Chính
Phủ Trần Trọng Kim- Chính Phủ đầu tiên của nước Việt Nam độc lập
Trần Gia Phụng (Danlambao) - Sau khi vua Bảo Đại công bố Bản TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP ngày
11-3-1945, Phạm Quỳnh cùng toàn thể thượng thư sáu bộ trong triều đình Huế xin
từ chức. Vua Bảo Đại triệu tập nhân sĩ khắp nước đến gặp, để thăm dò việc thành
lập chính phủ mới.
Trần Trọng Kim lập
chính Phủ
Lúc đó, người Nhật đưa Trần Trọng Kim từ
Singapore về Sài Gòn ngày 30-3-1945, rồi đưa ông ra tới Huế ngày 5-4-1945. Trần
Trọng Kim sinh tại Hà Tĩnh năm 1883, học trường Vinh, rồi trường Thông sự Ninh
Bình. Năm 1905, ông qua Pháp, học trường Thương mại La Salle tại Lyon, sau
chuyển qua trường Thuộc Địa Pháp, rồi trường Sư Phạm Melun.
Tốt nghiệp năm 1911, ông trở về nước dạy tại
trường Trung học Bảo Hộ (Lycée du Protectorat) và trường Sĩ Hoạn (Hà Nội), rồi
làm Thanh Tra Tiểu học Bắc Kỳ, hưu trí năm 1942. Ông viết nhiều sách nghiên cứu
giá trị về văn chương, triết học, nhất là bộ Việt Nam sử lược, xuất bản lần đầu
tại Hà Nội năm 1920.
Năm 1943, được tin bị người Pháp nghi ngờ, ông
nhờ người Nhật đưa vào Sài Gòn cùng Dương Bá Trạc. Đầu năm 1944, hai ông qua
Singapore. Tại đây Dương Bá Trạc từ trần vì bịnh phổi ngày 10-12-1944. Tháng
1-1945, Trần Trọng Kim đi Bangkok. Ông trở về nước sau khi Nhật đảo chánh Pháp
ngày 9-3-1945.
Là một nhà giáo và là một nhà nghiên cứu nghiêm
túc, Trần Trọng Kim cho rằng vua Bảo Đại là vị vua ham ăn chơi, không chăm lo
việc nước nên không muốn gặp. Tuy nhiên, theo lời khuyên của Hoàng Xuân Hãn,
Trần Trọng Kim đồng ý triều yết vua Bảo Đại ngày 7-4-1945. Gặp xong, ông thay
đổi ý kiến.
Hoàng Xuân Hãn kể lại như sau: “Cụ
[Trần Trọng Kim] hỏi tôi thì tôi cũng nói với cụ nên gặp ông Bảo Đại, rồi có ý
gì thì cụ nói sau, chứ cụ đừng có nói trước. Cụ cứ bảo: “Bảo Đại là một cái anh
chỉ biết ăn chơi, không hiểu cái gì cả”. Cụ cứ nói như thế. Sau cụ vào thăm ông
Bảo Đại thì cụ ngồi đến 2, 3 giờ đồng hồ cơ. Lúc ra thì trái lại, lại thấy cụ
nói: “Nó thông minh lắm chứ không phải như tôi tưởng.”(Hoàng Xuân Hãn trả
lời phỏng vấn đài R.F.I (Paris) do Thụy Khê thực hiện, đăng lại trong mục “Những
cuộc tiếp xúc khó quên”, sách La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn (1908-1996), do
Hữu Ngọc - Nguyễn Đức Hiền sưu tập, tập I, Con người và trước tác (phần 1), Hà
Nội: Nxb. Giáo Dục, 1998, tr. 481.)
Trong cuộc triều yết nầy (7-4), Trần Trọng Kim
đề nghị với vua Bảo Đại nên mời Ngô Đình Diệm lập chính phủ. Nhà vua liền nhờ
người Nhật tìm kiếm ông Diệm để mời ông ra chấp chánh. Người Nhật trả lời không
kiếm được ông Diệm, mặc dầu ông Diệm đang sinh sống tại Sài Gòn. Theo Trần
Trọng Kim, có thể vì ông Diệm thuộc phe cánh Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, mà cuối thế
chiến thứ hai, Nhật không chọn Cường Để và chọn vua Bảo Đại, nên Nhật cũng
không mời ông Diệm. (Lệ Thần Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, Sài Gòn: Nxb.
Vĩnh Sơn, 1969, tt. 49-50.)
Vua Bảo Đại đợi ba tuần lễ mà không gặp được
Ngô Đình Diệm, nên nhà vua uỷ cho Trần Trọng Kim đứng ra lập nội các. Lúc đầu,
Trần Trọng Kim từ chối, thì vua Bảo Đại nói: “Trước kia người mình chưa
độc lập. Nay có cơ hội, tuy chưa phải độc lập hẳn, nhưng mình cũng phải tỏ ra
có đủ tư cách độc lập. Nếu không có chính phủ thì người Nhật bảo mình bất lực,
tất họ lập cách cai trị theo thể lệ nhà binh rất hại cho nước ta. Vậy ông nên
vì nghĩa vụ cố lập thành một chính phủ để lo việc nước.” Sau lời
thuyết phục của vua Bảo Đại, Trần Trọng Kim “thấy vua Bảo Đại thông
minh và am hiểu tình thế, liền tâu rằng: “Nếu vì quyền lợi riêng tôi không dám
nhận chức gì cả, song ngài nói vì nghĩa vụ đối với nước, thì dù sao tôi cũng cố
hết sức. Vậy xin ngài cho tôi vài ngày để tôi tìm người, hễ có thể được tôi xin
tâu lại.” (Lệ Thần Trần Trọng Kim, sđd. tr. 51.)
Trần Trọng Kim thấy hữu lý nên chấp thuận. Ông
đưa ra hai tiêu chuẩn để chọn bộ trưởng vào chính phủ: “Một: phải có đủ
học thức và tư tưởng về mặt chính trị, hai: phải có đức hạnh chắc chắn để dân
chúng kính phục.” (Lệ Thần Trần Trọng Kim, sđd. tr. 51.)
Ngày 17-4-1945, tại điện Thái Hòa (Huế), Trần
Trọng Kim trình danh sách chính phủ lên vua Bảo Đại và được chuẩn y. Lúc đó, có
cả sự hiện diện của viên đại sứ Nhật tại Huế là Massayuki Yokohama. Nội các
Trần Kim gồm đa số là những chuyên gia và trí thức: "Tất cả những
vị nầy đều là những vị ái quốc chân thành. Họ không hận thù gì nước Pháp. Trẻ
tuổi, can đảm, ý thức được nhiệm vụ ngắn ngủi của mình, họ muốn rằng chủ quyền
quốc gia được đánh dấu khởi đầu từ họ.”(Bảo Đại, sđd. tr. 167.)
Sau đây là thành phần chính phủ Trần Trọng Kim
tại Huế ngày 17-4-1945:
Nội các Tổng trưởng [thủ tướng]: Trần Trọng
Kim, giáo sư
Nội vu Bộ trưởng: Trần Đình Nam, y sĩ
Ngoại giao Bộ trưởng: Trần Văn Chương, luật sư
Tư pháp Bộ trưởng: Trịnh Đình Thảo, luật sư
Gíáo dục và Mỹ nghệ Bộ trưởng : Hoàng Xuân
Hãn, toán học thạc sĩ
Tài chánh Bộ trưởng: Vũ Văn Hiền, luật sư
Thanh niên Bộ trưởng: Phan Anh, luật sư
Công chánh Bộ trưởng: Lưu Văn Lang, kỹ sư
[Không nhận]
Y tế Bộ trưởng: Vũ Ngọc Anh, y khoa bác sĩ
Kinh tế Bộ trưởng: Hồ Tá Khanh, y khoa bác sĩ
Tiếp tế Bộ trưởng: Nguyễn Hữu Thí, cựu y sĩ
(Lệ Thần Trần Trọng Kim, sđd. tt. 52-53.)
(Báo TRUNG BẮC CHỦ
NHẬT số ngày 20-5-1945 đưa tin về sự thành lập chính phủ Trần Trọng Kim)
Chính Phủ Trần
Trọng Kim không có bộ binh
Đây là chính phủ đầu tiên của Việt Nam độc lập
được tổ chức theo cơ cấu tây phương, gồm nhiều bộ. Đứng đầu mỗi bộ là một vị bộ
trưởng phụ trách chuyên ngành. Tất cả những bộ trưởng trong chính phủ đều là
những chuyên gia tân học, gồm một giáo sư, hai kỹ sư, bốn bác sĩ, bốn luật sư.
Đặc biệt chính phủ nầy không có bộ Binh, hay bộ Quốc phòng, hoặc bộ An ninh.
Trước đây, sau khi vua Bảo Đại từ Pháp về cầm
quyền năm 1932, Pháp cải tổ triều đình Huế ngày 2-5-1933, bộ Binh bị bãi bỏ.
Nay chính phủ Trần Trọng Kim dưới quyền vua Bảo Đại cũng không có bộ Binh.
Không biết lý do nào, một chính phủ được tổ chức theo lối mới, lại không có bộ
Binh hay bộ Quốc phòng? Riêng Trần Trọng Kim, trong hồi ký của mình, giải thích
như sau:
“Việc binh bị trong
nước là việc quan trọng đến vận mạng cả nước, mà lúc ấy quân lính và súng ống
không có. Ở kinh đô Huế có tất cả hơn một trăm lính bảo an, tức lính khố xanh
cũ, và sáu bảy chục khẩu súng cũ, đạn cũ, bắn mười phát thì năm sáu phát không
nổ. Ở các tỉnh cũng vậy, mỗi tỉnh có độ 50 lính bảo an, các phủ huyện thì có độ
chừng vài chục người. Việc phòng bị do quân Nhật Bản đảm nhiệm hết. Vì lẽ đó và
các lẽ khác nữa mà lúc đầu chúng tôi không đặt bộ Quốc phòng. Một là trong khi
quân Nhật đang đóng ở trong nước, nếu mình đặt bộ Quốc phòng thì chỉ có danh
không có thực, và người Nhật có thể lợi dụng bắt người mình đi đánh giặc với
họ. Hai là trước khi mình có đủ binh lính và binh khí, ta hãy nên gây cái tinh
thần binh bị, thì rồi quân đội mình mới có khí thế.” (Lệ Thần Trần Trọng Kim, sđd. tt. 57-58.)
Tuy Trần Trọng Kim giải thích như thế, nhưng
có hai dư luận bàn tán khác nhau về việc nầy: Thứ nhứt, người ta cho rằng chính
phủ Trần Trọng Kim gồm toàn khoa bảng chuyên viên, ít hiểu biết về việc quân sự
nên không thấy rõ tầm mức quan trọng của bộ Quốc phòng. Thứ hai, có thể người
Nhật muốn nắm toàn bộ vấn đề quốc phòng mà không giao cho chính phủ Trần Trọng
Kim, vì sợ chính phủ nầy theo Đồng minh, có thể bất ngờ tấn công Nhật. Làm như
thế, Nhật còn buộc chính phủ Trần Trọng Kim lệ thuộc vào chính sách quân sự
chung của Nhật tại Đông Nam Á.
Dầu sao, việc quốc phòng chỉ dựa trên quân
Nhật là điều sẽ rất tai hại về sau, vì khi quân Nhật rút lui hay đầu hàng Đồng
minh, thì chính phủ Trần Trọng Kim không có lực lượng quân sự để tự bảo vệ
mình, bảo vệ an ninh lãnh thổ, và sẽ dễ dàng bị sụp đổ. Không tổ chức bộ Quốc
phòng, chính phủ Trần Trọng Kim mở trường huấn luyện thanh niên, chú trọng đến
việc phát triển phong trào thanh niên.
Về phần vua Bảo Đại, ngày 8-5-1945, nhà vua
đưa ra chủ trương xây dựng một hiến pháp theo khẩu hiệu “Dân vi quý” của Mạnh
Tử, và ngày 30-6-1945, nhà vua ban hành sắc dụ thành lập Hội đồng soạn thảo
hiến pháp. Hội đồng mới bắt đầu làm việc, thì tình hình thay đổi nhanh chóng.
Quốc Hiệu, Quốc Kỳ
và Quốc Ca
Bắt tay vào làm việc, trước hết vào ngày
4-5-1945, chính phủ quyết định quốc hiệu mới là Đế Quốc Việt Nam, chứ không
dùng các danh xưng An Nam, Đại Nam hay Đại Việt.
Kinh đô Huế được đổi thành Thuận Hóa. Ngày
2-6-1945, chính phủ chọn quốc kỳ Việt Nam nền vàng, ba sọc đỏ theo hình quẻ ly.
Quốc ca là bài “Đăng đàn cung”.
Quẻ ly là một trong tám quẻ đơn của bát quái
trong kinh Dịch, gồm ba hào (vạch ngang): hào dương dưới cùng (một vạch ngang),
hào âm ở giữa (một vạch ngang đứt ở giữa), và hào dương trên cùng (một vạch
ngang). Ly vi hỏa là lửa, sáng màu đỏ. Theo quan niệm của Hậu thiên bát quái,
ly đóng ở phương nam.
Như vậy, màu vàng của nền cờ quẻ ly vừa là màu
cờ long tinh của hoàng gia (truyền thống), vừa tượng trưng cho "thổ",
thích hợp với quẻ ly để chỉ vị trí nước ta (phương nam), và cả về màu sắc (hỏa,
màu đỏ, sinh thổ, màu vàng, theo ngũ hành tương sinh), đồng thời với ý nghĩa
người Việt Nam máu đỏ da vàng. Sau đây là lời giải thích của Trần Trọng Kim về
lá cờ do ông đưa ra:
“Lá cờ vàng là từ xưa
nước ta vẫn dùng. Trong sách Quốc sử diễn ca nói khi bà Triệu Ẩu nổi lên đánh
quân Tàu, đã dùng lá cờ ấy khởi nghĩa, nên có câu rằng: “Đầu voi phất ngọn cờ
vàng”. Vậy lấy sắc cờ vàng là hợp với cái ý cách mệnh của tổ quốc, lấy dấu hiệu
quẻ ly là vì trong lối chơi chữ tối cổ của ta có tám chữ viết bằng vạch liền
(dương) và những vạch đứt (âm) để chỉ tám quẻ, chỉ bốn phương chính và bốn
phương bàng, nói ở kinh Dịch, mà quẻ ly chủ phương nam. Chữ ly còn có nghĩa là
lửa, là văn minh, là ánh sáng phóng ra bốn phương.
Lấy sắc vàng là hợp
với lịch sử, lấy quẻ ly là hợp với vị trí nước nhà lại có nghĩa chỉ một nước
văn hiến như ta thường tự xưng. Như thế là lá cờ vàng quẻ ly có đủ các ý
nghĩa.” (Lệ Thần Trần
Trọng Kim, sđd, tt. 60-61.)
Khi Trần Trọng Kim chọn cờ quẻ ly, ông cũng
biết rằng “có người nói: cờ quẻ lý là một điềm xấu cho nên thất bại vì
ly là lìa. Ly là lìa là một nghĩa khác chứ không phải nghĩa chữ ly là quẻ. Và
việc làm của một chính phủ là cốt ở nghĩa lý, chứ không phải là sự tin nhảm vô
ý thức.” (Lệ Thần Trần Trọng Kim, sđd. tr. 61.)
Trong khi đó, theo các nhà Nho học, bài thiệu
về các quẻ trong bát quái có câu“càn tam mãn, ly trung hư”, tức quẻ
càn gồm có ba vạch ngang đầy đủ, trong khi quẻ ly có vạch giữa bị đứt đoạn, nên
các ông cũng cho đây là điềm không tốt.
Lời bài quốc ca “Đăng đàng cung” như
sau:
“Kìa núi vàng bể bạc
Có sách trời... sách
trời định phần!
Một dòng ta - gầy non
sông vững chắc.
Đã ba ngàn mấy trăm
năm!
Bắc Nam cùng một nhà
con Hồng cháu Lạc.
Văn minh đào tạo
Màu gấm hoa càng đượm
Rạng vẻ dòng giống
Tiên Long.
Ấy công gầy dựng
Từ xưa đà khó nhọc
Nhớ ơn dày nặng
Lòng trung quân đã sẵn
Cố thương nhau...
thương nhau một niềm.
Nguyện nhà Việt muôn
đời thạnh trị.”
(Lê Văn Lân, “Quốc kỳ và quốc ca Việt Nam thời
quân chủ trong thế kỷ 20 qua”, Tuyển tập Nhớ Huế số 12, không đề năm,
California, tr. 27.)
Như thế, vua Bảo Đại và Trần Trọng Kim đã hợp
nhất hai nền hành chánh bảo hộ Pháp và địa phương Việt, nên ban đầu còn nhiều
khó khăn trong buổi giao thời. Chính phủ nầy không tồn tại được lâu dài, nhưng
cũng đặt định được một số nền tảng căn bản như chúng ta sẽ thấy trong hoạt động
của chính phủ Trần Trọng Kim. (Trích: Bảo Đại (1913-1997), Toronto: Nxb. Non
Nước, 2014.)
(Toronto, Canada)
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết