịn bớt phần
ăn để bồi dưỡng cho anh em bị bệnh hay bị ốm. Đã có những anh Bê Ka cướp súng
bắn cán bộ rồi chạy thoát, có nơi các anh toàn bộ đứng lên làm reo tuyệt thực
không đi lao động, nhưng cán bộ trại cũng đành phải làm ngơ …”
Riêng cá nhân tôi, trong 13 năm tù CS, đã
không may mắn gặp lại các anh em Biệt Kích, nhưng tôi không bao giờ quên những
con người hào hùng cùng chung lý tưởng đã cùng chung sống với nhau trong tình
huynh đệ chân thành. Tôi là người đã từng sống chung với họ ở trại huấn luyện
Long Thành và lúc họ lên đường đi công tác, tôi đã tiễn chân hoặc nhiều khi đã
cùng với họ bay vào vùng mục tiêu xâm nhập, đưa tay vẩy chào họ khi họ rời máy
bay … Những kỷ niệm đó khó quên được.
Những
kỷ niệm khó quên
Tôi nhớ lại năm xưa, có lần trước ngày lên
đường công tác, tôi lái xe đưa một nhân viên của tôi đến thăm lần cuối người
bạn gái, hay nói đúng hơn, một người yêu, có nhà ở hẻm xứ Bùi Phát, trên đường
Trương Minh Giảng, nay đổi tên là Lê Văn Sỹ. Đến nơi, người thanh niên ấy vội
vã bước xuống xe như muốn tận dụng những giây phút ngắn ngủi và quý báu còn
lại. Khoảng 10 phút sau, anh trở ra với người bạn gái đi theo tiễn chân, trên
tay anh còn mang một gói quà nhỏ mà tôi đoán chắc đó là quà kỷ niệm của người
yêu. Họ nhìn nhau, mắt đẫm lệ, và tôi chỉ biết im lặng cảm thông nỗi buồn chan
chứa đang xâm chiếm 2 tâm hồn. Xe chạy được một quãng đường, người thanh niên
ấy quay nhìn tôi, vừa nói vừa mở món quà: ”Đây,
anh xem, quà cô ấy tặng em”.
Tôi liếc nhìn, thấy một nắm tóc thề được
gói trong một chiếc áo lót. Cả hai chúng tôi đều im lặng trên đường về trại.
Lần khác, một nhân viên của tôi cũng sắp
lên đường, anh đến gặp tôi và trao cho tôi một chồng thơ khá dày đã đề bì sẵn
và nói:
”Anh
Dũng, anh biết em là con một, em đi nhưng em đã không dám nói thật với mẹ em.
Vì vậy, em nhờ anh mỗi tháng đến thăm mẹ em và trao cho mẹ em một bức thơ này,
nói là em đang đi học ở ngoại quốc gửi về để mẹ em yên tâm”.
Tôi xúc động nhìn người thanh niên ấy với
tất cả lòng yêu thương và mến phục. Tôi đã nhận thơ anh giao và hàng tháng, tôi
đã đến thăm mẹ em và trao cho bà quả phụ ấy bức thư của con bà. Nhưng đau đớn
thay, lá thơ cuối cùng của anh đã được trao mà “khóa học” của anh vẫn chưa mãn.
Hai nhân viên Biệt Kích mà tôi vừa kể trên
đây, cả 2 đều trở về từ cõi chết, sau gần 20 năm sống trong lao tù CS, một anh
hiện đang sống ở Cali, đó là anh Lâm,
em ruột của anh Nguyễn Ngọc Trâm, còn người kia, trước ngày tôi rời Saigon, anh
ấy đang vất vả hành nghề thợ mộc ngoài Vũng Tàu. Hy vọng một ngày không xa, anh
Độ cũng như bao nhiêu anh hùng Biệt Kích khác còn ở VN
sẽ được đoàn tụ với chúng ta tại quê hương thứ hai này.
Trung
Tá Nguyễn Văn Vinh
Tiễu sữ
cũa Trung Tá Nguyễn Văn Vinh (NVV):
Houston Sept. 04, 2011
Matthew Trần
Trung Tá Nguyễn Văn Vinh (NVV) hơn tôi (MT)
dộ 3,4 tuỗi và có bà con xa với tôi: Chúng tôi cùng quê ỡ làng Dốc Sơ và nhà
cách nhau một xóm. Làng Dốc Sơ nằm về hướng Bắc cách thành fố Huế dộ 5,6 cây
số, zọc theo quốc Lộ 1.
(Làng Dốc
sơ cũng kó giáo xứ Dốc sơ: Nơi mà sau nầy (1980?) dã một thời gian,
trỡ nên giáo xứ dược kai quãn bỡi linh mục dáng kính Tadêô Nguyễn Văn Lý dối
dầu với csVN trong vụ chúng ngăn cãn lần Cha Tadêô dưa dám thanh niên trong họ
di hành hương Dức Mẹ Lavang).
Vào tuỗi niên thiếu, chúng tôi dều được
gia-đình cho vào Huế dễ học. Chúng tôi không học chung cùng trường nhưng khi
“hè về”, chúng tôi dều trỡ về làng và thường gặp nhau hàng ngày trong các trò
tiêu khiễn cũa tuỗi trẽ như: câu cá, bắn chim.. Nếu dược sáp giữ trâu "mời"
chúng tôi theo tụi nó vào các trò chơi ban dêm thì chúng nó sẽ cho chúng
tôi ăn trái cây mà chúng nó di "ăn trộm" dược từ các vườn có trái
trong làng như: thanh trà, bưỡi, mít, cam, quýt ..vv. Những vườn nầy cũng thuộc
các gia đình bà kon cũa chúng tôi cã !! Dó là thời vàng son cũa tuỗi
trẽ mà bây chừ chúng tôi không thễ níu kéo lại dược.
Hình như anh NVV dược gọi nhập ngũ vào
khóa 3 SQTB/TD (dầu 1953) thì fãi. Tôi dược gọi nhập ngũ 6 tháng sau: Khóa 4
SQTB/TD (1953-54).
Suốt thời gian trong quân ngũ, diều khôi
hài là thĩnh thoãng chúng tôi gặp nhau, chúng tôi nhận thức ra nhau là cã hai
chúng tôi dều: dội mũ nồi (béret) xanh lục đậm, với huy hiệu (logo) LLĐB, bằng
Dù và mặc dồng fục bằng vãi zù hoa, cã 2 chúng tôi dều tự nhận biết là cùng
binh chũng LLĐB nhưng chúng tôi không biết là người kia ỡ dơn vị nào, giữ chức
vụ gì.
Trong LLĐB chúng tôi “không” có thói quen
tìm hiễu công việc cũa nhau. Chúng tôi vẫn có những SQ mặc thường fục và dược
zùng xe zân sự mang số ẫn tế. Thĩnh thoãng chúng tôi gặp nhau trên các dường fố
trong lúc lái xe ngược chiều thì chúng tôi .. hoặc là nhìn nhau mĩm cười ..
hoặc là dưa tay vẫy.. thế thôi.
Vào những ngày zầu sôi lữa bõng trước khi
VNCH bị tên fãn quốc: tướng Dương Văn Minh bán dứng cho csBV (30/04/1975) bằng
cách lên dài fát thanh ra lệnh cho chiến sĩ khắp nơi dầu hàng dịch .. vào một
hôm nào dó (April 28?/1975) trên dường dến bộ
TTM (giai doạn nầy tôi fục vụ ỡ Bộ TTM), tôi gặp Tr. Tá NVV lần cuối cùng khi
anh từ ngõ sân bay Tân Sơn Nhất lái xe nhà với gia đình ra, chúng tôi có ngừng
xe dễ noái chuyện vài fút. Đầu dề không ngoài việc hõi thăm nhau về các quyết
dịnh hệ trọng liên quan dến việc zi tãn khoãi Vietnam.
Anh NVV có hõi tôi về quyết dịnh cũa tôi
và anh cho biết là HK dã lo việc zi tãn cho anh và gia dình trong ngày hôm nay
(April 28?/1975) nhưng anh & gia dình đã không
vào fi trường dược !! Mọi ngã - ra vào - dều có xe kẹt cứng hết .. nên anh
& gia dình dang trỡ ra ..
Tôi cho anh hay là nhờ trong thời gian
trước dó, tôi đã dược fục vụ như là TVQL/ QLVNCH tại Đại Hàn, nên có liên hệ
tương dối mật thiết với DAO (VP TVQL/HK) và DAO có hứa sẽ giúp fương tiện zi
tãn. Nguyên thũy, gia-đình tôi được zự trù zi chuyễn bằng máy may, nhưng vào
ngày zự-trù, fi trường TSN bị địch fáo kích, vì vậy, cuối cùng, gia đình chúng
tôi được zi tãn bằng đường thũy (từ Tân Kãng, SG).
Thế rồi chúng tôi không gặp nhau nữa cho
dến …. năm 1992, khi tôi từ Mỹ về Vietnam dễ lo vấn dề riêng tư gia đình và dã
gặp lại anh NVV khi tôi di xem lễ ngày Chũ-Nhật tại DCCT ỡ dường Kỳ Dồng,
Sàigòn.
Vào giai doạn dó thì anh NVV dã dược csVN
trã tự zo. Gia dình anh có lập một cái tiệm cho thuê "băng" chuyện
film (lúc nớ chưa có DVD) bằng nhựa. Nó nằm đâu đó trên dường Trương Minh Giãng
(cũ). Business không dến nỗi tệ lắm.
Anh NVV hơi chán nãn khi nhận thức là tôi
vừa “về hưu” (1991?) và đang về Việtnam lúc dó tôi vào 56 tuỗi thì anh NVV
trong zai đoạn chờ chực
dễ dược fõng vấn hầu dịnh cư tại HK. Anh khá lo lắng cho tương lai.
Trong thời gian chờ dợi dễ dược HK fõng
vấn, anh may mắn dược một cựu nhân viên dang dịnh cư tại HK, gỡi cho anh một
bài báo (lá kãi) có hình ãnh cũa anh & một dám nhân viên BK cũ. Bài báo mô
tã hoạt dộng cũa anh trong quá khứ. Vì vậy, cuộc fõng vấn cũa fía HK dối với
anh trỡ nên zễ zàng. Họ giúp dỡ gia dình Tr.Tá NVV tối da dễ dược zi chuyễn
sớm.
Thế rồi gia dình cũa Tr.Tá NVV qua dịnh cự
tại Baton Rouge (Louisiana) theo lời khuyến khích cũa một cựu nhân viên cũa
anh.
Vào lúc nớ thì Tr.Tá NVV với tuỗi dã
trên zưới 6 bó, anh sống với sự trợ giúp cũa chính fũ HK. Nhân viên kũ cũng
hăng hái giúp dỡ trong khã năng. Các kon cái cũa anh thì vừa qua, họ chĩ kiếm
dược các công việc với dồng lương khiêm nhượng mà thôi.
Độ 5, 6 năm sau, một cựu nhân viên khác
cũa anh, mời gia dình anh lên Denver (CO) dễ dịnh cư và người nầy hứa là sẽ
giúp dỡ cụ thễ hơn (chỗ ỡ
free thì fãi). Hình như hoàn cãnh người nầy may mắn hơn nên họ hoặc là
thuê bao .. hay xây một ngôi nhà đễ cho gia đình Trung Tá Vinh ỡ mà chẵng fãi
lo zì về tiền thuê mướn ..
Thế là gia dình Tr Tá NVV lại zi chuyễn
một ngoai nữa. Koai bộ lần nầy cuộc sống tương dối được thoãi mãi hơn. Thêm vào
dó, một người rễ cũa anh
(cựu giáo sư Anh Văn bên VN) và người vợ, nhân zịp Bưu Diện HK dang mỡ
kỳ thi tuyễn nhân viên. Không biết 2 vợ chồng chuẫn bị ra răng mà khi thi tuyễn
vào, diễm cũa mỗi người là 100 % !! Tối da !! Thế là kã 2 vợ chồng dều dược thu
nhận vào các positions tốt. Lương khá.
Mấy sáp nhõ sau dó cũng dã lai rai bắt dầu
ra trường. Thế là cuộc sống cũa gia dình Tr. Tá NVV dược bão dãm. Anh Chị hằng
ngày chĩ có chăm lo việc tinh thần (tôn giáo) mà thôi.
Thế rồi chuyện fãi dến dã dến. Chị Vinh dã
qua dời vì một bạo bệnh ngặt nghèo. Như vậy cũng dã kách dây hơn mười năm.
Tr. Tá NVV cũng di theo chị dộ 3, 4 năm
sau.
May God rest their souls in peace.
Houston, TX 2008
Matthew Trần aka Trần Đình
Phục (TĐP)
__._,_.___
Posted
by: <vneagle_1
So why not now? Be polite and clarify why you qualify for a refund.
ReplyDeleteThis white paper particulars the how, where and why of the decisions people make before they ebook, and what travel brands should
be doing to capture market share. Five halls in level
1 of the Hong Kong Convention & Exhibition Centre (HKCEC)
shall be bustling with hundreds of people from the 9-12 June 2011 attending the ITE & MICE 2011 Expo.
· Understanding the Travel Consumer´s Path to buy: EyeforTravel
and Jumpshot tracked more than a quarter of one million travel purchasers throughout five
nations by way of clickstream information and client surveys
to build a picture of the trail to buy. EyeforTravel
performed a global, trade-vast survey of greater than 450 travel data professionals to search out out.
Therefore, EyeforTravel has been researching how knowledge is altering the face of travel by means of a sequence of investigative reports that will assist brands perceive the best way to effectively collect, perceive and utilize the huge and consistently expanding universe of knowledge.
Money is just not at all times the main criteria when you open a
corporation because some corporations like to see that smile of satisfaction on their prospects face
and this is the feeling with which Tripfur entered the travel market.