QUỐC HẬN 30 THÁNG 4

Image result for Tháng Tư năm 1975 -----

==== ====



Tuesday, February 17, 2015

Tốc độ xoay chuyển vận mệnh đất nước: Kỳ tích của các anh hùng thời Minh Trị duy tân





 

Tốc độ xoay chuyển vận mệnh đất nước: 

Kỳ tích của các anh hùng thời Minh Trị duy tân


 

Trần Văn Thọ




Trước khúc ngoặt của lich sử, vận mệnh đất nước và dân tộc tất nhiên tùy thuộc vào hành động của nhũng người có trách nhiệm. Dĩ nhiên tiên đề là phải có tinh thần yêu nước, có ý chí, có ý thức trách nhiệm, nhưng nếu không đủ trí tuệ, không có đầu óc linh hoạt cảm nhận ngay được cái mới để từ bỏ nhanh những tư tưởng lỗi thời thì sẽ đưa ra những quyết định sai lầm hoặc bỏ mất thời cơ.
Vào giữa thế kỷ 19, Nhật Bản là một nước phong kiến, bế quan tỏa cảng, xã hội phân chia thành các giai cấp sĩ, nông, công, thương và chịu ảnh hưởng của Nho giáo. Thế rồi chiến thuyền Mỹ của đô đốc Perry xuất hiện ở vịnh Edo năm 1853 đã khuấy động cả xã hội phẳng lặng đó. Nhưng chỉ có 15 năm (Minh Trị duy tân bắt đầu năm 1868), các sĩ phu, các lãnh đạo của Nhật đã biến một đất nước phong kiến bảo thủ trở thành một nhà nước tiếp thu toàn diện thế giới văn minh để tiến lên hàng các quốc gia thượng đẳng. Ý chí, trí tuệ và sự chuyển dịch tư tưởng rất nhanh của những lãnh đạo thời đó đã xoay chuyển đất nước một cách ngoạn mục với một tốc độ có thể nói là kỳ diệu.
Thời đại Edo ở Nhật kéo dài từ năm 1603 đến năm 1867. Quyền cai trị đất nước tập trung vào chính quyền Mạc Phủ đóng tại Edo (Tokyo ngày nay) do các tướng quân của dòng họ Tokugawa nối tiếp nhau lãnh đạo. Thiên hoàng (đóng đô ở Kyoto) chỉ có vai trò tượng trưng. Cả nước chia thành 277 phiên (han), mỗi phiên có một lãnh chúa (daimyo) đứng đầu. Cứ hai năm một lần các lãnh chúa phải về Edo chầu tướng quân, một quy chế lập ra để duy trì sự trung thành của các phiên đối với Mạc Phủ. Tuy nhiên từ đầu thế kỷ 19, một số phiên ở phía tây nam mạnh lên về kinh tế và quân sự nên sự gắn bó với Mạc Phủ yếu đi. Hai phiên mạnh nhất thời đó là Satsuma (tỉnh Kagoshima ngày nay) và Choshu (Yamaguchi ngày nay). Về đối ngoại, chính quyền Edo theo chính sách bế quan tỏa cảng, chỉ cho ngoại lệ là cảng Nagasaki được giao thương với nước ngoài.
Năm 1853, hạm đội Mỹ do đô đốc Perry dẫn đầu ghé cảng Uraga ở vịnh Edo, yêu cầu Mạc Phủ mở cửa giao thương. Cả xã hội náo động vì sự kiện này. Đến năm 1858, Perry lại đến và yêu cầu ký kết các hiệp ước bất lợi cho Nhật với hai nội dung chính là Nhật mất chủ quyền về thuế quan (không được dùng thuế quan để bảo hộ sản phẩm trong nước khi mậu dịch với nước ngoài) và không có quyền tài phán đối với người nước ngoài cư trú tại Nhật. Chính quyền Mạc Phủ sợ các nước phương tây gây chiến nên đồng ý ký các hiệp ước đó. Ngoài Mỹ, các nước khác như Pháp, Anh, Hoà Lan, Nga cũng ép Nhật ký các hiệp ước tương tự.

Hạm đội của Perry trong đợt viếng thăm Nhật Bản lần thứ 2 vào năm 1854.

Lúc đó chính trị Nhật rối bời và chia ra nhiều phe có các lập trường khác nhau. Đối nội có 2 quan điểm: “tôn vương” (chủ trương dành thực quyền về cho thiên hoàng) hay duy trì thể chế cũ (do Mạc Phủ cai trị); đối ngoại cũng có hai quan điểm: bài ngoại (nhương di) hay khai phóng (mở của giao thương và học tập nước ngoài). Như vậy kết hợp lập trường đối nội và đối ngoại có tới 4 phe phái. Đặc biệt hai phiên mạnh nhất Satsuma và Choshu lúc đầu có tư tưởng bài ngoại, quyết chống Tây phương bằng vũ lực. Nhưng về mặt đối nội thì hai bên có lập trường khác, Satsuma ủng hộ Mạc Phủ trong khi Choshu thì tôn vương. Do khác nhau về chính sách đối nội, hai phiên này mâu thuẫn nhau, có lúc xảy ra giao tranh khi Satsuma vâng lệnh Mạc Phủ cử binh đi chinh phạt Choshu.
Sang thập niên 1860, tình hình biến chuyển theo một hướng hoàn toàn mới. Năm 1863, do chính sách bài ngoại, Satsuma đã bắn vào thương thuyền của Anh và chiến tranh xảy ra. Nhưng với vũ khí tối tân, Anh đã thắng dễ dàng. Cũng trong thời gian đó, Choshu tấn công thương thuyền của Mỹ, Pháp và Hoà Lan tại eo biển Kanmon. Ba nước phản kích và Choshu thua ngay. Sau dịp thử sức này, cả Satsuma và Choshu nhận thấy không thể đối đầu với Tây phương bằng quân sự mà phải có chiến lược khác. Cùng lúc đó ý kiến của các nhà tư tưởng như Yoshida Shoin và Takasugi Kensaku ngày càng được chú ý. Yoshida cho rằng không biết người thì làm sao thắng được người trong các cuộc tranh chấp. Takasugi, học trò của Yoshida, triển khai ý ấy thành chính sách cụ thể “phải học tập nước ngoài mới có ngày thắng được nước ngoài”. Takasugi cũng là người được Choshu cử đi gặp đại diện các nước Mỹ, Pháp và Hoà Lan để xin hoà sau cuộc xung đột ở eo biển Kanmon.
Với sự chuyển hướng của hai phiên mạnh nhất, khuynh hướng hoà hoãn với nước ngoài và học tập văn minh tây phương dần dần chiếm ưu thế. Vấn đề còn lại là đối nội: thế lực nào sẽ lãnh đạo trong thời đại học tập nước ngoài để xây dựng đất nước? Tại phiên Satsuma, với sự chuyển giao thế hệ lãnh đạo sang những người trẻ như Saigo Takamori và Ohkubo Toshimichi, hai người mà sau này giữ vai trò nòng cốt trong việc xây dựng thời đại Minh Trị, ý thức ủng hộ Mạc Phủ ngày càng phai nhạt và dần dần họ thấy phải đoàn kết chung quanh thiên hoàng, biểu tượng cho sự thống nhất dân tộc, mới đưa đất nước vào giai đoạn mới.
Vào thời điểm đó, sự xuất hiện của Sakamoto Ryoma, một chí sĩ thuộc phiên Tosa (Kochi ngày nay), trên vũ đài chính trị rất đúng lúc. Lúc 18 tuổi (năm 1853) trên đường từ Tosa lên Edo để học kiếm thuật, Sakamoto đã tận mắt chứng kiến hạm đội hiện đại của Perry, cảm nhận sức mạnh của phương Tây và thấy Nhật phải thay đổi mới thoát được nguy cơ bị thực dân hóa. Tương truyền rằng sau đó ông đã tìm đọc hết những sách kinh điển của các nước tây Âu vừa mới được dịch sang tiếng Nhật. Chuyện kể rằng ông đã nói với người bạn đồng hương lâu ngày mới gặp lại rằng “vũ khí quan trọng của thời đại bây giờ không phải là thanh gươm cây kiếm, cũng không phải là súng ống mà là cái nầy đây” (ông rút trong túi ra đưa cho bạn xem cuốn Vạn quốc công pháp vừa được phát hành (năm 1865), đây là cuốn sách dịch từ cuốn Elements of International Law của Henry Wheaton.
Sakamoto nhận thấy Mạc Phủ không còn uy tín và năng lực để lãnh đạo đất nước trong thời đại mới nên đã vận động quy tụ thế lực mới mà bắt đầu bằng việc điều đình để hai phiên mạnh nhất là Satsuma và Choshu làm hoà với nhau. Kết cuộc ông đã thành công và đồng minh Satsuma-Choshu ra đời. Họ đã liên hiệp với hai phiên khác là Tosa và Hizen (Saga ngày nay) tạo thành lực lượng tôn vương mạnh mẽ. Saigo Takamori trở thành chỉ huy trưởng của lực lượng nầy.

Bức tượng đá mô tả cảnh hai ông Saigo và Katsu hội đàm ở đền Atago.

Trước sức mạnh của phe tôn vương, tướng quân đương thời và cũng là tướng quân cuối cùng của Mạc Phủ là Yoshinobu thỏa hiệp bằng cách trả lại thực quyền cho thiên hoàng (tháng 10/1867) với hy vọng tham gia chính phủ mới trong đó quyền lợi của Tokugawa được duy trì. Tuy nhiên kết cuộc phía Tokugawa thấy mình bị mất quá nhiều quyền lợi, chẳng hạn phải giải tán quân đội đã có từ trước, nên đã đem quân chống lại phía thiên hoàng. Cuộc nội chiến kéo dài gần nửa năm, cuối cùng Tokugawa suy yếu phải rút quân về cố thủ thành Edo. Tướng giữ thành lúc đó là tổng đốc lục quân Katsu Kaishu. Quân đội phía thiên hoàng do Saigo Takamori chỉ huy tiến về Edo chuẩn bị vây thành.
Trước khả năng nước ngoài tìm cách thôn tính Nhật, những nhà lãnh đạo hai bên Mạc Phủ và thiên hoàng phải có quyết định để tránh tổn thất lớn cho đất nước. Cuối cùng, phân tích lực lượng hai bên và tình hình thế giới, và suy nghĩ về tương lai đất nước, tướng Katsu đã đi đến quyết định là phải đầu hàng quân đội thiên hoàng mới cứu được nước Nhật ra khỏi thảm họa. Ông thuyết phục phe chủ chiến trong thành và hứa sẽ đưa ra các điều kiện đầu hàng không phương hại đến tính mạng và tài sản tối thiểu của gia đình, thân tộc và quan lại của Mạc Phủ.
Cuộc đàm phán giữa hai tướng Saigo và Katsu đã diễn ra thuận lợi ngoài dự tưởng của Katsu, nhất là thái độ rất hoà nhã và khiêm tốn của Saigo đối với người chiến bại đã làm phía Tokugawa thấy yên tâm và không hề có mặc cảm của người thất thế. Phía tướng Katsu cũng trình bày nội tình của phe Tokugawa với thái độ chân thành. Saigo đã đồng ý các điều kiện đầu hàng. Ông đã về thuyết phục những người chủ chiến phía thiên hoàng. Với uy tín của Saigo mọi người đã chấp nhận chấm dứt chiến tranh theo kết quả cuộc hội đàm của Saigo và Katsu. Lịch sử đã ghi lại sự kiện nầy bằng 4 chữ Vô huyết khai thành (mở của thành đầu hàng để tránh đổ máu). Tướng quân Yoshinobu được cho về sống cuộc đời ẩn dật tại Shizuoka (gần núi Phú sĩ). Những người tài giỏi của thời Tokugawa được chính quyền Minh Trị mời cộng tác. Đặc biệt tướng Katsu được mời làm bộ trưởng hải quân vì ông nguyên là chuyên gia về kỹ thuật quân sự tây phương, am hiểu nghệ thuật cầm quân trên biển. Hải quân của Nhật được cận đại hóa và sau nầy giành thắng lợi trong chiến tranh Nhật Nga (1905) một phần to lớn có công lao của Katsu, nói rộng ra là nhờ chính sách đặt lợi ích dân tộc lên trên hết của những người lập ra chính quyền Minh Trị nên những người tài của chế độ cũ được trọng dụng. Vài tháng sau sự kiện vô huyết khai thành, Edo được đổi tên là Tokyo (tháng 7/1868) và sau đó ít lâu Minh Trị thiên hoàng dời đô từ Kyoto về Tokyo (tháng 10/1868), đánh dấu một thời đại mới.
Như vậy chỉ trong vòng 15 năm Nhật Bản đã làm được cuộc cách mạng đưa đất nước vào kỷ nguyên mới. Có thể tóm tắt những yếu tố làm nên kỳ tích này:
- Thứ nhất, các sĩ phu, các lãnh đạo thời đó đã đặt tiền đồ, vận mệnh đất nước lên trên hết nên đã thỏa hiệp nhanh chóng. Họ đã khôn khéo dùng thiên hoàng làm biểu tượng để dễ thống nhất các lực lượng vốn đã phân tán do chế độ phiên trấn thời Mạc Phủ. Trước nguy cơ bị nước ngoài thống trị, dù với lập trường nào, họ cũng cảm thấy trách nhiệm với đất nước nên đã giải quyết các tranh chấp nội bộ rất nhanh, đã không kéo dài các cuộc nội chiến làm hao tổn nội lực.
-Thứ hai, những sĩ phu, những lãnh đạo của Nhật thời đó thức thời nhanh chóng nên đã thay đổi chiến lược một cách ngoạn mục. Mới đánh một trận họ đã nhận ngay ra được sức mạnh quân sự của Âu Mỹ, mới đọc một số sách vở đã ngộ ra được sức mạnh của văn minh phương Tây và thấy là mình phải học hỏi để canh tân đất nước. Đằng sau những phán đoán chính xác và thay đổi chiến lược kịp thời nầy là tinh thần và nỗ lực học hỏi, tìm hiểu nguồn gốc sức mạnh của những người, những thế lực mới lạ đến từ phương Tây.
Ngày nay với tiến bộ của khoa học về phương tiện đi lại và liên lạc, việc tiếp xúc học hỏi với bên ngoài quá dễ dàng. Tuy nhiên không ít trường hợp lãnh đạo của nhiều nước phải mất hàng chục năm mới thực hiện được vài cải cách, mất hàng nửa thế kỷ hay lâu hơn mới thay đổi được tư duy, chiến lược cần thiết để đất nước phát triển./.

Tokyo trước thềm năm 2015

Trần Văn Thọ






Bài đọc thêm :

 

Đô đốc Perry và việc mở cửa nước NHẬT

 

Phạm Văn Tuấn



1. Nước Nhật và chính sách bế quan tỏa cảng
Thế kỷ 21 đã được gọi là Thế Kỷ Thái Bình Dương và các quốc gia ở chung quanh đại dương lớn nhất này đang đóng các vai trò rất quan trọng trong tương lai.
Tại vùng phía bắc Thái Bình Dương, phần đất Alaska của Bắc Mỹ tiếp gần với phần đất Yakutsk của miền Tây Bá Lợi Á, thuộc nước Nga. Về phía tây nam của Thái Bình Dương là các hải đảo chạy gần như song song với lục địa châu Á, đó là các đảo Aleutian, Kurile, quần đảo Nhật Bản, quần đảo Phi Luật Tân…
Vào thế kỷ 16 và 17, ba cường quốc đã thiết lập buôn bán với Nhật Bản là Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Hòa Lan. Người Bồ và người Hòa Lan đã tới Nhật Bản qua mỏm cực nam của châu Phi, còn người Tây Ban Nha tới từ thuộc địa của họ là Mễ Tây Cơ. Các người này bị người Nhật gọi là bọn “nam man” hay những kẻ man rợ của phương Nam, vì họ thường từ phía nam đi tới Nhật Bản.
Sang thế kỷ thứ 18 và 19, có thêm ba quốc gia nữa tìm cách buôn bán với Nhật Bản là nước Nga, nước Anh và Hoa Kỳ nhưng vào thời kỳ này, Nhật Bản đã áp dụng chính sách “bế quan tỏa cảng”, cấm đoán mọi giao dịch thương mại với các người nước ngoài, ngoại trừ với người Hòa Lan sinh sống tại Nagasaki. Vì thế, các người nước ngoài muốn làm thay đổi chính sách kinh tế kể trên không phải là một việc dễ dàng.
Quốc gia đầu tiên muốn gõ cửa Nhật Bản là nước Nga. Vào đầu thế kỷ 18, Đại Đế Peter (1672-1725) là Sa Hoàng có rất nhiều quyền lực và tham vọng, đã quyết định mở mang miền Siberia . Đây là một vùng đất bao la, rất giàu tài nguyên nhưng khí hậu rất khắc nghiệt. Vào thời đại của Sa Hoàng Peter, di chuyển hàng hóa qua miền Siberia chỉ trông cậy vào các con chó chạy trên những cánh đồng tuyết phủ mênh mông, còn dùng đường biển đi từ một hải cảng trên biển Baltic tới hải cảng Okhotsk tại Siberia phải mất hơn một năm. Hơn nữa, các hải cảng thuộc miền đông lại đóng băng 10 tháng trong một năm và chỉ dùng được trong 2 tháng 8 và 9. Việc chuyên chở tài nguyên Siberia là quặng mỏ và sản phẩm rừng, chỉ trông cậy vào các con tầu biển chở nặng và các hải trình dài đòi hỏi tới các hải cảng thân hữu để các con tầu này cập bến lấy đồ ăn và nước uống. Ngoài ra, các con tầu Nga đi tới Siberia còn cần một nơi chờ đợi cho băng tuyết tan đi. Một hải cảng của Nhật Bản đúng là một nơi lý tưởng. Với ý định như thế, Đại Đế Peter ra lệnh cho các học giả học tiếng Nhật qua các sách của người Hòa Lan và cho tầu thuyền thám hiểm các hòn đảo Kuril nằm giữa nước Nga và nước Nhật. Nhưng Đại Đế Peter đã chết trước khi có các tiếp xúc chính thức giữa hai nước.
Tới cuối thế kỷ 18, nước Nga lại có một nhà vua nhiều quyền lực là Nữ Hoàng Catherine (1729-96). Bà vua này cố gắng nối tiếp các liên lạc chính thức với Nhật Bản nên vào năm 1792, một phái đoàn Nga đã tới hải cảng Nemuro thuộc hòn đảo phía bắc Hokkaido. Để có được tình cảm tốt đẹp, phái đoàn này còn đưa về Nhật Bản các người Nhật bị đắm tầu và được đối xử tử tế tại đất Nga. Phái đoàn Nga xin phép tới Edo là kinh đô của Nhật Bản thời đó để thương lượng việc buôn bán nhưng đã bị từ chối. Tới năm 1804, một phái đoàn Nga khác cũng tới hải cảng Nagasaki và cũng bị chính quyền Shogun (将軍 Tướng Quân) cự tuyệt.

Shogun (将軍 Tướng Quân)

Sự việc hai lần khước từ buôn bán với nước Nga đã khiến cho tại Edo, những người có trách nhiệm quốc gia phải quan tâm. Hokkaido là một hòn đảo thưa dân, ở phía bắc, rất cần được phát triển để mang lại thực phẩm cho các hòn đảo tại phía nam. Sự liên lạc với nước Nga có thể giúp ích cho việc phát triển này. Nếu phái đoàn Nga kiên nhẫn hơn, nán ở lại Nhật Bản lâu hơn thì việc thương lượng có thể có kết quả. Tuy nhiên, vị đại sứ Nga không kiên nhẫn, đã tự ý ra lệnh cho một tầu chiến tấn công một vùng biển của đảo Hokkaido. Việc dùng võ lực này đã khiến cho chính quyền Shogun quyết định tăng cường võ trang để bảo vệ Nhật Bản và càng cấm cản người nước ngoài.
Năm sau, 1808, một tầu chiến Anh chạy vào hải cảng Nagasaki và thuyền trưởng của con tầu đã bắt buộc vị tổng trấn thành phố phải cung cấp các đồ ăn và nước uống cần thiết. Nhiều tầu Anh khác cũng làm như vậy và vào năm 1824, đã có các cuộc chiến giữa các thủy thủ người Anh và một số người Nhật Bản.
Tất cả các biến cố kể trên phối hợp lại đã khiến cho chính quyền Shogun ban ra một sắc luật mới vào năm 1825, ra lệnh bắn phá tất cả các tầu thuyền ngoại quốc tới gần các bờ biển Nhật Bản và giết hay bắt tất cả các thủy thủ xa lạ. Các chính quyền địa phương Nhật được lệnh toàn quyền thi hành sắc lệnh này mà không cần hỏi về kinh đô Edo. Trước kia, các tầu biển nước ngoài nếu thiếu nước uống và đồ ăn thực sự, có thể ghé các hải cảng Nhật Bản trong một thời gian thật ngắn, nhưng sau khi sắc luật kể trên được ban hành thì mọi tầu bè ngoại quốc đều bị từ chối dứt khoát. Hành động cứng dắn của chính quyền Shogun kể trên lại càng làm cho chính quyền này bất lực về sau.
Cũng vào khoảng thời gian này, tại Trung Hoa, các thương nhân người Anh đã bán thuốc phiện trồng tại Ấn Độ cho các dân ghiền người Hoa. Vì thế Hoàng Đế Trung Hoa đã ra lệnh việc bán thuốc phiện phải bị chấm dứt và tại một hải cảng miền Quảng Đông, một số lớn thuốc phiện của người Anh bị tịch thu và đốt bỏ. Nước Anh vì vậy đòi nước Trung Hoa bồi thường và khi bị từ chối, các tầu chiến Anh đã bắn phá bờ biển Trung Hoa. Đó là cuộc “Chiến Tranh Nha Phiến”. Lực lượng Trung Hoa không thể chống lại hạm đội Anh nên một số hải cảng Quảng Đông, hải cảng Thượng Hải và thành phố Nam Kinh bị chiếm đóng. Hiệp Ước Nam Kinh ký năm 1842 nhường cho nước Anh hòn đảo Hồng Kông gần Quảng Đông và đặc quyền cho phép người Anh buôn bán tại 5 hải cảng Trung Hoa.
Tại châu Á, Trung Hoa từ xưa vẫn được coi là một nước lớn, hùng mạnh nhất mà không thể chống cự nổi hạm đội Anh, điều này đã làm cho Nhật Bản phải suy nghĩ. Một số lãnh chúa Nhật đã khuyến cáo chính phủ nên giao thương ngay với các nước Tây Phương để có cơ hội mua võ khí ngõ hầu bảo vệ Nhật Bản. Tuy nhiên chính quyền Shogun vẫn cương quyết bế quan tỏa cảng, nhưng việc học hỏi Tây Phương có thể được làm ngơ để người Nhật biết cách chế tạo ra các võ khí mới.

2. Đô Đốc Perry tới nước Nhật
Sau nước Nga và nước Anh, Hoa Kỳ là quốc gia thứ ba đòi hỏi Nhật Bản phải mở hải cảng, giao thương với các nước ngoài. Vào thập niên 1840, Hoa Kỳ đã quan tâm tới Thái Bình Dương. Năm 1846, nước Anh công nhận quyền lợi của Hoa Kỳ tại miền đất Oregon và hai năm sau đó, Tây Ban Nha chịu nhường thuộc địa là miền California sau cuộc chiến tranh Mễ Tây Cơ. Năm 1849, cuộc khám phá ra vàng tại California đã tạo nên cuộc săn vàng sôi nổi tại miền tây Hoa Kỳ. Đã có một dự định xây dựng một đường xe lửa xuyên qua lục địa Bắc Mỹ và một dự án về tầu thủy băng qua Thái Bình Dương để tới Trung Hoa. Các quốc gia chính của châu Âu đang hướng về thị trường hàng triệu người tiêu thụ của châu Á để bán ra các sản phẩm dư thừa của họ, tạo nên bởi các phương pháp sản xuất của cuộc cách mạng kỹ nghệ. Hoa Kỳ cũng muốn chia phần trong việc tìm kiếm thị trường quốc tế. Ngoài ra vùng biển bắc Thái Bình Dương là nơi rất tốt để săn cá voi và đã có hơn 500 người Mỹ hành nghề tại vùng biển này. Những lý do kể trên khiến cho Hoa Kỳ hướng về châu Á.
Nhật Bản là miền đất nằm trên đường đi từ California tới Trung Hoa. Một thập niên về trước, nước Anh đã dễ dàng ép buộc Trung Hoa phải mở cửa để cho người nước ngoài vào buôn bán nên vào lúc này, Hoa Kỳ cũng muốn làm áp lực với Nhật Bản vì người Nga đang có các toan tính về thị trường Nhật. Vì thế, Hoa Kỳ phái một đoàn tầu chiến tới kinh đô Edo. Cầm đầu hạm đội Hoa Kỳ là Đô Đốc Matthew Calbraith Perry (1794-1858).

 
Matthew Calbraith Perry

 Đô Đốc Perry thuộc một gia đình hải quân truyền thống. Anh của ông là Oliver Hazard Perry là một vị anh hùng trong trận chiến Hồ Erie của cuộc chiến 1812. Còn chính Perry, ông đã chỉ huy lực lượng hải quân Mỹ lớn nhất thời đó trong cuộc chiến tranh Mễ Tây Cơ và đã thắng lợi trong cuộc tấn công hải cảng Veracruz. Ông cũng là một nhà ngoại giao trong các cuộc thương thảo tại Canada, Naples và Nigeria. Đô Đốc Perry luôn luôn bênh vực quan điểm là Hải Quân Mỹ nên dùng tầu thủy chạy bằng hơi nước để thay thế loại tầu biển dùng buồn, vì vậy trong hạm đội của ông đi tới Nhật Bản đã có hai tầu thủy. Ngoài ra, đặc tính thích hợp nhất của ông trong việc thương lượng với Nhật Bản là tính kiên nhẫn.
Mùa thu năm 1852, Đô Đốc Perry rời hải cảng Annapolis để đi Nhật Bản, có Tổng Thống Hoa Kỳ Millard Fillmore tới tận nơi từ biệt. Đây là vị đô đốc thứ tư của Hoa Kỳ được gửi đi Nhật Bản kể từ năm 1845, vì các lần trước đều thất bại. Vào ngày thứ Sáu, mồng 8 tháng 7 năm 1853, hạm đội của Đô Đốc Perry tiến vào vịnh Edo (nay là vịnh Tokyo) trước các con mắt rất ngạc nhiên và thán phục của người Nhật Bản vì họ chưa từng được trông thấy hai chiếc tầu thủy chạy ngược gió. Hạm đội này đã bỏ neo tại thành phố Uraga, trên bờ phía tây của vịnh Edo.
Sự xuất hiện quá nhanh và bất ngờ của hạm đội Mỹ đã khiến cho chính quyền Shogun không biết cách phản ứng, vì vậy cách hay nhất của họ là trì hoãn việc đối phó, trong khi đó dân chúng Nhật đã kéo tới Uraga để nhìn thấy rõ các con tầu chiến Hoa Kỳ. Vào thời đó, các tầu thuyền của Nhật Bản còn làm bằng gỗ, thô sơ, không sơn phết, trong khi chiến hạm Mỹ được đóng theo kỹ thuật mới và sơn màu đen.
Lúc cập bến cảng Nhật Bản, Đô Đốc Perry đã từ chối gặp các nhân viên cấp dưới và sau một buổi lễ long trọng, đã trao bức thư của Tổng Thống Fillmore cho một hoàng tử Nhật để chuyển về cho Thiên Hoàng. Bức thư này đã nhã nhặn đòi hỏi ba điều: việc thương mại trên căn bản thử nghiệm, việc đối xử nhân đạo đối với các thủy thủ Mỹ gặp nạn và việc bán than đá cho các tầu thủy Hoa Kỳ. Chính quyền Shogun lúc đó đã không trả lời ngay mà yêu cầu hạm đội Mỹ ra đi vì bức thư đã được chấp nhận. Đô Đốc Perry hẹn sẽ trở lại sau một năm với một hạm đội hùng mạnh hơn. Shogun sau đó đã hội họp với các lãnh chúa để hỏi ý kiến và tìm ra giải pháp. Lòng ái quốc, lòng hãnh diện quốc gia và chính sách bế quan tỏa cảng đã không cho phép họ chấp nhận các điều yêu cầu của Hoa Kỳ. Nhưng vũ khí hùng mạnh của hạm đội Mỹ lại có thể gây nên những rắc rối giống như người Anh đã làm tại Trung Hoa.
Ngày 11 tháng 2 năm 1854, Đô Đốc Perry trở lại vịnh Edo, lần này với 8 tầu chiến. 5 ủy viên của chính quyền Shogun đã họp với Đô Đốc Perry tại một làng thuộc tỉnh Yokohama và cuối cùng, vào ngày 31 tháng 3, họ đã ký với nhau thỏa ước Kanagawa, chấp thuận đối xử tử tế với các thủy thủ bị đắm tầu người Hoa Kỳ, cho phép các tầu biển Hoa Kỳ được cặp bến tại hải cảng Shimoda, nằm 100 dặm về phía nam của Edo, tại hải cảng Hokodate thuộc hòn đảo Hokkaido, và cũng chấp nhận trụ sở của một viên lãnh sự Hoa Kỳ tại Shimoda để sau này dàn xếp việc thương mại. Việc phê chuẩn thỏa ước được phía Hoa Kỳ làm ngay, nhưng phía Nhật Bản đã để mất nhiều thời giờ hơn. Bắt chước Hoa Kỳ, các nước Anh, Hòa Lan và Nga cũng đòi hỏi các nhượng bộ tương tự và Nhật Bản không còn cách nào khác hơn là chấp nhận.
Tháng 8 năm 1856, viên lãnh sự Hoa Kỳ đầu tiên tên là Towsend Harris tới nhận nhiệm sở tại hải cảng Shimoda. Vị này đòi hỏi Nhật Bản không những mở hải cảng để giúp các tầu biển cần tiếp liệu mà còn phải thi hành việc thương mại toàn diện. Vào thời này, nhiều người Nhật đã thấy rằng thỏa ước bất công, có tính một chiều bởi vì Nhật Bản không thể buôn bán tại Hoa Kỳ, song Nhật Bản quá yếu, không làm sao ngăn cản được áp lực ngoại quốc và đã đến lúc phải chấm dứt chế độ Shogun Tokugawa (Tướng Quân) đã nắm quyền lực hai thế kỷ rưỡi. Các lãnh chúa đã bàn tính tới việc phục hồi quyền lực cho Thiên Hoàng. Kyoto do đó đã trở nên một trung tâm chính trị sôi động. Một khẩu hiệu phổ biến vào thời kỳ đó là “Tôn vinh Thiên Hoàng, đánh đuổi các kẻ man rợ “. Một số lãnh chúa thế lực đã mời Thiên Hoàng và các nhà quý tộc tham dự vào các buổi bàn thảo về chính sách quốc gia, một việc làm đầu tiên trong nhiều thế kỷ.
Trong một cố gắng để làm yên lòng phe đối lập đối với các đòi hỏi thương mại mới, Shogun Tokugawa đã mang thỏa ước để xin Thiên Hoàng chấp thuận. Vào các thập niên trước, tất nhiên Thiên Hoàng phải đồng ý nhưng lần này, Thiên Hoàng đã bác bỏ. Một lý do là vì hải cảng phải mở cửa là Osaka, quá gần với Kyoto. Thiên Hoàng lại khuyến cáo chính quyền Shogun phải quan tâm đến các ý kiến của các lãnh chúa mạnh thế.
Tháng 8 năm 1858, Shogun thứ 13 tên là Iesada qua đời. Hội Đồng Niên Lão đã chỉ định một Đại Thần có quyền hành động như một nhà độc tài để phục hồi quyền hành trung ương. Vị này phải đủ mạnh để bắt giữ các lãnh chúa đối lập, chọn ra một Shogun mới và ký thỏa ước với Hoa Kỳ. Vào lúc này, các nước Anh, Hòa Lan, Nga và Pháp cũng đòi hỏi các thỏa ước tương tự, khiến cho sự bất mãn càng gia tăng nhất là khi nhiều người ngoại quốc bắt đầu tới Nhật Bản.
Năm 1860, vị Đại Thần bị ám sát chết. Lúc này, một số võ sĩ Samurai Nhật đã đốt nhà của nhiều người ngoại quốc và giết chết một số người khác. Tầu chiến các nước phương Tây liền trả thù lại bằng cách bắn phá các hải cảng Nhật. Chính quyền Shogun càng ngày càng trở nên bất lực, không kiểm soát nổi tình thế. Có hai thành phố đã mua lậu võ khí tây phương là Satsuma ở phía nam của đảo Kyushu, và Choshu ở phía tây của đảo lớn Honshu. Họ đã tổ chức được 2 đội quân gồm các samurai trẻ, có khả năng. Những người ngày thấy rằng cần phải thiết lập nên một chính phủ mới dưới quyền của Thiên Hoàng và hủy bỏ chế độ Shogun (Tướng Quân). Một trong các samurai trẻ kể trên sau này trở nên một chính khách lỗi lạc của nước Nhật, đó là Ito Hirobumi, sinh năm 1841 trong một gia đình võ sĩ đạo thuộc miền Choshu.
Ito Hirobumi cho rằng cách hay nhất để học hỏi Tây Phương là đi qua phương Tây. Với đạo luật bế quan, ra khỏi nước Nhật có thể bị khép tội tử hình. Nhưng Ito, 22 tuổi, và 4 người trẻ khác đã trốn lậu trên một con tầu biển hướng tới Thượng Hải, đó là vào năm 1863. Tới Thượng Hải, Ito xin làm thuyền viên trên một con tầu khác để đi tới London, nước Anh.
Năm 1864, lãnh chúa tỉnh Choshu đã ra lệnh cho các đại pháo trên bờ bắn vào các con tầu ngoại quốc chạy vô các eo biển hẹp giữa hai đảo Honshu và Kyushu. Kết quả là các đại pháo này đã bị các tầu biển tây phương tiêu diệt dễ dàng. Rồi tỉnh Satsuma cũng gặp các kinh nghiệm tương tự. Điều chứng minh rõ ràng này đã khiến cho người Nhật Bản nhận biết sự cần thiết phải xử dụng võ khí và học hỏi kỹ thuật chiến tranh của Tây Phương. Ito Hirobumi được phái tới Nagasaki để lo việc nhập cảng võ khí của nước Anh.
Tháng 9 năm 1866, vị Shogun thứ 14 chết sau 8 năm cầm quyền. Kế tiếp là Shogun thứ 15 và cũng là Tướng quân cuối cùng của giòng họ Tokugawa. Năm 1867, Thiên Hoàng qua đời, kế vị là một hoàng tử 14 tuổi tên là Mutsuhito.
Ngày 3 tháng 1 năm 1868, các đội quân của hai tỉnh Satsuma và Choshu đã chiếm Hoàng Cung Kyoto. Những người lãnh đạo cuộc nổi dậy đã triệu tập một hội đồng hoàng tộc để điều khiển đất nước và hội đồng này gồm những người không muốn tiếp tục chế độ Shogun. Từ tháng 4 năm 1868, Shogun trở thành một trong các lãnh chúa và quyền lực của giòng họ Tokugawa bị chấm dứt sau hai thế kỷ rưỡi.
Hội đồng cai trị Nhật Bản đã tuyên bố rằng Thiên Hoàng cần được phục hồi quyền lực cũ. Vị Vua của triều đại mới này là “Thiên Hoàng Minh Trị “, người đã mở ra một trang sử rực rỡ cho nước Nhật.  

Phạm Văn Tuấn 




__._,_.___

Posted by: Vietsu

No comments:

Post a Comment

Những Sự Thật Cần Phải Biết

Featured Post

BẠN TÔI: ĐẠI ÚY TRẦN QUANG HIỆP

 https://www.facebook.com/groups/160591528349491/permalink/723350692073569/ https://www.youtube.com/watch?v=oqhFQFR2-JM Chuyện Xứ Xã Nghĩa r...

Popular Posts

Popular Posts

My Blog List