“ĐI NHƯ RI LÀ MẤT NƯỚC!”
11/03/2014 UBTTTADCSVN NO COMMENTS
“ĐI NHƯ RI LÀ MẤT NƯỚC!”
Ngô Đình
Diệm
“Viết với
Tổng Thống Ngô Đình Diệm
Mở đầu trang nhật ký, con viết cho cụ. Con nghĩ
rằng cụ chưa chết, chưa thể chết được.
Cụ có biết con buồn khổ suốt tuần lễ không? Dinh
Gia Long bây giờ đồi với con xa lạ rồi. Cụ đã ra đi không bao giờ trở lại.
Những ngày sống bên cụ, phục vụ không quên được.
Con sẽ ghi lại về cụ, người con hằng yêu mến
suốt đời.
Đỗ Thọ
Saigon, 4/11/1963”
Ra đi!
“Giờ phút rời khỏi hầm nhanh chóng không thể
tưởng tượng được. Tôi, Đại úy Lê Công Hoàn, Đại úy Lộc, Đại úy Bằng, ông già Ẩn
đang quay quần chung quanh Tổng Thống. Ông Ngô Đình Nhu từ ngoài hành lang vào
nhìn Tổng Thống Ngô Đình Diệm nói: “Đi! Sửa soạn đi”. Tổng Thống vẫn ngồi, mắt
ngước lên hỏi ông Nhu: “Đi mô”. Ông Nhu đáp lại: “Cứ đi đã”. Tổng Thống gọi ông
già Ẩn: “Lấy chiếc kẹp (cặp) xuống đây”. Ông già Ẩn nhanh chân đưa xuống chiếc
“cặp da” cho Tổng Thống. Tổng Thống nói với những sĩ quan có mặt: “Đi một đứa
thôi”. Tất cả đều hiểu ý Thổng Thống nhưng Tổng Thống lại không chỉ định dứt
khoát ai theo Tổng Thống.
Chiếc cặp da được đặt trên bàn trước mặt Tổng
Thống.
Tổng Thống đứng dậy (chuẩn bị đi) trao cho Đại
úy Lê Công Hoàn chiếc cặp da đó. Như thế có nghĩa là Hoàn được Tổng Thống chọn
đi theo.
Tổng Thống bất thần ngừng lại cửa hầm ít giây
trong khi đó tôi lấy chiếc cặp da trên tay Lê Công Hoàn và thưa với Tổng Thống:
“Hoàn đã có vợ con, xin cụ cho con được thay thế”. Tổng Thống nhìn tôi hơi khẽ
gật đầu rồi bước đi. Tôi tạm biệt Lê công Hoàn chạy theo Tổng Thống cho kịp
thời gian đòi hỏi.
Buổi chiều ấy, Tổng Thống Ngô Đình Diệm lót dạ
một tô cháo gà do ông già Ẩn mang xuống hầm. Tổng Thống uể oải cầm thìa múc
cháo, một cử chỉ bệ rạc mất rồi. Tổng Thống nhìn các sĩ quan chung quang rồi
nói với ông già Ẩn: “Múc vài tô nữa cho anh em ăn với”…
Cũng tô cháo này là bữa ăn phục dịch cuối cùng
của ông già Ẩn đối với Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
Lúc rời khỏi hầm, tôi thấy tô cháo còn nguyên
vẹn đang nằm hờ hững trên bàn. Lúc ấy là 7 giờ 10 phút tối 1-11-1963.
Còn gì buồn hơn. Còn gì kỷ niệm hơn một buổi tối
ảm đạm như thế. Một buổi tối mà số mệnh của tất cả những người có mặt trong
dinh Gia Long vô cùng bấp bênh. Đồng thời mang đến buồn tẻ, tủi nhục tiễn đưa
một vị Tổng Thống đến một phương trời vô định”
(Trích Nhật Ký Đỗ Thọ, tr. 193-194)
“Tôi đứng sát Tổng Thống ngay khi cụ rời dinh Gia Long và
nghe cụ lẩm bẩm: “Đi như ri là mất nước”"!
(Lời cụ Cao Xuân Vỹ)
Vâng! Cách đây đúng 51 năm về trước, vào lúc 7
giờ 10 phút chiều ngày 1-11-1963, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã nói lời cuối cùng
“ĐI NHƯ RI LÀ MẤT NƯỚC” tại dinh Gia Long, nơi tượng trưng cho uy quyền quốc gia
trong suốt bao năm qua, ngay khi Tổng Thống và ông cố vấn Ngô Đình Nhu ra đi…
Thế rồi, vào khoảng 10 sáng ngày 02-11-1963, đài
phát thanh Sài Gòn loan tin “Diệm Nhu đã tự vẫn”. Trước tin sửng sốt này, cả
thế giới bàng hoàng rồi phản ứng như sau:
I.- CỘNG SẢN REO MỪNG:
Khoảng hai chiều ngày
02-11-1963, tại thủ đô Hà-Nội, khi Hồ Tập Chương (tức quốc tặc Hồ Chí
Minh) biết chắc Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã bị giết chết, ông ta nói với những
nhân viên thân tín của ông ta như sau: “Lúc nãy người ta báo cho Bác biết là
Diệm vừa bị lật đổ. Ông Diệm là kẻ địch thủ ghê gớm nhất của Bác. "Nay
Ông ta đã bị loại rồi, thì chiến thắng chắc chắn sẽ về ta rồi."
“Lịch sử Miền Nam Việt
Nam từ năm1963 đến 1975 có thể thâu gọn trong câu nói đó, và những người tự
nhận là thuộc về Đệ Nhất Cộng Hoà nên nhắc nhủ những cá nhân, hay đoàn thể, đã
nhúng tay vào việc lật đổ và hạ sát Tổng Thống Ngô Đình Diệm nên suy nghĩ về câu
nói đó và trách nhiệm của mình về những gì đã xảy ra từ năm 1963 đến nay…
1.- Trong những năm
trước năm 1963, trong số ký giả Hoa Kỳ ở Sài Gòn có ông Keyes Beech, đặc phái
viên của báo Chicago Tribune, một nhà báo rất được kính nể. Năm 1963 ông này
không vào hùa với đám ký giả tay sai của bọn tài phiệt buôn bán chiến tranh
trên xương máu người dân Việt, chống Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Sau năm 1963,
ông vẫn được ở lại Saì Gòn, và ông vẫn thân thiện với tôi. Một hôm, trong những
chuyện ông kể cho tôi nghe có chuyện sau đây. Ông ta nói: "You know, on
the afternoon of the day President Diem was overthrown, I was in a bar in
Pnom-Penh. Sitting next to me was Wilfrid Burchett. We were not friends. But on
hearing the news about President Diem’s death, he turned to me and said:
"It's unbelievable! They have killed the only man with the ideas and the
organisation that can stop us". ("Thật là không thể tin được: chúng
nó đã giết chết người duy nhất có tư tưởng và tổ chức có thể chận chúng
tôi"). Wilfrid Burchett không nói rõ "chúng nó và "chúng
tôi" là ai, nhưng chúng ta cũng có thể thấy rõ là "chúng nó" là
phe chống cộng, và "chúng tôi" là phe cộng sản.
2.- Hồi trẻ, trước năm
1945, ở Huế, tôi quen thân bà Hồ Thị Mộng Chi. Nhưng sau 1954, bà tỏ ra thân
với phía Bắc Việt. Còn tôi lại cộng tác với Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Vì vậy
tôi không đi lại với gia đình Bà Hồ Thị Mộng Chi nữa. Sau 1960, và nhất là sau
1968, thì "chiến tuyến" lại càng rõ ràng hơn nữa, vì Bà Hồ Thị Mộng
Chi làm bí thư cho Bà Nguyễn Thị Bình. Hai người con bà Chi cũng
"anti-Saigon" rất hăng, và khi "phe ta" thắng trận năm 1975
mẹ con đều dắt nhau về Việt Nam ngay. Qua bạn bè, đặc biệt là anh Bửu Kỉnh (nay
đã mất), một người bạn thân của gia đình bà Chi, và cũng thân tôi làm trung
gian, tôi gặp lại bà Hồ Thị Mộng Chi tại Pháp. Trong buổi tái ngộ, chúng tôi
nói chuyện lông bông luôn mấy tiếng đồng hồ. Tôi ngồi nghe nhiều hơn nói, và
nghe ba mẹ con bà đua nhau đả kích Việt Cộng kịch liệt! Tôi sửng sốt. Tôi không
dám hỏi tại sao, nhưng chỉ đoán, nhớ bà Chi nói "tụi nó tệ lắm". Tôi
được anh Bửu Kỉnh cho biết, trước đó trong chuyến về Việt Nam mẹ con bà không
được Việt Cọng tiếp đón niềm nở, vì nó thắng rồi nên không cần đến bà nữa. Bà
lại tưởng rằng vì bà là người có công, nhất là đã giúp cộng sản trong việc
tuyên truyền (con đại thần Triều Nguyễn mà lại đứng về phe cách mạng, lại là bí
thư của Bà Nguyễn Thị Bình, ở ngay Paris, trong những cuộc đàm phán hệ trọng).
Còn người con thì thổ lộ: "tụi nó dốt quá" (nó nói rằng Mã Lai không
phải là quốc gia độc lập, còn Lê Đức Thọ, được anh ta dẫn đi coi thành tựu kinh
tế kỹ nghệ Pháp lúc viếng thăm Paris thì cho rằng "chẳng có gì đáng để
ý")!! Nhưng điều đáng ghi nhất là giây phút chót của cuộc tái ngộ. Lúc đó
cũng gần 12 giờ khuya. Bà Chi đưa tôi ra cửa, và cùng tôi đi mấy bước ra giữa
phố, lúc đó vắng. Tôi không hề đề cập gì đến ông Diệm trong cuộc gặp gỡ, nhưng
trước khi chia tay bà ta nói: "Nghĩ kỹ lại, chỉ có Ông Diệm là hơn
hết!" (Trích “Cộng Sản Nghĩ Sao Về Tổng Thống Ngô Đình Diệm của GS Tôn
Thất Thiện).
3.- Trở lại chuyện ký
giả cộng sản nổi tiếng Wilfrid Burchett, khi ông ta gặp quốc tặc Hồ Chí Minh,
ông Minh nói với Wilfrid Burchett rằng: "Tôi không thể ngờ rằng tụi Mỹ ngu đến thế".
Còn đài phát thanh Hà
Nội, buổi tối ngày 02-11-1963 đã bỉnh luận như sau: "Do sự lật đổ Ngô Đình
Diệm và em ông là Ngô Đình Nhu, tụi đế quốc Mỹ đã tự mình hủy diệt những cơ sở
chính trị mà họ Ngô đã mất biết bao nhiêu năm để xây dựng"
Về phía cái gọi là Mặt
Trận Giải Phóng Miền Nam thì bọn chúng không ngờ, bọn chúng lại may mắn như
thế. Nên ông Nguyễn Hữu Thọ nói với báo Nhân Dân: "Sự lật đổ Diệm là một
món quà mà Trời ban cho chúng tôi."
Và tên Phó Chủ Tịch Trần
Nam Trung nói: "Tụi Mỹ quyết định đổi ngựa giữa dòng. Chúng sẽ không khi
nào tìm được một người hữu hiệu hơn ông Diệm."
Ngoài ra, tên tướng CS
Võ Nguyên Giáp và những đồng bọn còn sống sót của ông Hồ Chí Minh, sau này gặp
Ông Robert McNamara ở Hà Nội tháng 11 năm 1995, đã nói rằng: "Chính sách
Kennedy ở Việt Nam sai lầm hết chỗ nói. Ngô Đình Diệm là một người có tinh thần
quốc gia, không khi nào ông chịu để cho người Mỹ dành quyền điều khiển chiến
tranh, và sự người Mỹ dành quyền đã đưa người Mỹ đến thất bại đắt giá. Cho nên,
kết quả của cuộc đảo chánh lật đổ ông Diệm năm 1963 là sự kết thúc sớm [sự hiện
diện] Hoa Kỳ ở Việt Nam, một điều đáng làm cho người ta ngạc nhiên"
II.- CHÍNH QUYỀN HOA KỲ THÚ NHẬN:
Tổng Thống John
Kennedy thú nhận rằng:
1.- "Cuộc đảo chánh đã xẩy ra tại Sài Gòn
vào cuối tuần qua. Nó là tột đỉnh của cuộc thảo luận trong ba tháng về một cuộc
đảo chánh, một cuộc thảo luận đã gây chia rẽ trong chính quyền ở đây và ở Sài
Gòn".
2.- "Tôi cảm thấy chúng ta phải gánh vác rất nhiều trách
nhiệm vì nó đã khởi sự bằng điện văn của chúng ta (mang số 243 được gửi váo cuối tháng Tám, chính
xác là vào hồi 9 giờ 36 phút tối thứ Bảy, 24 tháng 8, 1963, từ Bộ
Ngoại Giao Hoa Kỳ ở Washington, cho Đại sứ Lodge ở Sài Gòn) gửi vào đầu tháng Tám trong đó chúng ta
gợi ý cuộc đảo chánh".
3.- "Theo nhận định của tôi điện văn đó đã được thảo quá tệ,
đáng lẽ nó không bao giờ được gửi đi vào một ngày Thứ Bảy. Đáng lẽ tôi đã không
nên chấp thuận nó mà không qua một cuộc thảo luận bàn tròn để qua đó Robert
McNamara và Maxwell Taylor có thể trình bầy quan điểm của họ. Còn Tướng Paul
Harkins tiếp tục chống đối cuộc đảo chánh trên căn bản là nỗ lực quân sự đang
tiến hành tốt đẹp".
4.- "Tôi đã bị sốc về cái chết của Diệm và
Nhu. Tôi đã gặp Diệm với Thẩm Phán Tối Cao Douglas nhiều năm trước. Ông đã là
người có cá tính ngoại hạng và trong khi ông gặp khó khăn vào những tháng vừa
rồi nhưng trong khoảng mười năm qua ông đã giữ vững nước ông để duy trì được
nền đôc lập dưới những nghịch cảnh rất khó khăn".
5.- "Cách mà ông đã bị giết thật kinh
khủng. Vấn đề bây giờ là liệu các tướng có thể đoàn kết với nhau để cùng xây
dựng một chính quyền ổn định, hay là Sài Gòn sẽ bắt đầu, công luận tại Sài Gòn,
trí thức, sinh viên, vân vân sẽ chỉ trích chính quyền này như là áp bức và phi
dân chủ trong một tương lai không xa”.
6.- Phe chống đảo chánh gồm: "Tướng Maxwell Taylor, Bộ
Trưởng Tư Pháp Robert Kennedy, Bộ Trưởng Quốc Phòng Robert McNamara, Tổng
Giám Đốc CIA John McCone".
7.- Phe ủng hộ đảo chánh: "Bộ Ngoại Giao, dẫn đầu bởi Averell
Harriman, George Ball, Michael Forestal, Roger Hilsman.
8.- Michel Forrestal chỉ là một thứ thiên lôi chỉ đâu đánh
đấy của Averell Harriman.
9.- Averell W.Harriman đã có biệt danh “cá sấu”. Tại bàn hội
nghị, mắt ông ta lúc nào cũng lim dim như mắt cá sấu nằm bên bờ lạch, lâu lâu
“táp” một cái, con mồi khó thoát.
10.- Bobby Kennedy đã tặng ông ta một con cá sấu nhỏ bằng vàng, và
nhân viên ông ta tặng một con bằng bạc, coi như kỷ vật “từ các nạn nhân”. Cá
sấu Averell W. Harriman đợi hơn một năm, táp được anh em Cố TT Ngô Đình Diệm.
III.- NHỮNG TIẾT LỘ:
Sau đây là lời tuyên bố
của cố Tổng Thống Lyndon B. Johnson được ghi lại trong một cuốn băng dài 30
tiếng đồng hồ do thư viện Johson Library ở Austin, Texas, công bố ngày
28.2.2003 vừa qua. Những đoạn băng này cho thấy khi chiến tranh Việt Nam đang ở
vào thời kỳ gay go nhất, Tổng Thống Lyndon B. Johnson đã gặp khó khăn vì sự
chống đối của Quốc Hội. Ông bị giằn vặt về sự thất bại trong việc lãnh đạo
chiến tranh Việt Nam. Ông nói: “Tôi không thể rút ra, tôi không thể chính là
kiến trúc sư của sự đầu hàng” (I can’t get out, I just can’t be the architect
of surrender)
Tài liệu này được công
bố sau 40 năm kể từ khi Hoa Kỳ thuê một số tướng lãnh Việt Nam làm đảo chánh
lật đổ và giết chết ông Ngô Đình Diệm, khởi đầu cho việc đưa quân vào miền Nam
Việt Nam.
Tài liệu vừa được công
bố trên cho biết, vào ngày 1.2.1966, Tổng Thống Johnson đã gọi điện thoại cho
Thượng Nghị Sĩ Eugene McCarthay than phiền về việc chính quyền Kennedy (lúc đó
ông Johnson là Phó Tổng Thống) và liên minh cánh tả của ông ta ở Thượng Viện đã
ủng hộ việc ông ta đi vào cuộc chiến Việt Nam, nhưng lại không ủng hộ ông trong
việc tiếp tục cuộc chiến đó. Ông nhắc lại chuyện chính quyền Kennedy tổ chức
giết ông Diệm để có thể tham chiến ở Việt Nam:
“Ngài nhớ, lúc đầu họ
nói với tôi về Diệm. Ông ta tham nhũng và ông ta phải bị giết. Vì thế, chúng ta
đã giết ông ta. Tất cả chúng ta đã họp lại với nhau và sử dụng một bọn "ác
ôn côn đồ đáng nguyễn rủa" để hạ sát ông ta. Bây giờ chúng ta không có
sự ổn định chính trị [ở Miền Nam Việt Nam] khởi sự từ lúc đó.”
(They started on me with
Diem. He was corrupt and he ought to be killed. So we killed him. We all got
together and got a goddam bunch of thugs and assassinated him. Now, we’ve
really had no political stability [in South Vietnam] since then.)
Ít phút sau, trong một
cuộc nói chuyện với Tướng Maxwell D. Taylor đang là Đại Sứ Hoa Kỳ ở Nam Việt
Nam, Tổng Thống Johnson lại nhắc lại điều đó. Ông nói với Tướng Taylor: “Họ
khởi đầu và nói: Chúng ta phải giết Diệm, bởi vì ông ta không tốt. Chúng ta
hãy, chúng ta hãy lật đổ ông ta. Và chúng ta đã làm.” (They started out and said,
“We got to kill Diem, because he’s no damn good. Let’s, let’s knock him off.
And we did.)
Tướng Taylor đồng ý:
“Phải, sự việc đã khởi đầu tất cả như thế. Đúng là sự việc đã khởi đầu như
thế.” (Yeah, that’s where it all started. That’s exactly where it started!”)
Tổng Thống Johnson giận
dữ trả lời: “Và lúc đó tôi đã van nài họ, ‘Xin vui lòng đừng làm điều đó’.
Nhưng sự việc vẫn được khởi sự. Và họ đã lật đổ ông ta.” (“And I just pled with
them at the time, 'Please, don't do it.' But that's where it started. And they
knocked him off.”)
Trong một bài dưới nhan
đề “What's Hidden in the LBJ Tapes. Johnson thought JFK was responsible for the
murder of Ngo Dinh Diem.” đăng trên tuần san Weekly Standard ngày 29.9.2003,
James Osen đã trình bày và phân tích đoạn băng này với kết luận rằng Tổng Thống
Kennedy phải chịu trách nhiệm về cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Tác giả
đã nhắc lại chuyện một nhân viên CIA là Everette Howard Hunt đã làm các điện
văn giả để giúp Tổng Thống Nixon chứng minh Tổng Thống Kennedy dính líu đến
việc hạ sát Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
Người ta nhớ lại hôm
19.6.1972, hai ngày sau khi vụ Watergate bùng nổ, một nhân viên của Safemasters
Company và một nhân viên của Sở Mật Vụ (Secret Service) đã đột nhập vào phòng
522 của Tòa Bạch Ốc, nơi chứa những tài liệu của một người tên là Everette
Howard Hunt, một nhân viên CIA có nhiệm vụ giúp Tổng Thống Nixon. Tại đây các
nhân viên điều tra đã khám phá ra hàng trăm điện văn (cables) ghi lại các biến
cố đưa đến cuộc đảo chánh vào ngày 1 tháng 11 năm 1963 ở Nam Việt Nam với kết
quả là Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông cố vấn Ngô Đình Nhu bị hạ sát. Các nhân
viên điều tra cũng khám phá ra hai điện văn giả về ông Diệm do Everette Howard
Hunt làm với ẩn ý nói rằng chính quyền của Tổng Thống Kennedy và chính ông ta
đã can dự vào việc giết hai nhân vật này.
Everette Howard Hunt
sinh năm 1918, đã làm việc cho CIA từ 1949 đến 1970. Trước đó, ông ta bị coi là
một nghi can quan trọng trong vụ giết Tổng Thống Kennedy vào ngày 22.11.1963,
nhưng không bị truy tố vì “không đủ yếu tố buộc tội”. Trong vụ đặt máy nghe lén
nơi họp của Đảng Dân Chủ, ông đã bị phạt 8 năm tù.
Qua những lời phát biểu
của Tổng Thống Lyndon B. Johnson nói trên, chúng tôi thấy có hai vấn đề được
đặt ra: Vấn đề thứ nhất: Trách nhiệm của chính quyền Kennedy trong vụ làm đảo
chánh và hạ sát Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Vấn đề thứ hai: Trách nhiệm của “bọn
ác ôn côn đồ đáng nguyền rủa” trong việc hạ sát một cách dã man Tổng Thống Ngô
Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu. Chúng tôi xin trình bày qua hai vấn đề này.
IV.- NHẬN DIỆN CÁC CHÍNH PHẠM.
Không phải đến ngày
28.2.2003, khi Johson Library công bố cuốn băng nói trên, chúng ta mới có thể
xác quyết chính phủ Hoa Kỳ đã đứng ra tổ chức cuộc đảo chánh ngày 1.11.1963 và
ra lệnh giết chết Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông cố vấn Ngô Đình Nhu. Những
văn kiện trao đổi giữa Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ và Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn
trong thời gian từ tháng 8 đến tháng 11 năm 1963 cũng đủ để chứng minh điều đó.
Cuốn hồi ký của ông
Robert S. McNamara, cựu Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ, xuất bản năm 1995 cũng đã
xác định rất rõ Roger Hilsman Jr., Phụ Tá Ngoại Trưởng đặc trách Viễn Đông Vụ,
Averell W. Harriman, Thứ Trưởng Ngoại Giao, và Michael V. Forrestal, một thành
viên tham mưu (staffer) của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia, là “kiến trúc sư” của
cuộc đảo chánh lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
Roger Hilsman là một
nhân viên cao cấp của Bộ Ngoại Giao và cố vần về chính sách Việt Nam. Năm 1961,
ông được Tổng Thống Kennedy bổ nhiệm làm Giám Đốc Văn Phòng Tình Báo và Nghiên
Cứu của Bộ Ngoại Giao. Ông được coi như “kiến trúc sư chính về chính sách Việt
Nam của Hoa Kỳ” (principal architect of U.S. Vietnam policy). Tháng Giêng năm
1962 ông trình bày “Một Quan Niệm Chiến Lược cho Nam Việt Nam” (A Strategic
Concept for South Vietnam), coi việc xây dựng nông thôn Việt Nam như một chìa
khóa đưa đến chiến thắng. Vào tháng 2 năm 1964, sau khi Tổng Thống Ngô Đình
Diệm bị lật đổ, đã có một sự bất đồng giữa Tổng Thống Johnson và Ngoại Trưởng
Rusk về chính sách Việt Nam do Hilsman là tác giả, nên Hilsman phải từ chức.
Năm 1967, Hilsman đã viết cuốn “To Move a Nation” ca tụng chính sách Việt Nam
của Tổng Thống Kennedy và đả kích sự leo thang chiến tranh của Tổng Tống
Johnson.
Nhưng có lẽ tác giả cái
chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu là Averell W. Harriman.
Averell W. Hariman sinh
năm 1891, làm Đại Sứ Toàn Quyền của Hoa Kỳ từ 1960 đến 1961, sau đó làm Phụ Tá
Bộ Trưởng Ngoại Giao về các vấn đề Viễn Đông từ 1962 đến 1963 và Thứ Trưởng
Ngoại Giao về các vấn đề chính trị từ 1963 đến 1964. Ông được coi là “kiến trúc
sư của chính sách Chiến Tranh Lạnh” (architect of Cold War policy) của Hoa Kỳ.
Trong thời gian làm Phụ Tá Bộ Trưởng Ngoại Giao về các vấn đề Viễn Đông,
Averell W. Harriman đưa ra chủ trương trung lập hóa Lào để bảo vệ miền Nam Việt
Nam. Chủ trương này đã bị ông Ngô Đình Nhu cực lực phản đối.
Câu chuyện đã xẩy ra như
sau: Vào tháng Giêng năm 1961, CIA đưa James W. “Bill” Lair, một chuyên viên
bán quân sự của Hoa Kỳ đến gặp lãnh tụ của HMong Trắng là Vang Pao để thương
lượng về vấn đề võ trang và huấn luyện cho người HMong chống lại Cộng Sản Lào.
Lúc đầu hai bên thỏa thuận Hoa Kỳ sẽ huấn luyện cho 1000 quân HMong ở biên giới
Thái - Lào và cung cấp vũ khí cho họ. Sau đó việc huấn luyện và trang bị cứ gia
tăng dần, đến mùa hè năm 1961, CIA đã huấn luyện và cung cấp vũ khí cho khoảng
9.000 quân HMong chiến đấu. Tuy nhiên, vào tháng 5 năm 1962, với sự yểm trợ của
bộ đội Việt Cộng, Pathet Lào đã chiếm được thủ phủ Nam Tha ở bắc Lào. Trước
thất bại này, Averell W. Harriman đưa ra chủ trương trung lập hóa Lào để ngăn
chận Cộng Sản Việt Nam mượn đất Lào xâm nhập vào miền Nam Việt Nam. Cả Hawks
trong chính quyền Kennedy lẫn Ngô Đình Nhu đều cho rằng giải pháp này không
thực tế, nhưng Tổng Thống Kennedy vẫn theo ý kiến của Averell W. Harriman. Ông
ra lệnh cho khoảng 3.000 nhân viên quân sự Mỹ rút qua Thái Lan và sau đó mở hội
nghị với với Khrushchev bàn về một giải pháp trung lập cho Lào. Ngày 23.7.1962
Tuyên Ngôn Trung Lập Lào được công bố. Khoảng 666 cố vấn quân sự của Hoa Kỳ còn
lại rút ra khỏi Lào.
Giải pháp của Averell W.
Harriman đã thất bại rất thê thảm. Theo báo cáo của CIA, sau khi tuyên bố trung
lập, khoảng 7000 bộ đội Việt Cộng chẳng những không chịu rút khỏi Lào mà còn
bành trướng thêm. Trong năm 1963, chính quyền Kennedy lại cho phép CIA huấn
luyện và trang bị cho khoảng 20.000 quân HMong để chống lại quân Bắc Việt lẫn
Pathet Lào. Chính phủ Ngô Đình Diệm đã phê phán Harriman nặng lời. Có lẽ chính
những lời phê phán này đã khiến Averell W. Harriman quyết tâm tìm cách loại bỏ
chính phủ Ngô Đình Diệm.
Averell W. Harriman đã
viếng thăm Việt Nam và báo động rằng chính phủ Ngô Đình Diệm tham nhũng và bất
ổn. Khi vụ Phật Giáo xẩy ra, chính Harriman đã thúc đẩy chính phủ Kennedy làm
áp lực buộc chính phủ Ngô Đình Diệm phải nhượng bộ Phật Giáo. Phải chăng câu
“Ngài nhớ, họ nói với tôi lúc đầu về Diệm. Ông ta tham nhũng và ông ta phải bị
giết.” mà Tổng Thống Johnson đã nhắc lại là lời của Harriman?
Michael V. Forrestal
(1927 – 1989) là Trưởng Ủy Ban Phối Hợp Việt Nam (Vietnam Coordinating
Committee) thuộc Hội Đồng An Ninh Quốc Gia từ 1962 đến 1965. Ông là người được
Averell W. Harriman nâng đỡ. Ông đã cùng với Roger Hilsman, Giám Đốc Tình Báo
của Bộ Ngoại Giao, đến thăm Việt Nam để duyệt xét tình hình tại chỗ. Trong một
bản phúc trình chung, cả hai đã tỏ ra nghi ngờ về khả năng đứng vũng của chính
phủ Việt Nam Cộng Hòa. Bản phúc trình nói đến sự ngày càng lớn mạnh của Việt
Cộng và gợi ý rằng cuộc chiến này sẽ kéo dài hơn và tốn kém hơn như đã dự trù.
Bản phúc trình đồng ý trên nguyên tắc về sự hình thành các ấp chiến lược do ông
Ngô Đình Nhu chủ xướng, nhưng lại tỏ ra nghi ngờ về hiệu quả của kế hoạch này.
Trong phần phụ đính mật, hai tác giả đã đề nghị chính phủ Kennedy làm áp lực
buộc chính phủ Ngô Đình Diệm phải thực hiện cải cách và giải tỏa “cơ cấu chính
trị độc đoán” (authoritarian political structure).
Nói cách khác, Michael
V. Forrstal và Roger Hilsmans đã cố tình làm cho các nhà lãnh đạo nước Mỹ tin
rằng miền Nam Việt Nam không thể đứng vững nếu Hoa Kỳ không can thiệp trực tiếp
bằng quân sự, và muốn can thiệp trực tiếp bằng quân sự, phải thay thế chính phủ
Ngô Đình Diệm. Chính bản phúc trình này đã dọn đường cho việc tiến tới lật đổ
chính phủ Ngô Đình Diệm và đưa quân Mỹ vào miền Nam Việt Nam.
Sau khi các biến cố Phật
Giáo xẩy ra tại Việt Nam, Roger Hilsman và Averell W. Harriman, với sự phối hợp
của Michael V. Forrestal, đã soạn thảo công điện mang tên DEPTEL 243 chỉ thị
cho Đại Sứ Henry Cabot Lodge thực hiện cuộc đảo chánh lật đổ chính phủ Ngô Đình
Diệm. Đây là loại công điện tối mật cần hành động lập tức (operation
immediate). Đô Đốc Harry Felt, Tư Lệnh Mỹ tại Thái Bình Dương, cũng đã góp ý
kiến. Điêu khó khăn là phải làm thế nào để qua mặt được Tổng Thống Kennedy. Kế
hoạch qua mặt này đã được ông Robert S. McNamara, mô tả rõ trong cuốn hồi ký
của ông và sẽ được trình bày ở sau.
Công điện đã được đánh
đi khẩn cấp vào tối thứ bảy 24.8.1993. Công điện ghi rõ: “Chính phủ Mỹ không
thể chấp nhận tình trạng quyền hành nằm trong tay của Nhu. Phải cho Diệm cơ may
loại trừ Nhu cùng phe nhóm và thay thế bằng những nhân vật chính trị và quân sự
khá nhất sẵn có. Mặc dầu những cố gắng của ông, nếu Diệm vẫn cứng đầu và từ
chối, chúng ta phải đối phó với sự thể rằng không thể giữ lại ngay chính Diệm
nữa.”
Để yểm trợ cho chủ
trương này, các ký giả Davis Halberstans của New York Times, Neil Sheehen của
UPI và Malcolm Browne của AP đã viết những bài tố cáo chính quyền Ngô Đình Diệm
chuyên chế và tham nhũng với nhận định rằng không thể thắng trận ở Việt Nam với
chính quyền Ngô Đình Diệm.
Vì công diện này không
được Bộ Trưởng Ngoại Giao, Bộ Trưởng Quốc Phòng và Giám Đốc cơ quan tình báo
CIA xem xét trước nên đã có những sự tố cáo lẫn nhau giữa các cơ quan này về
việc làm nói trên. Nhưng rồi bức công điện đó cũng không hề được thu hồi.
Nhận được công điện
trên, sáng thứ hai 26.8.1963, Đại Sứ Henry Cabot Lodge triệu tập ngay cuộc họp
gồm tất cả các ngành của Tòa Đại Sứ Mỹ ở Việt Nam để lập kế hoạch lật đổ Tổng
Thống Diệm. Đại Sứ Henry Cobot Lodge không chỉ quyết định phải giết Tổng Thống
Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu, mà còn quyết định phải giết cả ông Ngô Đình
Cẩn và Đại Tá Lê Quang Tung. Trong công điện ngày 5.10.1963 gởi về Bộ Ngoại
Giao Hoa Kỳ, Đại Sứ Cabot Lodge đã dành một đoạn để đề cập đến những người bị
coi là nguy hiểm nhất ở miền Nam. Dương Văn Minh cho ông biết có ba người nguy
hiểm nhất là Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Cẩn và Dương Văn Hiếu. Nhưng Lucien Conein
luu ý rằng Lê Quang Tung đáng sợ hơn. Với nhận định như thế, ngoài Tổng Thống
Ngô Đình Diệm, ông Lodge thấy rằng cần phải giết thêm ba người nữa là ông Ngô
Đình Nhu, ông Ngô Đình Cẩn và Đại Tá Lê Quang Tung. Thiếu tá Lê Quang Triệu tuy
không có tên trong sổ đen, nhưng đem mạng tới nạp nên đã bị giết luôn! Riêng
cái chết của Đại Tá Hải Quân Hồ Tấn Quyền vào sáng 1.11,1963 có lẽ do quyết
định của các tướng lãnh Việt Nam.
V.- TRÁCH NHIỆM CỦA TỔNG THỐNG KENNEDY.
Trong Chương III
của cuốn hồi ký, dưới tiêu đề “Mùa Thu Định Mệnh Năm 1963” (24.8 đến
22.11.1963), ông Robert S. McNamara đã trình bày khá rõ ràng về quyết định của
Hoa Thịnh Đốn lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm. Ông viết:
“Khi báo cáo về tình
trạng xáo trộn tới tấp gởi về Hoa Thịnh Đốn vào ngày 24 tháng Tám, các nhân
viên có nhiệm vụ ứng trực nhận thấy rằng cơ hội để có hành động chống lại ông
Diệm đã đến. Trong đêm đó Hoa Kỳ đã đề ra một kế hoạch đảo chánh, một hành động
trong số những hành động quan trọng nhất của hai trào Tổng Thống Kennedy và
Johnson.
“Người khởi xướng hành
động này là Roger Hilsman Jr., nhân vật kế nhiệm Averell Harriman, giữ chức Phụ
Tá Ngoại Trưởng đặc trách Viễn Đông Sự Vụ. Hilsman là một người thông minh, hay
tự ái và thích nói nhiều, tốt nghiệp trường võ bị West Point, từng có kinh
nghiệm về du kích chiến trong thời Đệ Nhị Thế Chiến và khá am tường về tình
hình. Ông này cho rằng cuộc chiến không thể thắng được nếu còn ông Diệm, vì thế
phải tìm cách gạt ông ta ra."
“Chính Roger Hilsman đã
thảo bức điện tín gởi cho Đại Sứ Henry Cabot Lodge ra lệnh đảo chánh. Bức điện
này được ông Averell Harriman vừa được cử giữ chức Thứ Trưởng Ngoại Giao chấp
thuận ngay. Ông Michael Forrestal, một thành viên của Hội Đồng An Ninh Quốc
Gia, đã gởi ngay cho Tổng Thống Kennedy đang ở Hyamis Port với câu “Đã được
Ball của Bộ Quốc Phòng chấp thuận... Đề nghị cho tôi biết nếu Tổng Thống
muốn... hoãn hành động.” Ông George Ball gọi cho Tổng Thống trình bày nội vụ và
được Tổng Thống trả lời rằng ông đồng ý nếu các cố vấn của ông cũng đồng ý như
vậy. Sau đó ông George Ball gọi ngay cho Ngoại Trưởng Dean Rusk tại New York
báo tin Tổng Thống đã chấp thuận.”
Qua đoạn ngắn nói trên,
chúng ta thấy rằng quyết định lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm đã được Hoa Kỳ dự
tính từ lâu và vụ Phật Giáo là một cơ hội được tạo ra để chính phủ Hoa Kỳ thực
hiện dự tính đó. Roger Hilsman đã nói rõ: “Cuộc chiến không thể thắng được nếu
còn ông Diệm, vì thế phải tìm cách gạt ông ta ra.”
Sau khi bức điện tín ra
lệnh đảo chánh gởi đến Saigon, ông McNamara coi đó là một sự qua mặt Tổng
Thống. Theo ông, lúc đó chỉ có Thứ Trưởng Harriman, Phụ Tá Hilsman ở Bộ Ngoại
Giao và Mike V. Forrestal ở Tòa Bạch Ốc là những người nhất tâm làm đảo chánh
mà thôi. Trong cuộc họp ngày 27.8.1963, khi nghe đọc xong bản tường trình của
ông William E. Colby về tình hình Việt Nam, Tổng Thống Kennedy tỏ ý muốn hoãn
lại cuộc đảo chánh vì thấy chưa cần, nhưng Hilsman đòi làm ngay. Tổng Thống ra
lệnh đánh điện cho ông Lodge và tướng Harking hỏi nên tiến hành đảo chánh hay nên
lui. Tổng Thống đang lưỡng lự trong việc lật đổ ông Diệm thì tại Saigon, ông
Lodge xúc tiến một cách nhanh chóng việc thực hiện đảo chánh.
Cũng trong cuốn hồi ký
dẫn trên, ông McNamara cho biết những gì đã xẩy ra tại Tòa Bạch Ốc sau khi nghe
tin Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã bị giết. Ông viết:
“Chín giờ ba mươi sáng 2
tháng 11, chúng tôi gặp nhau lại để tiếp tục cuộc họp hôm qua. Khi buổi họp bắt
đầu, chưa ai rõ số phận ông Diệm và ông Nhu ra sao. Đến nữa chừng thì từ Phòng
Tình Hình, Mike Forrestal tông cửa chạy vào. Văn phòng CIA tại Saigon báo cáo
rằng họ được các nhân vật trao đổi công tác của Saigon cho biết hai anh em ông
đã tự vẫn “trên đường từ thành phố đến Bộ Tổng Tham Mưu”.
“Khi Tổng Thống Kennedy
đọc mẫu tin này, mặt ông tái xanh như tàu lá. Tôi chưa hề thấy ông xúc động
mạnh đến như thế bao giờ. Forrestal thuật lại
rằng cái chết của hai người “đã
làm cho ông rúng động một cách sâu xa, gây bàng hoàng trong tâm trí và đánh mạnh vào tiềm thức tín ngưởng...
làm lung lay lòng tin tưởng... về những gì ông đã khuyến cáo liên quan đến Nam
Việt Nam.” Arthur Schlesiger Jr. ghi nhận rằng“Tổng Thống buồn thảm và bối rối cùng cực”, tinh thần suy sụp chưa
từng thấy từ sau vụ thất bại ở Vịnh Con Heo.”
Trong bài “Chúng ta đã
lầm lẫn, lầm lẫn khủng khiếp” đăng trên tờ Newsweek số ra ngày 17.4.1995, ông
McNamara đã phê bình Ngoại Trưởng Dean Rusk và Tổng Thống Kennedy như sau:
“Ngoại Trưởng Dean Rusk,
một người quên mình nhất, một cá nhân tận tụy phục vụ Hoa Kỳ, đã hoàn toàn thiếu sót trong việc quản trị Bộ
Ngoại Giao và giám sát Đại Sứ Henry Cabot Lodge Jr., và cũng đã không tận tình tham dự các buổi
họp của Tổng Thống. Và Tổng Thống Kennedy, người mà tôi quy trách ít nhất,
người đã phải lo toan nhiều vấn đề khác nữa, đã thiếu sót trong việc kết hợp
một chính phủ Hoa Kỳ chia rẽ. Khi phải chạm trán với những lựa chọn khó khăn,
ông không quyết định trong một thời gian quá lâu.”
Sự tiết lộ của ông
McNamara về việc Bộ Trưởng Dean Rusk hoàn toàn thiếu sót trong việc quản trị Bộ
Ngoại Giao và giám sát các hành động của Đại Sứ Henry Cabot Lodge khiến nhiều
người suy đoán rằng ông Lodge đã tự ý ra lệnh giết ông Diệm và ông Nhu, đặt Hoa
Thịnh Đốn trong một tình trạng đã rồi. Nhưng nay Tổng Thống Johnson lại cho
biết việc hạ sát ông Diệm đã được chính quyền Kennedy qưyết định trước. Tuy
nhiên, ông không nói rõ chính Tổng Thống Kennedy đã ra lệnh giết ông Diệm. Ông
chỉ nói: “Họ khởi đầu và nói: ‘Chúng ta phải giết Diệm, bởi vì ông ta không
tốt. Chúng ta hãy, chúng ta hãy lật đổ ông ta. Và chúng ta đã làm.” Họ là ai?
Có Tổng Thống Kennedy trong đó không? Ông McNamara đã mô tả tình trạng khủng
hoảng của Tổng Thống Kennedy khi nghe tin ông Diệm bị giết và cho rằng Tổng Thống Kennedy đã bị ba tên Roger Hilsman Jr.,
Averell W. Harriman và Michael V. Forrestal đánh lừa.
Ký giả Evan Thomas cho
rằng “Kennedy chỉ ủng hộ việc lật đổ ông Diệm chứ không hề ra lệnh giết và có
lẽ cũng không tiên đoán được sự việc xẩy ra như vậy.” Nhưng trong cuốn “The
dark side of Camelot”, Seymour M. Hersch cho biết trong cuộc phỏng vấn năm
1998, Lucien Conein, người chỉ đạo trực tiếp cuộc đảo chánh, có nói rằng
Kennedy “phải biết trước” (must have known) chuyện đó. Mặc dầu Lucien Conein
không chứng minh được sự suy đoán của ông ta, một số người căn cứ vào câu nói
này để cho rằng Kennedy biết trước chuyện ông Diệm phải bị giết.
Dầu sao, cho đến nay,
chưa có tài liệu nào cho thấy chính Tổng Thống Kennedy đã ra lệnh giết ông
Diệm. Trái lại, chiều thứ bảy 2.11.1963, lúc 6 giờ, Tổng Thống Kennedy cùng vợ
và các con dùng trực thăng bay về ngôi nhà mới của ông ở Rattlesnake Mountain.
Trong buổi cơm tối, bà Mary Gimbel, một người bạn của Tổng Thống, đã nói với
ông về ông Diệm và ông Nhu:
- Họ đúng là những nhà
độc tài.
Tổng Thống trả lời:
- Không, họ ở trong một
tình trạng khó khăn. Họ đã làm cái tốt đẹp nhất mà họ có thể làm cho quê hương
họ.
Sau khi lật đổ và giết
Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Tổng Thống Kennedy không còn tin tưởng vào cuộc chiến
thắng tại miền Nam Việt Nam. Trong cuộc họp báo ngày 14.11.1963, Tổng Thống hỏi: “Bạn có chào thua tại miền Nam Việt Nam không?”
Rồi ông tự trả lời câu
hỏi của chính mình:
“Chương trình quan
trọng nhất, dĩ nhiên là cho nền an ninh của chúng ta, nhưng tôi không muốn Hoa
Kỳ đưa quân tác chiến sang đó.”
Sau đó ông nói:
“Giờ đây mục tiêu
của chúng ta là đưa quân nhân Hoa Kỳ về nước, cho phép Việt Nam tự duy trì lấy nước họ như là
một quốc gia độc lập.”[18]
Trong khi đó, các thế
lực tư bản của bọn tài phiệt buôn bán chiến tranh đứng đàng sau muốn mở rộng
chiến tranh để đổ quân vào Việt Nam mà Averell W. Hariman là một tên tay sai
đắc lực. Vì thế, Tổng Thống John Kennedy đã bị giết ngày 22.11.1963 tại
Dallas.
Khi hay tin Tổng Thống
Kennedy bị ám sát, Phó Tổng Thống Lyndon Baines Johnson chỉ vào bức hình Tổng
Thống Ngô Đình Diệm đang treo trong nhà ông và nói:
“Chúng ta đã nhúng
tay vào việc giết ông ta. Bây giờ chuyện đó
lại xẩy ra ở đây.”[19]
(Trích “Những Bí
Mật Được Tiết Lộ Sau 40 Năm”, Tú Gàn)
VI.-
NHẬN ĐỊNH CỦA PHÓ T.T. LYDON JOHSON
VỀ
TỔNG THỐNG NGÔ ĐÌNH DIỆM
|
1.- Tổng Thống Ngô Đình Diệm là Winston
Churchill của Đông Nam Á.
2.- Tôi đã bảo: Đừng đảo
chánh!
3.- Chúng ta giết Tổng Thống Diệm để tạo bất ổn
chính trị.
VII.- T.T. LYNDON JOHSON THANH TRỪNG
CÁC TAY CHỦ TRƯƠNG ĐẢO
CHÁNH.
1.- "Sau khi kế vị
T.T. John Kennedy, vì giận những người đã tích cực thúc đẩy đảo chánh, Hilsman
là người đầu tiên bị T.T. Lyndon Johnson loại bỏ, nhưng nhờ biết trước, đã xin
nghỉ chỉ vài giờ trước khi chính thức bị sa thải"
2.- "Còn Harriman,
khi nhìn thấy Hilsman ra đi, nói “nếu tôi còn trẻ như anh, tôi cũng từ
chức”. Vì không từ chức, đã bị T.T. Johnson coi thường, nói là người không đáng
xách rác cho ông, bị ông giáng chức, cho đi Phi châu, trước khi trở lại địa vị
làm cảnh là “đại sứ lưu động”.
3.- Chúng nó là một bọn côn đồ đáng nguyền
rủa: "They are a Goddamn Bunch Of Thugs"
VIII.- Ý KIẾN CỦA ĐẢNG CỘNG HÒA HOA KỲ:
Theo Henry Kissinger
trong quyển Diplomacy:
1.-
Loại bỏ ông Diệm đã không đoàn kết được dân chúng sau lưng các tướng lãnh, như
là Washington đã hy vọng, mà sự thật lại trái ngược đã diễn ra.
2.-
Cuộc đảo chánh đã phá hủy kiến trúc được xây dựng trong hàng chục năm, để lại
một nhóm tướng lãnh tranh quyền thiếu kinh nghiệm hay thiếu hậu thuẫn chính
trị.
3.- Do đó, việc Mỹ tham
chiến ở Việt Nam không phải là nguyên nhân, mà là hậu quả của cuộc đảo chánh
1-11, 1963.
IX.- CÒN VỀ PHÍA VIỆT NAM CỘNG HÒA?
Để trả lời vấn nạn trên,
chúng tôi xin mượn lời của Tướng Tôn Thất Đính thổ lộ trong cuốn hồi ký “20
mươi năm binh nghiệp” nơi trang 455 của ông ta như sau:
"Đối với tôi, cuộc
hành quân 1-11-1963, sau 16 giờ đồng hồ với bao nhiêu biến cố vượt ra ngoài dự
liệu và quyết định của tôi, không phải là một thành công, mà chính là một thảm
bại lớn lao đối với lịch sử. Sở dĩ vậy, vì biết bao âm mưu chính trị ngoại
giao, hận thù cá nhân, hận thù tập thể, đến giờ phút đó mới được phơi bày bằng
lời nói hay bằng hành động, trong ấy Phật Giáo Việt Nam, quân lực VNCH là
những nạn nhân của lịch sử hơn là những thành phần mà lúc đó người ta thường
qui định là chiến thắng vẻ vang! Có lẽ, ai cũng đều thất bại và phạm tội với
lịch sử Việt Nam cả, kể cả Hoa Kỳ là nước đồng mình, khi kẻ thù từ quốc tế đến
quốc nội bắt đầu vỗ tay cho tương lai chiến thắng của chủ nghĩa Cộng Sản thì
VNCH đã tự đưa mình vào hỗn loạn từ xã hội, chính trị cho đến tôn giáo, quân
sự, tạo cơ hội dấn thân vào trong cuộc đại bại chung sau này khi chấp nhận đó là
chính sách toàn cầu của Mỹ!"
Phật Giáo Việt Nam có
phải là nạn nhân như tướng Đính nói trên đây không?
Tuớng Đính hỗn láo, vơ
đũa cả nắm. Chỉ có một nhóm nhỏ theo “Tông Phái Trí Quang” núp dưới tấm áo cà
sa nâu, vàng để làm công cụ cho cộng Sản và ngoại bang thôi. Để thấy rõ nhóm
người này hành động như thế nào, mời quý độc giả đọc tiếp những trang sau đây:
MỘT CUỘC “ĐỒNG HÀNH” THẢM BẠI!
Dựa theo phong trào chấn
hưng Phật Giáo do Pháp phát động để ru ngủ phong trào chống Pháp, năm 1932, Bác Sĩ Lê Đình Thám đã đứng ra thành lập Hội An Nam Phật Học ở Huế, và năm 1934 ông cùng với Thích Mật Thể lập Trường An Nam Phật Họcở chùa Trúc Lâm và rước Hòa Thượng Thích Trí Độ từ Bình Định ra làm Giám Đốc.
Dĩ nhiên, các tăng sĩ,
cư sĩ và Phật tử được họ đào tạo từ 1934 đến 1945 hay các đệ tử của họ đều đi
theo Việt Minh, chẳng hạn như Thích Mật Thể, Thích Trí Quang, Thích Trí Nghiễm
tức Thích Thiện Minh, Thích Huyền Quang, Thích Pháp Dõng, Thích Pháp Tràng,
Thích Pháp Long, Thích Huệ Quang, Thích Trí Truyền, Thích Trí Thủ, Thích Trí
Tịnh, Võ Đình Cường, Tống Hồ Cầm, v.v. Phật Giáo dính liền với Đảng CSVN qua
đường dây này.
(Xem thêm trong Phật
Giáo Việt Nam Sử Luận (tập III) của Nguyễn Lang tức Thích Nhất Hạnh)
PHẬT GIÁO VÀ CỘNG SẢN LÀ MỘT?
Năm 1946, khi đang làm
Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến Miền Nam Trung Bộ ở Liên Khu V, Bác sĩ
Lê Đình Thám đã tập họp các thanh niên Phật tử vào Đoàn Phật Học Đức Dục ở Bồng
Sơn, Bình Định, để giảng dạy về “Phật Giáo và nền dân chủ mới”, coi con đường của chủ
nghĩa cộng sản và con đường của Phật Giáo là một, với mục tiêu thúc đẩy các
thanh niên Phật tử gia nhập Đảng Cộng Sản và tham gia kháng chiến. Tập “Đạo Phật và Nền Dân Chủ Mới” do Nguyễn Hữu Quán
biên soạn được coi là tài liệu học tập. Tư tưởng đó đã ăn sâu vào tâm trí của
một số tăng sĩ và Phật tử trong suốt cuộc chiến và vẫn còn tồn tại cho đến ngày
nay. Sau đây là một vài thí dụ cụ thể:
Ngày 3.6.1966, Đại Đức Thích
Nhất Hạnh đang ở Pháp thì được một nhóm phản chiến của Mỹ mời qua
thăm Hoa Kỳ. Nhân dịp này, ông đã công bố chủ trương 5 điểm của Giáo Hội Phật
Giáo Ấn Quang như sau:
- Chính phủ Nguyễn Cao
Kỳ từ chức.
- Quân đội Mỹ rút lui.
- Ngưng oanh tạc Bắc
Việt.
- Ngưng các cuộc hành quân tại miền Nam Việt
Nam.
- Mỹ phải giúp lập chính thể dân chủ và tái
thiết miền Nam không điều kiện.
Năm điểm đòi hỏi này
giống hệt năm điểm đòi hỏi của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. “Nó
chỉ khác ở điểm là: Nó được gói ghém rất chu đáo và tỉ mỉ với từ những đầu môi
chót lưỡi với ngôn từ đầy nhân ái, với lòng từ bi, hỷ xả, thiện tâm, thiện ý
của các vị lãnh đạo Phật Giáo VN. Nhưng đó là những con dao nhọn tẩm thuốc độc
được gói ghém, bao bọc hoàn mỹ trong những chiến áo cà sa của những người nhân danh
đại diện Phật Giáo VN.
(Trích: “NHỮNG CON GIAO
NHỌN TẨM THUỐC ĐỘC ĐƯỢC BỌC TRONG CHIẾC ÁO CÀ SA” của
Võ Long Triều)
Năm 1967, Đại Đức Thích
Nhất Hạnh cho xuất bản cuốn “Việt Nam, Lotus in a Sea of Fire, a Buddist Proposal for
Peace” (Việt Nam, Hoa
Sen trong Biển Lửa, một Đề Nghị Hòa Bình của Phật Giáo) để lên án Hoa
Kỳ, VNCH và yểm trợ MTGPMN. (Xin đọc tiếp bài “CÔNG CỤ CỦA CỘNG SẢN” dưới
đây)
Trong cuộc meeting “mừng giải phóng” ngày 15.5.1975, Hòa Thượng Mãn Giác đã đọc một
bài diễn văn rất thống thiết, trong đó có những đoạn như sau:
“Trong những năm dài
sống dưới ách nô lệ thực dân mới, Phật Giáo chỉ nuôi một ước vọng sâu kín: độc
lập và thống nhất...
“Ngày nay, ước vọng đó
đã hiện thực. Hiện thực ấy ngày càng rõ nét trong đời sống dân tộc, làm vang
vọng lời xác quyết của Hồ Chủ Tịch “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là
một, sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi”...
Bác Hồ kính yêu đã thay lời tổ tiên nói lên...”
“Cuộc đấu tranh của Phật
Giáo cho nền thống nhất tổ quốc cùng là một với cuộc đấu tranh vì CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI ..."
Sau đó, chính Hòa Thượng
Trí Thủ, Viện Trưởng Viện Hoá Đạo Ấn Quang, Hoà Thượng Trí Tịnh, Viện Phó và
Thượng Toạ Minh Châu, nguyên Tổng Thư Ký, đem Giáo Hội Ấn Quang sáp nhập
thành Giáo Hội Phật Giáo Nhà Nước. Trong lễ ra mắt Giáo Hội này hôm 7.11.1981
tại Hà Nội, Thượng Tọa Trí Thủ đã nhân danh Chủ Tịch Hội Đồng Trị Sự của Giáo
Hội đọc một bức thư gởi Chủ Tịch Hội Đồng Nhà Nước Trường Chinh, trong đó có
đoạn như sau:
“Suốt ba mươi năm
chống Pháp, chống Mỹ, nhiều chùa là cơ sở của cách mạng,nhiều tăng ni tạm thời rời bỏ Thiền môn, hăng
hái tòng quân đánh giặc cứu nước. Bác Hồ dạy: “Không gì quý hơn độc lập tự do!”, toàn thể
tăng ni và Phật tử Việt Nam ghi lòng tạc dạ lời dạy đó của Bác, nhận thức rõ lý tưởng giải thoát của người tu hành
không thể tách rời sự nghiệp giải phóng dân tộc, do Hồ Chủ Tịch và Đảng Cộng
Sản Việt Nam lãnh đạo.”
Mới đây, nhật báo Nhân
Dân điện tử của Đảng CSVN số ra ngày 29.3.2013 đã đăng bài “Tôn giáo chân chính đồng hành cùng dân tộc” của Trần Chung Ngọc, một trong các lãnh tụ
của nhóm Giao Điểm, đã nhắc lại những thành tích mà Phật giáo đã góp phần với
Đảng CSVN trong chiến tranh như “nhiều chùa đã trở thành nơi nuôi giấu, nhiều tu sĩ bỏ áo cà sa
đi theo kháng chiến, giã từ thiền viện lướt binh đao…” và coi đó là “đồng hành cùng dân tộc”!
CHUYỆN TRÍ THỦ VÀ TRÍ TỊNH
Trong hai ngày 12 và
13.2.1980, do sự lèo lái của Ban Tôn Giáo Chính Phủ và Mặt Trận Tổ Quốc, đại
diện một số tổ chức Phật Giáo Trung, Nam, Bắc đã họp tại Sài Gòn và thành lập
Ban Vận động Thống nhất PGVN. Ban này gồm có hai ban là Ban Chứng Minh và Ban Thường
trực Ban Vận động TNPGVN. Người ta thấy có bốn nhân vận lãnh đạo cao cấp của
Giáo Hội Ấn Quang trong hai ban này là Thích Đôn Hậu, Thích Trí Thủ, Thích Trí Tịnh và Thích Minh Châu. Thích Trí Thủ
làm Trưởng Ban, Thích Trí Tịnh làm Phó còn Thích Minh Châu làm Chánh Thư Ký.
Một đại hội Phật Giáo đã
được tô chức tại chùa Quán Sứ, Hà Nội, từ ngày 4 đến ngày 7.11.1981 với sự tham
dự của 165 đại biểu thuộc 9 tổ chức Giáo hội và hệ phái Phật Giáo, trong đó có
Giáo Hội Ấn Quang. Đại hội đã thành lập hai hội đồng, Hội đồng Chứng minh và
Hội đồng Trị sự, mỗi hội đồng có 50 thành viên. Thượng Tọa Trí Thủ làm Chủ Tịch Hội đồng Trị sự, Thượng Tọa Trí Tịnh làm Phó, còn Thích Đôn Hậulàm Đệ Nhất Phó Pháp chủ kiêm Giám Luật Giáo trong Hội đồng Chứng Minh.
Một câu hỏi được đặt ra:
Thích Trí Thủ và Thích Trí Tịnh có liên hệ với Việt Cộng như thế nào mà được
Đảng CSVN tín nhiệm và giao cho những nhiệm vụ quan trọng như vậy?
Khi Việt Minh cướp chính
quyền năm 1945, Thích Trí Thủ thành lập hội Phật Giáo Cứu Quốc Trung bộ
và Thừa Thiên, và cho người đi khắp các tỉnh thành lập hội Phật Giáo Cứu Quốc
tại mỗi tỉnh để ủng hộ Việt Minh. Thích Trí Thủ còn xuất bản nguyệt san Giải Thoát làm cơ quan tuyên truyền cho Việt Minh.
Sau đó, ông đắc cử Đại biểu Hội đồng nhân dân Thừa Thiên và được chính quyền
Cách Mạng mời đến Trung Bộ Phủ giao quyền quản lý các chùa chiền ở Huế và Thừa
Thiên. Ngoài ra, chúng tôi không có tài liệu nào khác về cuộc đời hoạt động
chính trị của ông.
Trường hợp của Thích Trí Tịnh hoàn toàn bí mật. Ông sinh năm 1917 tại
làng Mỹ Luông, tỉnh Sa Đéc. Năm 1937 ông thọ giới với Hòa Thượng Hồng Xứng ở
chùa Vạn Linh trên núi Cấm. Năm 1940 ông ra Huế học Trường An Nam Phật Học của
Thích Trí Độ. Từ đó, không thấy ông tham gia vào hoạt động chính trị nào. Cho đến
năm 1976, khi Giáo Hội Ấn Quang bắt đầu chống lại chính quyền, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam. Lúc đó người ta mới biết ông là người của
Đảng CSVN. Khi ông qua đời, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tặng thưởng ông Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc Lập
hạng nhất, Huy chương Vì sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân và Bằng khen của Thủ
tướng Chính phủ.
TÌM NỘT LỐI THOÁT?
Cuộc “đồng hành” của Phật giáo với Đảng Công Sản từ 1932
đến nay thường được biện minh bằng những lý do sau đây:
1.- Con đường của chủ nghĩa cộng sản và con
đường của Phật Giáo là một.
2.- Mục tiêu đấu tranh của Cộng Sản và
của Phật giáo là một: Vì
Chủ Nghĩa Xã Hội!
3.- Đồng hành với Đảng Cộng Sản là đồng hành với dân tộc.
Nhưng các nhà lãnh đạo
Phật giáo đã bị đánh lừa!
Ngày nay chủ nghĩa cộng
sản đã bị chính người cộng sản hủy bỏ vì sự hoang tưởng của nó. Đảng CSVN chưa
bao giờ coi Phật giáo như là một tổ chức “đồng hành” với họ mà chỉ coi Phật giáo như một công cụ. Thích Trí Độ, Thích Minh Châu, Thích Trí Thủ, Thích Trí Tịnh…
không phải là người của Phật giáo mà là cán bộ cộng sản được cài vào các tổ
chức Phật giáo để biến Phật giáo thành công cụ. Kết quả: “Cách mạng” thành công nhưng Phật giáo trắng tay!
Để che đậy những thất
bại thê thảm này, một phong trào đánh phá Thiên Chúa Giáo đã được phát động rất
rầm rộ, tố cáo Thiên Chúa Giáo là tay sai ngoại bang, còn Phật giáo làm tay sai cho Cộng Sản là “đồng hành với dân
tộc"! Đó chỉ là cách chạy tội. Như chúng tôi đã nói nhiều lần, lối thoát duy nhất của Phật giáo
là trở về với con đường giải thoát của Đức Phật.
(Trích “Một cuộc
“đồng hành” thảm bại!” của
Lữ Giang.)
BẰNG CHỨNG TỰ THÚ
Ngày 17.1.2010, Hoà
Thượng Quảng Độ đã lấy tư cách Xử lý Thường vụ Viện Tăng Thống kiêm Viện trưởng
Viện Hoá Đạo, GHPGVNTN, gởi Thông Tư số 07/VHĐ/VT đến các chư Tôn đức Tăng Ni
và Đồng bào Phật tử nói về “hiện trạng vu khống, chụp mũ hàng Giáo phẩm
GHPGVNTN lưu hành trên Mạng và các cơ quan truyền thông”.
Mở đầu, Hoà Thượng Quảng
Độ đề cập đến các tài liệu được phổ biến trong thời gian gần đây cho rằng Đệ
Tam Tăng Thống Thích Đôn Hậu là “Cộng Sản”. Hoà Thượng đã đưa ra một số sự kiện
để chứng minh rằng Hoà Thượng Đôn Hậu không hề theo Cộng Sản. Hoà Thượng nói
rằng hồ sơ của Hoa Kỳ được giải mật cũng “chưa thấy tài liệu nào cho biết
GHPGVNTN hay hàng giáo phẩm lãnh đạo GHPGVNTN dính líu đến Cộng sản.”
Sau đó Hòa Thượng tố cáo
các chính quyền VNCH bị Việt Cộng xâm nhập. Hoà Thượng viết:
“Dưới thời VNCH Phật
Giáo bị đàn áp nên phải đứng lên “đấu tranh” chứ không hề muốn lật đổ chính phủ
hay làm lợi cho Cộng Sản”.
Hoà Thượng yêu cầu các
chư Tôn đức Tăng Ni, Phật tử, đặc biệt ở hải ngoại có nhiều phương tiện thông
tin, “tìm kiếm tài liệu, hãy thu tập chứng liệu và tìm phương cách giải hoặc
những bài viết hoặc do thiếu hiểu biết, hoặc cố tâm vu cáo GHPGVNTN theo các
chủ trương tiêu diệt những sinh lực dân tộc, mà Phật giáo là một, cho những
viễn đồ phi dân tộc và phản tổ quốc.”
Nhiều người nghi Thông
Tư này do chú tiểu Võ Văn Ái soạn vì lối lập luận gần gióng
như các lập luận mà chú đã đưa ra trước đây và dưới Thông Tư còn có những “chú
giải” rất nhảm nhí của chú.
Sở dĩ chúng tôi gọi ông
Võ Văn Ái là “chú tiểu Võ Văn Ái” vì khi tu ở Đà Lạt, Võ Văn
Ái mới là chú tiểu (người Huế gọi là “điệu”) rồi xuất. Chú học chưa hết trung
học đệ nhất cấp thì năm 1953, lúc 18 tuổi, qua sự giúp đỡ của Tướng Nguyễn Ngọc
Lễ, chú được cấp một thông hành đi Pháp qua ngã Hồng Kông. Qua Pháp chú đi làm
thư ký, không hề học hết trung học. Thế mà không hiểu sao bây giờ chú được
thăng lên “Giáo sư”. Kể từ khi được CIA xử dụng, lúc nào chú cũng nói năng và
hành xử như “Quyền Tăng Thống” GHPGVNTN ở hải ngoại, có quyền trên các chư Tôn
đức Tăng Ni!
Thật ra, những vấn đề do
Hoà Thượng Quảng Độ nêu lên không có gì mới lạ, vì những vấn đề đó đã được
tranh luận nhiều qua một tiến trình lịch sử kéo dài 47 năm. Trước tiên, một số
chư tăng (như Thích Trí Quang, Thiền sư Nhất Hạnh) và “sử gia” Phật Giáo (như
Đỗ Mậu, Chánh Đạo, Trần Gia Phụng) đã xử dụng phịa sử để xuyên tạc lịch sử,
chúng tôi đã dùng những tài liệu chính xác để phản biện, các nhóm này đã phải
im lặng. Nay Hòa Thượng lại chính thức biện bác một lần nữa, nên chúng tôi buộc
lòng phải trình bày lại một số vấn đề để làm sáng tỏ lịch sử. Tuy nhiên, vì Hoà
Thượng đã nêu lên quá nhiều vấn đề, nên trong mỗi lần, chúng tôi chỉ xin trình
bày một vấn đề, và cũng chỉ trình bày những điểm chính, vì bài báo có giới hạn.
Riêng trường hợp của Đức Đệ Tam Tăng Thống Thích Đôn Hậu, chúng tôi xin trình
bày sau.
VẤN ĐỀ TRƯỚC TIÊN CẦN MINH XÁC
Chúng tôi thấy vấn đề
trước tiên cần được minh xác là hàng giáo phẩm GHPGVNTN có dính líu đến Cộng
Sản hay không. Hòa Thượng viết:
“Gần đây tác nhân chính
yếu trong chính tình Việt Nam là Hoa Kỳ vừa giải mật một số hồ sơ phơi bày diễn
tiến chính sách Hoa Kỳ tại Việt Nam Cộng hoà thông qua sự thi hành của giới
chính trị gia bản địa. Qua đó chưa thấy tài liệu nào cho biết GHPGVNTN hay hàng
giáo phẩm lãnh đạo GHPGVNTN dính líu đến Cộng sản.”
Thưa Hoà Thượng, cần gì
phải đi tìm các tài liệu trong hồ sơ giải mật của Hoa Kỳ để xác định GHPGVNTN
và hàng giáo phẩm GHPGVNTN có dính líu đến Cộng Sản hay không. Chỉ cần đọc các
tài liệu do các sử gia Phật Giáo công bố như bộ “Việt Nam Phật Giáo Sử Luận”
và “Hoa Sen Trong Biển Lửa” của Thiền Sư Nhât Hạnh, cuốn “Bảo
Trước Cổng Chùa” của Hoà Thượng Mãn Giác, Bạch Thư của Hòa Thượng
Thích Tâm Châu, hoạt động của một số tăng ni trong Giáo Hội, các tài liệu do
chính GHPGVNTN công bố, những lời tuyên bố của các nhà lãnh đạo giáo hội như
Hòa Thượng Trí Thủ, Hòa Thượng Huyền Quang hay của nhà cầm quyền CSVN, v.v.,
chúng ta cũng có thể xác định được GHPGVNTN không những chỉ “dính líu” mà còn
yểm trợ cho Cộng Sản.
BỊ XÂM NHẬP NGAY TỪ ĐẦU
Tài liệu cho thấy rằng
Phật Giáo đã dính líu với CSVN kể từ khi Mặt Trận Việt Minh mới thành lập. Năm
1932, Bác sĩ Lê Đình Thám đứng ra lập Hội An Nam Phật
Học.Năm 1934, ông cùng với Thượng Tọa Thích Mật Khế lập Trường An
Nam Phật Họcở Huế để đào tạo các tăng sĩ và đưa Hoà Thượng Thích
Trí Độ từ Bình Định ra làm Giám Đốc trường này.
Năm 1945, khi Việt Minh
cướp chính quyền, Hoà Thượng Trí Độ được Việt Minh cử làm Chủ Tịch
Trung Ương Hội Phật Giáo Cứu Quốc, một tổ chức vận động Phật Giáo của
Việt Minh. Bác sĩ Lê Đình Thám cũng tham gia Ủy Ban Phật Giáo Cứu Quốc của Việt
Minh tại Huế. Năm 1946, khi Pháp chiếm Huế, ông tản cư về Quảng Nam và được
Việt Minh cử làm Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến Miền Nam Trung
Bộ ở Liên Khu V. Điều này cho thấy hai nhân vật cao cấp
lãnh đạo Hội An Nam Phật Học và Trường An Nam Phật Học đều là cán bộ cao cấp
của Cộng Sản.
Theo hồ sơ của Mật Thám
Pháp để lại, Hòa Thượng Thích Trí Độ đã gia nhập Đảng Cộng Sản từ 1941. Dùng
ảnh hưởng của mình, Hòa Thượng đã lôi kéo các tăng sĩ tốt nghiệp ở Trường An
Nam Phật Học và các đệ tử của ông đi theo Việt Minh. Trong danh sách các tăng
sĩ đi theo Việt Minh, chúng ta thấy Thích Mật Thể giữ chức Chủ Tịch Ủy Ban Phật
Giáo Cứu Quốc ở Thừa Thiên, Thích Thiện Minh ở Quảng Trị, Thích Trí Quang ở
Quảng Bình, Thích Huyền Quang ở Liên Khu 5 (gồm các tỉnh Nam, Ngãi, Bình, Phú),
Thích Pháp Dõng ở Gia Định, Thích Pháp Tràng ở Mỹ Tho, Thích Pháp Long ở Vĩnh
Long, Thích Huệ Quang ở Trà Vinh, v.v.
Hòa Thượng Thích Đôn Hậu
làm Chủ Tịch Hội Phật Giáo Cứu Quốc Trung Bộ, trụ sở của Hội đặt tại chùa Từ
Đàm, Huế. Hòa Thượng Thích Minh Nguyệt làm Chủ Tịch Hội Phật Giáo Cứu Quốc
Nam Bộ, trụ sở đặt tại chùa Ô Môi, xã Mỹ Quý, thuộc chiến khu Đồng Tháp.
Tại Liên Khu 5, Bác Sĩ
Lê Đình Thám đã tập họp các thanh niên Phật tử vào Đoàn Phật Học Đức
Dục ở Bồng Sơn, Bình Định, để giảng dạy về “Phật Giáo và nền
dân chủ mới”, coi con đường của Phật Giáo và con đường của cộng sản chủ
nghĩa là một, với mục tiêu thúc đẩy thanh niên Phật tử gia nhập Đảng Cộng Sản
và tham gia kháng chiến. Ông cho phổ biến cuốn “Phật Giáo và nền dân chủ
mới” khắp các tỉnh miền Trung.
Báo Đuốc Tuệ của Phật
Giáo ngày 30.8.1945, kêu gọi thành lập đoàn Tăng Già Cứu Quốc và:
“Ủng Hộ chính quyền Nhân
Dân,
Mau mau gia nhập Đội Quân Giải Phóng Việt Nam!”
(Xem thêm: Việt Nam Phật
Giáo Sử Luận III, Nguyễn Lang, tr. 181 – 203)
Năm 1954, sau hiệp định
Genève, Thượng Tọa Thích Trí Quang đang làm Hội trưởng Hội VN Phật Học ở Huế,
đã lợi dụng cương vị này cùng với một số trí thức Phật Giáo lập Ủy Ban
Việt Nam Bảo Vệ Hòa Bình. Nhiệm vụ của Ủy Ban là yểm trợ Việt Minh đòi hỏi
hiệp thương để tiến tới bầu cử thống nhất hai miền trong thời hạn hai năm.
Thích Trí Quang và nhóm này đã được ông Ngô Đình Cẩn chiêu hồi và sử dụng.
Với một khởi đầu như
thế, sau này nhóm Phật Giáo đấu tranh yểm trợ Cộng Sản là chuyện không có gì
đáng ngạc nhiên.
DÙNG CHIÊU BÀI HÒA BÌNH
Sau khi lật đổ chính phủ
Ngô Đình Diệm, nhóm Phật Giáo đấu tranh đã vội thành lập GHPGVNTN để thống lãnh
Phật Giáo toàn miền Nam với hy vọng biến chính quyền Dương Văn Minh thành một
chính quyền Phật Giáo. Nhưng chính quyền Dương Văn Minh chỉ lo vơ vét và Mỹ chỉ
dùng chính quyền này như một “chính phủ trái độn”, nên ngày 30.1.1964, khi Mỹ
dùng Tướng Khánh làm “chỉnh lý” lật đổ chính quyền Dương Văn Minh và thiết lập
một thứ chính quyền thừa hành chính sách của Mỹ, nhóm Phật giáo đấu tranh lại
bắt đầu quậy phá. Tướng Nguyễn Khánh đã thỏa mãn gần như mọi yêu sách của Phật
Giáo (giết Ngô Đình Cẩn, cho hoạt động theo một quy chế đặc biệt, cho sư Cộng
Sản Thích Minh Châu về làm Viện Trưởng Đại Học Vạn Hạnh, lấy công sản “cúng
dường” để xây VN Quốc Tự, v.v.) nhưng nhóm Phật Giáo đấu tranh không chấp nhận
Tướng Nguyễn Khánh. Biên bản cuộc họp lúc 11 giờ trưa ngày 11.5.1964 tại Toà
Đại Sứ Mỹ ở Sài Gòn giữa Đại Sứ Lodge, Tướng Taylor, Tướng Harking và ông
Suilivan, có đoạn ghi như sau:
“Ông Đại Sứ đặc biệt
không sợ một cuộc đảo chánh lật đổ Tướng Khánh. Ông đặc biệt lưu ý Phật Giáo
như là một nguồn có thể gây nguy hiểm cho chính phủ. Đặc biệt, ông nghĩ rằng
Thích Trí Quang, người lãnh đạo Phật Giáo, là một người có tiềm năng gây rối (a
potential trouble maker). Đã lật đổ được một chính phủ, ông ta nghĩ rằng có thể
làm như thế để chống lại Khánh. Ông ta đã bày tỏ với ông Đại Sứ
rằng ông ta không coi Khánh như là một “Phật
tử tốt” (good Buddist), theo dự đoán, có nghĩa làKhánh
là một Phật tử không theo đường lối của Thích Trí Quang.”
(FRUSS
1964 – 1968, Volum I, tr. 304 – 305, Document 147).
Khi thấy không còn cơ
hội lập một chính phủ Phật Giáo do các tăng sĩ làm “quốc sư”, GHPGVNTN bắt đầu
áp dụng chiến thuật ngụy hòa với hy vọng sẽ đẩy Mỹ ra khỏi miền Nam, loại bỏ
Công Giáo và giúp Cộng Sản chiếm miền Nam Việt Nam, sau đó dùng Phật Giáo để
“hóa giải” Cộng Sản!
Cuốn “Hoa sen
trong biển lửa” do Thiền Sư Nhất Hạnh phổ biến năm 1967 đã chứa
đựng toàn bộ chiêu bài ngụy hòa của GHPGVNTN (Ấn Quang). Giáo Hội tưởng đây là“thượng
sách”, nhưng Phật Giáo đã bị cả Mỹ lẫn Cộng Sản biến thành công cụ.
LÀM CÔNG CỤ CỦA MỸ
Sau khi mở rộng chiến
tranh Việt Nam để thực hiện đấu thầu quốc phòng, loại bỏ các võ khí cũ còn lại
và sáng chế những võ khí mới, các nhà tư bản Mỹ bắt đầu mở chiến dịch phản
chiến để rút quân Mỹ ra và chấm dứt chiến tranh. Khi cuộc chiến đang được đẩy
mạnh, ông McNamara, người điều khiển cuộc chiến, kể lại rằng ngày 26.8.1966,
ông đọc một tập tài liệu của CIA mang tên là “The Vietnamese Communists Will
to Persist” trong đó nói rằng Hoa Kỳ không thể làm gì để đánh bại kẻ
thù. Ông đã gọi cho George Allen, một phân tích gia của CIA đã nghiên cứu vấn
đề Việt Nam trong 17 năm, và hỏi ông ta rằng ông ta có thể làm gì khi ở vào vị
thế của ông hiện nay. Ông ta trả lời: “Ngưng tăng cường lực lượng của
Hoa Kỳ, ngưng thả bom miền Bắc và thương lượng với Hà Nội về ngưng bắn.” Lý
do để Mỹ quyết định chấm dứt chiến tranh Việt Nam đã được ông NcNamara ghi một
cách giản dị như vậy! (Xem bài “Những thế lực đàng sau” của
chúng tôi trên motgoctroi.com, mục “Mỗi tuần”).
Vào tháng 5-1966, khi
Đại Đức Thích Nhất Hạnh đang ở Pháp thì được một nhóm phản chiến của Mỹ mời qua
Hoa Kỳ để “góp một bài tay” cho phong trào phản chiến đang dấy lên ở Mỹ.
“Thượng toạ Nhất
Hạnh nói về vấn đề Việt Nam và Phật giáo như một trong những người có thẩm
quyền quyết định...”
Bản tuyên cáo này và
những lời tuyên bố tiếp theo đều được “nói và viết theo đơn đặt
hàng” của nhóm phản chiến Mỹ. Phải công nhận Thiền Sư Nhất Hạnh là
một điệp viên văn hóa và tôn giáo lì lợm, ông “dám nói và dám làm theo đơn
đặt hàng” không biết ngượng mồm, bất chấp dư luận, bất chấp sự
thật và bất chấp đạo lý.
CÔNG CỤ CỦA CỘNG SẢN
Ngoài việc yểm trợ cho
chiến dịch ngụy hòa do cơ quan tình báo Mỹ phát động để rút quân ra khỏi Việt
Nam, GHPGVNTN đã yểm trợ cho Cộng Sản chiếm miền Nam.
1.- Yểm trợ đòi hỏi của
MTGPMN
Ngày 3.6.1966, Thiền sư
Nhất Hạnh đã công bố chủ trương 5 điểm của GHPGVNTN như sau:
- Chính phủ Nguyễn Cao
Kỳ từ chức.
- Quân đội Mỹ rút lui.
- Ngưng oanh tạc Bắc
Việt.
- Mỹ phải giúp lập chính thể dân chủ và tái
thiết miền Nam không điều kiện.
Năm điểm đòi hỏi này
giống hệt 5 điểm đòi hỏi của MTGPMN.
2.- Xuyên tạc lịch sử để
yểm trợ MTGPMN
Năm 1967, Đại Đức Nhất
hạnh cho xuất bản cuốn "Vietnam, Lotus in a Sea of Fire, a Buđhist
Proposal for Peace" (Việt Nam, Hoa sen trong biển lửa, môt đề
nghị hòa bình của Phật giáo), nói về cuộc tranh đấu của Phật Giáo từ 1963-1966
và những chết chóc tang thương do Hoa Kỳ và quân đội VNCH gây ra. Ông lên án
Ngô Đình Diệm đàn áp Phật Giáo, Nguyễn Cao Kỳ độc tài quân phiệt và ca tụng Hồ
Chí Minh là anh hùng dân tộc. Ông tuyên bố MTGPMN do những người quốc gia chống
chế độ Ngô Đình Diệm lập ra chứ không phải do Hà Nội lập ra, nhưng vì Mỹ đã đổ
quân và vũ khí vào VN, nên họ "nghiêng theo khối CS, và càng ngày
càng trở thành công cụ của khối CS".
Năm 1968, khi hòa đàm
Paris bắt đầu họp, ông được cử làm phát ngôn viên chính thức của GHPGVNTN (Ấn
Quang) ở hải ngoại.
3.- Tuyên ngôn 6 điểm
của Phái đoàn GHPGVNTN (Ấn Quang)
Tháng 10-1970, một phái
đoàn PGVN do Thượng Tọa Thích Thiện Minh cầm đầu qua Nhật Bản dự Hội Nghị Thế
Giới về Tôn Giáo và Hòa Bình họp tại Tokyo từ 16 đền 22.10.1970. Phái đoàn gồm
có các Thượng Tọa Thích Thiện Minh, Thích Huyền Quang, Thích Mình Tâm, Đại Đức
Thích Nhất Hạnh (phát ngôn viên) và 2 cư sĩ Ngô Văn Giáo và Vĩnh Bữu. Tại hội
nghị này, phái đoàn đã đưa ra đề nghị 6 điểm của PGVN như sau:
1.- Các phe lâm
chiến phải bắt đầu xuống thang ngay lập tức để đạt đến một cuộc ngưng bắn toàn
diện vào lúc 18 giờ chiều 30 Tết Tân Hợi (tức 26.1.1971).
2.- LHQ sẽ chỉ
định một nhóm quốc gia trung lập để họp thành Ủy Hội Kiểm Soát Ngưng Bắn gồm cả
đại diện của Quân đội VNCH và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam VN.
3.- Chính phủ VNCH
phải phóng thích các tù nhân chính trị, sinh viên, trí thức, tu sĩ và tất cả
những người đã bị tạm giam vì tranh đấu cho hòa bình và chủ quyền của dân tộc.
4.- Chính phủ Hoa
Kỳ phải chấm dứt tình trạng thối nát, độc tài và bất lực ở miền Nam VN bằng
cách để cho người Việt tự do chọn đại diện đa số dân chúng có bản chất hòa giải
dân tộc, không liên kết và có đủ khả năng để:
- Thương thuyết với
chính phủ Hoa Kỳ về thời biểu triệt thoái mau chóng toàn thể quân lực Hoa Kỳ ở
VN và những liên hệ ngoại giao, văn hóa và kinh tế giữa Hoa Kỳ và VN.
- Thương thuyết với
Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam VN về những thể thức tổng tuyển cử để bầu
lên một chính phủ đại diện cho mọi khuynh hướng chính trị ở Nam VN, một cuộc
bầu cử hoàn toàn tự do dưới sự giám sát quốc tế, trong đó mọi người VN thuộc bất
cứ khuynh hướng chính trị nào đều có thể tham dự.
5.- Các chính phủ
Hoa Kỳ, Sô-viết, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa và các quốc gia liên hệ khác cộng
tác với nhau để chấm dứt đau khổ của người dân Việt bằng cách ủng hộ đề nghị
này do chính người Việt đề ra.
6.- Các phe lâm
chiến tại VN, nhân dân ưa chuộng hòa bình trên thế giới, các giáo hội tôn giáo
và các nhà nhân bản cấp thời hành động để thúc đẩy các quốc gia có trách nhiệm
về chiến tranh VN chấm dứt cuộc chiến tranh tại VN., Kampuchea và Lào.
Từ văn từ đến nội dung,
bản tuyên bố viết giống hệt các bản tuyên bố của MTGPMN.
Trước một hội nghị quốc
tế về tôn giáo và hòa bình, thay vì trình bày một cách lịch sự đề nghị của
PGVN, phái đoàn đã đưa ra một mệnh lệnh theo “kiểu ông cố nội”, ra lệnh cho mọi
người liên hệ phải thi hành, vì thế GHPGVNTN (Ấn Quang) đã làm mất cảm tình đối
với hầu hết các quốc gia trên thế giới. Phái đoàn Đan Mạch đã vặn hỏi tại sao
PGVNTN (Ấn Quang) chỉ đòi quân đội Mỹ rút mà không đòi tất cả các quân đội
ngoại nhập phải rút, trong đó có cả quân đội CS Bắc Việt, phái đoàn PGVN không
trả lời được.
4.- Lập các tổ chức ngụy
hoà
Sau Đại hội Phật Giáo kỳ
3 của GHPGVNTN (Ấn Quang) tổ chức tại Saigon ngày 20.8.1968, luật sư Trần Ngọc
Liễng dưới sự chỉ đạo của Thượng Tọa Thích Thiện Minh, tuyên bố thành lập Lực
Lượng Quốc Gia Tiến Bộ. Ngày 15.11.1969, LS Liễng đưa ra một tuyên bố khẳng
định mục đích của Lực Lượng là đòi các lực lượng ngoại nhập (Mỹ và đồng minh)
phải rút khỏi miền Nam, thành lập chính phủ hòa giải dân tộc. Các báo ở Saigon hỏi
ông tại sao không nói gì về phía Cộng Sản, ông không trả lời.
Ngày 27.1.1973 Hiệp Định
Paris được ký kết. Điều 12 của Hiệp Định này dự liệu thành lập tại miền Nam
Việt Nam một Hội Đồng Quốc Gia Hòa Giải và Hòa Hợp Dân Tộc sau
khi ngưng bắn. Hội Đồng này gồm ba thành phần: VNCH, MTGPMN và các thành phần ở
giữa. Thừa lệnh của Hội Đồng Viện Hóa Đạo, ngày 31.1.1973, Thượng Tọa Thích
Thiện Minh đã phổ biến một thông bạch tuyên bố thành lập Lực Lượng Hòa
Giải Dân Tộc và cử Luật sư Vũ Văn Mẫu làm Chủ Tịch. Lực lượng này bao
gồm “các thành phần ở giữa” để đứng về phía MTGPMN trong Hội
Đồng. Thông bạch đòi hỏi phải “nghiêm chỉnh thực thi ngưng bắn” và
tiến tới lập chính phủ hòa hợp hòa giải. Thông bạch này đã bị các đảng phái
quốc gia và báo chí công kích mạnh nên Lực Lượng không hoạt động được.
Tháng 2-1974, nhóm luật
sư Trần Ngoc Liễng lại lập “Tổ chức nhân dân đòi thi hành hiệp định
Paris”, xác định mình là lực lượng thứ ba, mục tiêu chính là đòi thi hành
hiệp định Paris, Mỹ rút quân, thành lập Chính phủ hoà giải dân tộc.
XUẤT ĐẦU LỘ DIỆN
Trong cuốn Bạch Thư công
bố ngày 31.12.1993, Hòa Thượng Thích Tâm Châu đã viết:
“Ngày 30.4.1975 là ngày
cáo chung của chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Những bộ mặt thân Cộng Sản đã lộ rõ
nguyên hình, không ai mà không rõ:
- Khi quân Cộng Sản từ
rừng về Saigon, đã có gần 500 Tăng, Ni của phe tranh đấu Ấn Quang ra đón chào.
- Ngày 19.5.1975, phe
tranh đấu Ấn Quang đã tổ chức sinh nhật Hồ Chí Minh tại chùa Ấn Quang.
- Hiệp Thương Chính Trị
thống nhất hai miền Nam Bắc của Cộng Sản, một Thượng Tọa của phe Ấn Quang đã làm một bài tham luận,
nịnh Cộng Sản, kể công của Ấn Quang và đã kích Nha Tuyên
Úy Phật Giáo cùng Giáo Hội Thích Tâm Châu”.
Trong cuốn “Bảo
qua cổng chùa”, Hòa Thượng Thích Mãn Giác cho biết sau khi Việt
Cộng mới chiếm được miền Nam Việt Nam, Hội Đồng Viện Hóa Đạo của GHPGVNTN (Ấn
Quang) đã họp và quyết định tham gia tổ chức “mừng giải phóng”với
nhà cầm quyền, đồng thời tổ chức mừng sinh nhật Hồ Chí Minh tại chùa Ấn Quang.
Hòa Thượng viết:
“Lần đầu tiên trong lịch
sử Phật Giáo Việt Nam, Giáo Hội đã tổ chức một buỗi lễ hết sức long trọng để
mừng sinh nhật của một cá nhân. Ngay trong thời kỳ phong kiến quân chủ, Giáo
Hội cũng không làm như vậy. Mỗi chùa riêng tư có lễ chúc tụng Vua, nhưng không
phải làm tập thể Giáo Hội. Tại sao Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đã
làm như vậy? Vì kính ngưỡng Hồ Chủ Tịch? Vì muốn chứng tỏ thiện chí hợp tác?
Bản Thông Cáo số
66-VHD/VP/TC ngày 8.5.1975 của Viện Hóa Đạo (Ấn Quang) về tổ chức đón mừng hòa
bình và kỷ niệm ngày sinh nhật của ông Hồ Chí Minh 19 tháng 5, Hòa Thượng Mãn
Giác cho biết:
“Tin tưởng vào những hứa
hẹn về hòa hợp hòa giải dân tộc của Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời, sau
ngày giải phóng, Phật Tử Việt Nam đã tận tình hợp tác với Chính Phủ Cách Mạng. Giáo
Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất không được mời tham dự buổi lễ Mừng Chiến
Thắng do chính phủ tổ chức ngày 15 tháng 5, 1975, nhưng Giáo Hội, với thiện chí
sẵn có vẫn hợp tác trong nhiệm vụ đoàn kết dân tộc và tái thiết xứ sở, đã động viên trên 900 Tăng Ni trong
thành phố Hồ Chí Minh để tham dự cuộc meeting trên. Ban tổ chức
không chịu nhường chỗ đứng cho phái đoàn Phật Giáo tại khán đài, nhưng Giáo Hội
vẫn kiên chí tham gia trong buổi lễ. Ngày 19 tháng 5, 1975 hơn 20.000
Phật tử đã tề tựu tại chùa Ấn Quang để làm lễ sinh nhật Hồ Chủ Tịch. Đây là
một số lượng đáng kể vì ngoài chính phủ ra, không có đoàn thể nhân dân nào có
thể huy động số người tham dự buổi lễ đông đảo như vậy.”
TỰ THÚ NHẬN HỢP TÁC VỚI CỘNG SẢN
Trong cuộc meeting “mừng
giải phóng” ngày 15.5.1975, Hòa Thượng Mãn Giác đã đọc một bài
diễn văn rất thống thiết, trong đó có những đoạn sau đây:
“Trong những năm dài
sống dưới ách nô lệ thực dân mới, Phật Giáo chỉ nuôi một ước vọng sâu kín: độc
lập và thống nhất...
“Ngày nay, ước vọng đó
đã hiện thực. Hiện thực ấy ngày càng rõ nét trong đời sống dân tộc, làm vang
vọng lời xác quyết của Hồ Chủ Tịch “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là
một, sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay
đổi”... Bác Hồ kính yêu đã thay lời tổ tiên nói lên...”
“Cuộc đấu tranh của Phật
Giáo cho nền thống nhất tổ quốc cùng là một với cuộc đấu tranh vì CHỦ NGHĨA XÃ HỘI ..."
Sau đó, chính Hòa Thượng
Trí Thủ, Viện Trưởng Viện Hoá Đạo Ấn Quang, Hoà Thượng Trí Tịnh, Viện Phó và
Thượng Toạ Minh Châu, nguyên Tổng Thư Ký, đem GHPGVNTN (Ấn Quang) sát nhập
thành Giáo Hội Phật Giáo Nhà Nước. Trong lễ ra mắt Giáo Hội này hôm 7.11.1981
tại Hà Nội, Hoà Thượng Trí Thủ đã nhân danh Chủ Tịch Hội Đồng Trị Sự của Giáo
Hội đọc một bức thư gởi Chủ Tịch Hội Đồng Nhà Nước Trường Chinh, trong đó có
đoạn như sau:
“Suốt ba mươi năm chống
Pháp, chống Mỹ, nhiều chùa là cơ sở của cách mạng, nhiều tăng ni tạm thời rời
bỏ Thiền môn, hăng hái tòng quân đánh giặc cứu nước. Bác Hồ dạy: “Không gì quý
hơn độc lập tự do!”, toàn thể tăng ni và Phật tử Việt Nam ghi lòng tạc dạ lời
dạy đó của Bác, nhận thức rõ lý tưởng giải thoát của người tu hành không thể
tách rời sự nghiệp giải phóng dân tộc, do Hồ Chủ Tịch và Đảng Cộng Sản Việt Nam
lãnh đạo.”
Những hoạt động của các
chùa và tăng sĩ Phật Giáo ở Huế cho Việt Cộng mà Liên Thành ghi lại trong cuốn “Biến
động miền Trung” chỉ mới là một phần nhỏ. Năm 1974, khi tôi trở về
Đà Nẵng để quan sát tình hình, nhất là tin Việt Cộng sắp chiếm Thường Đức, một
nhân viên an ninh đã cho tôi biết trong 10 chùa ở Đà Nẵng, có đến 8 chùa hoạt
động cho Việt Cộng. Nếu Hoà Thượng chịu khó đọc lại các hồi ký viết về Đà Nẵng
ngày 29.3.1975, ngày Đà Nẵng bị mất, Hoà Thượng sẽ thấy các tổ chức Phật Giáo
và chùa chiền ở Đà Nẵng đã hành xử như họ là cơ quan đại diện của Cộng Sản tiếp
thu thành phố!
Trong cuộc gặp gỡ Hòa
Thượng Huyền Quang tại Hà Hội chiều 2.4.2003, Thủ Tướng Phan Văn Khải xác nhận:
“Phật giáo Việt Nam đã
từng góp công sức của mình vào sự nghiệp giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống
nhất đất nước.”
Khi Cộng Sản chiếm miền
Nam, các tăng sĩ lãnh đạo đấu tranh của GHPGVNTN (Ấn Quang) đã coi sáng kiến
của mình là tuyệt vời, là “đỉnh cao của trí tuệ loài người”, nhưng những
hậu quả sau đó thật là thê thảm cho cả đất nước lẫn Phật Giáo!
Thưa Hoà Thượng, trên
đây chỉ là những nét đại cương về một số tăng sĩ và GHPGVNTN hoạt động cho Cộng
Sản, nếu Hoà Thượng cần biết thêm, chúng tôi sẽ trình bày chi tiết. Trong bài
tiếp theo chúng tôi sẽ nói về âm mưu lật đổ và cướp chính quyền của một số tăng
sĩ và GHPGVNTN (Ấn Quang).
(Trích: “Bằng Chứng Tự
Thú” của Lữ Giang)
LÒNG HẬN THÙ TÔN GIÁO
Như chúng tôi đã
nói, năm 2010, Tiến Sĩ Cao Huy Thuần, một đệ tử của Thích Trí Quang thuộc nhóm
“Trá hàng VC để làm văn hóa, hoằng pháp...”, hiện đang ở Pháp, đã
được Việt Cộng mời về thuyết trình về kỷ niệm 1000 Thăng Long. Sau khi được lên
“dây cót”, Cao Huy Thuần đã tuyên bố huênh hoang với báo chí và dùng phịa sử để
xuyên tạc các biến cố đã xẩy ra tại miền Nam Việt Nam, mặc dầu sử liệu đã công
bố gần đầy đủ rồi.
Thật ra, các biến cố
lịch sử tại miền Nam đã bị Thiền sư Nhất Hạnh xuyên tạc một cách trắng trợn và
đang phải trả giá, nay đến lượt Cao Huy Thuần!
Trong các lời phát biểu
với báo chí, Cao Huy Thuần đã xuyên tạc nhiều sự kiện lịch sử với tất cả lòng
thù hận. Tuần trước, chúng tôi mới chỉ nói đến chuyện Cao Huy Thuần xuyên tạc
biến cố trước đài phát thanh Huế tối 8.5.1963. Chúng tôi đã đưa ra những bằng
chứng pháp lý và lịch sử để phản chứng, Cao Huy Thuần không thể chối cãi được.
Hôm nay chúng tôi xin nói những sự xuyên tạc của Cao Huy Thuần đối với Dụ số 10
được Quốc Trưởng Bảo Đại ban hành ngày 6.8.1950 ấn định quy chế hiệp hội cho
toàn quốc gia Việt Nam. Đây là vấn đề đã được chúng tôi trình bày với Hòa
Thượng Thích Quảng Độ, Hòa Thượng Thích Chơn Thành và ông Trần Gia Phụng, nhưng
Cao Huy Thuần vẫn tiếp tục loạn ngôn với ngụ ý Dụ này được chính quyền “bán
thuộc địa” đưa ra để ưu đãi Thiên Chúa Giáo! Chúng tôi thấy cần phải trình bày
lại rõ ràng vấn đề này một cách dứt khoát.
KHÔNG BIẾT GÌ LỊCH SỬ
Trong cuộc phỏng vấn của
báo Thời Đại Mới ngày 30.4.2011, Cao Huy Thuần đã nói về Dụ số 10 ngày 6.8.1950
như sau:
“Buồn cười không thể
tưởng tượng về cái Dụ số 10: Dụ này không xem Phật giáo như một tôn giáo mà chỉ như một hiệp
hội, ngang hàng với các hiệp hội từ thiện, mỹ nghệ, tiêu khiển, thể thao! Tôn giáo thì chỉ có một thôi, là Thiên
chúa giáo vì Thiên chúa giáo không nằm trong Dụ số 10...”
“Buồn cười ra nước mắt:
đòi dẹp bỏ Dụ số 10 để mình được làm tôn giáo như ai! Không nhận ra cái bất
công khủng khiếp này thì không hiểu được cái nhục mà tôi gọi là cái nhục gia tài, cái nhục không riêng gì của thế hệ lúc đó mà
nhục cả cha ông từ bao nhiêu thế hệ trước...”
Phóng viên báo Thời Đại
Mới nói Dụ số 10 không phải có từ thời ông Diệm mà đã có từ thời Bảo Đại. Ông
Diệm chỉ thừa hưởng. Cao Huy Thuần trả lời:
“Đúng vậy! Và chính vì
vậy mà cái nhục của Phật giáo được dân tộc san sẻ, trở thành cái nhục chung.
Một đạo dụ, ban hành dưới thời bán thuộc địa Liên Hiệp Pháp,xếp tôn giáo truyền thống của dân tộc vào loại
vô tôn giáo, lại được một chính
quyền mang tiếng là độc lập trân trọng giữ y nguyên văn, áp dụng triệt để, như
thể là con thừa tự! Độc lập chỗ nào? Nhục cho cả nước. Dân chúng miền Nam bị
tròng hai cái ách vào cổ: cái ách độc tài chính trị và cái ách độc tài tôn
giáo...”
Cao Huy Thuần có bằng
Tiến Sĩ về khoa học chính trị tại Đại học Picardie ở Pháp, nhưng qua bài phỏng
vấn nói trên, chúng ta thấy kiến thức của Cao Huy Thuần rất giới hạn, có lòng
hận thù Thiên Chúa Giáo điên cuồng, không hề nghiên cứu để nắm vững vấn đề mình
muốn trình bày, nên đã phát ngôn rất bừa bãi.
1.- Luật hiệp hội dưới
thời phôi thai
Dưới thời phong kiến,
Việt Nam không có quy chế hiệp hội. Đến thời Pháp thuộc, quy chế hiệp hội bắt
đầu hình thành, nhưng vì đất nước lúc đó được chia thành ba Kỳ, nên rất
phức tạp.
Ngày 26.3.1883 Pháp ban
hành bộ “Dân luật giản yếu” dựa hoàn toàn vào bộ Dân luật Pháp năm 1804.
Năm 1931 Pháp ban hành bộ “Dân luật Bắc” và từ 1936 đến 1938, bộ “Dân
luật Trung” (còn có tên là “Hoàng Việt Trung kỳ Hộ luật”). Hai
bộ luật Bắc và Trung đã phối hợp các nguyên tắc của Dân Luật Pháp với phong tục
tập quán của Việt Nam, trong đó có ấn định quy chế lập hội, nhưng rất sơ sài.
2.- Những trường hợp đặc
biệt
Tại Nam Kỳ và các nhượng
địa của Pháp, Luật về hiệp hội 1901
của Pháp được áp dụng. Đây
là đạo luật vẫn còn áp dụng tại Pháp cho đến nay.
Lúc đó, ở Việt Nam có
hai hội có phạm vi hoạt động toàn quốc là Trung Hoa Lý Sự Hội và Hội Thừa Sai Hải Ngoại Paris (Société des Missions Etrangères de Paris). Vì hoạt động của
các bang hội người Hoa thường gây khó khăn cho việc quản lý, nên với sự thỏa
thuận của chính phủ Trung Hoa, ngày 27.12.1886 Pháp đã chính thức ban hành quy
chế bang hội cho người Hoa tại Việt Nam và đặt dưới sự kiểm soát của Pháp. Sau
đó Pháp cũng đã ban hành một quy chế riêng cho Hội Thừa Sai Hải Ngoại Paris.
Quy chế của hai hội này cũng dựa vào Luật về hiệp hội 1901 của Pháp.
KHÁI NIỆM VỀ DỤ SỐ 10
Thỏa Ước Việt – Pháp
được ký kết giữa Bảo Đại và Tổng Thống Vincent Auriol của Pháp tại điện Élysée
ở Paris ngày 8.3.1949 và các hiệp định thi hành thỏa ước này được Quốc Trưởng
Bảo Đại và Cao Ủy Pháp Pignon ký ngày 30.12.1949 tại Tòa Đô Chánh Sài Gòn, công
nhận Chính Phủ Việt Nam có tổ chức hành chánh riêng, tư pháp riêng, tài chánh
riêng, quân đội riêng. Về vấn đề nội bộ, Chính Phủ Việt Nam có quyền
“thi hành đầy đủ quyền nội bộ của chính phủ ấy...”
Luật sư Trần Văn Tuyên
kể lại, sau khi có Thỏa Ước nói trên, chính phủ Nguyễn Phan Long được thiết lập
do Sắc Lệnh số 6/QT ngày 21.1.1950 của Quốc Trưởng Bảo Đại, đã quyết định biên
soạn một quy chế hiệp hội chung cho cả nước với mục đích đưa hoạt động của tất
cả các đảng phái, giáo phái, tôn giáo và hội đoàn vào khuôn khổ của luật pháp.
Công việc này chưa hoàn
tất thì cuối tháng 4 năm 1950 chính phủ Nguyễn Phan Long bị giải tán. Chính phủ
Trần Văn Hữu được thiết lập do Sắc Lệnh số 37/CP ngày 6.5.1950 để thay thế
chính phủ Nguyễn Phan Long. Thủ Tướng Trần Văn Hữu đã ra lệnh cho Bộ Nội Vụ và
Bộ Tư Pháp phối hợp hoàn tất quy chế hiệp hội.
Nội dung của dự luật này
đã phỏng theo Luật về
hiệp hội 1901 (Les associations
loi 1901) của Pháp, chỉ sửa đổi một số điều khoản cho phù hợp với tình hình
Việt Nam mà thôi, vì Luật về hiệp hội 1901 đã từng áp dụng tại Nam Kỳ và các
nhượng địa với những hiệu quả tốt.
Điều 1 của Luật về hiệp
hội 1901 của Pháp quy định như sau:
“L'association est la
convention par laquelle deux ou plusieurs personnes mettent en commun d'une
façon permanente leurs connaissances ou leur activité dans un but autre que de
partager des bénéfices. Elle est régie quant à sa validité, par les principes
généraux du droit applicable aux contrats et obligations.”
Điều 1 của Dụ số 10 ngày
6.8.1950 đã rập khuôn theo điều 1 của Luật về hiệp hội 1901 của Pháp nói trên:
“Hội là hiệp ước của hai
hay nhiều người thỏa thuận góp kiến thức hay hành lực một cách liên tiếp để
theo đuổi mục đích không phải là phân chia lợi tức, như là mục đích thuộc về tế tự, tôn giáo, chính
trị, từ thiện, thể thao và đồng nghiệp ái hữu.
“Muốn có hiệu lực thì
hội nào cũng phải hợp với nguyên tắc chung của pháp luật về khế ước và nghĩa
vụ.”
Khi dự luật được trình
lên, Thủ Tướng Trần Văn Hữu đã phê duyệt và gởi qua Pháp cho Bảo Đại ký,
vì lúc đó Bảo Đại đang ở Pháp. Bảo Đại đã ký tại Vichy ngày 6.8.1950 và được
đăng trong Công Báo Việt Nam số 33 ngày 19.8.1950.
TRƯỜNG HỢP NGOẠI LỆ
Điều thứ 44 của Dụ số 10
có quy định như sau:
“Chế độ đặc biệt cho
các hội truyền giáo Thiên chúa và Gia tô và các Hoa Kiều Lý Sự Hội sẽ ấn định
sau.”
Tại sao điều khoản này
được đưa vào cuối Dụ số 10? Phải chăng chính phủ Trần Văn Hữu muốn ưu đãi Thiên
Chúa Giáo và Hoa Kiều Lý Sự Hội? Không phải như vậy.
Khoan 1 của Thỏa Ước
Việt – Pháp được ký kết giữa Bảo Đại và Tổng Thống Vincent Auriol của Pháp tại điện
Élysée ngày 8.3.1949 có quy định như sau:
“Sự cai trị các sắc dân
không phải là người Việt Nam... sẽ được cứu xét bằng quy chế riêng…. Các quy chế này phải được sự thỏa thuận của
Đại Diện Chính Phủ Cộng Hoà Pháp Quốc, vẫn còn có trách nhiệm đối với họ.”
Như chúng tôi đã nói ở
trên, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam lúc đó đang đặt dưới quyền của Hội
Thừa Sai Hải Ngoại Paris (Société des Missions Étrangères de Paris) của Pháp và
có một quy chế riêng do Pháp ấn định.
Giữa Pháp và chính phủ
Trung Hoa cũng đã chấp thuận cho người Hoa có một chế độ riêng đặt dưới quyền
quản lý của Pháp.
Căn cứ vào khoản 1 của
Thỏa ước Élysée đã nói trên, muốn ấn định quy chế của hai tổ chức này, Việt Nam phải
tham khảo ý kiến của Pháp trước khi quy định. Vì thế, điều 44 Dụ số 10 phải quy
định như trên chớ không phải vì muốn ưu đãi Thiên Chúa Giáo và các bang hội Hoa
Kiều.
Như chúng tôi đã nói,
hai quy chế đã được áp dụng cho Hội Thừa Sai Hải Ngoại Paris và các Hoa Kiều Lý
Sự Hội cũng là các nguyên tắc ấn định trong Luật về hiệp hội 1901 của Pháp, tức giống
Dụ số 10 chứ chẳng có gì đặc biệt.
Một câu hỏi được đặt ra
là các nhà tranh đấu của Phật Giáo năm 1963, khi đọc điều 44 của Dụ số 10, họ
có biết tại sao điều 44 đã quy định như vậy không?
Nhiều người tin rằng họ
biết, vì điều 44 không chỉ nói đến một quy chế đặc biệt cho Thiên Chúa Giáo mà
còn cho cả Hoa Kiều Lý Sự Hội nữa.
Từ năm 1960, khi chưa có
vụ Phật Giáo, trong một bài đăng trên nguyệt san Quê Hương, ông Vũ Quốc Thông,
Giáo Sư Đại Học Luật Khoa Sài Gòn, đã giải thích rằng việc quy định những vấn
đề liên quan đến chính sách ngoại giao hay các luật lệ liên quan đến người Pháp
và ngoại kiều sinh sống tại Việt Nam, đều phải có sự đồng ý của Cao Ủy Pháp tại
Đông Dương, chính phủ Việt Nam mới được ban hành. Do đó, muốn ban hành các quy
chế về các hội truyền giáo của Thiên Chúa Giáo và các hội của Hoa Kiều đang
hoạt động tại Việt Nam như Société des Missions Étrangères de Paris, Protestant
Mission, Chinese Congrégations, v.v..., đều phải có sự đồng ý của Pháp mới ban
hành được.
(Vũ Quốc Thông, “Việt
Nam Tự Do, Chính Thể Cộng Hòa Nhân Vị”, nguyệt san Quê Hương số 16, ngày
16.10.1960, tr. 1 - 39 và 247 – 262).
Giả thiết các nhà tranh
đấu Phật Giáo không biết những quy định pháp lý nói trên đi nữa và muốn phân bì
thì họ phải phân bì vừa với Hoa Kiều Lý Sự Hội vừa với Thiên Chúa Giáo, tại sao
họ chỉ phân bì với Thiên Chúa Giáo? Câu trả lời có thể rất giản dị như sau:
Tại vì các nhà lãnh đạo
đấu tranh Phật Giáo muốn MƯỢN LÒNG HẬN THÙ THIÊN CHÚA GIÁO LÀM ĐỘNG LỰC KÍCH ĐỘNG ĐẤU TRANH nên họ chỉ chụp lấy chữ “Thiên Chúa Giáo” trong điều 44 và bỏ qua một bên Hoa Kiều Lý Sự
Hội. Họ biết dân chúng chẳng ai đọc Dụ số 10 và khi họ tuyên bố Dụ số 10 ưu đãi
Thiên Chúa Giáo là đa số các Phật tử tin ngay. Đây là một trò TRÍ TRÁ mà thuật
ngữ Phật Giáo gọi là VỌNG
NGỮ.
Chiến thuật mượn lòng
hận thù Thiên Chúa Giáo làm động lực kích động đấu tranh là chiến thuật đã được
các nhà lãnh đạo đấu tranh Phật Giáo xử dụng trong suốt cuộc chiến Việt Nam và
kéo dài cho đến ngày nay. Toàn bài phát biểu của Cao Huy Thuần với báo Thời Đại
Mới mà chúng tôi đang bàn đến có thể được coi là biểu tượng rõ nét nhất của sự
kích động lòng hận thù tôn giáo. Nhiều người tin rằng chiến thuật này chắc chắn
sẽ được tái áp dụng hậu cộng sản, khi các nhóm Phật Giáo quá khích muốn tạo bạo
loạn để cướp chính quyền. Nhưng đây là một chiến thuật sai lầm, vì khi áp dụng
chiến thuật này, các nhà đấu tranh Phật Giáo đã phải đối phó cùng một lúc vừa
với chính quyền vừa với Thiên Chúa Giáo, thất bại là chuyện đương nhiên.
ĐÀNH CHẤP NHẬN “CÁI NHỤC GIA TÀI”
Các nhà Phật Giáo đấu
tranh và Hòa Thượng Quảng Độ đã cho rằng “Dụ số 10 tồn tại từ thời thực dân Pháp xem Phật giáo như
một hội đoàn, với nhiều kỳ thị, ức chế dưới thời đệ nhất Cộng hoà.” Nay Cao Huy Thuần cũng chỉ lặp lại luận
điệu đó và cho rằng Dụ số 10 không xem Phật giáo như một tôn giáo mà chỉ như
một hiệp hội, ngang hàng với các hiệp hội từ thiện, mỹ nghệ, tiêu khiển, thể
thao! Ông coi đó là “cái nhục” mà ông gọi là “CÁI NHỤC GIA TÀI”.
Phật giáo có đến 84.000
pháp môn (vô lượng pháp), ai tu theo pháp môn nào cũng được, nên trên thế giới
không có Giáo Hội Phật Giáo thống lãnh toàn thể các tăng sĩ và tín đồ. Ở Việt
Nam, vì nhu cầu thống lãnh Phật Giáo để tạo sức mạnh cướp chính quyền, Giáo Hội
Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất mới được hình thành. Đó là một tổ chức chính trị
hơn là một tổ chức tôn giáo.
Thật ra, Giáo Hội cũng chỉ là một hiệp hội, nhưng người Thiên Chúa Giáo gọi làGiáo Hội (Ecclesia, Église, Church) vì đó là chữ được dùng trong
Thánh Kinh (Mat. 16,19). Năm 1964, khi 11 tổ chức Phật Giáo Việt Nam quyết định
thành lập một tổ chức Phật Giáo Việt Nam thống nhất, họ cũng dùng chữ Giáo Hội
(Church). Vậy chữ Church đó lấy từ đâu ra? Không lẽ lấy từ Thánh Kinh?
Dù coi hiệp hội là một “CÁI
NHỤC GIA TÀI”, nhưng khi đến Mỹ, Pháp và các nước trên thế giới, các tổ chức
Phật Giáo Việt Nam đều “thi đua” nạp đơn xin gia nhập các quy chế hiệp hội tại
các nước này để được hưởng những quyền lợi được luật pháp ban cho, ở Mỹ có quy
chế hiệp hội bất vụ lợi (nonprofit organization) còn ở Pháp có Luật về hiệp hội
1901 (gióng Dụ số 10 của VNCH).
Luật thuế vụ liên bang
của Mỹ [Federal 501(c) (3) Status] đã định danh năm thứ hiệp hội bất vụ lợi có
thể được miễn thuế, đó là các hiệp hội có mục đích bác ái, các tổ chức khoa học (scientific organizations), các tổ chức giáo dục (educational organizations), các hiệp hội có mục đích văn học, và các nhóm
tôn giáo (religious
groups).
Vậy khi các chùa và các
tổ chức Phật Giáo ở hải ngoại xin được hưởng các quy chế này "ngang
hàng với các hiệp hội từ thiện, mỹ nghệ, tiêu khiển, thể thao..." là
họ đã chấp nhận một “CÁI NHỤC GIA TÀI”?
TÁC HẠI CỦA “QUY CHẾ ĐẶC BIỆT”
Năm 1964, theo yêu sách
rất gay cấn của nhóm Phật Giáo đấu tranh, Tướng Nguyễn Khánh đã ban hành Sắc
Luật số 158-SL/CP ngày 14.5.1964 công nhận Hiến Chương ngày 4.1.1964 của
GHPGVNTN, cho phép Giáo Hội này được hoạt động theo một “chế độ đặc biệt” nằm trên và ngoài luật pháp quốc gia. Hiến
Chương của Giáo Hội coi là tài sản của GHPGVNTN tất cả các quốc tự, các ngôi
chùa làng, các ngôi tổ đình, các ngôi chùa xây dựng bởi các vị Tăng sĩ và các
hội đoàn Phật giáo cũ, v.v.
Sự thống lãnh quyền lực
và tước đoạt tài sản này đã đưa tới sự chống đối mạnh liệt của các hội đoàn và
tông phái Phật giáo. Một cuộc chiến tranh đẩm máu đã xẩy ra. GHPGVNTN đã bị bể
ra làm hai: Giáo Hội Ấn Quang và Giáo Hội Việt Nam Quốc Tự. Ngày 18.7.1967,
Tổng Tống Nguyễn Văn Thiệu đã ban hành Sắc Luật số 23/67 hủy bỏ Sắc Luật số
158-SL/CP ngày 14.5.1964 và công nhận Hiến Chương mới của Giáo Hội Việt Nam
Quốc Tự. Kể từ đó, Giáo Hội Ấn
Quang hoạt động ngoài vòng pháp luật và cho đến nay đã bể thành 8! Trong khi đó, Dụ số 10 vẫn được áp dụng đến
ngày 30.4.1975 và vẫn được đa số các đoàn thể của người Việt hải ngoại trân
trọng: Khi xin phép lập hội thì họ làm theo luật Mỹ, nhưng khi làm Nội Quy họ
vẫn mô phỏng theo các nguyên tắc của Dụ số 10.
Trên đây là hậu
quả tai hại của một “chế độ đặc biệt” mà nhóm Phật Giáo đấu tranh đã đòi hỏi
bằng mọi giá.
Cao Huy Thuần đã từng
viết: “Tìm cách phục hồi sự
thật lịch sử... để không phạm lại những lỗi lầm cũ.” Bây giờ chúng tôi đã phục hồi lại sự thật
lịch sử, Cao Huy Thuần sẽ tính sao?
Chúng tôi sẽ đề cập tiếp
vần đề “Phật giáo từng bị chụp
mũ “thân Mỹ”, “thân Cộng” mà Cao Huy Thuần đang la làng.
(Trích: “Lòng Hận Thù
Tôn Giáo” của Lữ Giang)
Lòng thù hận Thiên Chúa Giáo
Như chúng tôi đã
nói nhiều lần, theo báo cáo của CIA, chủ trương của nhóm Phật Giáo đấu tranh là
tiến tới thành lập một chính quyền Phật Giáo do giáo quyền lãnh đạo (theocracy).
Cuộc đấu tranh đã lên đến cao điểm vào năm 1966, khi Phật Giáo cướp chính quyền
thất bại ở Đà Nẵng và Huế. Người chủ trương và lãnh đạo cuộc đấu tranh cướp
chính quyền là Thích Trí Quang và lý thuyết gia về Phật giáo là “đạo dân tộc” và Phật giáo phải nắm chính quyền là Lê
Mạnh Thát.
Khi đấu tranh, các tăng
sĩ lãnh đạo đã dùng lòng hận thù Thiên Chúa Giáo và vọng ngữ làm động lực. Tuy
nhiên, sau khi thất bại, nhóm Phật Giáo đấu tranh vẫn tiếp tục xử dụng lòng hận
thù Thiên Chúa giáo và vọng ngữ để chạy tội, biện minh cho những sai lầm nghiêm
trọng của mình. Lòng thù hận Thiên Chúa giáo và vọng ngữ đã trở
thành “con đường giải thoát” của Phật Giáo đấu tranh!
LÒNG HẬN THÙ BIỂU TƯỢNG
SỰ TUYỆT VỌNG
Sách báo được viết để
kích động lòng hận thù Thiên Chúa Giáo từ 1963 đến nay khó mà đếm hết được. Vào
các nhà sách trong và ngoài nước đều thấy tràn ngập. Hiện nay trên Internet, có
hai websites đã chính thức xử dụng lòng hận thù Thiên Chúa Giáo và vọng ngữ như “con đường
giải thoát” của Phật Giáo, đó
là sachhiem.net vàchuyenluan.org.
Hầu hết các websites của Phật Giáo đều có tham gia vào trận chiến này. Hàng
ngày, số bài chống Thiên Chúa Giáo được chuyển đi trên các diễn đàn Internet
Việt ngữ không phải chỉ hàng chục mà có lúc đến hàng trăm lần: Công
Giáo hắc sử, Tội ác của Công Giáo La Mã, Phải tiêu diệt Thiên Chúa Giáo, Nói về
7 núi tội ác của Công Giáo, Sự thật về Tội ác Nhân Loại của Đạo Công Giáo và
tội ác Diệt Chủng Nhân loại của Tòa Thánh VATICAN, Công Giáo La Mã là một đặc
sản văn hóa phi nhân tính, v.v. Dĩ nhiên, đó chỉ là tiếng chó sủa trăng, chẳng làm rụng được sợi chân lông của ai,
nhưng nó biểu tượng cho sự
tuyệt vọng của những kẻ bị dồn vào đường cùng.
CHỈ LÀ NHỔ RA LIẾM LẠI!
Phương pháp thông dụng
được nhóm Phật giáo đấu tranh xử dụng là “nhổ ra liếm lại” và coi đó là “bằng
chứng lịch sử”! Chúng đã biến wikipedia.org thành
một công cụ, đưa lên những bài xuyên tạc lịch sử rồi trích dẫn lại và coi đó là
tài liệu lịch sử đáng tin cậy! Chúng tôi đã đưa một thí dụ cụ thể:
Đọc bài nói về Ngô Đình
Diệm trên wikiprdia.org, chỉ vài hàng đầu đã thấy sai
bét rồi. Nhiều người tin người viết thuộc nhóm Giao Điểm hay Ấn Quang. Tác giả
viết:“Ngô Đình Diệm sinh
ngày 3 tháng 1 năm 1901 tại làng Đại Phong, huyện Lệ Thủy, Quảng Bình trong một
gia đình quan lại có truyền thống theo đạo Công giáo lâu đời ở Việt Nam.”
Có người thấy bài viết
bậy quá đã vào thử sửa lại một đoạn đầu xem sao: “Ngô Đình Diệm sinh ngày
3.1.1901 tại làng Phước Quả, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên...”
Nhưng một tuần sau mở ra
xem lại, bọn lưu manh đã sửa lại như cũ! Chúng vừa lưu manh vừa dốt! Ông Ngô
Đình Khả sinh tại Quảng Bình, còn anh em ông Diệm đều sinh ở Huế (còn
sổ rửa tội).
Những phịa sử của Đỗ
Mậu, Cửu Long Lê Trọng Văn (tức Lê Văn Thông, cán bộ ở Lào), Chu Bằng Lĩnh (Mạc Thu, tên thật là Lưu Đức Sinh, ghiền thuốc phiện)... được coi như là “kinh nhật tụng” của Phật Giáo đấu tranh, cứ đem ra tụng đi
tụng lại hết ngày này qua ngày khác trên các diễn đàn.
Không phải chỉ “bọn lau
nhau” tích cực phát động chiến dịch này, mà một số cao tăng cũng đã đứng ra
lãnh đạo. Người hung hăng nhất là Thích Trí Quang. Từ 1963 đến nay, ông đã liên
tục dùng “hồi ký” để phổ biến phịa sử chống Thiên Chúa Giáo. Trước tiên là cuốn
“Tiểu truyện tự ghi”. Chúng tôi biết rất rõ quê quán, gia đình và bổn sư của ông, thế mà
ông tưởng không ai biết, cứ “múa gậy vườn hoang”. Tập “Từ Rạch Cát tới Tòa Đại Sứ Mỹ” được ông viết gióng truyện Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân, còn
ông là Tôn Ngộ Không! Bị chúng tôi lật tẩy, năm 2011 ông viết lại với một văn
phong ôn hòa hơn, lấy tên là “Trí Quang Tự Truyện” được Nhà xuất bản
Tổng Hợp ở Sài Gòn ấn hành. Cuốn này được viết và trình bày chuyên nghiệp hơn,
có lẽ có người giúp, nhưng lại mâu thuẫn với nhiều điều ông nói trong các cuốn
trước và phịa sử vẫn còn nhiều (chúng tôi sẽ nói sau), vì thế có
người cho rằng “Trí Quang đã tự lột mặt nạ của chính mình”! Ông vẫn còn
nói lẩm cẩm về Dụ số 10, một văn kiện mà ông chẳng hiểu gì hết. Ông loạn ngôn: “Rõ ràng, Dụ số 10 cho Thiên Chúa Giáo là độc tôn, là “tôn giáo”, cho
các tôn giáo khác, kể cả Phật Giáo, chỉ là tín ngưỡng lặt vặt. Vậy mà Dụ nầy,
thủ tướng Diệm mới cầm quyền, đã ban hành tục Dụ duy trì, ‘ký thay Quốc trưởng’.” Thật ra Dụ số 10 được Bảo Đại ban hành từ năm 1950 vẫn tồn tại đến 30.4.1975, ông
Diệm và các chính phủ tiếp theo không hề ban hành một văn kiện nào để duy trì
hay hủy bỏ Dụ số 10, vì nội dung của Dụ này không khác gì Luật về hiệp hội 1901 (Association loi 1901) của
Pháp đã được ban hành ở Việt Nam trước đó và còn tồn tại ở Pháp đến
ngày nay. Nhưng ông có trình độ văn hóa khá thấp, thấp nhất trong các tăng
sĩ lãnh đạo Ấn Quang, nên nói chuyện pháp lý với ông rất khó. Ông vẫn ôm chặt
lòng thù hận Thiên Chúa Giáo!
ĐIỆP VIÊN HAI MANG?
Hôm nay chúng tôi nói
đến một nhân vật quan trọng khác đối với cuộc chính biến 1963, đó là Thích Đức Nghiệp. Chúng tôi gọi ông là một nhân vật quan trọng
vì ông và Trần Quang Thuận đã được CIA xử dụng để tổ chức vụ thiêu Thích Quảng
Đức, khởi đầu cho kế hoạch lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm.
Tài liệu cho biết
William Kohlmann, một nhân viên tình báo Mỹ đang làm việc ở Anh quen biết với
Trần Quang Thuận đã được điều động qua Sài Gòn để hướng dẫn Trần Quang Thuận và
Đại Đức Thích Đức Nghiệp thực hiện vụ thiêu Thích Quảng Đức. Lúc Đó Đại Đức
Thích Đức Nghiệp đang là giáo sư Anh ngữ tại trường Vạn Thắng. Ông đã từng làm
thông dịch viên cho Mỹ từ cuộc di cư 1954. Thích Quảng Độ làm thông dịch viên
cho USIS.
Bill Kohlmann kể lại
rằng ban tổ chức định dùng xăng để thiêu Thầy Quảng Đức, nhưng được cho ý kiến
là xăng sẽ cháy rất nhanh, không đủ thời gian để chụp hình và làm các nghi thức
trước khi lửa tắt, và thời gian cháy chưa đủ để làm Thầy Quảng Đức tắt thở, do
đó phải đổ thêm Diesel vào cho cháy chậm lại. Thích Đức Nghiệp có nhiệm vụ liên
lạc với ký giả Malcolm Browne của AP, một nhân viên CIA khác, có nhiệm vụ báo
tin cho các ký giả đến đúng lúc để quay phim, chụp hình và gởi đi khắp thế
giới. Ba mươi vụ tự thiêu
tiếp theo không có CIA dính vào, đã trở thành con số không!
Trong vụ này, Trần Quang
Thuận đã phạm một lỗi lầm rất lớn là dùng chiếc xe Austin mang số DBA 599 của
ông già vợ là Tôn Thất Hối, chở Thích Quảng Đức đến hiện trường nên cơ quan
tình báo của ông Diệm phát hiện ra đường dây tổ chức. Trần Quang Thuận bị CIA
sa thải ngay vì lý do “làm gián điệp cho Pháp”. William Kohlmann nói ông ta đã
biện hộ cho Thuận nhưng CIA cứ sa thải. Vì hồ sơ này, khi Trần Quang Thuận qua
Mỹ xin vào làm cho sở xã hội đã bị từ chối.
Lý lịch của Thích Đức
Nghiệp vẫn được giấu kín. Thích Quảng Độ sinh năm 1928. Thích Đức Nghiệp đồng
tuổi hay chỉ nhỏ hơn Thích Quảng Độ một hai tuổi. Sau khi chế độ Ngô Đình Diệm
bị lật đổ, ông được Mỹ cho đi học tại Đại Học Yale ở Connecticut và được cấp
bằng tiến sĩ triết học. Nhưng ông hiện là Phó Pháp Chủ Hội Đồng Chứng Minh GHPG Nhà Nước và làm mưa làm gió ở chùa Giác Minh. Nhiều bài
trong nước tố ông là tay sai của Giáo Hội quốc doanh và coi ông là một thành
phần hai mang, vừa làm tay sai cho Mỹ vừa làm tay sai cho Cộng Sản.
ĐỈNH CAO CỦA LÒNG HẬN THÙ
VÀ VỌNG NGỮ
Thích Đức Nghiệp có viết
cuốn “Đạo Phật Việt Nam” được Thành Hội Phật Giáo Sài Gòn xuất bản năm
1995, trong đó có rất nhiều phịa sử. Hôm nay chúng tôi chỉ trích một đoạn ông
nói về nguyên nhân đưa đến biến cố tối 8.5.1963 trước đài phát thanh Huế, để
đọc giả thấy ông phịa tài tình không thua gì Đặng Văn Nhâm viết cuốn “Giặc
thầy chùa”. Ở trang 192 ông viết:
«Xuyên qua những dữ kiện lịch sử, việc cố tình
kỳ thị tôn giáo của chế độ ông Diệm đã tiềm phục từ lâu, cụ thể từ 1957 tới
1963 qua những bản phúc trình của Phật giáo Trung Việt. Ðặc biệt vào lễ khánh thành nhà thờ Ðức
Mẹ La Vang tại Quảng Trị, trùng hợp với đại lễ Phật Ðản hằng năm, từ ngày 8-4
đến 15-4 âm lịch trên toàn quốc. Vào dịp lễ khánh thành này, ông Diệm, ông Nhu, ông Cẩn, Giám Mục Ngô Ðình Thục cùng đi dự
lễ. Trên đường tới nhà thờ tại Quảng Trị, phải đi qua thành phố Huế, thấy trang hoàng cổng chào và cờ Phật giáo rợp trời, ông Diệm mới
hỏi người tùy tùng và được trả lời: "Ðây là cờ Phật giáo. » Do đó, ông
Diệm liền hạ lệnh cho Quách Tòng Ðức, Ðổng lý văn phòng phủ Tổng thống, cùng đi
theo: "Hãy gửi gấp công điện, khắp nơi phải hạ cờ Phật giáo xuống!".
Ðó là nguyên nhân chính xảy ra cuộc tranh đấu Phật giáo chống chính quyền ông
Diệm vào mùa Phật Ðản năm 1963.»
(Thích Đức Nghiệp, “Đạo
Phật Việt Nam”, Thành hội Phật Giáo TP Hồ Chí Minh, 1995, tr. 192.)
Đây là một sự bịa đặt
quá trắng trợn! Hàng năm Giáo Hội Công Giáo Việt Nam đều làm lễ «khánh thành» nhà thờ Đức Mẹ La Vang? Chẳng ai tin được
chuyện này.
Đền thờ Đức Mẹ La Vang
do Linh Mục René Toussaint Morineau khởi xây từ năm 1924 và khánh thành ngày 22.8.1928. Năm 1901, Đức Giám mục Gaspar Lộc quyết định
tổ chức 3 ngày lễ thánh hiến Ðền Thánh La Vang và cuộc cung nghinh tượng Ðức Mẹ
La Vang từ 6 đến 8.8.1901. Giáo dân giáo phận Huế thuộc ba tỉnh Quảng Bình,
Quảng Trị và Thừa Thiên đã tham dự rất đông đảo. Từ đó, Đại Hội Thánh Mẫu La Vang được tổ chức 3 năm một
lần vào giữa tháng 8, tức vào dịp lễ Đức Mẹ Lên Trời vào ngày 15
tháng 8. Lễ này không hề trùng với lễ Phật Đản như Thích
Đức Nghiệp đã nói, vì trước 1963 lễ Phật Đản được tổ chức vào ngày 4 tháng tư
âm lịch, sau đó đổi lại ngày 15 tháng 4, tức trước Đại Hội Thánh Mẫu La Vang
khoảng 2 tháng.
Đại Hội LangVang lần thứ
14 được tổ chức năm 1958, lần thứ 15 năm 1961 và lần thứ 16 năm 1964. Năm 1963 không có Đại Hội La Vang và cũng không
có chuyện «ông Diệm, ông Nhu, ông Cẩn, Giám Mục Ngô Ðình Thục cùng đi dự lễ» ở
La Vang năm này.
Do lời thỉnh cầu của Hội
Đồng Giám Mục Việt Nam, ngày 22.8.1960 Ðức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã long trọng
ban sắc chỉ nâng đền thờ La Vang lên bậc Vương Cung Thánh Ðường dâng kính Ðức
Mẹ La Vang. HĐGMVN họp tại Huế ngày 13.4.1961 đã quyết định chọn đền thờ Ðức Mẹ
Lavang làm "Ðền Thờ toàn quốc
dâng kính Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Ðức Mẹ", và nhận linh địa
Lavang làm "Trung Tâm Thánh Mẫu Toàn Quốc". Do đó, Đại Hội Thành Mẫu La Vang năm 1961 được tổ chức rất trọng thể, có 10 vị Giám mục, 300 Linh mục, gần 1000 tu sĩ
nam nữ và khoảng 300.000 giáo dân đến dự. Nhân dịp này, hai phái đoàn cao cấp của chính phủ VNCH cũng có mặt, một do Tổng Thống Ngô Đình Diệm dẫn đầu đến La
Vang ngày 16.8.1961 và một do Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ đến ngày La Vang
ngày 21. Tướng Perakiraly của Hungari cũng tham dự.
Hòa Thượng Đức Nghiệp đã lấy biến cố 1961 ghép vào năm 1963 và coi đó là
nguyên nhân đưa tới biến cố tối 8.5.1963 tại đài phát thanh Huế. Vọng ngữ như thế, thật khó tưởng tượng nổi!
Một người đậu tiến sĩ
triết học ở Đại Học Yale, Hoa Kỳ, không thể viết một sự kiện lịch sử sai lầm
nghiêm trọng như vậy. Nhưng ông đã bịa đặt ra những chuyện nói trên với hai mục
tiêu: Mục tiêu thứ nhất là kích động lòng hận thù Thiên Chúa Giáo làm động lực
đấu tranh, và mục tiêu thứ hai là biện minh cho những sai lầm của Giáo Hội Ấn
Quang, vì những tham vọng chính trị hão huyền, đã bị Mỹ rồi Cộng Sản biến thành công cụ, xài xong
rồi đập bể ra từng mảnh!
Trong bài "Buddhism
and Politics”, Hòa Thượng Sri Dhammananda có nhận định như sau:
“Khi tôn giáo bị sử
dụng để thỏa mãn các ý đồ chính trị thì tôn giáo sẽ phải hy sinh các lý tưởng
đạo đức cao quí của mình và trở nên bị hạ thấp giá trị do những nhu cầu chính
trị trần tục.”
(When religion is used
to pander to political whims, it has to forego its high moral ideals and become
debased by worldly political demands.)
(Trích: “Lòng Hận Thù
Thiên Chúa Giáo” của
Lữ Giang)
CHUYỆN KẺ PHẢN BỘI.
1.- Làm tay sai cho CIA gây thảm họa hoạ
cho đất nước.
a) Sự thật đã rõ ràng
Trong cuộc phỏng vấn
được phổ biến trên đài BBC ngày 31.10.2009, Hồ Quang Phương, nạn nhân của tệ
trạng bạo hành của Cảnh Sát Mỹ ở San José, đã phát biểu như sau:
“Khi vụ đó xẩy ra mà
không có băng video, không có gì chứng minh là mình đúng, có thể bị xử có tội.
Bây giờ có băng video rồi, công lý đứng về phía mình.”
Trong vụ đảo chánh
và giết ông Diệm cũng vậy.
Trong một cuốn băng dài
30 tiếng đồng hồ do thư viện Johson Library ở Austin, Texas, công bố ngày
28.2.2003, cho biết vào ngày 1.2.1966, Tổng Thống Lyndon B. Johnson đã nói
chuyện bằng điện thoại với Thượng Nghị Sĩ Eugene McCathy như sau:
Johnson:
- ... Nhưng ngài nhớ,
lúc đầu họ nói với tôi về ông Diệm.
MacCarthy:
- Có chứ.
Johnson:
- (Rằng) ông
ta tham nhũng và ông ta phải bị giết. Vì thế, chúng ta đã giết ông ta. Tất cả
chúng ta đã họp lại với nhau VÀ XỬ DỤNG MỘT BỌN ÁC ÔN CÔN ĐỒ ĐÁNG NGUYỀN RỦA để hạ sát ông ta. Bây giờ, chúng ta thật
sự không có sự ổn định chính trị (ở Miền Nam Việt Nam) từ lúc
đó.”
Khi cuốn băng này chưa
được công bố, một số viên chức Mỹ có trách nhiệm và một số sử gia cố gắng cãi
chày cãi cối để kết luận rằng vụ đảo chánh năm 1963 là do một nhóm sĩ quan VNCH
thực hiện, người Mỹ không hề nhúng tay vào. Còn các Tướng Tá Việt Nam làm đảo
chánh tự tôn là “nhà cách mạng” và ngày 1.11.1963 được biến thànhNgày
Quốc Khánh. Nhưng khi cuốn băng nói trên được công bố, lịch sử
đã được làm sáng tỏ.
b) Tên chỉ đạo hống
hách
Trưa ngày đảo chánh
1.11.1963, Lucien Conein, người được nói là có nhiệm vụ theo dõi cuộc đảo chánh
nhưng thật sự là người chỉ đạo cuộc đảo chánh, đã đến Bộ Tổng Tham Mưu VNCH
mang theo một cái túi đựng 3 triệu đồng Việt Nam (42.000 USD)mà ông
đã rút ra trước từ ngân khoản của Trạm CIA. Ngoài số tiền này, Lucien Conein
còn mang một khẩu súng lục, một cái radio đặc biệt để thông báo tin tức về cuộc
đảo chánh cho Trạm CIA và các viên chức CIA khác nằm trong mạng lưới của ông
ta.
Lucien Conein đã tự ý
leo lên ngồi ở ghế bành của của Đại Tướng Lê Văn Tỵ, Tổng Tham Mưu Trưởng VNCH,
gác chân lên bàn, bên cạnh là khẩu Magnum 44, dưới chân bàn là hai xách tay bạc
Việt Nam...
(Hoàng Lạc và Hà Mai
Việt, “Việt Nam năm 1954 – 1975, những sự thật chưa hề nhắc tới”, tr. 247).
Tướng Trần Văn Đôn cho
biết, khi hay tin ông Diệm và ông Nhu đã rời khỏi dinh Gia Long, Lucien Conein
đã nói một cách hống hách:
- Hai ông ấy đi đâu? Phải bắt lại cho kỳ được vì
rất quan trọng.
Ông ta nói bằng tiếng
Pháp:
- On ne fait pas d'omelette sans casser les oeufs.”
(Người ta không thể làm
món trứng rán mà không đập bể những cái trứng).
(Trần Văn Đôn, Việt Nam
nhân chứng, tr. 228)
Tên “thủ trưởng” này quả
thật quá hống hách!
c) Phản bội tổ quốc
Nhà cầm quyền Mỹ ra lệnh
lật đổ và giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm để có thể đổ quân vào miền Nam. Họ hành
động như vậy vì quyền lợi của nước Mỹ. Còn nhóm sĩ quan VNCH nhận chỉ thị và
tiền của Mỹ làm đảo chánh lật đổ và giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm, đưa VNCH vào
những ngày đen tối và sau đó làm mất miền Nam Việt Nam, họ chỉ là những tên
lính đánh thuê không hơn không kém. Họ không hành động vì quyền lợi của tổ
quốc.
Trong trường hợp
này, tội của những kẻ làm lính đánh thuê chắc chắn nặng hơn tội của kẻ chủ mưu,
vì họ đã phản bội tồ quốc.
2.- Hiệp định Paris:
Bán đứng VNCH
Một số người cho
rằng Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu là người có công khi buộc Hoa Kỳ và Việt Cộng
phải thay đổi một số điều khoản có hại cho VNCH trong dự thảo hiệp định Paris.
Nhưng nói như thế là hoàn toàn sai lầm.
Ngày 18.10.1972
Kissinger đã đến Saigon để làm áp lực buộc Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu phải
đồng ý nội dung bản dự thảo hiệp định Paris với hy vọng sẽ mang bản dự thảo đó
ra Hà Nội ngày 24.10.1972 để Thủ Tướng Phạm Văn Đồng ký tắt vào. Nhưng
Kissinger đã thất bại. Chỉ trong một thời gian ngắn, Bộ Ngoại Giao, Bộ Tư Pháp
và Bộ Dân Vận - Chiêu Hồi đã phát hiện ra đến 23 điểm cần phải điều
chỉnh. Kissinger chỉ đồng ý điều chỉnh 16 điểm không quan trọng mà thôi. Số còn lại phải để nguyên, trong đó có điều
khoản quan trọng nhất là chỉ buộc Mỹ rút khỏi miền Nam chứ không buộc quân
đội Bắc Việt.
Chúng ta nhớ lại,
khi Hội Nghị Genève 1954 sắp kết thúc, thừa lệnh của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm,
ngày 19.7.1954 Ngoại Trưởng Trần Văn Đỗ tuyên bố tại Genève rằng chính phủ quốc
gia Việt Nam không chấp nhận chia cắt Việt Nam và yêu cầu đặt Việt Nam dưới
quyền kiểm soát của Liên Hiệp Quốc. Chính phủ Ngô Đình Diệm đã cương quyết
không ký tên vào hiệp định này.
Ngày 21.7.1954 khi
đại diện Pháp và Việt Minh ký hiệp định Genève chia cắt đất nước làm đôi, Thủ
Tướng Ngô Đình Diệm ra lệnh treo cờ rũ và đọc một bài diễn văn chống lại sự bất
công của Hiệp Định này đã trao cả miền Bắc cho Cộng Sản và thêm 4 tỉnh miền
Trung. Thủ Tướng nói: “Chúng tôi không thể đặt vào vòng nô lệ hàng triệu
đồng bào trung thành với chủ nghĩa quốc gia...”
Tổng Thống Nguyễn
Văn Thiệu đã không hành động như vậy. Ông thừa biết Bắc Việt cố giữ lại điều khoản không rút quân
trong hiệp định Paris là để khi Hoa Kỳ rút hết, họ sẽ mở cuộc tấn công trở lại,
nhưng bị ám ảnh bởi cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm khi Mỹ muốn đem quân
vào Việt Nam mà ông là một trong những thủ phạm, Tổng Thống Thiệu đã tự trấn an bằng những lời cam kết của Tổng
Thống Nixon mà Tướng Haig mới chuyển đến, đã ra lệnh cho Ngoại Trưởng Trần Văn
Lắm ký tên vào Hiệp Định Paris ngày 27.1.1973. Trong trường hợp nầy, Tổng Thống
Nguyễn Văn Thiệu đã đặt sinh mạng và địa vị của mình lên trên quyền lợi quốc
gia. Đây là lỗi lầm trọng đại căn bản dẫn tới mất miền Nam.
CẦN LÀM SÁNG TỎ LỊCH SỬ
Trong thời chính
phủ Ngô Đình Diệm, tôi còn là sinh viên nên không đính líu gì đến chế độ này,
nhưng ít ra tôi cũng được chứng kiến tận mắt nhiều biến cố đã xẩy ra. Tôi cảm
thấy kinh hoàng khi khảo cứu hồ sơ vụ án Ngô Đình Cẩn và vụ án Đặng Sỹ. Sau này
tôi cảm nhận rằng lời nguyền rủa của Tổng Thống Johnson dành cho những kẻ tay
sai của CIA không có gì quá đáng.
Khi ra hải ngoại, tôi
lại cảm thấy kinh hoàng hơn khi đọc các cuốn phịa sử không phải chỉ của Đỗ Mậu
hay Lê Trọng Văn mà cả của Thiền Sư Nhất Hạnh! Tôi không thể ngờ được người ta
đã cố tình viết lịch sử một cách bố láo bố lếu như vậy.
Tôi bắt đầu đọc lại bản
phúc trình của phái đoàn điều tra Liên Hiệp Quốc về vụ Phật Giáo, các tài liệu
chính thức được giải mật trong các bộ Foreign Relations of the United States
liên quan đến vấn đề Việt Nam của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ công bố, v.v., tôi quyết
định phải đem lại sự thật cho lịch sử. Bài “Kẻ phản bội” cũng
nằm trong loạt bài đó.
(Trích: “Chuyện Kẻ
Phản Bội” của Lữ Giang)
Sau cuộc cách mạng
Bolshevik ngày 17 tháng Mười năm 1917 tại Nga thành công, đưa Cộng Sản lên nắm
chính quyền; ông Vladimir Lenin gọi bọn người chạy theo liếm gót Cộng Sản để
tâng bốc là “polezniye duraki”, tiếng Anh gọi là “useful idiots” (những thứ
người ngu xuẩn nhưng có ích cho Cộng Sản).
Tại Việt Nam bọn
“polezniye duraki” quả thực chỉ mong được ngoại bang hay Cộng Sản ban cho “bơ
thừa, canh cặn”, vì thế bọn chúng quay ra tiếp tay chống đối và đạp đổ tất cả
những cái tử tế, tốt đẹp của xã hội đang cưu mang và thi ân cho chúng. Tưởng
rằng, bọn “useful idiots” này sẽ tỉnh ngộ sau khi cái mặt nạ Cộng Sản thực sự
rơi xuống, nhất là bọn tài phiệt buôn bán chiến tranh trên xương máu người
Việt, họ dùng bọn người này như: cây mã tấu, khẩu Rouleau, khẩu Thompson, khẩu
Aka. v.v. được tẩm thuốc độc dưới lớp áo màu vàng hay màu nâu, rồi khi xong
việc, bọn chúng liền bị bọn tài phiệt buôn chiến tranh quang vào đống rác, thì
bọn chúng phải tỉnh ngộ chứ! Ai ngờ bọn ngu xuẩn này vẫn tiếp tục u muội mãi.
Thế rồi, những tên ngu xuẩn đó từ từ chết dần, người ta hy vọng bọn đàn em của
bọn chúng sẽ tỉnh ngộ tránh được những vết xe đổ vỡ trước đây. Nhưng than ôi!
Vậy bọn ngưới này là loại người ăn cái gì nhỉ?
Thế rồi đã nửa thế kỷ
năm trôi qua, và nhất là giáo lý của nhà Phật mà Đức Thế Tôn luôn dạy các Phật
tử và chúng sanh: từ bi, hỷ xả, để đạt đến chân, thiện, mỹ. Đức Phật thường khuyên bảo đệ tử của ngài rằng: “Hận thù không nên giữ trong đầu quá một đêm”.
Phật cũng dạy “Lấy ân báo oán, oán tiêu tan, lấy thù báo oán,oán chập chồng như
núi Thái Sơn… không đời kiếp nào hết…”
Thế mà không hiểu vì
sao, vào tháng Sáu năm 2013, tại chùa Bảo Quang, Nam California, Đại Lão Hòa
Thượng Tâm Châu, Thượng Chủ GHPGVN trên toàn thế giới khơi lại chuyện Hòa
Thượng Quảng Đức “tự!” thiêu sáng ngày 11-06-1963 tại ngã ba đường Lê Văn Duyệt
và Phan Đinh Phùng, Sài Gòn. Trong khi nói chuyện cụ nhấn mạnh năm nay (2013)
cụ đã 93 tuổi, ý cụ lấy danh dự của một người đạo cao chức trọng, lại rất cao
tuổi ra để thề không nối láo, hơn nữa lúc đó cụ là Chủ Tịch Ủy Ban Liên Phái
của Phật giáo tranh đấu chấp thuận đơn của Hòa Thượng Quảng Đức được tự thiêu
trong số bẩy đơn tất cả.
Khi nghe đên đây, chúng
tôi sực nhớ lại, trên đời này tàn ác, lừa phỉnh, gian dối chỉ bằng Cộng Sản là
cùng. Thế mà khi điệp viên tình báo Đặng Chí Bình và phi công John Macain đang
tự tử trong lao tù Cộng Sản, nhưng bọn công an phát hiện kịp, chúng vẫn ngăn
chặn và cứu sống hai ngươì này. Lại còn khuyên nhủ nữa. Thế mà những kể mang
danh là con Phật lại tổ chức giết người.
Nhưng muốn tìm hiểu thật
chính xác về việc Hòa Thượng Quảng Đức tự thiêu hay bị thiêu, xin quý độc giả
vào: Google, rồi đánh máy vào đó như sau: “thượng tọa thích quảng đức tự thiêu?
hay bị cộng dản thiêu sống?” sẽ thấy rõ, không thể chối cãi được.
Nhắc đến Ủy Ban Liên
Phái của Phật giáo tranh đấu năm 1963, theo như chúng tôi được biết, khi bản
Thông Cáo Chung giữa Ủy Ban Liên Phái của Phật giáo và Ủy Ban Liên Bộ của Chính
Phủ VNCH, về phía Phật giáo đã ký và đã được Đại Lão Hòa Thượng Thích Thiện
Khiết ký KHÁN, thì bản Thông Cáo Chung được trao cho ông Ngô Đình Nhu. Ông Ngô
Đình Nhu đưa cho bà Nhu đọc để thêm ý kiến, bà Nhu lấy làm lạ rồi phì cười vì
những đòi hỏi của Phật giáo chưa bao giờ bị cấm. Bà đề nghị ký nhưng ghi tay
thêm mấy chữ là “những đòi hỏi trong đây chưa bao giờ bị cấm”. Ông cố vấn Ngô
Đình Nhu đem bản Thông Cáo Chung đến buổi họp của Ủy Ban Liên Bộ sau đó và nói
lại ý của bà Nhu, ngoại trưởng Phật giáo Vũ Văn Mẫu yên lặng không nói gì,
nhưng Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ phát biểu: “Họ uống trà sâm còn mình uống
trà thường khiến mình là thằng ngu”. Vì câu nói này mà ông Mẫu cạo đầu thừ chức
Ngoại Trưởng. (Trích: “Hồi Ký của Bà ngô Đình Nhu, tr. 188). Tưởng xin được bổ
túc thêm, bà Nhu còn nhắc chồng rằng: “Anh trình Tổng Thống phê bên lề: “Chấp
thuận” rồi ký tắt ngay đó. Chứ đừng ký KHÁN như cụ Tịnh Khiết. Vì Tổng thống là
Quốc Trưởng, không thể ngang hàng với đại diện một tổ chức được. Vì như Tổng
Thống đã nói: “Tôn giáo nằm trong quốc gia, chứ quốc gia không nằm trong tôn
giáo”….
Trở lại “Thông bạch” của
cụ Tâm Châu gửi đồng bào Phật tử. Cụ Tâm Châu nhắc đì nhắc lại nhiều lần: “Mục
đích của việc tự thiêu của Hòa Thượng Quảng Đức nhằm thức tỉnh nhân tâm Tổng
Thống Ngô Đình Diệm, chứ không thù oán gì chế độ.” Còn các vị Hòa Thượng,
Thượng Tọa khác như: Quảng Độ, Trí Quang, Đôn Hậu.v.v. nhằm cứu nguy Phật giáo
và dân tộc.
Nay, Phật giáo và
dân tộc Việt Nam đang quoằn quoại trong nanh vuốt của Việt Cộng, nhất bọn Cộng
Sản Việt Nam vô thần, vô tổ quốc đang dâng hiến cả nước Việt Nam thân yêu của
chúng ta cho Trung Cộng, bằng chứng cụ thể là cái HỘI NGHỊ THÀNH ĐÔ
ngày03-09-1990 đã được phơi bày. Thế mà các cụ như: Tâm Châu, Trí Quang, Quảng
Độ. v. v. chẳng thấy “Cụ” nào dám tự thiêu để cứu nguy Phật giáo và cứu nguy
dân tộc cả, mặc dầu tuổi của các cụ là tuổi gần đất xa trời rồi. Riêng cụ Quảng
Đội kêu gọi “biểu tình tại gia”, khác nào “trùm mền la xung phong”.
Sở dĩ chúng tôi không
dám đặt chữ “Thích” trước tên Tâm Châu, Quảng Độ, Trí Quang, Đôn Hậu, Đức
Nghiệp. v.v. vì chúng tôi không dám vô lễ xúc phạm đến Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu
Ni…
Đang khi theo dõi đọan
video clip cụ Tâm Châu “thanh minh thanh nga” tại chùa Bảo Quan, chúng tôi lắc
đầu, sửng sốt và nhớ lại câu giáo huấn sau đây: “Ngu dốt lớn nhất của đời người là dối trá”. Còn nói theo kiểu
“Đại Phịa Sử Gia” ở Canada thì: “Đống cứt đã khô mặt, nay lại bởi ra cho thối
thêm gấp bội” (Đúng là “Gậy ông đập lưng ông”). Nhưng có lẽ cuộc nói chuyện của
cụ Tâm Châu tại chùa Bảo Quang lót đường cho kế hoạch “NGHỊ QUYẾT 36 TÔN GIÁO
VẬN” của Cộng Sản. Vì chỉ có bọn Ma Tăng mới lưu thù chuốc oán trên 50
năm qua dưới hai chữ “PHÁP NẠN”, mà Bọn Ma Tăng đã được đào tạo dưới mái
trường công an của chế độ CSVN mổi năm huấn luyện hoàn thành khoảng 2000 tân
công an đầu trọc tung ra từ quốc nội tới hải ngoại để hoạt động, đó là điều có
thật.”
(Trích: “NGHỊ QUYẾT 36
TÔN GIÁO VẬN” của Võ Long Triều)
Để tìm hiểu thêm về kế
hoạch này, xin quý vị đọc những lá thư sau đây của Thiếu tá Liên Thành:
From: UBTTTAĐCSVN <ubtttadcsvn.vg@gmail.com>
Date: 2014-10-17 16:43 GMT-07:00
Subject: (Hiệu đính & final) CHIẾC MẶT NẠ CỦA THÍCH QUẢNG ĐỘ VÀ ĐÁM CỘNG TĂNG THUỘC PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT ĐÃ BỊ RỚT SAU NỬA THẾ KỶ DỐI GẠT ĐỒNG BÀO
Date: 2014-10-17 16:43 GMT-07:00
Subject: (Hiệu đính & final) CHIẾC MẶT NẠ CỦA THÍCH QUẢNG ĐỘ VÀ ĐÁM CỘNG TĂNG THUỘC PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT ĐÃ BỊ RỚT SAU NỬA THẾ KỶ DỐI GẠT ĐỒNG BÀO
To: chuadieungu@gmail.com, vovanai@free.fr, ubcv.ibib@buddhist.com, phamdang0308@yahoo.com,thichvienly@gmail.com, thichvienhuy@gmail.com, thichviendinh@yahoo.com, queme@free.fr,thichquangdo@gmail.com
CHIẾC MẶT NẠ CỦA THÍCH QUẢNG ĐỘ VÀ ĐÁM CỘNG TĂNG
THUỘC PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT ĐÃ BỊ RỚT SAU NỬA THẾ KỶ DỐI GẠT ĐỒNG BÀO
________________________________________________________
Liên Thành
Orange County, CA ngày 16/10/2014
Kính gởi: Đồng bào tại quốc nội và hải
ngoại
Thưa đồng bào,
Trước tình hình đất nước sắp mất vào tay Tàu cộng, thì đã có một biểu tượng của lòng yêu nước và tinh thần bất khuất ngày càng lan rộng trong giới trẻ quốc nội và hải ngoại. Biểu tượng ấy không ai khác hơn là Tổng Thống VNCH Ngô Đình Diệm. Từ Facebook cho đến blog đã chứng minh rằng người Việt Nam đang rất ngưỡng mộ và noi gương tiết trực, vị quốc vong thân của vị Tổng Thống Đệ I VNCH. Từ đây gọi chung là Tinh thần TT VNCH Ngô Đình Diệm.
An ninh tình báo của CSVN nhận thức rõ hiện tượng đặc biệt này. Vì vậy hiện nay, CSVN đã nghiên cứu và quyết định dùng hình tượng Thích Quảng Đức như là một vũ khí chiến lược làm biểu tượng để chống lại Tinh thần TT VNCH Ngô Đình Diệm. Bọn CSVN quốc nội và hải ngoại hằng năm làm lễ truy điệu vụ Thích Quảng Đức bị dàn dựng thiêu sống, tuyên truyền cái gọi là "cuộc vận động Phật giáo năm 1963" của đám Cộng tăng, và khai thác cuộc phản loạn năm 1963.
Đã hơn 50 năm trôi qua, từ ngày tổ chức Phật giáo Việt Nam Thống Nhất (PGVNTN) dùng danh nghĩa Phật giáo đã phá nát miền nam Việt Nam từ vụ phản loạn ngày 1/11/1963 đạp đổ nền Đệ I VNCH, sát hại Tổng Thống Đệ I VNCH Ngô Đình Diệm,sự phối hợp giữa CSVN và đám điệp viên tôn giáo cộng sản nằm vùng (Cộng tăng) đến nay vẫn còn ngoan cố như vậy. CSVN vừa quyết định bỏ ra 150 tỉ đồng VN tức tương đương 7 triệu Dollars cho công trình Việt Nam Quốc Tự để đánh bóng vũ khí chiến lược Thích Quảng Đức và công khai công nhận sự thành lập của đám Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất với công tác giải trừ VNCH năm 1963. (Sự thành lập của Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất là một đề án đã được tên Hồ Chí Minh chấp thuận cho Thích Trí Quang thực hiện mà tôi đã chứng minh trong sách Thích Trí Quang, Thần Tượng hay Tội Đồ Dân Tộc.)
Trong đó đại diện là 5 tên điệp viên tôn giáo cộng sản nằm vùng đứng đầu là Cộng tăng:
Trước tình hình đất nước sắp mất vào tay Tàu cộng, thì đã có một biểu tượng của lòng yêu nước và tinh thần bất khuất ngày càng lan rộng trong giới trẻ quốc nội và hải ngoại. Biểu tượng ấy không ai khác hơn là Tổng Thống VNCH Ngô Đình Diệm. Từ Facebook cho đến blog đã chứng minh rằng người Việt Nam đang rất ngưỡng mộ và noi gương tiết trực, vị quốc vong thân của vị Tổng Thống Đệ I VNCH. Từ đây gọi chung là Tinh thần TT VNCH Ngô Đình Diệm.
An ninh tình báo của CSVN nhận thức rõ hiện tượng đặc biệt này. Vì vậy hiện nay, CSVN đã nghiên cứu và quyết định dùng hình tượng Thích Quảng Đức như là một vũ khí chiến lược làm biểu tượng để chống lại Tinh thần TT VNCH Ngô Đình Diệm. Bọn CSVN quốc nội và hải ngoại hằng năm làm lễ truy điệu vụ Thích Quảng Đức bị dàn dựng thiêu sống, tuyên truyền cái gọi là "cuộc vận động Phật giáo năm 1963" của đám Cộng tăng, và khai thác cuộc phản loạn năm 1963.
Đã hơn 50 năm trôi qua, từ ngày tổ chức Phật giáo Việt Nam Thống Nhất (PGVNTN) dùng danh nghĩa Phật giáo đã phá nát miền nam Việt Nam từ vụ phản loạn ngày 1/11/1963 đạp đổ nền Đệ I VNCH, sát hại Tổng Thống Đệ I VNCH Ngô Đình Diệm,sự phối hợp giữa CSVN và đám điệp viên tôn giáo cộng sản nằm vùng (Cộng tăng) đến nay vẫn còn ngoan cố như vậy. CSVN vừa quyết định bỏ ra 150 tỉ đồng VN tức tương đương 7 triệu Dollars cho công trình Việt Nam Quốc Tự để đánh bóng vũ khí chiến lược Thích Quảng Đức và công khai công nhận sự thành lập của đám Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất với công tác giải trừ VNCH năm 1963. (Sự thành lập của Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất là một đề án đã được tên Hồ Chí Minh chấp thuận cho Thích Trí Quang thực hiện mà tôi đã chứng minh trong sách Thích Trí Quang, Thần Tượng hay Tội Đồ Dân Tộc.)
Trong đó đại diện là 5 tên điệp viên tôn giáo cộng sản nằm vùng đứng đầu là Cộng tăng:
1- Thích Trí Quang: Đảng viên cộng sản, Tình báo viên của
Cục tình báo chiến lược Hà Nội, cũng là mật báo viên cơ quan tình báo Hoa kỳ
2- Thích Đôn Hậu: Chánh Đại Diện Phật Giáo Ấn Quang Miền
Vạn Hạnh, Tình báo viên của Cục tình báo chiến lược, thoát ly ra Hà nội vào năm
Mậu Thân 1968
3- Thích Quảng Độ: Tăng Thống PGVNTN hiện tại, Cán bộ Tình báo chiến lược của
Tổng Cục Tình báo Bắc Việt, qua ngỏ Ấn Độ xâm nhập bất hợp pháp vào miền Nam VN
vào năm 1958
4- Thích Thiện Siêu: Trụ trì chùa Từ Đàm, 40 năm tuổi đảng, Dân biểu cộng sản 4 nhiệm kỳ (sau 1975)
4- Thích Thiện Siêu: Trụ trì chùa Từ Đàm, 40 năm tuổi đảng, Dân biểu cộng sản 4 nhiệm kỳ (sau 1975)
5- Thích Minh Châu: 43 năm tuổi đảng, Cán bộ tôn giáo vận của cục Tình báo chiến
lược Hà Nội. Từ chùa Quán Sứ Hà Nội qua Ấn Độ, vào miền nam chính thức bằng
Visa do Thủ Tướng VNCH thời đó là Thủ Tướng Nguyễn Khánh cấp năm 1964 (Cộng
tăng Thích Trí Quang và tổ chức PGVNTN của y đã áp lực Tướng Khánh).
Thích Minh Châu giữ chức vụ Viện Trưởng viện Đại Học Vạn Hạnh từ đó đến 30/4/1975, sau 1975 giữ chức vụ dân biểu của cộng sản Việt Nam 2 nhiệm kỳ.
Thích Minh Châu giữ chức vụ Viện Trưởng viện Đại Học Vạn Hạnh từ đó đến 30/4/1975, sau 1975 giữ chức vụ dân biểu của cộng sản Việt Nam 2 nhiệm kỳ.
Sau 1/11/1963, chỉ trong vòng 2 năm từ tháng 1/1964 đến cuối tháng 6/1966, bọn chúng đã thực hiện 153 cuộc biểu tình bạo động phá rối an ninh trật tự khắp toàn các đô thị lớn, nhỏ, tại miền nam Việt Nam không ngoài mục đích tạo cơ hội thuận tiện cho cộng sản Bắc Việt xâm chiếm miền nam Việt Nam.
Trong khoảng thời gian nầy phải nói đến cuộc
phản loạn của bọn chúng tại miền Trung do tên Cộng tăng Thích Trí Quang cầm đầu
mưu toan chiếm giữ 6 tỉnh miền Trung (Quảng trị, Thừa Thiên-Huế, Đà Nẵng, Quảng
Nam, Quảng Tín, Quảng Ngãi) để dâng cho cộng sản Bắc Việt.
Kế đến là Tết Mậu Thân 1968 bọn chúng cho ra đời Lực Lượng Liên Minh Dân Chủ Dân Tộc Hòa Bình với tên Việt gian Lê Văn Hảo làm Chủ Tịch và tên Thích Đôn Hậu Chánh Đại Diện PGVNTN miền Vạn Hạnh làm phó Chủ Tịch. Chúng phối phợp với quân du kích và bọn Việt Cộng nằm vùng, dùng chùa Từ Đàm làm Bộ Chỉ huy An ninh và trung tâm thanh lọc đã chôn sống 5327 thường dân vô tội và bắt đi mất tích 1200 người.
Và cuối cùng ngày 30/4/1975 cũng chính bọn nầy cùng với 500 sư sãi của PGVNTN kéo nhau ra tận ven đô Sài Gòn đón quân Cộng sản vào Thủ Đô Sài Gòn của VNCH.
Qua bao đau thương tang tóc của đồng bào, bao nhiêu khổ nạn của dân tộc, bao nhiêu điêu linh của tổ quốc do bọn nầy gây ra, vậy mà khi nào bọn chúng cũng vỗ ngực nói rằng bọn chúng vì Quốc nạn và Pháp nạn mà phải tranh đấu phải hy sinh, phải tự thiêu như Thích Quảng Đức, phải tuyệt thực 90 ngày không chết như Thích Trí Quang, phải thực hiện 153 cuộc biểu tình bạo động khắp toàn lãnh thổ VNCH.
Sau 30/4/1975, tên điệp viên tôn giáo cộng sản Thích Quảng Độ lại đóng vai trò đối lập cuội với cộng sản trong chức vụ Tăng Thống của PGVNTN tuyên bố: “Đang trực diện đối đầu với cộng sản để giải trừ Quốc nạn và Pháp nạn”, kêu gọi đồng bào Phật tử hải ngoại đóng góp cả hằng chục triệu Dollars cho y và tổ chức PGVNTN, đồng thời kêu gọi đồng bào trong nước chống cộng sản bằng cách: “Biểu Tình tại Gia”.
Cũng sau ngày 30/4/1975 tại Hải Ngoại thì tên Việt Gian Võ Văn Ái, đám Cộng tăng, dâm tăng, thổ phỉ tăng PGVNTN như Thích Viên Lý, Thích Viên Huy, Thích Giác Đẳng, cũng hô hào đồng bào Phật Tử Hải Ngoại đóng góp tiền bạc cho công cuộc trực diện đối đầu với Cộng sản để giải trừ Quốc nạn và Pháp nạn của tên cộng sản Thích Quảng Độ Tăng Thống PGVNTN.
Và gần 1 năm trước đây, 12/2013, thì PGVNTN chia làm hai tiếp tục con đường lường gạt tiền bạc của tín đồ và dùng Phật giáo tạo lập nhiều cơ sở nằm vùng để mưu toan cầm nắm cộng đồng Hải Ngoại:
Một bên là Võ Văn Ái, Thích Giác Đẳng, Thích Quảng Độ vẫn giữ danh xưng là Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, một bên là Thích Viên Lý chùa Điều Ngự với danh xưng là Tăng Đoàn Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.
Cả hai phe hiện đang tranh nhau xây chùa to, hốt tiền bá tánh, Phật tử.
Kế đến là Tết Mậu Thân 1968 bọn chúng cho ra đời Lực Lượng Liên Minh Dân Chủ Dân Tộc Hòa Bình với tên Việt gian Lê Văn Hảo làm Chủ Tịch và tên Thích Đôn Hậu Chánh Đại Diện PGVNTN miền Vạn Hạnh làm phó Chủ Tịch. Chúng phối phợp với quân du kích và bọn Việt Cộng nằm vùng, dùng chùa Từ Đàm làm Bộ Chỉ huy An ninh và trung tâm thanh lọc đã chôn sống 5327 thường dân vô tội và bắt đi mất tích 1200 người.
Và cuối cùng ngày 30/4/1975 cũng chính bọn nầy cùng với 500 sư sãi của PGVNTN kéo nhau ra tận ven đô Sài Gòn đón quân Cộng sản vào Thủ Đô Sài Gòn của VNCH.
Qua bao đau thương tang tóc của đồng bào, bao nhiêu khổ nạn của dân tộc, bao nhiêu điêu linh của tổ quốc do bọn nầy gây ra, vậy mà khi nào bọn chúng cũng vỗ ngực nói rằng bọn chúng vì Quốc nạn và Pháp nạn mà phải tranh đấu phải hy sinh, phải tự thiêu như Thích Quảng Đức, phải tuyệt thực 90 ngày không chết như Thích Trí Quang, phải thực hiện 153 cuộc biểu tình bạo động khắp toàn lãnh thổ VNCH.
Sau 30/4/1975, tên điệp viên tôn giáo cộng sản Thích Quảng Độ lại đóng vai trò đối lập cuội với cộng sản trong chức vụ Tăng Thống của PGVNTN tuyên bố: “Đang trực diện đối đầu với cộng sản để giải trừ Quốc nạn và Pháp nạn”, kêu gọi đồng bào Phật tử hải ngoại đóng góp cả hằng chục triệu Dollars cho y và tổ chức PGVNTN, đồng thời kêu gọi đồng bào trong nước chống cộng sản bằng cách: “Biểu Tình tại Gia”.
Cũng sau ngày 30/4/1975 tại Hải Ngoại thì tên Việt Gian Võ Văn Ái, đám Cộng tăng, dâm tăng, thổ phỉ tăng PGVNTN như Thích Viên Lý, Thích Viên Huy, Thích Giác Đẳng, cũng hô hào đồng bào Phật Tử Hải Ngoại đóng góp tiền bạc cho công cuộc trực diện đối đầu với Cộng sản để giải trừ Quốc nạn và Pháp nạn của tên cộng sản Thích Quảng Độ Tăng Thống PGVNTN.
Và gần 1 năm trước đây, 12/2013, thì PGVNTN chia làm hai tiếp tục con đường lường gạt tiền bạc của tín đồ và dùng Phật giáo tạo lập nhiều cơ sở nằm vùng để mưu toan cầm nắm cộng đồng Hải Ngoại:
Một bên là Võ Văn Ái, Thích Giác Đẳng, Thích Quảng Độ vẫn giữ danh xưng là Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, một bên là Thích Viên Lý chùa Điều Ngự với danh xưng là Tăng Đoàn Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.
Cả hai phe hiện đang tranh nhau xây chùa to, hốt tiền bá tánh, Phật tử.
Đến nay, 10/2014, thì chiếc mặt nạ đạo pháp dân tộc của bọn CSVN và tổ chức Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đã bị rớt. Như trên đã nói, vũ khí chiến lược Thích Quảng Đức và vụ phản loạn 1963 đang được CSVN đem ra. Thành Ủy cộng sản tại Sài Gònqua thông cáo chính thức vào ngày 12 tháng 10 năm 2014 rằng:
Ngày 12/10 CSVN đã tổ chức lễ đặt đá khởi công xây dựng Việt Nam Quốc Tự, Quận 10 trước sự chứng kiến của đông đảo lãnh đạo chóp bu CS tại Sài Gòn. Việt Nam Quốc Tự được thiết kế và xây dựng lại trên quy mô rộng 10.000 m2, trong đó có hơn 7.200m2 vừa được Ủy ban nhân dân CS tại Sài Gòn cấp cho. Công trình Việt Nam Quốc Tự dự kiến sẽ ngốn 7 triệu Đôla này sẽ hoàn thành trong 2 năm tới.
Bọn CSVN mang hy vọng ngôi Việt Nam Quốc Tự cao 13 tầng sẽ trở thành biểu tượng cho "13 tổ chức, hội đoàn, tông phái tham gia thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và cuộc vận động Phật giáo năm 1963."
Nơi đây sẽ tôn thờ trái tim của Thích Quảng Đức, đồng thời sẽ xây dựng nhà trưng bày về "cuộc tranh đấu của Phật giáo"… khi đang lâm vào hoàn cảnh "pháp nạn năm 1963."
http://www.vietnamplus.vn/khoi-cong-xay-dung-viet-nam-quoc-tu-moi-tai-thanh-pho-ho-chi-minh/285820.vnp
Thích Quảng Độ, Võ Văn Ái, Thích Viên Lý, Thích Giác Đẳng của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, trong 2 năm liên tiếp 2013 và 2014, đã đồng hành cùng Cộng sản trong việc dùng Thích Quảng Đức để đấu tố VNCH và Cố TT Đệ I VNCH Ngô Đình Diệm tại chùa Pháp Luân, Texas, và chùa Điều Ngự, Nam Cali, và trên các phương tiện truyền thông như đài truyền hình IBC của chùa Điều Ngự và đài Radio Quê Mẹ của Võ Văn Ái. Hãy giải thích với đồng bào trong và ngoài nước về hành động bán nước hại dân của các ông trong một cuộc tranh luận với tôi tại bất cứ nơi đâu và thời gian nào, ngoại trừ Việt Nam, dưới sự chứng kiến của đồng bào và giới truyền thông.
Rất mong các ông nhận lời mời của tôi.
California, USA ngày 16 tháng 10 năm 2014
Liên Thành
Chủ tịch Ủy ban Truy Tố Tội Ác Đảng Cộng Sản
Việt Nam
P.O. Box 6147, Fullerton, CA 92834
Điện thoại: 626-257-1057
Email: ubtttadcsvn.vg@gmail.com
Đồng thời xin quý vị đọc
tiếp hai bài dưới đây về những trò ma thuật đã diễn ra trước đây:
THƯ THIẾU TÁ LIÊN THÀNH GỬI ĐẠI LÃO HÒA THƯỢNG
TÂM CHÂU
Orange County,
California, ngày 13 tháng 7 năm 2013
“Thưa Hòa Thượng,
Từ bao nhiêu năm nay cho
đến trước cuối tháng 6-2013 Hòa thượng nói chuyện tại chùa Bảo Quang Nam Cali,
và trước ngày 4-7-2013 Ký giả Đoàn Trọng phỏng vấn Hòa Thượng trên đài truyền
hình channel 57.7 thì cá nhân tôi vẫn một lòng tôn kính Hòa thượng. Nhất là khi
Hòa thượng ra cuốn Bạch Thư tố cáo Ác Tăng Thích Trí Quang và Phật Giáo thuộc
nhóm Ấn Quang là cộng sản, mặc dầu trước đó trong thời gian cuộc nổi loạn 1963
Hòa Thượng cũng đã sát cánh với Thích Trí Quang và nhóm cộng sản Ấn Quang như
Hòa thượng đã tuyên bố trong cuốn Bạch Thư ngày 31-12-1993 tại hải ngoại.
(Trích -
Viện Hóa Đạo Ấn Quang cử các vị ra nước ngoài liên lạc với các nhóm phản chiến,
yêu cầu Mỹ rút quân, phản đối chính sách chống Cộng của VNCH, đòi hòa bình.
Viện Hóa Đạo Ấn Quang cử Thượng Tọa Nhất Hạnh làm Trưởng Phái Đoàn Hòa Bình bên
cạnh Hòa Đàm Paris.)
“ trích - Thực sự, cuộc tranh đấu từ tháng
6-1966, cho đến nay chia đôi Giáo Hội, đều do bàn tay CS đạo diễn, làm hại
cho Phật Giáo và quốc gia VN không nhỏ. Vì vậy, Phật Giáo không phải là không
có trách nhiệm, liên đới đến sự để mất VNCH cho CS.
Vấn đề này, chính Hòa
Thượng Thích Huyền Quang cũng thường nhắc đi nhắc lại: “CS từng tuyên bố: “Phật Giáo Ấn Quang hai lần có công với Cách
Mạng”. - ngưng trích Bạch Thư Thích
Tâm Châu
Nhưng nay, sau khi nghe
Hòa thượng tuyên bố nguyên nhân của vụ tranh đấu Phật Giáo vào năm 1963 và vụ
ông Lâm văn Tức/Thích Quảng Đức tự thiêu, thì tôi xin thưa cùng Hòa Thượng cảm
nghĩ của tôi đối với Hòa Thượng như sau:
Tôi hoàn toàn thất vọng
và khinh bỉ tư cách của Hòa thượng, một kẻ tuổi đời đã 93 tuổi mà có thể ăn nói
hồ đồ, vu khống, trở trái làm mặt một cách không ngượng ngùng, và không biết
xấu hổ là gì.
Trong buổi nói
chuyện tại chùa Bảo Quang và buổi phỏng vấn của ký giả Đoàn Trọng trên đài
truyền hình channel 57.7 ngày 4/7/2013 Hòa thượng đã nói một số vấn đề tôi xin
nêu ra dưới đây để mọi người cùng thấy sự láo lường và tư cách hèn hạ của Hòa
Thượng:
1. - Hòa thượng nói
rằng: 'Vô tình hay là cố ý đã có một cái thông điệp là cấm treo cờ Phật giáo
trong mùa Phật Đản.'
Xin hỏi Hòa thượng đã
đọc được văn thư của Tổng Thống hay Chính Phủ Đệ I Cộng Hòa cấm treo cờ Phật
giáo ở đâu, khi nào, ai đưa cho Hòa thượng đọc. Hòa thượng có dám thề trước
tượng Phật là có văn thư nầy và chính Hòa thượng đã đọc được hay không?
Lịch sử đã chứng minh và
Ủy ban Điều tra của Liên Hiệp Quốc cũng đã chứng minh rằng không có vấn đề kỳ
thị tôn giáo, có nghĩa rằng hoàn toàn không có văn thư nào của Tổng Thống hoặc
của chính phủ cấm treo cờ Phật Giáo mà chỉ có văn thư nhắc lại thể thức treo cờ
tôn giáo phải nhỏ hơn cờ quốc gia mà thôi.
2)- Hòa thượng nói, mục
đích chính của cuộc tranh đấu 1963 vì cầu cho được "Bình đẳng Tôn
giáo" thôi.
Xin thưa cùng Hòa thượng
rằng, những gì mà cộng sản và nhóm Phật Giáo Tranh Đấu 1963 vẫn thường làm là
sử dụng Dụ số 10 để gán ghép cho chính phủ Đệ I Cộng Hòa tội bất bình
đẳng với Phật giáo. Cũng vì Dụ số 10 này mà ông Thích Quảng Độ vào năm 2011 đã
phạm vào tội vọng ngữ thậm xưng không thể tha thứ khi phát biểu rằng: "Dưới
thời ngoại thuộc, Phật giáo đã hoàn tất công cuộc Chấn hưng khởi từ những năm
20 thế kỷ trước, bằng cuộc Xuống Đường không tiền khoáng hậu năm 1963, thế kỷ
XX, để chấm dứt thời kỳ ngoại thuộc biến một tôn giáo dân tộc thành hội đoàn tư
hữu, biến đạo lý truyền thống thành ý lực ngoại bang"
Có lẽ các ông chỉ biết
"tranh đấu" mà không đọc nên chẳng biết nội dung của Đạo Dụ nói gì và
Đạo Dụ nầy có từ bao giờ, do ai, và mục đích của Đạo Dụ nầy là gì. Xin thưa:
Dụ số 10 là của Vua Bảo
Đại ban hành vào ngày 6/8/1950. Ông Bộ Trưởng bộ Nội Vụ của chính phủ Đệ I Việt
Nam Cộng Hòa Bùi văn Lương đã giải thích như sau: Theo Hiến Pháp VNCH, sự
tu chính luật phải do Quốc Hội đưa ra. Tóm lại việc tu chính một Dụ phải
có hai điều kiện:
1- Xét thấy rằng có nhu
cầu phải tu chính. 2- Phải có nhu cầu xuất phát từ dân chúng. Trong cả hai
nhiệm kỳ quốc hội mà đa số đều là Phật Tử đều không đưa ra yêu cầu tu chính Dụ
số 10, thế thì tại sao nhóm Phật Giáo Tranh Đấu lại đổ tội cho Tổng Thống Ngô
Đình Diệm? Đổ tội cho Tổng Thống một việc mà hiến pháp quy định không thuộc
quyền hạn và trách nhiệm của Tổng Thống, như vậy những kẻ đã đổ tội có mưu đồ
gì, nhất là khi những kẻ đó lại khoác trên mình cái áo của Phật? Trong trường
hợp này, rõ ràng Phật là vũ khí để nhóm Phật giáo Tranh Đấu đã dùng
để đẻ ra tội cho bất cứ ai mà đám này muốn triệt hạ.
- Xét về điểm số 1: Cho đến khi có vụ Phật giáo giáo xẩy ra,
đã không có nhu cầu tu chính Dụ số 10. Mặc dầu văn kiện kiểm soát các hội rất
chặt chẽ và gắt gao, nhưng chính phủ VNCH không hề áp dụng những điều kiện đó,
mà ngược lại lại rất rộng rãi cho tất cả các tôn giáo, đặc biệt là Phật giáo.
Có một điều khoản trong Dụ, ví dụ như điều kiện buộc phải đăng ký với Bộ Nội Vụ
tên những thành viên của chùa, Ủy ban, hay Hội Phật Giáo, mà điều này ai cũng
thấy là rất cần thiết để đối phó với cộng sản, thì chính phủ đều bỏ qua, đặc
biệt ở các tỉnh. Theo ông Bộ Trưởng Nội Vụ Bùi văn Lương thì trước 1960 và sau
1960 chính phủ đều không thi hành Dụ số 10 đối với Phật giáo, ngay chính ông ta
cũng không kiểm tra. Mãi đến năm 1963 khi xảy ra vụ Phật giáo thì ông Bộ Trưởng
Bùi văn Lương mới mở hồ sơ ra xem xét, mới thấy rằng đã từ lâu, 1954 đến 1963
chính phủ đã không hề áp dụng Dụ Số 10.
- Xét về
điểm số 2: Chính Phủ không hề và chưa bao giờ có yêu cầu, thư tín gì
từ phía dân chúng đòi hỏi tu chính Dụ số 10. Từ ngày 16/6/1963, sau khi thỏa
hiệp với phái đoàn Phật Giáo, đích thân chính phủ đã đưa vấn đề Dụ số 10 ra
Quốc Hội và đã cử một ủy ban đặc biệt để nghiên cứu tu chính Du số 10. Trong
khi đó chính phủ cũng đã chính thức tuyên bố ngưng áp dụng Dụ số 10, cho dù
chính phủ đã không hề áp dụng từ lâu.
Trong ngày 26/10/1955
Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm công bố Hiến Ước tạm thời có câu:
“Luật lệ hiện hành vẫn tạm giữ nguyên”, Dụ số 10 nằm trong số các luật lệ hiện
hành nên đương nhiên là tạm giữ. Sau đảo chánh, ngày 4/11/1963, Trung Tướng
Dương Văn Minh, Chủ Tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, khi tuyên bố Hiến Chương
tạm thời số 1 cũng có câu “Các luật lệ hiện hành vẫn tạm duy trì”. Như vậy,
ngay cả với chính quyền Dương Văn Minh thì Dụ số 10 vẫn không hề bị hủy bỏ.
Chính phủ của Trung Tướng Nguyễn Khánh, và sau nầy là chính phủ Đệ II Cộng
Hòa vẫn tham chiếu Dụ số 10 để làm những Nghị Định hay Sắc Luật để phê chuẩn
bản Hiến Chương Phật giáo sau nầy. Ngay cả cho đến ngày 30/4/1975, Dụ số 10 vẫn
không hề bị hủy bỏ.
Như đã biết thủ tục pháp
lý để hủy bỏ một Dụ không phải là dễ, và không thuộc quyền hạn và trách nhiệm
của hành pháp. Thích Trí Quang đổ tội cho Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình
Diệm kỳ thị Phật giáo qua vấn đề Dụ số 10 là hoàn toàn cả vú để lấp miệng em,
tuyên truyền lường gạt tín đồ nhẹ dạ không hiểu biết gì về luật pháp và hiến
pháp quốc gia.
3)- Hòa Thượng nói rằng:
Chùa Từ Đàm và các ngôi
chùa tại Huế bị phong tỏa, bị cúp điện, nước, và không cho tiếp tế thực phẩm.
Thưa Hòa thượng, sự thật
không phải như vậy, có lẽ Hòa thượng không có mặt ở Huế nên ông chẳng biết mô
tê là gì. Nhà tôi ở sát cạnh chùa Từ Đàm và tôi đã chứng kiến hàng giờ hằng
ngày cho đến khi lên đường đi lính. Sự việc là chỉ có một mình chùa Từ Đàm bị
phong tỏa để không cho tín đồ Phật tử tập trung đông đảo tại chùa, chứ điện
nước không bị cúp, các thầy và các điệu vẫn vô ra chùa không bị lực lượng an
ninh cấm đoán, các điệu các thầy muốn ăn gì, mua gì thì có ai cấm đoán đâu.
4)- Thích Quảng Đức tự
thiêu:
Theo Hòa thượng
phát biểu thì chính Hòa thượng là người chấp thuận đơn xin tự thiêu của Thích
Quảng Đức, cũng chính Hòa thượng là người đầu tiên hướng dẫn đoàn biểu tình và
cũng là người đầu tiên hướng dẫn cuộc tự thiêu của ông Quảng Đức với lý do là
để cứu nguy cho Phật giáo tại Huế. Thú thật với Hòa thượng tôi vừa nghe câu nói
nầy từ miệng Hòa thượng nói ra tôi bỗng thấy buồn nôn và ói mửa. Thú thật khi
đó tôi nhìn mặt Hòa Thượng trên mặt kênh truyền hình mà tưởng như đang nhìn mặt của tên ác quỷ, mặt của một tên sát nhân chứ không phải là mặt
của Đại lão Hòa Thượng Thích Tâm Châu. Hành động chấp thuận và tổ chức cho đồng
loại tự thiêu là hành động đáng ghê tởm và là hành động của tên sát nhân, chứ
không phải là hành động của kẻ chân tu, Hòa thượng có biết không?
Ông Quảng Đức bị thiêu
sống chỉ phục vụ cho mưu đồ của Cộng Sản Bắc Việt và chính phủ Mỹ. Bởi vì hơn
ai hết Hòa thượng là Chủ tịch Ủy Ban Liên Phái đã hội họp với phái đoàn Liên Bộ
của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa về năm nguyện vọng của Ủy Ban Liên Phái. Hai
bên đã giải quyết xong, ổn thỏa trong tinh thân xây dựng, thượng tôn luật pháp.
Và chính Hòa thượng cũng đã hai lần được diện kiến Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa
Ngô Đình Diệm, và cũng chính Hòa thượng đã nói Hòa thượng rất kính nể Tổng
Thống. Mọi việc rắc rối hai phái đoàn đã giải quyết xong thì tại sao phải nướng
sống Quảng Đức. Câu trả lời rất dễ hiểu là nếu mọi việc đã dàn xếp xong, tình
hình chính trị yên ổn thì lấy lý cớ gì để cho Việt Cộng và Chính phủ Hoa Kỳ lật
đổ Tổng Thống Diệm được. Nướng sống Thích Quảng Đức để phát động hận thù tạo
bất ổn chính trị đó là lý cớ duy nhất và Quảng Đức chỉ là cục thịt nướng trong
bữa tiệc hả hê của Cộng Sản Bắc Việt, của Chính phủ Hoa Kỳ, của Ác Tăng Việt
Cộng Thích Trí Quang, và cuối cùng của kẻ sát nhân Đại Lão Hòa Thượng Thích Tâm
Châu thôi.
Năm mươi năm sau
1963-2013 cộng sản xây tượng phong Liệt Sĩ cho Thích Quảng Đức thì tại Hải
Ngoại đám cộng sản nằm vùng trong Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, đám cộng sản
và việt gian phối hợp với Phật giáo quốc doanh dưới sự chứng kiến của tên Cộng
sản gộc Lê Mạnh Thát tổ chức thật rùm beng Lễ Tưởng Niệm Đồng Chí Liệt Sĩ Thích
Quảng Đức, vì Bác vì Đảng, tự nướng trong đó có sự ca ngợi của Đại Lão Hòa
Thượng Thích Tâm Châu.
Câu cuối cùng tôi xin
được hỏi Hòa thượng là: Ngày xưa 1963 Hòa thượng đã từng hăng say phối hợp với
Ác Tăng Việt cộng Thích Trí Quang đạp đổ Đệ I VNCH sát hại Tổng Thống Ngô Đình
Diệm, sau đó có phải vì địa vị, tiền bạc thế lực danh vọng giữa Hòa thượng và
tên ác tăng Việt Cộng Thích Trí Quang thanh toán nhau. Trí Quang đã dọa thanh
toán Hòa thượng ít nhất hai lần bằng "một đĩa máu, một con dao, và
một huyết thư" đặt ngay trong Việt Nam Quốc Tự và trong chùa Từ
Quang (trích Bạch Thư, Thích Tâm Châu, tr. 28). Hòa thượng phải chạy trốn cuộc
truy sát của Ác tăng Việt Cộng Thích Trí Quang mà chạy bám theo Tướng Nguyễn
Ngọc Loan và Nguyễn Cao Kỳ để được che chở và để được thành lập khối Việt Nam
Quốc Tự đối kháng lại khối Ấn Quang của Ác tăng Việt Cộng Thích Trí Quang, chứ
thật ra ngài về với Đệ II VNCH chỉ vì cầu xin Đệ II VNCH sự che chở, đùm bọc
mạng sống thôi, chứ chẳng phải vì quốc gia đạo pháp gì phải không Hòa thượng?
Đức Phật đã nói: “Ba
điều không thể che giấu đó là: Mặt trăng, mặt trời và sự thật”. Hòa thượng là
kẻ tu hành sao không nghe lời dạy của Đức Phật?
Đối với Liên Thành nầy,
Hòa thượng không còn là Đại lão Hòa Thượng Thích Tâm Châu của Bạch Thư năm 1993
nữa, cá nhân tôi, và những người Việt tỵ nạn cộng sản, những Phật tử chân
chính, chúng tôi đã quá thật vọng về Hòa thượng.
Tôi Liên Thành hoàn toàn
chịu trách nhiệm về bài viết nầy và rất mong được công khai nói chuyện cùng Hòa
thượng trước sự chứng kiến của mọi giới về vấn đề ông Thích Quảng Đức bị thiêu
hay tự thiêu cũng như vấn đề Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Đệ I VNCH có đàn áp
Phật Giáo hay không?
Trân trọng chào Hòa
Thượng.
Liên Thành”
(Trích “Thư thiếu tá
Liên Thành gửi Hoà Thượng Thích Tâm Châu)
Nguyễn Công Hoan tưới xăng đốt
Thích Quảng Đức
Đại Đức Thích Huệ Nhật
LTS- Đây là tang chứng
VG Nguyễn Công Hoan và các Ác tăng PG Ấn Quang dàn dựng giết Thích Quảng Đức.
Theo lời tố cáo của ông Trần Trung Đạo, Bà Hàn Giang Trần Lệ Tuyền và Video ghi
lại HT Thích Quảng Đức "không tự tẩm xăng tự thiêu" hình ảnh,
tài liệu cho thấy Thích Quảng Đức bị việt gian Nguyễn Công Hoan chích thuốc mê
man, tê liệt, xong bị tưới xăng đốt sống ngày 11 tháng 6, 1963 tại Sài gòn.
Hiện nay Nguyễn Công Hoan và những tên ác tăng của PG Ấn Quang hiện đang có mặt
tại Hoa Kỳ và khắp chùa trên thế giới. Chúng tôi yêu cầu Hội Đồng Nội An Hoa Kỳ
và Sở Di Trú mở lại hồ sơ điều tra những kẻ đồng lõa, kẻ dàn dựng phạm tội giết người
đang lẫn trốn trong hàng giáo phẩm Phật giáo GHPGVNTN như Thích Giác Đức, Thích
Minh Chiếu, Thích Giác Lượng,, Thích Hộ Giác, Nguyễn Công Hoan v. v..
Và,
chính Nguyễn Công Hoan (Huỳnh Văn Thạnh) là tên giả sư đã tự tay cầm
một can xăng để tưới từ trên vai xuống người của Hòa thượng Thích Quảng Đức.
Rồi cũng chính Nguyễn Công Hoan đã dùng chiếc Zipo loại lớn để bật lửa rồi đốt
cháy Hòa thượng Thích Quảng Đức trong lúc ông đã bị hôn mê hoàn toàn, theo: Lệnh Bức Tử của Phật Giáo Ấn
Quang.
Trước
đây, tôi đã viết về cái chết của Hòa thượng Thích Quảng Đức và tên dân biểu
lưỡng triều Nguyễn Công Hoan, là lúc Nguyễn Công Hoan đang có mặt tại nước Mỹ.
Tưởng
cũng nên nhắc lại: Vào năm 1977, trong lúc đương là Dân biểu của bọn
việt-gian-cộng-sản của tỉnh Phú Khánh, Nguyễn Công Hoan (Huỳnh Văn Thạnh) đã cùng Trần Bình Nam, tức Trần Văn Sơn, cựu Trung tá Hải
Quân – cựu dân biểu VNCH; nhưng Trần Bình Nam vì là người thân của Dương Văn
Minh, và là bạn chí thiết của Nguyễn Công Hoan, nên không bị vào tù «cải tạo»
mà vẫn sát cánh kề vai bên Nguyễn Công Hoan (Huỳnh Văn Thạnh) là Dân biểu của
việt-gian-cộng-sản. Cả Nguyễn Công Hoan và Trần Bình Nam đã dùng một chiếc
thuyền chỉ có hai người là bạn thân thiết với nhau cùng với người tài công, để
lên đường «vượt biển» tại bãi biển Nha Trang.
Sau
đó, cả Nguyễn Công Hoan và Trần Bình Nam đã đến nước Mỹ. Tôi nhớ lúc đó, đã có
nhiều tờ báo; trong đó, có Văn Nghệ Tiền Phong của Ông Nguyễn Thanh Hoàng đã
lên tiếng và đặt nghi vấn về chuyện «vượt biển» của hai người này. Song rồi
theo thời gian, mọi chuyện cũng đã đi vào quên lãng.
Nguyễn
Công Hoan hiện đang sống trên đất Mỹ, nhưng y không hề ra mặt hay lên tiếng.
Riêng Trần Bình Nam, tức Trần Văn Sơn là thường xuyên viết bài đưa lên nhiều
trang điện báo. Xin mọi người đừng quên: Trần Bình Nam là bạn thân thiết của
Nguyễn Công Hoan (Huỳnh Văn Thạnh), từng hoạt động với nhau,
và cũng cùng nhau lên thuyền «vượt biển» vào tháng 5 năm 1977, là thời điểm bọn
việt-gian-cộng-sản đang kềm kẹp người dân trong trong bàn tay sắt thép một cách
kinh hoàng nhất; nhưng Nguyễn Công Hoan và Trần Bình Nam đã thuận buồm xuôi gió
trên một chiếc thuyền du lịch để sang nước Mỹ.
Trở
lại với đoạn phim trên: You tube video: Bo Tat Quang Duc (Monge
Budista suicidio). Tôi thật hết sức kinh hoàng khi nhìn thấy
những tên sư sãi của Ấn Quang, tất cả đã đều vô cảm trước ngọn «Lửa Từ Bi» đang
đốt cháy đồng môn!!!
Nhưng,
tôi lại càng khiếp đảm hơn nữa, khi nhìn thấy thái độ của những nhân viên cảnh
sát Việt Nam Cộng Hòa. Bởi tất cả họ cũng đều dửng dưng trước hành vi phạm pháp
của Phật giáo Ấn Quang, khi họ ngang nhiên tưới xăng đốt người giữa thanh thiên
bạch nhật. Họ đã đồng lõa với tội ác, vì thấy chết mà không ngăn cản, không cứu
người. Chẳng những thế, mà họ còn đưa cả hai cánh tay ra ngăn cản những người
khác để không cho ai được cứu người. Họ là ai? Xin thưa, họ là những nhân viên
cảnh sát đã theo lệnh của Phật giáo Ấn Quang, vì phải giết chết Hòa thượng
Thích Quảng Đức, mới mong làm sụp đổ Nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa.
Đến
đây, tôi xin được trích đoạn lại về cuộc đốt người này, qua cuốn sách Trong
Lòng Địch của Tác giả Trần Trung Quân, từ trang số 99 đến trang 114, đã xuất
bản vào năm 1984, như sau. Kính mời quý vị cùng theo dõi:
«Vào
khoảng 4 giờ rưỡi sáng, Vũ Mạnh Trường mới đi vào công tác cụ thể. Trung úy
Dương Quang Lâm, phụ tá của Vũ Mạnh Trường chăm chú ghi từng tên một, và tên
người được trao phó cho công tác. Chính Vũ Mạnh Trường cũng đã thấm mệt. Nhấp
một ngụm trà cho thấm giọng, Trường đưa đôi mắt đỏ lừ gườm gườm nhìn Thích Trí
Quang:
Làm
cách mạng không thể không có máu đổ. Nếu là máu nhà sư thì càng tốt nữa. Sự thù
hận của dân chúng đối với Diệm-Nhu càng ngùn ngụt bốc cao hơn không còn sức
mạnh nào ngăn chặn nỗi nữa. Bộ chính trị trung Ương đảng đã nhận rõ tình hình
và quyết định rằng, chỉ vài nhà sư chết thảm là bọn Diệm-Nhu sẽ sụp đổ vô
phương cứu vãn. Cho nên Đảng đã quyết định là phải giết sư để xúc tiến công
cuộc thống nhất đất nước. Đồng chí Kiều Tuấn Cương (bí danh của Thích Trí
Quang) nghĩ thế nào?
Thích
Trí Quang ấp úng:
-
Dạ… dạ…
Vũ
Mạnh Trường quắc mắt đập mạnh tay xuống bàn giận dữ:
-
Tôi yêu cầu đồng chí phát biểu ý kiến về sự thực hiện kế hoạch của đảng, có yêu
cầu đồng chí tán thành hay phản đối đâu mà đồng chí dạ…
Thích
Trí Quang ngồi im, gục mặt xuống. Cả hội trường không ai phát biểu ý kiến nào.
Trường đắc chí, hất mặt lên, lớn tiếng dõng dạc:
-
Đảng ta đã trù liệu cả rồi. Bộ Chính Trị ủy ban Trung ương Đảng đã là những
«đỉnh cao trí tuệ của loài người». Chúng ta bì sao kịp! Mà địch cũng không thể
nào chống đỡ nỗi. Đảng có lệnh chúng ta phải khích động hoặc tạo điều kiện
khích động các sư tự thiêu để cúng dường tam bảo! Có thế mới hấp dẫn được dư
luận thế giới, mới gây căm thù sâu sắc trong dân chúng đối với chính quyền miền
Nam được. Này! đồng chí Cương, thằng Giác Đức nó dám tự thiêu không?
-
Chắc là không đâu, đồng chí. Nó nói hăng lắm, nhưng chỉ ba hoa thôi. Nó là học
trò tôi, tôi biết rõ nó lắm. Háo danh, nhưng rất hèn.
-
Thế còn Thích Hộ Giác?
-
Hộ Giác cũng vậy, háo danh. Cái mộng của nó là mò lần lên chiếm ghế Viện Trưởng
Viện Hóa Đạo đặng nở mặt với đời. Cái thứ như thế mà đòi hỏi nó hy sinh thì
thật là khó. Chỉ có ai hy sinh cho nó leo lên thì chắc nó ký cả hai tay mà
thôi.
- Thích Thanh Từ thế
nào?
- Thích Thanh Từ là đệ
tử của Thích Thiện Hoa. Thầy Thích Thiện Hoa còn ở Bến Tre chưa lên. Không có
lệnh của thầy hắn chắc không chịu làm việc gì.
Đến đây, Cao Đăng
Chiếm mới lên tiếng:
- Việc này, đồng chí
Hằng có thể làm được.
Hằng, tức Thích Thiện
Minh giật mình đánh thót, vội nhỏm dậy:
- Thưa đồng chí…
Nhưng Chiếm đã khoát
tay ra dấu cho Hằng ngồi xuống, cười nhạt:
- Tôi không bảo đồng
chí tự thiêu đâu mà lo. Đồng chí còn đắc dụng vào nhiều việc khác. Tôi chỉ nói
rằng, với tài miệng lưỡi của đồng chí và lòng tín cẩn của Thích Quảng Đức nơi
đồng chí, chắc đồng chí thừa sức cải tạo tư tưởng của Thích Quảng Đức, để hắn
tình nguyện tự thiêu.
Thích Thiện Minh cười
tít mắt. Cao Đăng Chiếm đã gãi đúng chỗ ngứa của tên đội lốt thầy chùa để làm
chính trị và có nhiều anh hùng tính cá nhân này. Thích Thiện Minh vặn mình mấy
lượt cho khắp hội trường phải ngó lại nhìn hắn, rồi mới lên tiếng:
- Cái đó, mấy anh khỏi
lo. Quảng Đức đã bị tôi thuốc nước rồi. Ngày hôm kia trả lời cuộc phỏng vấn của
tụi báo chí ngoại quốc, tôi đã gài cho Quảng Đức kẹt cứng rồi. Tôi đã nhân danh
Thích Quảng Đức mà tuyên bố như vầy: “Nếu Diệm không phóng thích tất cả tù nhân
chính trị, không ban hành một chế độ đặc biệt cho các tôn giáo, trong đó có
Phật Giáo được treo cờ Phật Giáo ngang hàng với quốc kỳ, thì thầy Thích Quảng
Đức nguyện sẽ tự thiêu để gióng lên tiếng chuông báo động với thế giới về những
hành động kỳ thị tôn giáo, nhằm tiêu diệt Phật giáo của chính phủ Diệm-Nhu. Và
Hội đồng Ấn quang sẽ đưa vấn đề ra trước Liên Hiệp Quốc”.
Trường gật gù có vẻ
tán thưởng:
- Thái độ của Quảng
Đức lúc ấy như thế nào?
- Quảng Đức không nói
gì, chỉ cúi đầu nhìn xuống. Nhưng tôi biết hắn có vẻ hơi thất vọng. Tuy nhiên,
tính Quảng Đức rất ôn hòa và vị tha, lại dễ xiêu lòng, nên sau đó, tôi đã thêu
dệt cả một tòa sen rực rỡ trên niết bàn đang chờ đợi ông ta, nhờ ông ta hy sinh
vì Phật Pháp. Ông ta sẽ đắc đạo, sẽ thành Phật, và bức chân dung của ông sẽ
được thờ phượng ở khắp các chùa sau này…
Kết quả có đến 80 phần
trăm là Quảng Đức nghe tôi và sẵn sàng hy sinh. Điều tôi lo ngại là chúng ta
không ra tay gấp, rủi gặp Hộ Giác, gặp những tên ba hoa như Hộ Giác lỡ miệng
xúi bậy ông ta bỏ ý định sẽ hỏng hết.
Ngày tự thiêu của thầy
Quảng Đức gần kề bao nhiêu, thì sức khỏe của thầy sa sút bấy nhiêu. Tim thầy
mệt cầm canh. Gần như cả ngày thầy không hề nói một câu, ngoài việc tụng kinh
niệm Phật. Ý thầy đã quyết chết và sẵn sàng “vị pháp vong thân” rồi, nên tùy
thân xác còn lưu lại nơi trần thế, hồn thầy đã bay vào thế giới khác. Lúc này,
Thích Thiện Minh ra lệnh cho Huỳnh Văn Thạnh phải suốt ngày cận kề bên thầy
Quảng Đức, không được rời thầy nửa phút. Không phải hắn lo cho sức khỏe của
thầy, nhưng là đề phòng mật vụ VNCH bắt mất thầy thì thực là xôi hỏng bỏng
không. Cộng sản đã mất bao nhiêu thì giờ để thuyết phục vừa áp lực thầy tự
thiêu cúng dường, thì không thể sơ hở trong phút chót được. Thích Trí Quang đã
thức trắng mấy đêm liền để dọn tinh thần cho thầy, trong khi Huỳnh Văn Thạnh
nâng giấc thầy còn hơn cha mẹ, lo giặt giũ quần áo, lo từng miếng ăn tới ngụm nước
uống cho thầy. Để về sau, chính hắn đã tưới xăng lên người thầy và châm lửa đốt
thầy.
Huỳnh Văn Thạnh theo
cộng sản từ năm 1959, nhưng hắn không tập kết ra Bắc. Cộng sản để hắn ở miền
Nam làm công tác tình báo cho Việt cộng ở khu 5. Tới năm 1962, hắn được biệt
phái qua khu Dương Minh Châu, cho xâm nhập vào Sài Gòn hoạt động trong chiến
dịch giáo vận. Năm 1964, cho phù hợp với đường lối và chính sách mới của Việt
cộng là “gây ung thối trong hàng ngũ quốc gia” Thạnh được triệu ra khu, ẩn bóng
một thời gian và sau đó Việt cộng làm hộ tịch giả cho hắn mang tên mới là
Nguyễn Công Hoan, và cho hắn về Sài Gòn hoạt động chính trị công khai, đứng phe
đối lập với chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Năm 1966 tới năm 1972, nhiều lần cán
bộ nằm vùng vận động tối đa rồi mới đưa hắn ra ứng cử dân biểu quốc hội VNCH,
và hắn đắc cử tại đơn vị Phú Yên.
Sau ngày cộng sản
chiếm Sài Gòn tên Huỳnh Văn Thạnh, tức Nguyễn Công Hoan, xuất đầu lộ diện
nguyên hình, tích cực tuyên truyền cho cộng sản và chỉ điểm cho công an việt
cộng bắt không biết bao nhiêu chiến sĩ quốc gia chân chính. Để trả công cho
hắn, việt cộng cho hắn vào quốc hội của cộng sản, để lừa bịp dư luận rằng cái
quốc hội của cộng sản không hoàn toàn chỉ gồm những đảng viên hay tay sai của
cộng sản, mà còn gồm cả một số dân biểu, nghị sĩ “Ngụy” đã biết ăn năn hối cải
trở về với “cách mạng”.
Tuy nhiên, Nguyễn Công
Hoan vào múa may ở quốc hội của cộng sản một thời gian, thì những tên chủ nhân
việt cộng của hắn thấy cũng không lừa bịp nỗi ai, nên bèn cho hắn “vượt biên tỵ
nạn” để ra nước ngoài làm công tác kiều vận. Nguyễn Công Hoan đã vượt biển sang
Nhật, sau đó, nhờ thủ đoạn và móc nối chính trị hắn đã tới được nước Mỹ một
cách ngon lành. Nhưng cái mác dân biểu lưỡng trào của hắn và cuộc tỵ nạn mờ ám
của hắn đã bị đồng bào nghi kỵ, cho nên hắn chẳng làm được trò trống gì. Hiện
nay, hắn trùm mền núp bóng một tên sư hổ mang để chờ một cơ hội khác.
Đó là những chuyện xảy
ra về sau, mà đa số chúng ta, nhất là bạn đọc của Văn Nghệ Tiền Phong đều biết
rõ. Nay xin trở lại với chuyện “tự thiêu của thầy Thích Quảng Đức”. vấn đề mà
việt cộng lo ngại nhất là làm sao mang một thùng xăng khá lớn để có thể đốt
cháy thầy Quảng Đức ngay tức khắc để các cơ quan công quyền không kịp cứu. Mang
một thùng xăng lớn tới nơi mà chúng định thiêu thầy Quảng Đức cho trót lọt
không phải dễ, vì an ninh VNCH đã rõ mưu đồ của việt cộng. Huỳnh Văn Thạnh, tức
Nguyễn Công Hoan, chính là tên đã được việt cộng trao cho trọng trách cung cấp
xăng đốt thầy Thích Quảng Đức, và Thích Thiện Minh là người được đề cử để giám
sát vụ này, nên hắn rất lo lắng. Đêm hôm trước khi xảy ra vụ “tự thiêu”, chính
Thích Thiện Minh biểu tài xế lái xe chở đi gặp Huỳnh Văn Thạnh để cho biết rằng
xăng đã được giấu trong hai thùng nhỏ đựng dầu hôi trong gánh hàng của một nữ
cán bộ việt cộng đóng vai người đi bán hàng rong buổi sớm.
Thích Thiện Minh hỏi:
- Bao nhiêu lít?
Thạnh trả lời:
- 15 lít, thưa thầy.
- 15 lít đủ đốt không
con?
- Dư sức mà thầy, 5
lít cũng đủ chết bà Quảng Đức rồi.
- Phần kế hoạch F2 con
cẩn thận nhé.
- Thầy yên tâm, trước khi “xuất hành”, con sẽ
gửi thêm một mũi Trenxinne nữa. Sau đó, con sẽ bồi thêm hai mũi trợ tim Haldol
là đủ.
- Vậy à. Tốt lắm, công
con to lắm…
Bảy giờ sáng, ngày 20
tháng 4 năm 1963 (ngày âm lịch) dương lịch là ngày 11-6-1963, không khí bên
trong chùa buồn như đám ma. Tăng ni ai nấy đều mặt mày ủ rũ thương cho thầy
Quảng Đức chỉ chốc lát nữa đây sẽ bị đưa lên giàn hỏa để “bảo vệ đạo pháp”.
Ngoại trừ một số ít cán bộ việt cộng và tay sai núp áo cà sa giết người cho
cộng sản, là hăm hở chờ đợi giờ phút xảy ra biến cố.
Ngay từ lúc 4 giờ
sáng, Huỳnh Văn Thạnh đã vô giường thầy Quảng Đức, lật mông thầy lên để chích
cho thầy một mũi Trenxinne, mà hắn thỏ thẻ thưa là “thuốc trợ tim” để thầy mau
bình phục sức khỏe. Thầy Quảng Đức ngủ mê man, ngủ say sưa như một đứa trẻ thơ
trong nôi, sau khi đã no sữa, ống thuốc Trenxinne thấm, cơ thể thầy Thích Quảng
Đức bỗng mềm nhũn, ngắt véo, thầy cũng không biết đau.
Lúc ấy, Huỳnh Văn
Thạnh, tức Nguyễn Công Hoan, mới ra dấu cho đàn em chạy vào lau mình mẩy cho
thầy, và thay cho thầy bộ áo cà sa mới toanh. Thế là việt cộng đã chuẩn bị xong
để đưa thầy Thích Quảng Đức ra cúng tổ… Các… Mác!!! “
Trên đây, là những trích
đoạn về lệnh bức tử Hòa thượng Thích Quảng Đức của Phật giáo Ấn Quang, tiền
thân của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và bọn việt-gian-cộng-sản,
trong cuốn sách Trong Lòng Địch của tác giả Trần Trung Quân.
Đây là một bài viết có
liên quan đến đoạn phim vừa đưa lên: You Tube video: Bo Tat Quang Duc (Monge budista suicidio). Nên một lần nữa, tôi lại phải mời quý độc
giả hãy cùng đọc lại những lời của cựu Đại đức Thích Huệ Nhật, tức Mục sư Tin
Lành Nguyễn Huệ Nhật, trong cuốn sách “Từ Áo Cà Sa Đến Thập Tự Giá”. Ông đang
có mặt tại Đức quốc, để cùng nhau suy gẫm:
“Cái chết tự nguyện là gì? Những người tự thiêu
cho đạo pháp:
“Tôi xin giới hạn
trong phạm vi hiểu biết của cá nhân mình, và những gì tôi viết sau đây cũng là
một số kinh nghiệm và nhận xét của riêng tôi, sau ba lần tưởng đã chết nhưng
nay tôi còn sống trong Ơn Cứu Rỗi của Thiên Chúa, nên xác tín hơn, rộng mở hơn.
Người
tự thiêu đầu tiên trong thời kỳ Phật giáo đấu tranh chống lại kỳ thị tôn giáo
dưới thời chính phủ Ngô Đình Diệm là Hòa thượng Thích Quảng Đức. Ngài là một vị
tu sĩ bán thế xuất gia, nghĩa là có vợ con trước khi đi tu. Con ruột ngài cũng
là đệ tử nổi tiếng của ngài sau khi ngài hy sinh. Ngài chỉ nổi tiếng sau khi hy
sinh.
Cũng
như tất cả các vị thánh tăng đã nối tiếp tự thiêu cho Đạo Pháp, bản thân Hòa
Thượng Thích Quảng Đức không hề biết rằng kết quả tốt do sự hy sinh của ngài
chỉ là nhất thời từ 1-11-1963, còn hậu quả xấu do sự hy sinh của ngài là lâu
dài từ mùa hè 1966 đến nay. Vì sau khi chính phủ Ngô Đình Diệm bị lật đổ, Phật
giáo Việt Nam chỉ thắng thế nhất thời, để rồi càng bị CSVN lợi dụng sâu sắc hơn,
và đưa những cuộc đấu tranh kế tiếp đến ngày 30-4-1975, cho cộng sản Việt Nam
lên cướp chính quyền.
Nhìn
lại quá trình, chỉ hai năm đầu sau khi chính phủ Ngô Đình Diệm sụp đổ, Hội Phật
Học VN đã trở thành GHPGVNTN nổi như cồn, nhưng đó là thời gian manh nha đưa
GHPGVNTN đến tình trạng suy đồi và phân rẽ ngay trên đỉnh cao thế lực của họ.
Năm 1966, GHPGVNTN chia rẽ thảm khốc giữa hai phe Việt Nam Quốc Tự và Ấn Quang.
Chưa bao giờ lịch sử Phật giáo Việt Nam có sự căm thù nhau, phân rẽ nhau tệ hại
như thế. Vụ đem bàn thờ Phật ra đường để đấu tranh trong mùa hè 1966, là một
bằng chứng suy tàn nhất của tinh thần và tổ chức Phật giáo Việt Nam. Nếu tôi kể
ra những bất đồng của các vị lãnh đạo PG trong vụ Đem Phật Ra Đường, thì rất
phiền. Những cuộc tranh giành đẫm máu trong khuôn viên Việt Nam Quốc Tự cho đến
nay vẫn còn giữ kín, trừ vụ kéo sập dãy nhà do Đại đức Thích Đức Nghiệp xây lên
sát lề đường Trần Quốc Toản là không thể dấu diếm được. Tôi ngẫm nghĩ Thượng
tọa Thích Trí Quang chỉ là một mẹ mìn rất đắc lực của cộng sản Bắc Việt. Ông
bắt cóc niềm tin của đa số Phật tử, để biến họ thành phương tiện hữu hiệu nhất
cho cộng sản Bắc Việt vào xâm chiếm miền Nam, và ông đã cho cộng sản Bắc Việt
vắt chanh bỏ vỏ tất cả nhân, tài, vật lực do niềm tin ấy mà có. Khi công việc
bắt cóc ấy hoàn thành, mẹ mìn Thích Trí Quang ngồi im lặng rung đùi và được
cộng sản Việt Nam bảo vệ kỹ, không ai dám động một sợi lông chân của ông.
Tôi
tin chắc rằng Hòa thượng Thích Quảng Đức đã không hình dung nổi hậu quả tang
thương về sau nầy, đối với Phật giáo nói riêng, và dân tộc nói chung, qua sự hy
sinh của ngài. Chính người con trai ruột của ngài, người đã trở thành một vị
Thượng tọa nổi tiếng tại ngôi chùa của
ngài để lại trên đường Trương Minh Giảng, đã sống ba chìm bảy nổi mang nhiều tăm
tiếng và cũng bị tù đày trong chế độ cộng sản.
Lần
tự thiêu thứ nhất tại Sài Gòn là lần tôi hoàn toàn chờ đợi theo sự sắp xếp và
tổ chức của Ủy Ban Liên Phái, nhưng không thực hiện được, vì tình hình sao đó.
Một
người khác là thầy Lưu Bổn đệ tử của Hòa Thượng T.M.H chùa TL, Huế, cũng đã
nhảy xuống giếng sâu tự tử tại chùa Phật giáo Đà Nẵng, vào mùa hè 1972, sau khi
bị nghi ngờ một chuyện xấu. Mười lăm phút trước khi nhảy xuống giếng, thầy Lưu
Bổn ngồi ăn trưa với tôi một cách lặng lẽ.
Một
người bạn khác của tôi tên T. An, cũng đi tu ở chùa Phổ Đà tại Đà Nẵng, ông mở
một trường Bồ Đề ở gần ga xe lửa Đà Nẵng, cũng đã tự thiêu vì một chuyện riêng,
nhưng sau đó được dư luận báo chí cho là tự thiêu vì ý nghĩa lớn lao khác.
Trong thế giới tôn giáo đã lâm lụy vào những cơ mưu chính trị thời Việt Nam
Cộng Hòa, một vài trường hợp các tu sĩ tự tử bằng cách tự thiêu đã được gán cho
những ý nghĩa cao cả “Ý nghĩa cao cả” ấy được áp đặt cho mục đích khác, mà
người tự thiêu không đặt ra, nhưng sau cùng những người bà con của họ cũng được
hưởng tiếng thơm “Thánh Tử Đạo”. Cũng có nhiều vụ tự thiêu do ý định tự tử để
giải quyết chuyện riêng, nhưng khi thực hiện, họ lại nêu lý do thiêng liêng để
che đậy chuyện bậy bạ. Hoặc là người tự tử bằng cách tự thiêu xong rồi, sau đó
mới được gán cho một ý nghĩa thiêng liêng. Thời đó, nhiều vụ tự thiêu đã bị lạm
dụng. Người tình nguyện tự thiêu thì đông, nhưng người đáng được chấp nhận thì
ít. Vì một người có đời sống không sáng sủa, nếu được chấp nhận cho tự thiêu,
sẽ có nguy cơ làm mất niềm tin của nhiều người khác. Tất cả những người tình
nguyện tự thiêu đều là những người không sáng giá khi còn sống. Những người
sáng giá nghĩ rằng mình cần sống để làm việc có kết quả hơn.
Những
người nêu trên đều quen thân với tôi, nên tôi biết một số lý do tại sao họ đã
tự thiêu. Giống như những người thất tình, những thí sinh thi rớt, những đứa
con giận cha mẹ, những người bị thất bại làm ăn… Họ không còn thiết sống nữa.
Họ tìm đến cái chết để trốn chạy một thực tại bất đắc chí bằng cái chết tự sát.”
Quý
độc giả vừa đọc qua những trang sách của tác giả Trần Trung Quân và cựu Đại đức
Thích Huệ Nhật.
Nên
biết, sau khi chiếm được miền Nam tự do cho đến hôm nay, bọn việt-gian-cộng-sản
đã trả công cho Phật giáo Ấn Quang bằng rất nhiều hình thức; trong đó, có nhiều
con đường mang tên Thích Quảng Đức.
Riêng
tôi, vì đã vô cùng căm phẫn trước những hình ảnh của Hòa thượng Thích Quảng Đức
đã bị cả lũ người bất lương, vô nhân tính và tàn ác, khi đem sinh mạng của Hòa
thượng Thích Quảng Đức ra để làm phương tiện cho cứu cánh. Bởi vậy, nên tôi phải
viết lên bài này, với tất cả tâm thành, tôi ước mong cho mọi người đừng bao giờ
đem sinh mạng của bất kể người đó là ai để làm vật hy sinh. Bởi mỗi sinh mạng
của một con người trên thế gian này, đều do Trời sinh, thì xin mọi người hãy để
cho Trời diệt.
Nhưng,
những việc làm của Phật giáo Ấn Quang; trong đó có: Lệnh Bức Tử: Hòathượng Thích
Quảng Đức, đã
được xác tín hơn nữa, qua những lời của chính Hòa thượng Thích Quảng Độ qua
cuốn sách:
«Nhận
định những sai lầm tai hại của đảng cộng sản Việt Nam đối với dân tộc và Phật
giáo Việt Nam Thống nhất». Cuốn sách này đã do
Võ Văn Ái viết lời giới thiệu và phát hành vào năm 1995; và Thích Quảng Độ đã
có những lời viết như sau:
«Chính
quyền ông Ngô Đình Diệm càng ngày càng trở nên độc tài, gia đình trị và có tính
kỳ thị tôn giáo, nên ít được lòng dân. Sau khi đã tiêu diệt các tôn giáo khác,
như Cao Đài, Hòa Hảo, năm 1963, ông Ngô Đình Diệm ra tay đàn áp
Phật giáo, toàn thể tăng ni Phật tử miền Nam đã phải đứng lên chống lại để bảo
vệ đạo pháp. Đến tháng 11-1963, chế độ ông Ngô Đình Diệm
bị lật đổ».
Và
đến cuốn ngụy thư thứ hai lại cũng do Võ Văn Ái viết lời giới thiệu và đã đăng
trên báo «Quê Mẹ» số 113, trang 06, tháng 06 năm 1995, với cái tựa đề:
«Bằng
đôi chân của mình mời người hãy đi lên», của Thích Đức Nhuận «nguyên Tổng thư ký Viện
Tăng Thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất» tức Ấn Quang.
Mở
đầu Thích Đức Nhuận đã viết:
Đến
trang số 09, Thích Đức Nhuận viết tiếp:
«Năm
1963, Phật giáo Việt Nam phát khởi cuộc vận động chống chế độ độc tài gia đình
trị Ngô Đình Diệm, đòi tự do và bình đẳng tôn giáo và được toàn dân từ
Bắc chí Nam ủng hộ. Bạo quyền mang đặc tính kỳ thị tôn giáo sụp đổ.
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất được thành lập».
Nên
ghi nhớ, vào đại hội thống nhất Phật giáo năm 1981, Thích Đức Nhuận đã được bầu
lên ngôi «Pháp
chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam cộng sản».
Qua
những lời của chính Thích Đức Nhuận đã viết, rõ ràng là Thích Đức Nhuận đã công
khai nhận trách nhiệm của Phật giáo Ấn Quang với câu nói:
«Phật
giáo Việt Nam phát khởi cuộc vận động chống chế độ…» là để đánh đổ Nền Đệ Nhất
Việt Nam Cộng Hòa. Điều quan trọng
hơn cả là:
«đã
được toàn dân từ Bắc chí Nam ủng hộ».
Như
thế, đã quá rõ ràng, đã quá sáng tỏ, để cho mọi người hiểu được rằng: Phật giáo Ấn Quang «phát
khởi cuộc vận động chống chế độ và đã được toàn dân từ Bắc chí Nam ủng hộ». Nghĩa là gồm cả cộng
sản Bắc Việt.
Như
vậy, căn cứ theo những lời của chính hai người đã và đang đứng đầu của GHPGVNTN, tức Ấn Quang, thì cả hai đã công khai
nhận trách nhiệm về cái chết của Hòa thượng Thích Quảng Đức, và kéo theo là sự
sụp đổ của Nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa và hệ lụy là ngày mất nước: 30-4-1975,
với các sư sãi của Phật giáo Ấn Quang đã công khai đưa từng đoàn xe ra tận núi
rừng, để đón rước cộng quân vào các thành phố tại miền Nam tự do, cùng với
những màn bắn giết các vị là Quân-Cán-Chính Việt Nam Cộng Hòa, vào trước ngày
30-4-1975, để trả thù và để lập công với bọn việt-gian-cộng-sản.
Chính
vì thế, Phật giáo Ấn Quang cho dù có ngụy biện bằng cách nào chăng nữa, thì vẫn
không bao giờ xóa được những tội ác của một thời «tranh đấu» có bàn thờ Phật
xuống đường, có máu đổ đầu rơi. Chẳng những vậy, mà qua cái «Thông bạch của hàng giáo phẩm
đang đứng đầu Phật giáo Việt Nam đang hành đạo tại Hoa Kỳ», những người này đã
bênh vực cho Thích Trí Dũng, người đã công khai trên sách báo là:
«Vào
Tết Mậu Thân, 1968, chùa Phổ Quang là nơi khai hỏa đánh sân bay Tân Sơn Nhất».
Vậy,
để biết thêm một cách tường tận hơn, xin kính mời quý vị hãy đọc lại bài:Tưởng
Niệm Bốn mươi Năm Cuộc thảm Sát Mậu thân: 1968-2008; hiện vẫn còn lưu giữ trên
trang điện báo: Hồn Việt: hon-viet.co.
uk
Ngày
28-02-2010
Đ ại Đức Thích Huệ Nhật
Còn linh mục Cao Văn Luận
lúc gần cuối đời đã phê phán như sau: “Sự thanh toán ông Diệm và chế độ ông ta
phải chăng là một sai lầm tai hại cho đất nước Việt Nam. Những hỗn loạn
chính-trị, những thất bại quân sự sau ngày 1-11-1963 đã trả lời cho câu hỏi
đó”.
(Xin được nhắc lại: Linh
mục Cao Văn Luận được Tổng Thống Ngô Đình Diệm bổ nhiệm giữ chức viện
Trưởng viện Đại Học Huế. Nhưng khi biến cố Phật giáo xẩy ra, linh mục Cao Văn
Luận đứng về phe ông Trí Quang, chống Chính Quyền, nên ông ta đã bị Tổng Thống
Ngô Đình Diệm cách chức Viện Trưởng Viện Đại Học Huế, rồi lại còn bị giam lỏng
tại Sài Gòn).
Tóm lại, tất cả người
Việt chúng ta đều là nạn nhân của bọn tài phiệt buôn bán chiến tranh của Hoa-Kỳ
điển hình là tên Thứ Trưởng Ngoại Giao Averell William Hariman, của truyền
thông và báo chí Hoa-Kỳ, của các cường quốc nói chung… nhưng chúng ta cũng là
nạn nhân của chính chúng ta, trong đó những kẻ nhiều tội nhất là những kẻ làm
tay sai cho Mỹ, cho Pháp, cho Cộng sản quốc tế,...!
Để kết thúc những dòng
thô thiển trên, chúng tôi xin trở lại lời nói cuối cùng trên đây của Tổng Thống
Ngô Đình Diệm khi Tổng Thống và ông Ngô Đình Nhu rời khỏi dinh Gia Long:
“ĐI NHƯ RI LÀ MẤT NƯỚC”
Nhưng chúng tôi băn
khoăn: “Mất nước” là mất miền Nam Việt Nam vào tay Cộng Sản miền Bắc hay mất cả
nước Việt Nam vào tay Trung Cộng, như lời Tổng Thống và ông cố vấn Ngô Đình Nhu
đã tiên đoán trước đây:
“Nếu Cộng Sản miền Bắc
thắng được miền Nam, thì toàn thể nước Việt Nam sẽ trở thành quận hay tỉnh của
Trung Cộng. Yếu tố còn lại chỉ là thời gian”.
Lê Thanh Hùng
Ghi nhớ ngày “Quốc Tang” thứ 51 (2014) của toàn thể dân tộc Việt Nam.
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết