In Commemoration of
National Day of Outrage
(April 30, 1975)
Những hình ãnh về
Những hình ãnh về
Ngày Quốc Hận
Matthew Trần:
Người Việt tự zo hãi ngoại tại CHLB Đức Quốc xuống đường tại
Frankfurt đễ chống csVN độc tài thật là mạnh mẽ sắt đá:
Nhất quyết không cho kẽ fá-hoại chưng kờ máu !!
Hoan hô !!
MT
From: Ho Di
Date: 2014-04-30 0:03 GMT+02:00
Subject: TNS NGÔ THANH HẢI : NGÀY QUỐC HẬN "NHỚ ĐẾN NHỮNG HY SINH KHÔNG CẦN THIẾT"
Ngày Quốc Hận: Nhớ đến những hy
sinh không cần thiết
From: Ho Di
Date: 2014-04-30 0:03 GMT+02:00
Subject: TNS NGÔ THANH HẢI : NGÀY QUỐC HẬN "NHỚ ĐẾN NHỮNG HY SINH KHÔNG CẦN THIẾT"
Ngày Quốc Hận: Nhớ đến những hy
sinh không cần thiết
Ngày Quốc Hận năm nay 2014, tôi
dành thời giờ để tưởng nhớ đến những cuộc chiến xảy ra trên quê hương tôi kể từ
năm 1945 đến năm 1975 để nhìn lại lịch sử mong ra rút ra được bài học hữu ích
nào đó.
Sau khi chấm dứt
thế giới chiến thứ hai, với sự tham dự của các nguyên thủ 3 cường
quốc: Stalin (Liên Xô), Roosevelt (Hoa Kỳ) và Churchill (Anh),
họp từ ngày 4/11 tháng 2 năm 1945 tại cung điện
Livadia gần thành phố Yalta, miền nam Ukraine, để giải quyết những
bất đồng giữa ba cường quốc.
Hội nghị Yalta giữa Anh, Nga,
Mỹ để giải quyết ba vấn đề căn bản của thế giới:
1. Việc nhanh chóng đánh bại phát
xít.
2. Tổ chức lại thế giới sau
chiến tranh.
3. Việc phân chia thành quả
chiến thắng.
Trong hội nghị lịch sử này ba
lãnh đạo Anh, Mỹ, Nga đã đồng ý việc trao trả độc lập cho các thuộc địa do một
số cường quốc Âu Châu chiếm đóng. Hầu hết các nước thuộc địa được trao
trả độc lập một cách êm thấm như Mỹ trả lại Philippines năm 1947, Anh trả
Ấn Độ và Pakistan năm 1948.
Ở Đông Dương chỉ có Việt Nam là phải hy sinh biết
bao nhiêu xương máu của một thế hệ thanh niên mới có được độc lập. Hãy xem so sánh
sau đây để có được đánh giá đúng mức những hy sinh này có cần thiết hay không?.
Trước năm 1940: Việt Nam là thuộc
địa của Pháp và Nam Dương là thuộc địa của Hoà Lan. Cùng là hai thuộc địa của hai
nước Châu Âu, nhưng Nam Dương tốn rất ít xương máu mà vẫn có được độc lập, còn
Việt Nam hy sinh bao nhiêu sinh mạng, tài nguyên quốc gia cũng để có độc lập.
Xin nhìn vào bảng so sánh sau đây:
1- Cuối năm 1940: Nhựt thắng
Pháp tại Lạng Sơn và làm chủ Đông Dương, lúc này Pháp chỉ đóng vai trò bù nhìn.
Cũng trong cuối năm 1940 Nhựt thắng Hoà Lan và làm cai trị Nam Dương. Vậy thì cho
đến cuối năm 1940 Việt Nam và Nam Dương đều là thuộc địa của Nhật.
2- Ngày 15 tháng 8 năm 1945:
sau khi bị hai trái bom nguyên tử, Nhật đầu hàng Đồng Minh vô điều kiện.
3- Hai ngày sau tức là ngày 17
tháng 8 năm 1945 Nam Dương tuyên bố độc lập, và ông Sukarno làm Tổng Thống.
4- Hai ngày sau nữa, tức ngày
19 tháng 8 năm 1945 Việt Minh cướp chánh quyền tại Hà Nội, ông Hồ Chí Minh làm Chủ
Tịch nước. (2/9/45).
5- Ngay sau đó Pháp trở lại
chiếm Việt Nam và Hoà Lan trở lại tái chiếm Nam Dương.
6- Việt Nam và Nam Dương bắt đầu
kháng chiến. Đến giai đoạn này thì Việt Nam và Nam Dương giống nhau như
hai giọt nước, nhưng sau đó Việt Nam bắt đầu đi vào con đường hủy diệt cả một
thế hệ thanh niên và làm điêu tàn đất nước.
Nam Dương bắt đầu cuộc kháng chiến
từ năm 1945 đến năm 1949 thì Mỹ can thiệp và buộc Hoà Lan phải chấm dứt chiến
tranh và trao trả độc lập cho Nam Dương, Hoà Lan yếu thế phải rút quân về nước.
Nam
Dương kháng chiến chỉ có bốn năm đã giành được độc lập và được Mỹ ủng hộ gia nhập
Liên Hiệp Quốc.
Ngược lại, Việt Nam kháng chiến
gian khổ chín năm từ năm 1945 đến 1954 thì đất nước bị chia hai và người cộng
sản chỉ chiếm được Miền Bắc và làm cho cả triệu người kinh hãi cộng sản di cư
vào Miền nam. Tại sao lại có sự khác biệt như vậy giữa Việt Nam và Nam
Dương?
Câu trả lời thật đơn giản, nhưng
gây đau thương quá nhiều cho dân tộc. Vì Nam Dương tranh đấu theo đường lối
quốc gia, dân tộc. Đường lối này phù hợp với quyền lợi Mỹ, nên Mỹ ủng hộ,
do đó cuộc chiến của người Nam Dương ngắn và tiết kiệm biết bao nhiêu xương máu
của đồng bào họ, đất nước họ.
Còn Việt Nam kháng chiến theo đường
lối cộng sản, xung khắc với quyền lợi Hoa Kỳ, chẳng những Mỹ không giúp người cộng
sản đánh Pháp mà còn giúp Pháp đánh họ, do đó cuộc chiến kéo dài chín năm tiêu
hao biết bao xương máu của cả một thế hệ trẻ Việt Nam, làm kiệt quệ đất nước,
dân chúng đau khổ, cùng cực chín năm trời (theo ông Hoài Sơn Ung Ngọc Nghiã). Thật
đau thương cho thế hệ cha anh chúng tôi hy sinh vô nghĩa cho chủ thuyết cộng
sản ngoại lai này.
Đó là chưa kể đến cả trăm ngàn nông
dân vô tội bị chết oan ức trong chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất theo lệnh của quan
thầy Trung Cộng.
Theo tài liệu thì trong chín năm
chống Pháp chỉ riêng với trận Điện Biên Phủ (ĐBP), người cộng sản đã bắt ép 260,000
dân đi làm dân công chiến trường và “động viên” được 20,911 người đi kéo xe thồ
chở lương thực cho bộ đội.
Họ bị thiệt hại 4,020 người theo hồ sơ
quân y của Việt Nam, 9.691 người bị thương, và 792 mất tích. Và trong trận ĐBP
họ cũng “sáng tạo” được bốn tên anh hùng Bế Văn Đàn,Phan Đình
Giót, Tô Vĩnh Diện, Trần Can. Thảm thương nhất cho Đại Đội 360,
sau khi hành quân xong chỉ còn vỏn vẹn 5 người (theo Wikipedia).
Đó là
con số do Hà Nội đưa ra, thường khác xa với thực tế từ 5 đến 10 lần. Thí
dụ Phạm Văn Đồng tuyên bố tại Paris năm 1982 rằng có khoảng 100 ngàn sĩ quan và
viên chức VNCH được tập trung cải tạo, nhưng trên thực tế gần 1 triệu người bị
giam cầm trong các trại lao động khổ sai.
Tóm lại, nếu người cộng sản kháng
chiến theo đường lối quốc gia dân tộc thì Việt Nam có thể đã độc lập từ năm 1949
như Nam Dương, và sẽ không có cuộc phân chia Nam Bắc năm 1954 mà hậu quả dẫn
đến cuộc chiến tàn khốc từ năm 1954 đến 1975. Và sau đây tôi xin trình bày thêm
hậu quả của cuộc xâm lược phương Bắc và sự tự vệ của người lính Việt Nam Cộng
Hoà miền Nam.
Sau chiến thắng “thần thánh” ĐBP họ
lại ký hiệp định Genève với Pháp để chia đôi Việt Nam. Đại diện phái đoàn
VNDCCH do ông Nguyễn Trung Vinh đã vui mừng ký hiệp định và coi đó là một chiến
thắng của Hà Nội.
Trái lại, phái đoàn Miền Nam do bác sĩ Trần văn Đỗ đã khóc
khi ký tên vào hiệp định. Bác sĩ Đỗ có lẽ nghĩ rằng ngày ký lại một lần nữa là
ngày bắt đầu sự đau thương mới cho dân tộc, cho cả hai miền đất nước.
Hiệp định Genève vừa ký, người cộng
sản phải tập kết về Miền Bắc để chờ cuộc Tổng Tuyển Cử thống nhất đất nước theo
hiệp định, nhưng ngay khi chiếc tàu chở người tập kết rời bến sông Ông Đốc, Cà
Mau năm 1954, Lê Duẩn lén trốn ở lại cùng với quân trang, quân dụng họ chôn
giấu để thực hiện cuộc chiến tranh xâm chiếm Miền Nam.
Họ thực hiện cuộc
chiến không phải vì tổ quốc, dân tộc Việt Nam, mà vì quốc tế vô sản, họ chiến
đấu cho Liên Xô, Trung Cộng. Chính Hồ Chí Minh, Lê Duẩn tuyên bố như vậy.
Vì
vậy họ không hề thương xót máu xương dân tộc Việt, họ đánh cho tới người Việt
Nam cuối cùng để tỏ lòng trung thành với quan thầy của họ.
Chỉ nhìn sơ lược cuộc chiến từ sau
1954 đến 1975 với những trận đánh điển hình, vang dội như:
1. Trận Tết Mậu Thân
Theo Đại Tướng cộng sản Phạm Văn
Trà nói: “Tiểu đoàn chúng tôi ngày xuất quân với 7 đại đội đủ quân, xấp xỉ một ngàn
tay súng, sau khi kết thúc đợt 1, chỉ còn trên một trăm cán bộ, chiến sĩ.
Có
tiểu đoàn khi đánh vào Cần Thơ bộ đội ngồi chật cả trăm xuồng, khi ra chỉ còn
vài chục chiếc, mỗi chiếc chở vài anh em” (bên Thắng Cuộc, Huy Đức). Ông
Võ Văn Kiệt có mặt gần đình Bình Đông, quận Tám nói: “Những người trực tiếp ở
chiến trường như ông phải chứng kiến sự hy sinh quá lớn, lúc đó tôi đau đến mức
nhiều lần bật khóc.
Hơn 11 vạn quân (110,000) giải phóng đã hy sinh trên
toàn chiến trường, còn thương vong của dân chúng thì không thể nào tính được”
(Bên Thắng Cuộc, Huy Đức).
2. Mùa Hè Đỏ Lửa
Chiến dịch Xuân hè 1972 xảy ra trên
3 mặt trận chính:
- Mặt trận Trị Thiên Huế (Vùng
1 chiến thuật), ở hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên - Huế (từ
30/3 tới 31/1/1973) với 40.000 quân chính quy miền Bắc. Trong tháng 4 và 5/72,
hai Sư đoàn 320 và 325 từ miền Bắc tiến xuống và Sư đoàn 312 từ Lào
về tăng cường tấn công Cam Lộ, La Vang, Hải Lăng và thành phố Quảng Trị.
- Mặt trận Bắc Tây Nguyên (từ
30/3 đến 5/6/1972) tại Đăk Tô, Tân Cảnh, Kon Tum có 20.000 quân.
- Mặt trận Lộc Ninh, Bình
Long và dọc đường 13, có 30.000-40.000 quân.
Ba Sư đoàn 304, 308, 324, Mặt trận
B5 (4 trung đoàn), 1 trung đoàn hỏa tiễn, 4 trung đoàn pháo binh, 3 trung đoàn chiến
xa và 2 trung đoàn biệt lập địa phương.
Cùng với 150.000 tay súng của cái
gọi là Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam
Việt Nam và Sư đoàn 324B của cộng sản.
Kết quả, sau khi đã sử dụng 14 sư
đoàn và 26 trung đoàn độc lập (gần như toàn bộ quân đội của mình) cho cuộc tấn
công, đã chịu thương vong khoảng 100.000 người (Hoa Kỳ ước tính), mất hầu hết
số xe tăng (58 xe tăng T-54, 18 xe tăng T-59 do Trung Quốc chế tạo, 27 xe
tăng lội nước hạng nhẹ PT-76 do Ba Lan chế tạo, cùng với hơn
700 xe tăng, xe thiết giáp các loại(theo Wikipedia).
3. Trận Chiến 30/4/75:
Nhà báo Pháp Pierre Darcourt viết
về những ngày giờ cuối của Việt Nam Cộng Hoà: Tận Mắt coi Trận Bom CBU 55 Lần
Thứ 2: “Hai, rồi bốn, rồi sáu chiến đấu cơ A.37 đâm bổ xuống tác xạ từ phía
sau của đoàn xe gây nhiều đám cháy, lửa khói mịt mù. Vài giây sau đó lại có hai
chiếc vận tải cơ C.130 thả xuống từ trên cao hai thùng tròn đen, có dù, và khi gần
chạm đất gây ra hai tiếng nổ thật kinh khủng và phi thường, tiếp theo sau đó là
hai lằn ánh sáng ngắn màu xanh kỳ dị. Trọn một binh đoàn Bắc Việt với chiến xa
đại pháo bị huỷ diệt chỉ trong một nháy mắt...”
Tổn thất chung:
1. Người Mỹ có số thương vong
cao nhất với hơn 58.000 người chết và hơn 305.000 người bị thương (trong đó 153.000
bị thương nặng hoặc tàn phế). Vào khoảng từ 4.400 đến 5.000 binh sĩ Nam
Hàn bị chết; Úc có khoảng 500 chết và hơn 3.000 bị
thương; New Zealand 38 chết và 187 bị thương; Thái Lan 351
chết và bị thương; còn Philippines vẫn chưa có con số thống kê cụ thể.
2. Quân đội cộng sản Việt
Nam và cái gọi là Quân Giải Phóng Miền Nam.
Số liệu chính thức về thương vong
của phía cộng sản được chính thức công bố gần đây nhất là:
·1,1 triệu quân nhân chết, trong
số đó có 300.000 quân nhân vẫn mất tích (chưa tìm được xác)
·600.000 quân nhân bị thương hoặc
bị bệnh (theo Wikipedia).
3 .Quân lực Việt Nam Cộng Hòa
·Khoảng 250.000-316.000 tử trận
hoặc mất tích.
·Khoảng 1.170.000 bị thương.
Con số 220.357 tử trận được Lewy
dẫn từ tài liệu lưu trữ của Bộ Quốc Phòng Mỹ, tính từ năm 1965 đến
năm 1974. Cộng thêm con số tử trận trong giai đoạn 1974-1975 và trước đó cho ra
ước tính khoảng hơn 250.000 tử trận. Nhà sử học R.J. Rummel đưa ra con số ước
tính cao nhất có thể lên tới 316.000 tử trận.
Quân đội và nhân dân hai miền Nam
Bắc là dân tộc Việt. Máu xương của quân đội hai miền là máu xương của con
dân Việt. Người cộng sản chỉ vì tuân lệnh Liên Xô, Trung Cộng để làm nghĩa vụ
quốc tế vô sản mà dân tộc mất cả núi xương, sông máu, hủy diệt tài nguyên đất
nước, làm tan nát quê hương, đất nước nghèo nàn, tụt hậu.
Nếu Việt Nam không có đại hoạ cộng
sản thì ta chắc chắn không kém gì Thái Lan, Nam Hàn. Thêm một thế hệ Việt
Nam hy sinh cho chủ thuyết cộng sản ngoại lai một cách đau thương và không cần
thiết.
Đó là những tổn thất vô cùng lớn
lao cho cả hai thế hệ thanh niên, làm mất đi không biết bao nhiêu tài nguyên của
đất nước. Nhưng điều quan trọng nhất là nếu đảng cộng sản Việt nam vẫn
tiếp tục tồn tại, nó sẽ còn góp phần cản trở sự phát triển của quốc gia và đất
nước sẽ lâm nguy trước hiểm hoạ bành trướng của Trung cộng.
Vì vậy, với tư cách là một Thượng
Nghị Sĩ Canada gốc Việt Nam, tôi yêu cầu nhà cầm quyền Hà Nội thực hiện những điểm
cốt yếu sau đây:
1- Thả ngay lập tức, vô điều
kiện những tù nhân lương tâm, những tù nhân chánh trị, và giải tỏa tất cả mọi
sự quản thúc tại gia đối với những nhân vật bất đồng chánh kiến và tôn giáo.
2- Thành tâm thực hiện Hoà Giải
Hoà Hợp dân tộc, không dùng chiêu bài HHHG, hay chỉ có Hoà Hợp mà thôi, để hoá giải
những lỗi lầm mà họ đã gây ra trong quá khứ. HGHH với người dân trong nước
trước vì họ là nạn nhân hiện tại của chế độ. Nếu đồng bào trong nước chấp
nhận, sẽ thực hiện với kiều bào hải ngoại. Những tội phạm chiến tranh phải đem
ra xét xử trước công lý và những nạn nhân phải được bồi thường thỏa đáng là
những bước đầu để hòa giải.
3- Phải minh định bằng luật và thực
hiện đầy đủ rằng mọi người được hưởng quyền làm người đã ghi trong bản
Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền.
4- Phải chấp nhận, tôn trọng
đa đảng trong sinh hoạt chánh trị.
5- Phải bảo đảm bằng pháp luật
là mọi người dân có quyền tư hữu, được sở hữu ngôi nhà, mảnh đất, miếng ruộng,
tài sản của họ, kể cả tài sản trí tuệ.
6- Phi đảng hóa trong bộ máy
công quyền kể cả quân đội, cảnh sát và công an.
Tôi tin tưởng mãnh liệt rằng với
nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, với nhân lực dồi dào và trẻ, với bản tính
cần cù, nhẫn nại, cộng thêm nguồn năng lực trí tuệ trẻ ở hải ngoại, chừng
20 năm con rồng Việt Nam sẽ cất cánh bay lên ngang hàng cùng Thái Lan, Đài
Loan, có thể gần bằng Nam Hàn, Singapore, và sẽ không hề thua kém họ.
Và bản thân tôi cũng có trách nhiệm
với đất nước, dân tộc tôi. Chừng nào tôi còn là Thượng Nghị Sĩ, tôi sẽ vận động
chánh quyền Canada giúp đỡ phát triển, đầu tư vào Việt Nam, tôi sẽ xin những
nước chủ nợ xoá, giảm nợ và hỗ trợ Việt Nam trong những kế hoạch kinh tế lớn
của họ. Điều này chỉ xảy ra khi người dân Việt Nam có đầy đủ quyền tự do,
dân chủ và nhân quyền.
Ngô Thanh Hải
*Ông Ngô Thanh Hải hiện nay là Thượng nghị sĩ
thuộc Đảng Bảo thủ Canada đại diện cho tỉnh bang Ontario.
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết