--
Kính
Chuyển
MG
Bốn
mươi mốt năm Quốc Hận (30/4/75-30/4/16)
thêm
thương Người Linh Bất Hạnh VNCH
MƯỜNG GIANG
Hai mươi năm chinh chiến, QLVNCH đã có 250.000 người gục ngã trước đạn thù và nửa
triệu thương binh chịu đời bất hạnh vì một phần cơ thể đã gửi lại sa trường. Tuy
nay Chính Phủ cũng như QLVNCH không còn nửa, nhưng trong tâm tư của mọi người
được sống sót qua cuộc đổi đời mạt kiếp, thì lý tưởng và danh dự của Người Lính
càng được sáng tỏ, trong niềm hãnh diện chung của quân-dân Miền Nam.
Lịch sử của một quốc gia là những gì trung thực , mà người dân của nước đó đã
ghi chép không hề thêm bớt. Nhờ vậy ta mới biết được về cuộc nội chiến của Hoa
Kỳ xảy ra từ năm 1861-1865, cùng với thái độ của dân chúng và chính quyền nước
Mỹ tại Miền Bắc là kẻ thắng trận, đã không hề lên án, bỏ tù hay trả thù những
người Miền Nam bại trận. Ðã vậy, Hoa Kỳ còn ghi ơn tất cả những chiến sĩ của
hai miền vừa nằm xuống trong cuộc chiến, vì lý tưởng riêng của họ.
Thế chiến 2 kết thúc, Tòa Án quốc tế Nuremburg chỉ kết tội những Ðầu Sỏ
trong phe Trục, mà không hề bắt bớ hay gây khó khăn cho quân nhân các nước Ðức-Ý-Nhật..
Năm 1920, Lãnh tụ kháng chiến quân Libya là Tướng Mukhta, bị người Ý bắt và tử
hình. Nhưng chính Tổng Tư Lệnh Ý tại Bắc Phi là người đã ở lại pháp trường,
để lo lắng hậu sự cho vị anh hùng dân tộc Libya, vốn là kẻ thù của người Ý lúc
đó.
Tại VN, khi thực dân Pháp đánh chiếm ba tỉnh miền tây Nam Phần năm 1867, sau đó
là thành Hà Nội năm 1873. Các tướng lãnh thủ thành đương thời là Phan Thanh Giản,
Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu.. đã oanh liệt tử tiết theo thành mất và được kẻ
thù là người Pháp, tôn kính mặc niệm như chính các tướng lãnh của họ. Sau rốt
là số phận của 500.000 quân nhân Mỹ đã tham chiến tại VN, trong số này hơn
50.000 người tử trận. Ngày nay các chiến sĩ trên đã được quốc dân Hoa Kỳ trả lại
công lý và danh dự, để họ hiên ngang ưỡn ngực, cũng như an giấc nghìn thu bên cạnh
ông cha, một đời liệt sĩ. Tất cả đã chết cho lý tưởng quốc gia, sống vinh quang
và yên nghỉ trong danh dự.
Người lính VNCH trong suốt hai mươi năm binh lửa cũng vậy, đã phơi gan trải mật
để bảo vệ cho đất nước và mạng sống của đồng bào, bị cọng sản quốc tế Bắc Việt
xâm lăng giết hại. Tóm lại gần hết cuộc chiến, ở đâu có cọng sản khủng bố cướp
bóc giết hại dân lành, là ở đó có sự hiện diện của người lính Miền Nam. Ở đâu
có bóng cờ vàng ba sọc đỏ, là ở đó người dân trong vùng chiến nạn, tìm đủ mọi
cách trốn thoát sự kềm kẹp của giặc cộng, để trở về vùng quốc gia nhờ che chở
đùm bọc. Ai có làm lính tác chiến hay người cán bộ áo đen Bình Ðịnh Nông Thôn,
Cán Bộ Xã Hội.. mới biết được thế nào là nổi thống khổ, trên đe dưới búa, cá nằm
giữa dao thớt, người dân tay không hứng hai lằn đạn bạn thù, của người VN trong
thời ly loạn. Có là người dân bị kẹt trong vùng xôi đậu, lửa khói bom đạn, mới
thấu hiểu đời người lính gian khổ chết chóc muôn trùng. Có là người dân
quèn, nghèo sống đời cay cực, mới thương xót cho “ cảnh ba đồng, ba cộc “ của
kiếp lính Miền Nam.
Nhức nhối và mai mĩa nhất, đó là hiện tượng ‘ thuyền nhân tị nạn ‘ sau ngày
30-4-1975. Ngoài tuyệt đại đa số nạn nhân đích thực của CSQT, trong số này
không thiếu mặt “ những tên tuổi lớn “ một thời chạy theo VC đâm sau lưng người
lính, những nhà văn, nhà báo, cha cố.. kể cả thành phần suốt đời chỉ biết sống
ký sinh vào xã hội.. cũng lợi dụng “ danh nghĩa người lính “ để được tị nạn
chính trị. Ứa gan hơn là những tên VC trà trộn trong hàng ngũ những người vượt
biên, vượt biển, sau khi tới được bờ đất hứa, chúng trở mặt ngay, để lộ diện
thành công an, cán bộ, đảng viên như ngày nào.. để nạt nộ, hăm dọa đồng hương,
qua cái đòn “ nếu theo Ngụy “, sẽ không được về VN để thăm nhà.
Trong nổi chịu đựng hy sinh âm thầm nhưng thảm nhất là người lính đã không bao
giờ được một lời an ủi tử tế của hậu phương, để yên tâm tiếp tục cầm súng giết
giặc bảo vệ cho người dân. Trái lại họ còn bị muôn ngàn bất hạnh đeo đuổi suốt
cuộc chiến. Thật vậy, khi cầm súng thì cô đơn, nửa đường bị hậu phương, đồng
minh và lãnh đạo phản bội bán đứng. Ngày trở về thì bị giặc trả thù đầy đoạ, rồi
chết thầm trong đói nghèo tủi nhục.
Tiếp tay với những tâm hồn thác loạn, ăn cơm quốc gia thờ ma cọng sản, là bọn
báo chí quốc tế bất tài, a dua, xu thời. Nhờ vậy mà cọng sản Bắc Việt, mới có
cơ hội tung hoành một mình một cõi, thao túng vẽ vời huyền thoại, bóp mép lịch
sử, để đầu độc các thế hệ VN đang sống trong sự kềm kẹp của chế độ bạo tàn, độc
đảng. Nhưng rồi gieo gió thì phải gặt bảo, chính sự khoắc lác dại khờ trên, đã
đưa toàn bộ đảng cọng sản VN chìm trong cái vũng bùn ô nhục, khi bí mật lịch sử
lần lượt được mọi phe phái bật mí và hồi tưởng.
Câu chuyện tướng Nguyễn Ngọc Loan trong trận Tết Mậu Thân 1968 ở Sài Gòn,vì
không thể chịu nổi hành động dã man, đẩy các trẻ em trong xóm ra làm lá chắn đở
đạn cho đồng bọn tẩu thoát. Vì quá tức giận không kềm chế được, nên tướng Loan
đã rút súng Rouleau ngắn nòng, bắn chết tên VC chỉ huy là Bảy Lốp, tại ngả ba
Vườn Lài (góc đường Vạn Hạnh, Minh Mạng và Vĩnh Viễn), trước mặt phóng viên Mỹ
là Eddie Asams, nên đã chụp được tấm hình này, đem bán rao khắp thế giới và nhận
được giải thưởng quốc tế.
Sau ngày 30-4-1975 Tướng Loan tới tị nạn tại Hoa Kỳ, đã bị bọn phản chiến cùng
với giới truyền thông Mỹ làm lớn chuyện. Thậm chí có Elizabeth Holtzman (nữ dân
biểu DC bang New York) và Dân biểu Harold Sawyer (CH bang Michigan), đã kiện
cáo, đòi Chính phủ Mỹ trục xuất tướng Loan ra khỏi Hoa Kỳ, vì tội vi phạm nhân
quyền nhưng bị thất bại .
Trước và sau ngày tướng Loan từ trần 14-7-1998, người phóng viên chụp tấm hình
năm xưa Eddic Adams, đã viết một bài báo xin lỗi tướng Loan vì sự ray rứt hối hận
của mình, trong đó có đoạn “ Ông đã làm công việc của ông, còn tôi làm bổn phận
của tôi “. Ngày tướng Loan qua đời, Eddic lại viết thêm môt bài báo khác đăng
trên tờ Times, đồng thời gới tới một vòng hoa phúng điếu, trên đó có đính một
danh thiếp viết tay “ General, I ‘am so,so,so.. sorry “.Bao nhiêu đó, chắc cũng
đủ làm nhức óc những tên “ sống nhờ người tị nan “ nhưng lúc nào cũng viết
lách, làm báo ca tụng VC.
Ðau đớn nhất là trận Hạ Lào 1971, cho dù các đơn vị đã tham chiến như SD Dù,
TQLC, Sư Ðoàn 1 BB, Lữ Ðoàn 1 Thiết Kỵ và Liên Ðoàn 1 BDQ có bị tổn thất nặng nề.
Nhưng cuối cùng QLVNCH cũng đã đạt được mục đích của cuộc hành quân, là phá hủy
gần như toàn bộ các cơ sở hậu cần, tiếp liệu tại các mật khu, binh trạm tại
đây. Lúc đó, chỉ có Ðại Úy Trương Duy Hy, Pháo đội trưởng PDC/44, tham dự cuộc
hành quân, tại căn cứ Hỏa lực 30, là tác giả quyển Hồi ký “ Tử thủ Căn Cứ Hỏa Lực
30, Hạ Lào “ là viết sự thật. Ngoài ra tất cả bọn phóng viên Mỹ&Tây
phương đều ở Khe Sanh, hằng ngày nhìn cảnh máy bay tải thương xác lính và
thương binh về tới tắp. Từ đó chụp hình, diễn dịch rồi gửi về nước, nói là
QLVNCH đã thảm bại tại Hạ Lào, giống như hồi Tết Mậu Thân (1968).
Riêng làng báo Sài Gòn cũng vậy, vì không có ai vào tận chiến trường để chứng
kiện sự thật, nên chỉ đành “ chôm chĩa tin từ báo Mỹ “ rồi “ Mao Tôn
Cương thành trận đánh cuối cùng không có đại bàng “ rằng “ VC đâu có quân
số đông đảo để đánh QLVNCH, mà chỉ sử sụng hỏa pháo. Ở đây làm gì có kho tàng
như tình báo đã báo cáo láo”. Tóm lại theo họ thì QLVNCH vì sợ hỏa lực của
VC nên bỏ chạy . Có đọc những tin tức của báo chí Sài Gòn lúc đó, mới thấy máu
của người Lính Miền Nam đã đổ suốt cuộc chiến, để bảo vệ cho “ đám
này “, thật là uổng phí và tội nghiệp cho những kẽ đã nằm xuống truớc
ngày 30-4-1975.
Nhưng người lính VNCH từ trước tới nay chỉ biết có cầm súng để chiến đấu giữ nước
và bảo vệ sinh mạng cho người khác, chứ không quen viết lịch sử để ca tụng một
chiều. Cho nên nếu có được một tiếng cảm ơn hay sự hồi phục danh dự, thì đó
cũng chỉ là sự phản tỉnh của thế giới tự do khi đã biết được sự thật cùng ý
nghĩa của cuộc chiến mà người Miền Nam phải bán mạng để chống ngăn giặc Bắc xâm
lăng tới giờ phút cuối cùng. Ngoài ra còn có sự tưởng tiếc muộn màng của đồng
bào hậu phương, đối với người chiến sĩ VNCH, khi chính bản thân và gia đình người
dân qua cuộc đổi đời, cũng đã trở thành nạn nhân tận tuyệt, của một chế độ
bạo tàn, của những con người không có nhân tính, mà hôm qua chính người dân coi
như thần thành, nên đã công khai giúp và theo chúng, đâm sau lưng đồng đội, đồng
bào mình.
Trong lúc đất nước đang lâm nguy vì giặc xâm lăng phương Bắc, trong lúc gần hết
thanh niên nam nữ thuộc mọi tầng lớp của xã hội miền Nam, không phân biệt sang
hèn, kinh thượng, bỏ nhà, bỏ lớp, bỏ hết tương lai của tuổi trẻ và đời người để
lên đường ra biên cương chống giặc thù. Giữa lúc đất nước lầm than, muôn người
khốn khổ vì chiến tranh do Hồ Chí Minh và cọng sản mang từ Liên Xô-Trung Cộng
vào để dầy xéo non sông tổ quốc, thì tại hậu phương Miền Nam có một số người tự
nhận mình là trí thức, giáo sư, tu sĩ, hầu hết đều đang độ xuân thì, mập mạnh
nhưng lại tìm cách đứng bên lề cuộc chiến bằng đủ mọi lý do để được hoãn dịch,
trốn nghĩa vụ làm trai trong thời tao loạn. Nếu vì sợ chết mà trốn đi lính, thì
cũng còn có thể tha thứ nhưng những hạng người này, không bao giờ chịu để yên
cho đồng bào và đất nước mình đang trăn trở trong cơn đau bom đạn, hận thù, đói
nghèo và ly biệt. Họ hoàn toàn không thông cảm cho ai hết, ngoài cái lý tưởng đã
thu lượm được, qua sách báo tây phương phản chiến và các kinh điển nhật tụng của
thiên đàng xã hội chủ nghĩa, trong lúc được sống ở hậu phương, thừa mứa vật chất,
đàn bà và thời gian để đâm thọt, phá hoại những người đang liều mạng xã thân bảo
vệ mạng sống thừa thải ký sinh của mình. Hai nhân vật điển hình nhất trong bảng
phong thần của thời đại này, không ai có thể vượt qua được. Đó là nhà tu Bất Hạnh
và nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.
Trong Tạp Chí Làng Văn số 235 xuất bản tháng 3-2003, tác giả Lâm Lễ Trinh có viết
bài “ MTGPMN nói gì về Dương Văn Minh, Lực Lượng Thứ Ba và Chính khách Lưu Vong
Miền Nam ? “ . Bài viết này tác giả trên đã dựa vào tài liệu của VC, từ ba quyển
ký ức của Võ Nguyên Giáp và bộ sách “ Chung một bóng cờ “ của tập đoàn MTGPMN gồm
Nguyễn Hửu Thọ, Trần Nam Trung, Trần Bạch Ðằng, Nguyễn Thị Bình..
Nhờ bài viết trên ta mới biết , trong lúc đồng bào và chính phủ NVN đau khổ hấp
hối vì bị Thế giới và Mỹ phản bội bán đứng cho CSQT, thì tại hậu phương, các
chính khách con buôn của VNCH, đã múa rối bĩ ổi và chạy theo bợ đít VC để mong
kiếm chút bã lợi danh sau cuộc đổi đời. Phan Nhẫn, một cán bộ VC hoạt động tại
Paris viết “ Thích Thiện Châu và Mạn Ðà La, lãnh đạo Phật giáo tại Pháp là phe
ta, có liên lạc mật thiết với Phật giáo trong nước. Su Thiện Châu đã về chầu Hồ
và Mác năm 1998. Ở đây còn có cố đạo cấp tiến Nguyễn Ðình Thi, lập cái tổ chức
lấy tên là “ Communauté Vietnamienne “ thường tụ họp với VC cũng như Trương Bá
Cẩn, Lý Chánh Trung trong nước. Năm 1969 Hồ về chầu tổ Mac, các cố Nguyễn Ðinh
Thi (Pháp), Vương Ðình Bích (Tây Ðức) và Trần Tam Tĩnh (Canada), đã tổ chức
phát tang cáo Hồ thảm thiết và trang trọng.
Cũng lời Phan Nhẫn kể “ Ngoài ra Ta còn đuợc sự hợp tác của các sĩ quan Sài
Gòn, nguyên xuất thân từ lính khố xanh, khố đỏ Pháp, đang sống lưu vong tại Ba
Lê như Ðổ Khắc Mai, Nguyễn Hữu Khương, Vương Văn Ðông, Nguyễn Văn Châu, Trần
Ðình Thi.. Tất cả bọn lính tây trên đều nói là rất hối hận vì đã lở làm quan tại
VNCH, nay hối ngộ nên xin đảng cho gia nhập, để chuộc lại những lỗi lầm “.Miền
Nam đầy rãy sâu bọ như vậy, làm sao chúng ta khống mất nước ? Hung hăng nhât
trong bon nay là Trần Ðính Lan do thâm thù VNCH đã trục xuất hắn về Pháp , sau
khi lộ tẩy vụ muốn NVN trung lập, để thực dân trở lại. Bởi vậy từ năm 1966, Lan
lập tại Paris cái gọi là “ Forces Libres du VN “, tận trung với “ bác đảng “
tìm đủ mọi cách quậy phá chính phủ QG. Khôi hài nhất là câu chuyện mà Nhẫn
kể với giọng xõ lá “ thậm chí lúc bi bạo bệnh, Lan xin với đảng, phủ cho mình
Lá Cờ Máu “, để nở mặt khi xuống âm ty trình diện Hồ. Ngay lúc Ban Mê Thuột bị
Bắc Việt cưởng chiếm vào tháng 3-1975, Lan đã gọi điện thoại chúc mừng và lập
đoàn đại biểu mang hoa tới mừng đảng tại Paris, khi nghe tin giặc Hồ đã hoàn
toàn chiếm được Miền Nam trưa ngày 30-4-1975, sau lệnh bắt QLVNCH buông súng rã
ngũ của TT hai ngày “ Dương Văn Minh “.
Cũng trong bộ sách này, Phan Nhẫn đâu có tha các chính khứa xôi thịt của VNCH,
đã chạy sang Pháp như Âu Trường Thanh, Hồ Thông Minh, Nguyễn Hữu Châu.. luôn to
miệng nhận là “ Lực lượng thứ ba “, thành phần của nhóm đối lập Hồ Ngọc Nhuận,
Ngô Công Ðức, Lý Quy Chung, Lý Chánh Trung.. Cuối tháng 12-1972, Mỹ dội bom Hà
Nội và Bắc Việt, bọn chính khứa trên la lối phản đối kịch liệt. Rồi khi Hiệp định
ngưng bắn được ký kết , cuối năm 1973 bọn phản chủ tại Paris lại lập “ Uỷ ban nhân
dân đòi thi hành HD Paris 1973 “ cùng lúc với “ Ủy ban đòi hòa bình và dân chủ
“. Nhưng đau đớn nhất, là sự khinh bỉ của chính VC đối với bọn khoa bảng tuy có
bằng cấp và học vị cao như núi, mà “ giá trị lại không bằng cục phân “ , qua lời
chủi yêu của Phan Nhẩn “ Bọn chúng biết là khi Mỹ rút ,VNCH sẽ sụp đổ, nên đòi
trung lập, hòa giải, hòa hợp với đảng ta, để có cơ hội trở về tham chính . Nhưng
điều mai mĩa với chúng, là đảng ta có bao giờ muốn thế “.
Ðể kết thúc bộ sách coi như vĩ đại nhất của đảng ta, bằng những lời thố lộ tâm
huyết của ba đại chính khứa NVN gồm Nguyễn Hữu Có, Nguyễn Xuân Oánh, Dương Văn
Minh . Nhẫn ghi “ Nguyễn Hữu Có nói, đảng phải thông báo ra nước ngoài, để kẻ
thù cũ cắn rứt lương tâm mà quay về với ‘bác’ “. Còn Oánh thì cảm tháy thoải
mái, sau khi thoát được “sự kềm kẹp “ của Mỹ Nguỵ. Riêng TT Minh công bố hãnh
diện được làm công dân xã nghĩa VN “. Ðó là thực chất của những khuôn mặt và tổ
chức chính trị ‘ lực lượng thứ ba đối lập ‘ , đã nối giáo cho CSQT, tiêu diệt
chính quyền Quốc Gia tại NamVN, rồi cuối cùng chính những người phản bội, cũng
nhận chịu hậu quả thảm khốc về vật chất và tinh thần như mọi người, thêm vào đó
là bia đá nghìn thu và bia miệng loan truyền miên viễn tiếng xấu xa, không làm
sao rửa sạch, cho dù ngày nay vẫn còn ít người tuyên bố “ Nhờ Minh ra lệnh đầu
hàng sớm, họ mới sống sót “ . Hởi ôi sống như cuộc sống của cả nước VN hiện
nay, kể cả người Việt lưu vong, thì được sống thêm cũng đâu có ý nghĩa gì .
Ngày nay ai cũng biết, cuộc chiến Ðông Dương lần thứ hai (1955-1975) rất đa dạng,
phức tạp, khó có thể định nghĩa cho trọn vẹn. Nói chung tùy theo lý tưởng, ai
muốn gọi thế nào cũng đều có ý nghĩa riêng với người trong cuộc. Cho nên với
người Miền Nam VN, thì đây là một cuộc chiến đấu chống xâm lăng. Cuộc chiến này
hoàn toàn khác biệt với cuộc phân tranh của hai họ Trịnh Nguyễn vào thế kỷ thứ
17, lúc đó chỉ là cuộc tương tàn nồi da xáo thịt để tranh giành quyền lãnh đạo
của đất nước. Trái lại cuộc chiến lần này, người Miền Nam chiến đấu, vừa để tự
vệ, vừa bảo vệ phân nửa mảnh đất VN, để khỏi bị Bắc Việt nhuộm đỏ bằng chủ thuyết
cọng sản. Nhưng với bọn trí thức thiên tả, phản chiến nằm vùng lúc đó, lại trắng
trợn phỉ báng, gọi QLVNCH là lính đánh thuê cho Mỹ.
Chính bọn trí thức thiên tả này đã lợi dụng quyền tự do báo chí ngôn luận của
VNCH, để viết lách, bôi nhọ, xuyên tạc, tuyên truyền phá nát hậu phương, đâm
sau lưng chiến sĩ tiền tuyến, đang liều chết để bảo vệ đồng bào, trong đó có cả
sinh mạng ký sinh của chúng.
Cuối cùng, VNCH đã sụp đổ, kéo theo sự mất mát toàn diện mà người Việt QG đã tốn
xương máu xây dựng. Người chạy thoát ra nước ngoài tuy không bị đau đớn thể xác
nhưng tinh thần và sự dằn vặt, cũng đã làm cho họ điên đảo suốt quảng đời lưu
vong nơi xứ người. Tội nghiệp nhất, cũng vẫn là Lính phải còng lưng cúi đầu
gánh chịu những thảm tuyệt của kẻ thù man rợ, những điều mà chắc chắn thế giới
tự do không hề nghĩ tới, vậy mà vẫn tới trong địa ngục trần gian của các
nước Cộng Sản, trong đó có CSVN.
Ngoại trừ một số rất ít khôn ngoan hay có thân nhân VC bảo lãnh, hầu hết các cấp
Quân, Công, Cán, Cảnh của Nam VN đều chịu sự hành hạ nơi chốn lao tù. Chúng bắt
tất cả Sĩ quan và cán bộ, công chức, cảnh sát VNCH vào tù, qua cái gọi là “ Trại
Cải Tạo “ để đánh lừa thế giới, về sự dã man tàn ác đối với tù nhân chiến
tranh, trái với công pháp quốc tế đã qui định. Hầu hết các trại tù đều lập ở Miền
Bắc và Bắc Trung Phần, phía bên kia vĩ tuyến 17. Tại Miền Nam, trại tù nằm
trong rừng núi cheo leo, ma thiêng nước độc, để lao động khổ sai, chết dần mòn
vì sự hành hạ của quản giáo và nổi cực khổ, đói lạnh nhưng ăn uống thì thiếu thốn
với khẩu phần hằng ngày, chỉ lưng chén cơm gạo xấu, trộn với khoai bắp, còn những
người bị biệt giam thì đói khát vì phần ăn phát rất ít. Nói chung là không còn
bút mực nào để kể cho hết nổi hận hờn tủi nhục của người tù dưới chế độ CS. Ðói
quá nên người tù phải ăn tất cả những gì có trước mặt như rắn, rít, ếch nhái,
chuột, trùn đất, cào cào.. kể cả cỏ chai và cỏ diệu, thay cơm để đủ sức chống
chọi với tử thần, lúc nào cũng như chực chờ sẳn bên cạnh :
‘ Ngày hành xác giữa núi rừng hoang vắng,
đêm ôm đầu thương tiếc chuyện ngày xưa
bạn bè đến đây càng lúc càng thưa
thằng nằm xuống, thằng đày sang trại khác
thằng chống lại thì xác thân tan nát
thằng bệnh đau thân xác cũng không còn
đem xác người đi phá núi dời non
đem mạng sống để gở mìn tháo đạn
thay trời dẫn nước vào sông đã cạn
thay trâu kéo cầy phá vỡ ruộng hoang
buổi sáng gượng vui nhìn lúa trổ bông
nữa đêm khóc thầm đời lính bất hạnh
tôi đã sống qua những ngày đói lạnh
tôi đã nhét đầy tài liệu buồn nôn
kiểm điểm nghìn câu cho tốt tốt hơn
để theo đảng biến người thành khỉ vượn .
(thơ mường giang). ’ ’
Lính sống bị trả thù đã đành, cho tới những người lính đã chết , CSQT cũng
không tha, thì nói chi thành phần Thương Phế Binh, Cô Nhi Tư Sĩ của VNCH, lại
càng bị đoạ đày thê thảm.Tất cả năm tháng dù nay đã đi vào quân sử nhưng sự thật
vẵn còn nguyên trước mắt, với hai cảnh đời hiển hiện như một chứng tích nghìn đời
không phai mờ : Ðó là địa ngục VN sau 36 năm bị giặc chiếm đóng và giá trị đích
thực của QLVNCH từ 1960-1975, đã có rất nhiều cấp chỉ huy tài ba lẫn đạo đức, văn
võ vẹn toàn, được đào tạo từ các quân trường nổi tiếng nhất vùng Ðông Nam Á thời
đó gồm các Trường Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt, Bộ Binh Thủ Ðức, Ðại Học Chiến Tranh Chính
Trị, Các Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân và Hải Quân, Học Viện Quốc Gia Hành
Chánh và Cảnh Sát,Trường Ðại Học Quân Sự.. chứ đâu phải chỉ có những tướng tá “
chó nhảy bàn độc “ từ thời Pháp thuộc, như Minh, Kỳ, Có, Mậu, Ðôn, Xuân, Kim,
Khiêm.. bất tài vô tướng, khiến cho nhiều người vin vào các hình cây đó mà xuyên
tạc, làm cho người Lính Miền Nam bị xấu hổ lây, không biết đâu mà “ dấu mặt “
khi chạm trán với sự thật.
Ngày xưa người Lính VN, chiến đấu trong vinh quang, khi trở về cũng thật hiên
ngang, giữa cảnh phu phụ trùng phùng, nồng ấm kết lại mối tình xưa :
‘..xin vì chàng, xếp bào cỡi giáp
xin vì chàng giũ lớp phong sương
vì chàng tay chuốc chén vàng
vì chàng điểm phấn đeo hương não nùng.. ’ ’
( Chinh Phụ Ngâm ố Ðặng Trần Côn và Ðoàn Thị Ðiểm)
Ngày nay người chiến sĩ VNCH không có cái diễm phúc trên, vì suốt cuộc chiến
hai mươi năm, ngoài mặt trận thì chống trả với kẻ thù trong nổi cô độc. Khi trở
về lại bị kẻ thù đọa đầy, tù ngục và chết trong uất hận nghẹn ngào.
Thử hỏi giữa cõi đời này, có quân đội nào bất hạnh hơn QLVNCH ? Ngày nay, đã có
không biết bao nhiêu người ,đang sống thản nhiên khắp các nẻo đường hải ngoại,
mà hầu hết bản thân họ hay con cháu, hôm qua vẫn sống nhờ sự bảo bọc của lính.
Không biết trong tâm tư đó, có một giây phút nào do lương tâm xao động, khiến
trái tim người, chợt nghĩ tới những kẻ bất hạnh đã VỊ QUỐC VONG THÂN ?
Xưa NGƯỜI LÍNH chiến đấu anh dũng trong khói lửa để bảo quốc an dân. Nay những
người lính già còn sót lại sau cuộc chiến và lớp hậu duệ của lính năm nào, cũng
đã và đang tiếp tục tranh đấu không ngừng, cho một ngày về QUANG PHỤC QUÊ HƯƠNG
được sống thật với tự do và no ấm, như chúng ta hiện nay đang hưởng tại quê người.
‘..tội nghiệp, đời trai chưa thỏa chí
sa trường dung ruổi đã phơi thây
đoàn quân hùng liệt nay về đất
hồn vẫn quanh co giẫm lối gầy
chiều chiều đứng ngóng ngàn mây nổi
mà khóc quê hương khuất bến bờ
nhớ lúc hát rừng nơi chiến địa
mộng hoàng hoa, khép giữa hư vô ‘
(thơ mường giang)
Xin nghiêng mình trước đồng đội đồng bào đã hy sinh vì đại nghĩa Dân Tộc Việt.
Cũng xin chân thành biết ơn Quý Ân nhân đồng hương khắp mọi nẻo đường viễn xứ,
đã và đang hướng về những người lính cũ ngày xưa, giờ họ là Quả phụ, cô nhi và
thương phế binh VNCH. đang kẹt ở quê nhà.
Từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng 4-2016
MƯỜNG GIANG
__._,_.___
--
Kính
Chuyển
MG
THÁNG TƯ LẠI VỀ, EM CÒN NHỚ ?
thơ mường giang
gữi tâm vô lệ, phạm hoài hương, uyên nguyên, phạm đình thừa,
mặc nhân thế, các ngô, thọ trần, xuân an, tiếp sĩ trường, cát biển,
trâm kha, thiếu khanh, ngô trúc khánh, dung, nhật nguyễn, đức nguyễn, phạm hòa..,...
tháng tư năm đó, mình chia cách
em ở Nha Trang, giặc chiếm rồi
ta kẹt thành Phan, ngong ngóng đợi
từng đoàn di tản, mịt mù khơi
nhưng khói lửa tàn, mình cũng vẫn
mỗi người một ngã, cách mười phương
ta theo định mệnh, nai xiềng xích
em nổi trôi trong cảnh đoạn trường
nước mất, nhà tan, đời nghiệt ngã
ai còn ai mất, lạc hà phương ?
chỉ còn mê muội tìm trong gió
hình bóng em qua vạn nẻo đường
gặp bước khốn cùng, đành trốn chạy
thầm mong phút cuối được tin nhau
cho dù đã trở thành thiên cổ
hay vẫn còn đang lạc chốn nào
mấy chục năm xa, trường lớp cũ
cũng là phút cuối biệt tri âm
cố nhân giờ chỉ là hư ảnh
theo bước ta qua nẻo thăng trầm
tháng tư năm đó mình còn hẹn
sẽ hội ngộ nhau để gởi trao
tất cả tâm tình thời mộng mị
vui buồn, kỷ niệm lẫn thương đau
nhưng em sẽ chẳng bao giờ tới
binh lửa, gia phong hoặc đổi dời ?
buổi trước em từng quen lỗi hẹn
thì nay lần nữa, cũng thế thôi .
2 - QUÁN BÊN ĐƯỜNG
nơi quán khách, bên ngọn đèn hiu hắt
ta với hình sóng sánh chuyện mười phương
rồi bâng quơ nhớ tới chuyện sân trường
nhớ màu áo em yêu trong lớp học
tìm trên vách, tên bạn bè sống sót
moi giữa tim, dư ảnh kẻ thân sơ
loay hoay nhớ những bằng hửu vật vờ
xác đã mất nhưng hồn còn lẩn quẩn
kéo tất cả quây quần nơi quán vắng
đem tình người hàn gắn nỗi hờn căm
ta bao chục năm nhốt cuộc thăng trầm
cũng thả hết để hồn thơ mở hội
hỡi Phan Thiết, nơi đất người trôi nổi
hỡi em yêu, trong cổ mộ quê nhà
nhắc giùm ta kỷ niệm sắp phôi pha
để tiếp nối xót xa ngoài muôn dặm
ta sẽ giữ mối tình thơ nồng thắm
của trường xưa trên phím nhạc trơ vơ
ta sẽ cười vui trong lúc mỏi chờ
khi quán vắng qua đêm, buồn cô tịch
3 - CHỜ BẠN ĐÊM QUỐC HẬN
Vào quán bên đường, đêm quốc hận
Ta ngồi chờ bạn, uống rượu suông
Chao ơi, trăng đã treo đầu núi
Mà thấy ai đâu ở cuối đường?
Đã hẹn cớ sao còn tới trễ?
Kiếp người, tính được mấy lần vui?
Huống chi nhân thế như phù ảo
Mới đó, rồi tin đất đã vùi
Rượu nhắp đêm nay, nghe rất lạ
Ơ hờ, có máu lẫn trong men
Cho nên chỉ uống toàn cay đắng
Làm mắt cũng buồn, đẫm lệ hoen
Mê tĩnh, cuồng mơ, ta lại nhớ
Năm nao, ngất ngưởng quán biên cương
Bồ đào chưa cạn ly tương biệt
Ngựa đã hý vang, khắp nẻo đường
Đêm nay quán vắng, người lai vãng
Quanh quẩn mình ta ngất ngưởng say
Bạn chết từ khi Phan Thiết mất
Thì sao có thể đến nơi này?
Quán vắng, đèn khuya ta lại uống
Một ly khóc hận chuyện nước non
Một ly thương bạn không còn nữa
Một cốc tủi thân sống nhục hèn
Văng vẳng trời cao chim đã hót
Muộn phiền vây kín suốt trang thơ
Soi gương chợt thấy mình thêm lạ
Qua một đêm chờ đợi ngẩn ngơ..
4- TA SẼ LÀM GÌ NƠI XỨ LẠ ?
ta sẽ làm gì nơi xứ lạ ?
cho qua ngày tháng kiếp lang thang
trời ơi, mấy chục năm rồi đó
vẫn sống tha phương với bẽ bàng
đời thế bảo sao không uất nghẹn
sầu buồn đầy đọa suốt hồn thơ
đầm đìa máu hận từng trang giấy
nức nở nhòa phai nỗi ước mơ
sót chút tơ lòng nơi đáy huyệt
ta đem rao bán đổi hư danh
bên đường quán vắng thêm thê thảm
như xé tim đơn, khúc độc hành
ai khóc bên cầu sanh tử biệt ?
ta hờn nhân thế đã từ lâu
gây chi một cuộc đời dâu bể
nước mất nhà tan, vạn cổ sầu
buồn quá, sao ngăn dòng cảm lụy
bạn bè ly tán tận mười phương
người còn, say tĩnh bên hèn nhục
kẻ chết, mồ xiêu khắp vệ đường
cố nén cùng đời vui hạnh phúc
hay vùi tâm sự giữa cuồng say
nhưng càng hờ hững, càng mê đắm
định mệnh trời ơi, trọn kiếp này
biết sống làm sao nơi xứ lạ
với người muôn mặt, đất muôn phương
cợt đùa cho bớt dòng dư lệ ?
hay mặc cho thơ khóc đoạn trường.
5 - GIỜ ĐÂY SÔNG NÚI
VẪN ĐAU THƯƠNG
tháng tư năm đó ta còn nhớ
Phan Thiết chìm trong lửa bạo tàn
mười chín giặc về gieo khổ hận
đạn tăng nghiền nát vạn con tim
tháng tư hè tới ve rền hát
hoa vẫn vô tư nhuộm đất trời
xác phượng nằm bên thây lính trận
máu đào hòa lẫn cánh hoa tươi
tháng tư bỏ mẹ ta ra biển
mười tám ngày nao chẳng xóa mờ
trên khắp nẻo đường quê lửa đạn
tay người biền mẫu vẫy con thơ
tháng tư mất nước sầu ly xứ
ta viết thơ say giữa cuộc say
với bạn với tình pha máu lệ
với đời thương hận úa sông mây
tháng tư biển lộng màu xanh gió
tiếng nhạn làm ta khóc nhớ nhà
mùi muối thấm vào da chát mặn
khiến càng héo hắt bước quê xa
tháng tư trong quán bên đường vắng
chờ bạn mình ta uống rượu suông
soi mặt vào ly thêm thấy lạ
sau bao nhieu năm hận miên trường
tháng tư lại tới buồn hơn trước
bạn bỏ ta đi tận cuối trời
đứa chết nghèo buồn nơi xóm biển
thằng phơi xác lạnh với đơn côi
tháng tư mất nước sao quên được
đồng đội năm nao xác ngập đường
nơi bến, trên tàu, trong xóm nhỏ
những ngày tù ngục sống thê lương
bao chục năm sầu trăng cổ mộ
mình hẹn nhau trong cõi tuyệt mù
quê cũ em lên cầu ngóng gió
bên này ta đợi chắc thiên thu
tháng ba giặc chiếm Ban Mê Thuộc
Phan Thiết tháng tư xác ngập đường
cả nước tháng năm thành địa ngục
giờ đây sông núi vận đau thương
6 - LẠI LÀM THƠ NHỚ BẠN
Trời lạnh tháng tư ra ngóng biển
trút ly rượu đắng xuống giòng sông
rượu tan vào sóng không từ biệt
nhưng vị nồng phơi khắp đất trời
nhờ nước chỡ lòng xuôi tám hướng
xin mời bằng hữu cõi miên man
những chàng khố rách đời Phan Thiết
có thủa chia nhau điếu thuốc tàn
những bạn một thời chinh chiến cũ
nhớ hoài nơi chốn bước quân qua
núi đồi, bờ rạ, sông cùng suối
vọng gát đêm trăng khóc nhớ nhà
những bạn chung tù đêm tịch mịch
chia nghe tiếng quát bóng đèn chai
sớt lon cháo cám heo từ bếp
thèm chut hơi men giữa bến đời
những bạn đầu trần kinh tế mới
ruộng về trợt té xuống cầu ao
đỉa chê hết máu không thèm tới
vàng vọt thân trai mảnh chiến bào
Phan Thiết nay xưa tình cũng cạn
bạn nằm rừng núi khó thăm nhau
bạn gần xe ngựa chia giai cấp
bạn chết mồ xiêu biết chốn nào?
chơi vơi niềm nhớ vàng trên giấy
mưa lại bay bay nhuộm lối sầu
thơ viết tình phơi trên nét chữ
khác đầy kè đá gởi về đâu
cố nhân giờ chỉ là đêm mộng
vũ trụ nhân gian một lối về
ngồi tiếc thủa còn manh áo bạc
tình quê, tình bạn cõi đam mê
ra biển ngữa tay mời bạn tới
thênh thênh mắt sóng chỉ hồn mình
cứ buồn chẳng biết vì sao nữa
thiên hạ còn đây chốn nhục vinh
thơ viết ngẩn ngơ càng tủi hận
đất trời lặng ngắt bạn bè ơi
vầng trăng ai nở chia hai mảnh
nửa gói tình quê, nửa lịm đời
7 - XIN MỜI HỒN BẠN
CHỐN QUÊ XA
thơ viết muôn trùng thương với nhớ
càng thêm chất ngất hận miên man
chiều chiều ngóng biển mơ ngàn lối
chớm lạnh tình quê khóc ngỡ ngàn
tan hàng tận tuyệt sầu quan tái
thép bút ngồi khơi chuyện bể dâu
thoáng bóng bạn bè trong cốc rượu
vội mời nhưng có thấy ai đấu
làm sao quên được mùa tang tóc
bạn ở An Khê chết rục thây
bạn vượt sông Ba chìm đáy nước
bạn Phan Thiết cũng thịt xương bày
thương quá ngày nào tình chiến hữu
chiều quê quán gió tạm dừng quân
lang thang đời lính giường là đất
nhà vẫn trên yên gió ngựa dồn
tháng tư còn gọi nhau hò hẹn
sẽ cụng ly mừng bạn thăng quan
tiền lính dăm thằng chung cũng đủ
để mua thịt rượu phá cơn bưồn
nhưng bạn không về như đã hứa
tan hàng gục chết giữa đao binh
ta còn, nay sống hèn hơn cỏ
trơ mắt hắt hiu nuốt bất bình
thơ viết thương hoài mây viễn khách
quê xưa mù mịt gió ngày xưa
đôi bờ nước mãi vô tình cuốn
khiến kẻ hoài mơ luống rã rời
gởi chút tơ lòng trong chén rượu
xin mời hồn bạn chốn quê xa
về đây thơ nhạc như ngày cũ
để kẻ cô đơn bớt nhớ nhà
hận viết ngàn trang không thấy đủ
tình theo sương khói nhạt nhòa rơi
bạn chờ ba chục năm mòn mõi
vẫn biệt mù khơi cuối nẻo đời
Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng 4-2016
mường giang
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết