On Friday, April 1, 2016 7:25 AM, Toma Thien < wrote:
Kính gởi đến Quý Ân nhân, Quý Ủng hộ
viên và Quý Độc giả bán nguyệt san Tự do Ngôn luận số 240 (ra ngày 01-04-2016)
và bài xã luận của bán nguyệt san. Xin cảm ơn Quý vị đã đón nhận và sẽ chuyển
tiếp.
Ban biên tập
10
năm Tuyên ngôn Tự do Dân chủ cho Việt Nam
Xã
luận bán nguyệt san Tự do Ngôn luận số 240 (01-04-2016)
Đầu năm 2006, có hai nhà trí thức đấu tranh dân chủ ở Sài Gòn là giáo sư Trần
Khuê và kỹ sư Đỗ Nam Hải ra Hà Nội. Họ đi thăm và gặp gỡ nhiều nhân vật cộng
sản đã phản tỉnh hay có tinh thần dân chủ như các ông Hoàng Minh Chính (nguyên
viện trưởng Viện triết học Mác-Lê), Lê Hồng Hà (đại tá công an, nguyên Chánh Văn phòng, Vụ trưởng Vụ tổng
hợp Bộ Nội), đại tá quân đội Phạm Quế Dương, cựu chiến binh
Trần Đại Sơn, tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang, tiến sĩ Phan Đình Diệu, nhà văn Hoàng
Tiến, nhà văn Hoàng Quốc Hải, nhà báo Nguyễn Khắc Toàn, gia đình trung tướng
Trần Độ, gia đình 2 tù nhân chính trị vẫn còn trong ngục là chị Vũ Thúy Hà vợ
của bác sĩ Phạm Hồng Sơn và chị Bùi Thị Kim Ngân vợ của nhà báo Nguyễn Vũ
Bình…. Họ trao đổi sâu rộng về hiện tình đất nước và bàn phương hướng phối hợp
đấu tranh chung, cùng hành động vì một mục tiêu: đẩy mạnh hơn nữa công cuộc dân
chủ hóa toàn diện đất nước. Cụ thể trước mắt là soạn thảo một Tuyên ngôn Dân
chủ Nhân quyền cho Việt Nam theo kiểu “Hiến chương 77” ở Tiệp Khắc, bản hiến
chương lịch sử mà nhiều trí thức, văn nhân, nghệ sĩ nước ấy đã đưa ra vào tháng
01-1977, từ đó tạo nên một phong trào dân chủ ngày càng mạnh mẽ, dẫn đến cuộc
Cách mạng Nhung năm 1989, giải thể chế độ cộng sản hoàn toàn.
Do nắm được tính chất nghiêm trọng của vụ việc, cảm thấy nó đe dọa thể chế
chính trị độc đoán hiện tồn của mình, Ba Đình đã chỉ thị cho Bộ công an và Bộ
công an chỉ đạo Tổng cục an ninh, Cục A42, Sở công an Hà Nội (và sau đó là mọi
sở công an khắp cả nước) tăng cường giám sát mọi hành động của nhóm dân chủ này:
từ tư gia đến nhà trọ, từ điện thoại đến điện thư của họ đều bị theo dõi ráo
riết. Thậm chí công an còn bắt giữ kỹ sư Đỗ Nam Hải khi anh đang ở trong một quán
internet để thẩm vấn và khám hộp thư điện tử của anh (vào cuối tháng 2-2006).
Đầu tháng 3-2006, kỹ sư Đỗ Nam Hải vào lại Sài Gòn với sứ mạng chấp bút Tuyên
ngôn theo phác thảo chung từ Hà Nội. Sở dĩ được giao việc này vì trước đó anh
đã nổi tiếng với 5 bài tiểu luận về tình hình đất nước xã hội dưới bút hiệu Phương
Nam. Cùng làm việc này với giáo sư Nguyễn Chính Kết và Thượng tọa Thích Không
Tánh, anh tiếp tục bị công an Sài Gòn theo dõi điện thư, khám xét và niêm phong
máy tính, thậm chí vào đầu tháng 4 còn giam giữ anh tại quận Phú Nhuận hầu ngăn
chặn anh hoàn thành dự thảo. Tuy nhiên, kỹ sư Hải đã kịp gửi bản nháp đến cho
nhiều nhà dân chủ miền Trung lẫn miền Bắc để cùng nhau duyệt lại. Và cuối cùng,
chính nhóm linh mục đấu tranh cho tự do tôn giáo và dân chủ nhân quyền ở Huế
(Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền, thành lập từ năm 2001) đã hoàn thiện văn bản và
tung ra chiều ngày 08-04-2006 với tên chính thức “Tuyên ngôn Tự do Dân chủ cho
VN 2006” kèm danh sách 118 người (ghi cả nghề nghiệp và địa chỉ, thuộc mọi miền
đất nước, do linh mục Nguyễn Văn Lý tập hợp). Thật ra, Tuyên ngôn này không phải
là đột khởi đột hiện. Trước đó đã có nhiều bản văn dọn đường cho nó. Như Lời
kêu gọi tẩy chay bầu cử Quốc hội bù nhìn 2007 (17-10-2005), Lời kêu gọi cho
Quyền Thông tin Ngôn luận (22-02-2006), Lời kêu gọi cho Quyền công nhân Việt
Nam (19-3-2006), Lời Kêu gọi cho Quyền thành lập và hoạt động đảng phái Việt
Nam (06-4-2006).
Tuyên ngôn Tự do Dân chủ cho Việt Nam sở dĩ nhanh chóng nhận được sự ủng hộ của
quốc nội và quốc tế, của nhiều đồng bào yêu nước và nhiều chính khách, tổ chức
dân chủ năm châu, chính vì đó là một bản văn mang tính tranh đấu công khai,
mạnh mẽ của nhân dân, nhận định rõ ràng chính xác về thực trạng đất nước và quy
luật lịch sử, đặt ra mục tiêu thích hợp, phương pháp đúng đắn và ý nghĩa cao
đẹp; nó lại phát sinh từ giữa một chế độ độc tài toàn trị kể từ Cách mạng tháng
8 1945. Thiết tưởng cũng nên nhắc lại vài điểm trong nội dung của Tuyên ngôn mà
từ 10 năm qua đã trở thành –có thể nói thế- nguồn hứng, tinh thần, động lực và
ngọn đuốc cho phong trào dân chủ tại Việt Nam.
Về thực trạng của Việt Nam, Tuyên ngôn xác định cách thẳng thắn và can
đảm: “Trong cuộc Cách mạng tháng 8-1945, sự lựa chọn của toàn Dân tộc ta là
Độc lập Dân tộc, chứ không phải là chủ nghĩa xã hội”. Nhưng “rõ ràng mục
tiêu của cuộc cách mạng ấy đã bị đảng Cộng sản VN đánh tráo. Và dĩ nhiên, Quyền
Dân tộc tự quyết cũng hoàn toàn bị thủ tiêu. Đã có ít nhất 2 cơ hội lịch
sử rất thuận lợi là năm 1954 ở miền Bắc và năm 1975 trên cả nước, để Dân tộc
khẳng định Quyền tự quyết của mình. Nhưng tất cả đều đã bị đảng Cộng sản VN
tráo trở không thực hiện. Vì một khi nền chuyên chính vô sản đã được thiết lập,
thì theo Lênin, chức năng đầu tiên của nó chính là bạo lực và khủng bố trấn áp
!... Kể từ đó, nhất là ở miền Bắc sau năm 1954, rồi cả nước sau ngày 30-4-1975
thì bóng ma của chủ nghĩa cộng sản đã luôn đè ám lên đầu, lên cổ toàn Dân VN.
Chính cái bóng ma ấy… đã triệt tiêu hầu hết những quyền con người của Nhân dân
VN. Và hôm nay, nó vẫn đang tạm đô hộ, chiếm đóng lên cả 2 mặt tinh thần và thể
chất của toàn Dân tộc VN”.
Về quy luật lịch sử hay qui luật phổ biến toàn cầu, Tuyên ngôn không
ngại cho thấy chính những người cộng sản đang đi ngược bánh xe lịch sử: “Lịch
sử đã minh định rằng mọi quyền tự do, dân chủ ở bất cứ một chế độ độc đảng toàn
trị nào, dù cộng sản hay không cộng sản, cũng đều bị chà đạp không thương tiếc,
chỉ khác nhau ở mức độ mà thôi. Bất hạnh thay là cho đến nay, Dân tộc VN vẫn
thuộc về một trong số ít các Quốc gia trên thế giới còn bị cai trị bởi chế độ
độc đảng toàn trị cộng sản. Điều này thể hiện cụ thể tại Điều 4 của Hiến pháp
Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa VN hiện hành… Chính vì điều này mà các quyền tự
do, dân chủ của Nhân dân đã hoàn toàn bị triệt tiêu, may ra chỉ còn vài mẩu vụn
mà thôi !” Việc này đưa đến hậu quả: “VN hôm nay trở thành Quốc gia bị
tụt hậu quá xa so với các Nước trong khu vực và thế giới. Quốc nhục này và các
quốc nạn khác khó bề tẩy xóa”. Cái đó nằm quy luật chung do chính thực tiễn
xác nhận: “Bất kỳ Nước nào đã bị rơi vào quỹ đạo của chủ nghĩa cộng sản thì
đều điêu tàn thê thảm cả”. Do đó “Liên Xô, cái nôi cộng sản, cùng với
các Nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu khác, đã dũng cảm vượt qua chính mình để quay
lại tìm đường đi đúng cho Dân tộc họ”.
Từ thực trạng và qui luật trên đây, với ý thức trách nhiệm của
công dân trước vận mệnh Đất nước, những người ký Tuyên ngôn giãi bày cùng toàn
thể Đồng bào quốc nội và hải ngoại:
- Mục tiêu đấu tranh: “Mục tiêu cao nhất… là làm cho thể chế chính
trị ở VN hiện nay phải bị thay thế triệt để, chứ không phải được “đổi mới” từng
phần hay điều chỉnh vặt vãnh như đang xảy ra. Cụ thể là phải chuyển từ thể chế
chính trị nhất nguyên, độc đảng, không có cạnh tranh trên chính trường hiện
nay, sang thể chế chính trị đa nguyên, đa đảng, có cạnh tranh lành mạnh, phù
hợp với những đòi hỏi chính đáng của Đất nước, trong đó hệ thống tam quyền Lập
pháp, Hành pháp, Tư pháp phải được phân lập rõ ràng, phù hợp với các tiêu chuẩn
quốc tế và trải nghiệm của Nhân loại qua những nền dân chủ đắt giá và đầy thành
tựu”.
“Mục tiêu cụ thể là thiết lập lại các quyền cơ bản của toàn Dân sau
đây : - Quyền Tự do Thông tin Ngôn luận theo Công ước Quốc tế về các quyền Dân
sự và Chính trị của Liên Hiệp Quốc, điều 19,2… Nghĩa là các đảng phái, tổ chức,
cá nhân có quyền thông tin ngôn luận qua báo chí, phát thanh, truyền hình và
các phương tiện truyền thông đại chúng khác mà không cần đợi phép của nhà cầm
quyền. - Quyền Tự do hội họp, lập hội, lập đảng, bầu cử và ứng cử theo
Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị, điều 21… Nghĩa là các đảng
phái thuộc mọi khuynh hướng cùng nhau cạnh tranh lành mạnh trong một nền dân
chủ đa nguyên, đa đảng chân chính. - Quyền Tự do hoạt động Công đoàn độc
lập và Quyền Đình công chính đáng theo Công ước Quốc tế về các quyền kinh tế,
xã hội và văn hóa, điều 7 và 8… Các công đoàn này phải là những tổ chức duy nhất
hoạt động độc lập, không có những loại Công đoàn tay sai của nhà cầm quyền. -
Quyền Tự do Tôn giáo theo Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị,
điều 18… Các Tôn giáo này phải hoạt động độc lập, chứ không thể bị biến thành
công cụ cho nhà cầm quyền”.
Phương pháp đấu tranh: “Hòa bình, bất bạo động.
Và chính Dân tộc chủ động thực hiện cuộc đấu tranh này…. Thông qua những phương
tiện thông tin hiện đại và qua sự giao lưu quốc tế ngày càng rộng mở, chúng ta
sẽ tìm mọi cách giúp Đồng bào kiện toàn nhận thức. Và một khi Nhân dân đã có
nhận thức đúng và rõ thì nhất định sẽ biết hành động thích hợp và hiệu quả”.
Ý nghĩa cuộc đấu tranh: “Làm cho chính nghĩa thắng phi nghĩa, tiến
bộ thắng lạc hậu, các lực lượng dân tộc đang vận dụng đúng quy luật của cuộc
sống và xu thế của thời đại thắng những tà lực đang tìm cách đi ngược lại những
xu thế và quy luật ấy. Đảng cộng sản VN vẫn còn đồng hành cùng Dân tộc hay
không là tùy ở mức độ đảng ấy có khách quan, công bằng, sáng suốt và khiêm tốn
chấp nhận các nguyên tắc bình đẳng của cuộc cạnh tranh lành mạnh hay không, chỉ
có thể chế chính trị độc đảng ấy là dứt khoát phải bị chôn táng vĩnh viễn vào
quá khứ. Từ đó, Dân tộc sẽ tìm được những con người tốt nhất, những lực lượng
chính trị giỏi nhất sau mỗi kỳ bầu cử để lãnh đạo Đất nước. Nguyên tắc “lẽ phải
toàn thắng” sẽ được thiết lập và cuộc sống cá nhân sẽ trở nên tốt hơn, xã hội
sẽ trở nên nhân bản hơn và Đồng bào sẽ sống với nhau thân thiện hơn”.
Lướt qua Tuyên ngôn, không ai không nhận thấy đó thực là những nhận định sáng
suốt và những đường lối đúng đắn để xây dựng đất nước trong hiện tại và tương
lai. Thế nhưng, do lòng tham lam vô độ muốn nắm mọi quyền lực để thu vén mọi
quyền lợi, do niềm tin tưởng mù quáng vào bạo lực và lừa gạt như phương tiện
quản lý đất nước và điều hành xã hội, do sự lệ thuộc và quỵ lụy đê hèn đối với
đảng cộng sản Trung Quốc vốn ngày càng biểu lộ dã tâm thôn tính nước Việt, đảng
cộng sản VN đã và đang thản nhiên gạt bỏ hoàn toàn nội dung của Tuyên ngôn, do
đó –như thực tế chứng minh- họ càng đẩy Đất nước vào bao khủng hoảng, đẩy Xã
hội vào bao cảnh nhiễu nhương, đẩy Nhân dân vào bao cảnh khốn cùng, đẩy chính
bản thân đảng vào bao bế tắc, từ đó đẩy Quốc gia vào nguy cơ bị Bắc thù đại hán
xóa sổ. Thành ra, toàn dân hãy nhân kỷ niệm 10 năm Tuyên ngôn Tự do Dân chủ mà
quyết tâm đứng lên, nắm lấy vận mệnh của mình, giành lại dân chủ tự do cho
mình.
BAN BIÊN TẬP
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết