--
Kính
Chuyển
MG
THÁNG TƯ LẠI NHỚ NHỮNG NGÀY QLVNCH
TỬ CHIẾN TẠI XUÂN LỘC
HỒ ÐINH
Tiểu Ðoàn 1/Trung Ðoàn 43/ Sư Ðoàn 18 Bộ Binh
(Kbc 4424)
Chiến tranh VN đã kết thúc từ 41 năm về trước, sau khi Tổng Thống Dương Văn
Minh ra lệnh cho QLVNCH đang chiến đấu, phải buông súng vào giữa trưa
30-4-1975. Tất cả những sự kiện lịch sử của một thời loạn lạc, xáo thịt bằng nồi
da của chính đồng bào mình, nay ngó lại, có khác gì ta đang ngồi xem một vở bi
hài kịch rất tàn nhẩn vô duyên, ngắn ngũi, nên mở màn và kết thúc một cách vội
vàng.
Nhưng làm sao quên được hởi trời ? nhất là đối với những người trong cuộc, bất
kể là dân hay lính, những ai được mắt thấy tai nghe, là nạn nhân hay thân quyến,
phải sống trong địa ngục hãi hùng sau ngày ngưng bắn 1-5-1975, trong cảnh ngày
đêm lúc nào cũng chết điếng, qua tiếng dọa thét, đập cửa xét nhà, bắt tội phạm
của công an, cán bộ VC. Ðó là chưa nói tới những khuôn mắt dã man cầm thú của chúng,
thể hiện bản chất tàn ác gớm ghê, mà mới đây toàn thể nhân loại, mới nhận diện
đích thực, qua tấm hình ‘ lịch sử ‘ có một không hai , diễn lại cảnh VC bóp họng
Linh Mục Nguyễn Văn Lý, trước cái gọi là Tòa Án.
Ðọc ‘ Kẻ ở lại Thạch Hào ‘ của thi hào Ðổ Phủ đời Ðường, từ những câu thơ ‘ chiều
trú xóm Thạch Hào. Ðêm nha lại bắt người. Ông già vượt tường trốn. Bà già ra cửa
dòm.. Van rằng có con trai.Nghiệp Thành đều đi thú. Một đứa gửi thư nhắn. Hai đứa
vừa chết trận.. Trong nhà không còn ai.. ’ ’ ’ Cũng đủ cho chúng ta hình dung lại
khúc phim những ngày chinh chiến, trong đó nói lên thân phận của người trai thời
tao loạn của cả hai miền Nam-Bắc VN, ai cũng cùng chung cảnh khổ, có khác chăng
là khác ở chổ bị cưởng bức tại miền Bắc và tự nguyện thi hành bổn phận quân địch
tại VNCH.
Tại xứ Chùa Tháp, bộ mặt ác quỷ của Cộng Sản Quốc Tế qua Khmer Ðỏ xuất hiện sớm
hơn VNCH 13 ngày. Lúc đó , thủ đô Nam Vang có hơn 2 triệu dân chiến nạn, từ khắp
nơi chạy về. Cũng vì quân lực nước này quá yếu , nên vào những ngày cuối cùng, không
thể bảo vệ được cho đồng bào mình, khiến họ bị Polpot giết hại thảm thê . Cuối
cùng Mỹ phải bỏ rơi phi trường Pochentung dưới mưa pháo , cuốn cờ siêu cường
cùng với tổng thống Lon Nol chạy trối chết bằng máy bay ra biển, mới toàn mạng.
Ngày 17-4-1975, trên đường vào thủ đô, Polpot tàn sát dã man dân Cam Bốt, đến nổi
cả xứ Chùa Tháp vang danh thế giới , qua những hình ảnh ‘ các cánh đồng xác người
(the killing fields) ‘..Trong đợt tàn sát này, Polpot gần như thủ tiêu hết
thành phần trí thức của đất nước mình, nên chúng ta cũng không lấy làm lạ , khi
thấy Cộng Ðồng Người Miên tị nạn trên đất Mỹ, rất ít khoa bảng, trí thức.
Trong khi đó tại VNCH, mặc dù gần nữa quân lực VNCH tại hai quân đoàn I và II
tan rã sau cuộc lui quân vào những ngày đầu tháng 4-1975. Nhưng sau đó, những
đơn vị còn lại của QLVNCH đã cũng cố và lấy lại tinh thần . Họ đã chiến đấu rất
anh hùng và bạt mạng, coi cái chết nhẹ tợ lông hồng, dù ai cũng biết đó là giờ
thứ 25 , chết không có tiền tử tuất, bị thương thì ráng mà cắn răng trăn trở với
vết thương.. Ðiều này cho thấy gần hết những người đi chiến đấu tại Miền Nam VN,
không vì tiền Mỹ mà đánh giặc thuê cho Mỹ.. như nhiều người trước đây đã hiểu lầm.
Chính Họ dã đem xác thân mình ngăn tăng đở pháo khắp các mặt trận long trời lở
đất tại Khánh Dương, Phan Rang, Phan Thiết, Bình Tuy, Long Khánh, Biên Hòa, Phước
Tuy, Long An, Tay Ninh, Hậu Nghĩa và Sài Gòn.
Ngày nay ai cũng biết hết những thành tích của QLVNCH, qua thời gian tồn tại suốt
20 năm máu hận (1955-1975) giữa biền thù trời lệ, giặc ngoài, giặc trong, giặc
đâm sau lưng chiến sĩ.. Mới đây, trong tác phẩm ‘ 55 days of the fall of South Vietnam’,
tác giả Alan Dawson, có nhắc tới hai tiểu đoàn còn lại của Nam VN, chừng 600
người, giữa trùng vây của Bắc Việt , sau khi QLVNCH được lệnh rút bỏ Xuân Lộc.
Chuyện có thật nhưng Alan viết sai dữ kiện, vì giờ chót rút quân, không có một
đơn vị nào, kể cả Nghĩa quân, bị buộc ở lại để bảo vệ Xuân Lộc, lúc đó không
còn giá trị chiến lược, vì Bắc Việt đã tìm đường khác để tiến quân về Sài Gòn.
Ðơn vị bị kẹt lại là Tiểu Ðoàn 2, Trung Ðoàn 43, SD 18BB, do Thiếu Tá Nguyễn Hữu
Chế làm Tiểu Ðoàn Trưởng. Trong suốt những ngày tử chiến tháng 4-1975,
TD2/43/18 có nhiệm vụ đóng trên Núi Thi., ngoại ô thị xã Xuân Lộc, để bảo vệ
dàn pháo của Su Ðoàn. Khi Tướng Lê Minh Ðảo, tư lệnh Mặt Trận Long Khánh, nhận
lệnh của Bộ Tổng Thanm Mưu QLVNCH, qua lệnh trực tiếp của Trung tướng Nguyễn
Văn Toàn, Tư Lệnh Quân Ðoàn 3, ngay tại mặt trận, ‘ BỎ LONG KHÁNH’ và triệt
thoái tất cả các đơn vị đang chiến đấu, gồm SD18BB, Tiểu Khu Long Khánh, Lữ
Ðoàn1 Nhảy Dù, Biệt Ðộng Quân.. thì Tiểu Ðoàn 2/Trung Ðoàn 43/SD18BB là đơn vị
cuối cùng, trong cuộc rút quân, vì còn có nhiệm vụ đánh nghi binh, chận đường,
để giúp đại quân an toàn trở về cõi sống, nên bị thiệt hại nặng nề. Còn luật sư
Nguyễn văn Chức thì dựa vào tài liêu của Hoàng Cơ Thụy và Frank Snepp, nên nói
trực thăng tới bốc 4 tiểu đoàn còn lại của SÐ18BB, trong đó có Tướng Tư Lệnh Lê
Minh Ðảo, Ðại Tá Trung Ðoàn Trưởng TrÐ43/18 là Lê Xuân Hiếu, đang bị 40.000 bộ
đội Bắc Việt tràn ngập. Thật sự trong cuộc lui quân, từ tướng xuống tới hàng
binh sĩ, không có ai được trực thăng tới bộc về, mà tất cả đều hành quân bộ.
Lúc các cánh quân VNCH, hầu hết đã về gân như an toàn tại Bình Giả, Phước
Tuy,thì TD2/43’18BB, chỉ một mình còn trong biển giặc như Alan Dawson mô tả. Sự
thật là vậy đó, các nhân chứng như tướng Ðảo, các Ðại Tá Lược, Lến, Hiếu. Dũng,
Công.. của SD18), Ðại Tá Phạm Văn Phúc-Tỉnh Trưởng Long Khánh, Ðại Tá Ðính , Lữ
Ðoàn Trưởng Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù, các Tiểu Ðoàn Trưởng thuộc SD18BB, có tham dự trận
đánh và cuộc lui quân như Nguyễn Phúc Sông Hương, Ý Yên-Phan Tấn Mỹ, Ðại Uý Lê
Sơn, Chi Ðoàn Trưởng Thiết Ðoàn 5 Kỵ Binh, các Thiếu Uý Ðặng Phúc (Biệt Ðội
Quân Báo), Ngô Gia Hậu (Phóng Viên), Nguyễn Hào (Phòng 3.SD)..
và nhất là Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế, Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 2/TrD43/SD18BB,
người từ cõi chết trở về, vào tù tại Bắc Việt và tới Mỹ qua diện HO.. đều là những
nhân chứng sống, có đủ tư cách, để nói và viết những sự thật lịch sử.
Cựu Thiếu Tướng Lê Minh Ðảo, Tư Lệnh SÐ18BB, cánh chim đầu đàn của Mặt Trận
Long Khánh tháng 4 năm 1975, sau chuyến công tác tại Úc, trở lại Nam CA trước
khi về nhà ở miền Ðông Mỹ. Ông tâm sự với những đồng đội cũ ‘ nói gì thì nói,
niềm sung sướng nhất của tôi bây giờ là có dịp gặp lại các chiến hữu ngày xưa,
để cám ơn họ đã cùng nhau sát cánh tử chiến với giặc Hồ tại mặt trận Xuân Lộc ‘.Ðời
của những người lính già là thế đó, dù cho họ có mang cấp bậc nào chăng nữa,
thì ước nguyện cuối cùng của người lính Miền Nam, cũng chỉ hướng về đồng đội,
chiến hữu mà thôi. Tóm lại chiến sử trên, tuy không lật ngược được tình hình của
đất nước lúc đó nhưng ít ra cũng giúp cho đồng bào có thêm thời gian di tản ra
nước ngoài, tránh được những thảm họa, mà những người ở lại phải nhận chịu sau
ngày 1-5-1975.
1-SƯ ÐOÀN 18BB VÀ CÁC ÐƠN VỊ TĂNG VIỆN, TỬ CHIẾN VỚI CỌNG SẢN
BẮC VIỆT TẠI XUÂN LỘC THÁNG 4-1975 :
Sau khi Sài Gòn thất thủ, ngày 2-5-1975 Peter Kahn chủ bút Wall Street Journal,
giải báo chí Pulitzer, đã viết bài truy điệu Nam VN đăng trên báo này ‘ Quả thật
sau cùng, quân lực VNCH đã rã ngũ vì tuân theo lệnh của tổng tư lệnh quân đội
lúc đó, là tổng thống Dương Văn Minh. Nhưng đó không phải là một quân lực hèn
nhát hoặc vô dụng, vì có một vài phần tử quan quyền đào ngũ chạy theo Mỹ. Sự thật
, quân đội VNCH rất vững mạnh và chiến đấu dũng cảm khắp các mặt trận, đăc biệt
là từ mùa hè đỏ lửa 1972 tại Quảng Trị, Kon Tum, Bình Ðịnh và An Lộc. Ðó là một
quân đội xứng đáng được biết ơn, ca tụng vì đã giữỳ được từng mảnh đất quê
hương, trước cuộc xâm lăng của cọng sản quốc tế, trong nhiều năm qua. Và cuối
cùng vào những tuần lễ chót của tháng tư, khi người Mỹ đã chấp nhận đầu hàng giặc,
thì người Lính VNCH vẫn tiếp tục chiến đấu khắp nơi, và mặt trận XUÂN LỘC đã trở
thành mồ chôn tập thể của những kẻ xâm lăng, bạo tàn. Nhờ vậy, một số người ,
VN lẫn My,ờ mới có cơ hội trốn chạy ra ngoại quốc, thoát được cảnh tù đầy địa
ngục, chốn nhân gian cùng khốn tận tuyệt của cõi đời, khi rợ Hồ từ miền Bắc vào
Nam làm chủ. Một số it này, hiện nay, dù đã cuối đời nhưng vẫn không giữ nổi
khi phách và danh phận của đấng trượng phu, tướng lãnh, trí thức , khi đã quay
lưng phản bội dân tộc, bôi mặt hợp tác với giặc, đề dầy xéo thêm nỗi đau tận
tuyệt của đồng bào mình trong suốt 30 năm quốc hận, đối lấy chút hư danh cặn thừa
trong vũng bùn ô uế xã nghĩa. Ðây là những hình nộm nói tiếng người, hằng ngày
được VC bêu xấu trên báo chí, để miệng đời bôi bác rủa trù, chẳng những riêng
chúng, mà lây xấu tới con cái dòng họ.
Tháng tư ở Long Khánh, trời thường đổ những cơn mưa rào như trút nước, nhiều
lúc lính đang hành quân trong rừng, có cảm tưởng như mình đang lênh đênh bơi
trong biển khổ của cuộc đời. Và tháng tư năm 1975, trời hình như biết trước cơn
bão táp của miền Nam, nên đổ mưa rất sớm. Trong mưa có gió, nên khiến cho cả thị
xã Xuân Lộc, đỏ ối một màu vì xác hoa phượng vĩ ven đường, bị gió mưa dồn dập.
‘..đêm
nay Xuân Lộc, vầng trăng khuyết
như
một vành tang trắng đất trời
chân
theo quân rút, hồn ta ở
nghe
nước La Ngà cuồn cuộn trôi
..
em ơi tiếng tắc kè thê thiết
gọi
giữa đêm dài quá lẽ loi
chân
bước, nửa hồn chinh chiến dục
nửa
hồn Xuân Lộc, gọi quay lui.. ’ ’ ’
(
thơ của Nguyễn Phúc Sông Hương).
Xuân Lộc là chiếc nôi đầu đời, mà người lính Tiểu Ðoàn 1, Trung Ðoàn 43 Biệt Lập,
của Ðại uý Ngô Văn Diệp, từ miền xa cao nguyên Di Linh, tới hành quân và tru đóng
vào giữa tháng 4-1964, coi như là đơn vị tiền phương thành lập Sư Ðoàn 10 bô
binh vào ngày 16-5-1965, gồm ba Trung Ðoàn biệt lập, kỳ cựu của quân lực VNCH
là Trung Ðoàn 43, 48 và 52.Trung Ðoàn 43 bô binh thoát thai từ Trung Ðoàn 404
thành lập tại Phan Thiết ngày 1-8-1954, trước khi biệt lập, trực thuộc SD15 khinh
chiến, từng tham dự các chiến dịch Ðinh Tiên Hoàng, Nguyễn Huệ.. tại Nam Phần
vào năm 1955.
Trung Ðoàn 48 bộ binh thoát thai từ Trung Ðoàn 203 bộ binh, gồm các tiểu
đoàn 47, 702 và 52. Sau đó cải thành Trung đoàn 48 bộ binh, thuộc Sư Ðoàn 16
khinh chiến, gồm các Trung Ðoàn 46, 47 và 48. Năm 1958 qua đợt cải tổ, SD16
khinh chiến bị bãi bỏ, các Trung Ðoàn 46,47 và 48 trở thành biệt lập. Sau này,
Trung Ðoàn 47 bô binh cùng với Trung Ðoàn 43 qua nhiều lần hoán đổi đơn vị, để
trực thuộc SD23 bộ binh, cuối cùng Trung Ðoàn 46 thuộc SD25BB, Trung Ðoàn 47
thuộc SD22 BB .
Theo tinh thần Sự Vụ Văn Thư số 00326 ngày 6-3-1963, quyết định thay đổi danh
hiệu mới cho Trung Ðoàn 32 ( nguyên Trung đoàn 101 BB với tiểu đoàn 5 (1/32),
13 (2/32) và 511 (3/32), của SD21Bộ Binh, trở thành Trung Ðoàn 48 Biệt Lập. Còn
Trung Ðoàn 48 củ, đổi danh hiệu là Trung Ðoàn 32, trực thuộc SD21 Bộ Binh.
Riêng Trung Ðoàn 52 được thành lập ngày 1-12-1954 tại Ðệ 1 Quân Khu, gồm
các Tiểu Ðoàn 54 BVN, 704 và 713. Về sau, đổi danh hiệu là Trung Ðoàn 54 Biệt lập,
trú đóng tại Ðà Nẳng. Ngày 14-2-1968, tướng Wheeler, chủ tịch Liên quân Mỹ,khi
trả lời với báo chí,trong cuộc điều trần trước Hạ Viện Mỹ, là sáng nay tướng
Westmoreland có báo, là đã tới thăm Trung Ðoàn 54 biệt lập, đóng ở phía nam Ðà
Nẳng, để chúc mừng và tưởng thưởng cho Họ vì đã chận đứng được Sư Ðoàn 2 Bắc Việt
, trong mưu toan chiếm Ðà Nẳng, vào Tết Mậu Thân. Còn Trung Ðoàn 135 Ðịa Phương
, đóng tại Gia Ðịnh, trở thành Trung Ðoàn 52 Biệt Lập, sau đó Trung Ðoàn này trực
thuộc SD18BB.
Hai tiểu đoàn nổi tiếng nhất của SD18/BB là TD2/43 của Thiếu Tá Nguyễn Hữu
Chế và TD1/52 của Ðại Uý Huỳnh Văn Út, nhiều lần được vinh danh trước quân đội,
vì thiện chiến và là đơn vị bắn cháy nhiều xe tăng của Bắc Việt tại trận địa.
Năm 1974, hai chiếc T54 và PT76 của Bắc Việt, bị hai đơn vị trên bắn cháy, được
kéo về làm kiểng trước sân Dinh Ðộc Lập, sau khi mất nước, mới bị VC phi tang.
Ngoài ra, các Tiểu Ðoàn 1/52 ố 1/48 và nhất là TD3/52 của Thiếu Tá Phan Tấn Mỹ
(Nhà văn Ý Yên) đã vang danh trong những ngày tử chiến tại Xuân Lộc vào tháng
4-1975.
Từ tháng 6-1965, các Trung Ðoàn 43,48 và 52 đều có thêm Tiểu Ðoàn 4, nhưng tới tháng
2-1971, các Tiểu Ðoàn 4 đều bị giải tán và quân số được nhập vào các Tiểu Ðoàn
còn lại. Về chiến thuật, Trung Ðoàn 43 là thành phần lưu động của Sư Ðoàn cũng
như giữ Long Khánh-Xuân Lộc, Trung Ðoàn 48 trách nhiệm Chiến Khu D (Phước-Bình-Thành),
còn Trung Ðoàn 52 có doanh trại tại Ðồi Phượng Vỷ, trên núi Chứa Chan, ở Ngã Ba
Ông Ðồn (Gia Ray) Nhưng về sau,tình hình chiến cuộc gia tăng, nên các Trung
Ðoàn thay phiên nhau trong các vùng trách nhiệm.
Sư Ðoàn 10 BB sau đổi thành SD18BB vào ngày 1-1-1967 qua đề nghị của Tư lệnh
lúc đó là Chuẩn tướng Ðổ Kế Giai. SÐ mang phù hiệu Nỏ Thần, đang lướt trên hai
nền màu xanh da trời đậm và lợt, tượng trung cho bước chân của lính trong cõi
mông mênh cùng tận, mà Nguyễn Cộng Trứ khi đề cập tới chí nam nhi, đã viết : ‘
tang bồng hồ thỉ nam nhi trái, làm cho bách thế lưu phương, trước là sĩ sau là
khanh tướng ‘.Từ năm 1965-1969 qua các tư lệnh như Ðại Tá Nguyễn Văn Mạnh
(16/5/1965-10-8-1965), Chuẩn Tướng Lữ Lan (10/8/1965-15/9/1966), Ðại Tá Ðổ Kế
Giai (15/9/66-20/8/69), trong giai đoạn này, Sư Ðoàn 18BB bao vùng Khu 31 Chiến
Thuật, gồm các tỉnh Bình Tuy, Long Khánh, Biên Hòa, Phước Tuy và Ðặc Khu Vũng
Tàu, thuộc Vùng III Chiến Thuật. Từ ngày 20-8-1969 tới 4-4-1972,tư lệnh là Thiếu
tướng Lâm Quang Thơ, vì bị Quân Ðoàn III, chia chặt thành từng mãnh, tăng phái
khắp nơi, dưới quyền của các SD5 và 25 BB, nên binh sĩ có mặc cảm là đơn vị trừng
giới, khiến cho SD18BB, bị xếp hạng chót trong bảng xép hạng đơn vị thuộc
QLVNCH..
Cá sống nhờ nước, lính chiến đấu giỏi khi gặp được cấp chỉ huy tài ba, can trường,
thương lính và trên hết phải biết lội với lính trước súng đạn.. Ngày xưa, qua huyền
thoại, điển tích và sách vở, ta biết giai nhân cùng danh sĩ, như có duyên nợ với
nhau từ tiền kiếp. Dương Chí Hoán đời Ðường, nổi danh nhờ một ca kỹ hát bài
Lương Châu Từ của mình. Tô Ðông Pha làm giúp một bài phú cho ca nhi Triệu Vân,
mà lấy được một người vợ tài hoa ý hợp nhưng cảm động hơn hết, có lẽ là Giang
Châu Tư Mã-Bạch Cư Dị (772-846), trong một đêm mưa rơi tầm tả, tiễn bạn trên Bến
Tầm Dương, tình cờ gặp lại người ca kỹ năm nào nổi danh tài sắc chốn Trường An,
qua một bản đàn tuyệt diệu, Danh Sĩ đã cảm hứng viết Trường Ca ‘ Tỳ Bà Hành’ cổ
kim bất hủ.
Trong đời binh nghiệp cũng vậy,suốt cuộc chiến VN, những nguời lính nhảy dù, biệt
kích, thủy quân lúc chiến, biệt động quân.. được đồng bào miền nam thân thương quen
gọi là các thiên thần, bởi vì hầu hết các đơn vị trên đã có nhiều cấp chỉ huy
tài ba can trường. Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn, Ðại Tá Ngô Tấn Nghĩa.. luôn hòa mình với
thuộc cấp của mình tại các tiền đồn hẻo lánh,bên những đơn vị nghĩa quân, cảnh
sát dã chiến,xây dựng nông thôn và địa phương quân tại chiến trường.Nhờ vậy hai
tỉnh Chương Thiện-Bình Thuận, bị cọng sản quậy phá nhiều nhất, lại là hai địa
phương an ninh hạnh phúc cho tới 30-4-1975. Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu (1967-1975)
dù bị lịch sử phán xét thế nào cũng kệ nhưng rõ ràng nhất, ông là một cấp lãnh
đạo can đảm, biết chia xẻ gian lao, máu lệ với người chiến sĩ đang lăn xả trong
bom đạn sa trường nguy hiểm nhất, ngay lúc trận tuyến chưa im tiếng súng, tại
Quảng Trị, KonTum, An Lộc, Bình Ðịnh.. Tương tự, những người lính Nỏ Thần Miền
Ðất Ðỏ, đã tao phùng-kỳ ngộ với một cấp chỉ huy năng động, thích hợp với những
lính biệt lập 43,48 và 52 đã từng bị đầy ải khắp mọi miền đất nước, đâu có khác
gì các Ðơn Vị Biệt Ðộng Quân Biên Phòng, Biệt Lập, không biết ai là Cấp Chì Huy
tối cao của mình. Ðây cũng là một trong những yếu tố then chốt, đã vực dậy một
Ðại Ðơn Vị sắp quỵ vì quá nản phiền. Nhờ đó mà SD18BB từ đội đít, lần lần dọc
ngang và cuối cùng, đứng ưỡn ngực với các Ðơn Vị khác của Quân Lực trong bảng xếp
hạng cuối đời.
Ngày 4-4-1972, Ðại Tá Lê Minh Ðảo làm Tư Lệnh SD18BB, thế Thiếu Tướng Lâm Quang
Thơ. Gọi là Sư Ðoàn Trưởng cho oai, chứ lúc đó quân số còn lại của SD18BB vỏn vẹn
chỉ có DD18 Trinh Sát, DD48 Trinh Sát và 1 Tiểu Ðoàn của Trung Ðoàn 48BB. Tất cả
lính của Sư Ðoàn từ Thiết Ðoàn 5 kỵ binh, Trung Ðoàn 43, 48, 52 đều bị Quân Ðoàn
III xử dụng, tận góc biển chân mây, khiến cho Tư Lệnh SD18BB lúc đó, thật ra
còn thua Tiểu Ðoàn Trưởng, vì trong tay không còn một đơn vị nào thuộc về mình.,
để chỉ huy xử dụng.
Khởi sự từ con số không, Tướng Ðảo, một sĩ quan thường bị cười nhạo là hành
chánh vì quẩn quanh chỉ làm quận trưởng, tỉnh trưởng. Nhưng đó là một nhận xét
có ác ý ganh tỵ, vì qua kinh nghiệm lịch sử cận đại VN, không thiếu gì những vị
tá, tướng.. một đời lăn xả ngoài trận mạc, vẫn không được đời xưng tụng là tài giỏi.
Ðể chứng minh người thật việc thật, tri hành phải hợp nhất, qua việc hành sử
lúc ban đầu, với số đơn vị ít ỏi trong tay, đã biết khôn khéo, cũng như bỏ cái
quan niệm ‘ lính chính quy-lính bảo an’, trong việc phối hợp hành quân cùng các
Ðơn Vị Ðịa Phương Quân, Nghĩa Quân và Bình Ðịnh Xây Dựng Nông Thôn, kể cả Cảnh
Sát Dã Chiến (Lúc đó toàn là chủ lực quân biệt phái hay thuyên chuyển về gần
nhà).. tại các Tiểu Khu Long Khánh, Phước Tuy, nên chỉ một thời gian ngắn đã
bình định xong vùng này. Rồi thì lần lượt Quân Ðoàn III, trả lại các Trung Ðoàn
cơ hữu của SD18BB cho tướng Ðảo. Lúc đó,Trung Ðoàn 52BB, đang hành quân tại
Bình Long, Trung Ðoàn 48BB trách nhiệm giữ nhà, nên chỉ còn Trung Ðoàn 43 của
Trung Tá Lê Xuân Hiếu, cùng tư lệnh là Ðại Tá Ðảo, xông pha hầu hết các miền đất
dử của VC lúc bấy giờ , dẹp tan chiến khu Chà Rầy, Trung Lập, Củ Chi để giải
vây cho quận Trảng Bàng. Tiếp đến, Trung Ðoàn 43 và Tướng Ðảo lại vào Bến Súc,
Dầu Tiếng, giải vây Ðồn Ðiền Michelin, giữ được con đường huyết mạch từ Bình
Dương-Bến Cát, mà trong trận Mùa hè đỏ lửa 72, quân tiếp viện của ta sử dụng để
vào An Lộc.
Tới cuối tháng 6-1972, SD5BB của Tướng Lê Văn Hưng, tuy vẫn giữ vững An Lộc
nhưng đã bị tổn thất nặng nề, nên được điều động ra khỏi trận địa. Các đơn vị
tăng phái của Vùng 4 CT như SD21BB, Trung Ðoàn 15/SÐ9BB.. cũng được trả về bản
địa. Do trên, Quân Ðoàn III, sau khi hoàn lại đủ quân số cho Chuẩn Tướng Ðảo
(đưọc gắn sao tai BTL Tiền Phơng QĐ3 tại Lai Khê), đã điều động toàn bộ SD18BB
vào An Lộc, phối hợp với Liên Ðoàn 5 Biệt Ðộng Quân của Trung Tá Ngô Minh Hồng,
chiếm lại toàn vẹn lãnh thổ Bình Long. Tháng 12-1972, sắp đến ngày ký Hiệp Ðịnh
Paris, nên VC lại ồ ạt dành dân chiếm đất, vì vậy QDIII giao Bình Long-An Lộc cho
Biệt Ðộng Quân và sử dụng SD18BB như một đơn vị Tổng Trừ Bị của Quân Ðoàn. Thời
Trung Tướng Phạm Quốc Thuần thay Tướng Nguyễn Văn Minh làm Tư Lệnh QDIII, ngày
7-11-1973 đã cho tái lập lại Lực Lượng 3 Xung Kích, trước sau vẫn do Chuẩn Tướng
Kỵ Binh Trần Quang Khôi, là một trong những tướng lãnh tài ba, anh hùng của
QLVNCH chỉ huy. Ðại đơn vị này có bảng cấp số tương đương với một sư đoàn bộ
binh nhưng về hỏa lực có phần hùng mạnh hơn vì được phối hợp tác chiến giữa bộ,
thiết giáp và pháo binh., gồm 3 Chiến Ðoàn Thiết Giáp 315,318 và 322. Các Chiến
Ðoàn đều tổ chức giống nhau, gồm 1 Tiểu Ðoàn BDQ, 2 Chi Ðoàn Thiết Vận Xa 113,
1 Chi Ðoàn Chiến Xa M48, 1 pháo đội cơ động 105 ly gắn trên xe M548 và 1 Trung
Ðội Công Binh. Ðây là đơn vị trừ bị thứ 2 của QDIII, sau ngày ký hiệp định Ba
Lê năm 1973. Từ đó chiến cuộc càng ngày càng tàn khốc, Bắc Việt ngoài số bộ đội
có sẵn được Mỹ cho ở lại, còn có nhiều sư đoàn khác cũng ào ạt vào Nam, vì đường
mòn Hồ Chí Minh coi như đã bị bỏ ngõ, tấn công khắp mọi nơi nhưng dữ nhất vẫn
là những địa danh sát nách Sài Gòn như Ðịnh Quán, Củ Chi, Tam Giác Sắt, Phước
Tuy.. hầu hết những vùng trên đều thuộc trách nhiệm của SD18BB. Tóm lại, từ năm
1972 tới đầu năm 1975, SD18BB dưới quyền của Tướng Lê Minh Ðảo, gần như xông
pha trăm trận, nên đã hy sinh rất nhiều quân nhân các cấp. Nhờ vậy mà người
lính Nỏ Thần đã trưởng thành trong khói lửa, quân kỳ của Sư Ðoàn được gắn nhiều
anh dũng bội tinh, mang giây biểu dương màu quân công bội tinh, nhờ niềm hãnh
diện đó, dân và lính miền đất đỏ, đã đánh một trận cuối cùng với giặc tại Xuân
Lộc, vừa rửa hận cho Dân-Nước, vừa lưu danh ngàn đời trong Việt Sử, chống ngoại
xâm do Bắc Việt mang từ Nga-Tàu về.
Tháng 4-1974, Thượng Viện Hoa Kỳ cắt giảm viện trợ cho Nam VN. Tại chiến trường,
Bắc Việt xé bỏ hiệp ước vừa ký tại Ba Lê năm 1973, tấn chiếm Thường Ðức và Trại
Tống Lê Chân. Ngày 9-8-1974, Nixon từ chức tổng thống vì vụ Watergate mang theo
hẹn hứa giúp VNCH xuống mồ, vì Ford lên thay không bao giờ đếm xỉa tới., hoặc có
muốn giúp miền Nam, thì nói cũng chẳng ai nghe, vì ông không phải là vị tổng thống
do dân bầu lên theo luật định.
Trước tình hình hỗn độn chính trị tại Mỹ,Bắc Việt tấn công và chiếm tỉnh Phước
Long nhưng Hoa Kỳ vẫn im lặng, còn Ford theo B.Paulmer trong ‘ The 25 th year
war ‘ năm 1984, đã tuyên bố là Hoa Kỳ dứt khoát không can thiệp vào chiến tranh
VN. Thế là Hà Nội hồ hởi xâm lăng Miền Nam. Ngày 10-3-1975 đánh thành phố Ban
Mê Thuột. Ngày 14-3-1975 rút bỏ cao nguyên bằng Liên tỉnh lộ 7, Pleiku-Phú Bổn-Phú
Yên. Ngày 20-3-1975 bỏ Huế, Quảng Trị. Nói chung hai cuộc lui quân, làm hàng
trăm ngàn đồng bào vô tội, gia đình binh sĩ , chết và bi thương thảm thiết vì hỏa
lực của cọng sản, bắn nhắm vào những người dân lánh nạn, trong đó phần lớn là
người già, đàn bà, trẻ thơ vô tội. Tổng thống Thiệu, Thủ Tướng Khiêm, Ðại Tướng
Cao Văn Viên.. chỉ một phút quyết định ngắn ngủi tại Cam Ranh đã làm mất 2/3
lãnh thổ, hủy diệt một nửa lực lượng quân lực tinh nhuệ của VNCH, trong đó có
các Ðại đơn vị ưu tú như SD Dù, Thủy Quân Lục Chiến, SD1,23 BB và các Liên Ðoàn
BDQ.. Như vậy sau ngày 2-4-1975, Quân Ðoàn 1 mất hẳn, QD2 chỉ còn Ninh Thuận-Bình
Thuận, nên sáp nhập vào Quân Ðoàn III. Phan Rang-Phan Thiết và Xuân Lộc, trở
thành vùng hỏa tuyến, vì là cửa ngỏ ( quốc lộ 1 ố 20), để Bắc Việt vào Sài Gòn.
Ðể tấn công Long Khánh -Xuân Lộc, cọng sản Bắc Việt, tung vào chiến trường Quân
Ðoàn 4, gồm 3 Sư Ðoàn 6, 7 và 341 và Sư Ðoàn 7 Việt Cộng, do tướng Bắc Việt là Hoàng
Cầm và Hoàng Thế Thiệp chỉ huy. Về VNCH, ngoài SD 18 BB với các Trung Ðoàn 43 của
Ðại Tá Lê Xuân Hiếu, Trung Ðoàn 48 của Trung Tá Trần Minh Công, Trung Ðoàn 52 của
Ðại Tá Ngô Kỳ Dũng, Thiết Ðoàn 5 của Trung Tá Nguyễn văn Nô, Tiểu Khu Long
Khánh của Ðại Tá Phạm văn Phúc và các Ðơn vị tăng phái như Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù của
Ðại Ta Nguyễn văn Ðỉnh, đặc biệt là Tiểu Ðoàn 82 BDQ, thuộc LD24BDQ , của Thiếu
Tá Vương Mộng Long, từ Quảng Ðức, Lâm Ðồng di tản về Xuân Lộc.. cùng với các SD
3,4 và 5 Không Quân, kể luôn các đơn vị Truyền Tin, Công Binh., đả đánh với
quân xâm lăng cọng sản Bắc Việt, một trận để đời , như các trận Chí Lăng, Bạch
Ðằng, Chương Dương, Xuân Kỹ Dậu, Rạch Gầm Xoài Mút, mà tổ tiên ta đã lưu lại
nghìn đời muôn kiếp cho con cháu sau này, trong dòng sử Việt..
Ngày nay đọc những trang sử trong cũng như ngoài nước, từ người thương cho đến
kẻ thù Việt Cộng, kể cả bọn ăn cơm quốc gia thờ Hồ tặc, tất cả đều hớn hở hoặc
cúi mặt, kính chào và ngưỡng mộ, cuộc chiến đấu thần thánh của người lính VNCH,
trong lúc đất nước đã tận tuyệt, gần hết cấp lãnh đạo tối cao cõng vợ con và vàng
bạc chạy theo Mỹ để cầu sinh, giữ chức. Giữa giờ thứ 25, trong lúc bên ngoài
thì Ðồng Minh phản bội, bên trong đầy rẩy bọn trí thức, cha-sư, đầu hàng giặc Cộng,
toa rập trù dập và đâm sau lưng người lính trí mạng.
Trong ‘ Ðại thắng mùa xuân’, Văn Tiến Dũng, tổng tư lệnh bộ đội cọng sản Bắc Việt,
đã thú nhận rằng ‘ Mặt trận Xuân Lộc vô cùng ác liệt và đẫm máu ngay từ ngày đầu
tiên. Các sư đoàn 6,7,341 của ta, dù đã tấn công nhiều lần vào thành phố Xuân Lộc,
nhưng nhiều lần đều gặp phải sức kháng cự mãnh liệt của Trung Ðoàn 43 địch, nên
bị tổn thất nặng nề. Các đơn vị pháo của ta, đã sử dụng nhiều hơn cơ số đạn dược
dự trù. Số lớn tăng và xe bọc thép bị bắn cháy.. ’ ’ ’ , còn D.Todd người ký giả
Pháp thân cộng, trong tác phẩm ‘ Cruel April, the fall of Sai Gon ‘, đã viết ‘
tinh thần binh sĩ tại Xuân Lộc rất cao, hệ thống truyền tin rất tốt, các đơn vị
Dù và BDQ đã đến, đường Sài Gòn được thông. Các Sĩ quan QLVNCH đang gọi pháo
binh và không yểm rất chính xác và nhanh chóng. Tình trạng chiến đấu của họ, gần
giống như lúc còn quân đội Mỹ yểm trợ.. ’ ’ ’
Như vậy qua hai lời phê phán trên, ta biết mặt trận Xuân Lộc vô cùng ác liệt và
tinh thần chiến đấu của người lính VNCH dũng mãnh phi thường. Ðược như vậy, trước
hết theo lời của tướng Lê Minh Ðảo, tư lệnh Sư Ðoàn 18 BB cũng là Tư lệnh Mặt
Trận Long Khánh - Xuân Lộc từ ngày 8-4-1975 tới ngày 20-4-1975, đó là tinh thần
của người lính quyết tâm chiến đấu tới cùng, vì từ trên xuống dưới không một ai
đào ngũ hay bỏ theo giặc. Thứ hai do ta chủ động trận địa và sau rốt là tinh thần
binh sĩ ổn định, khi thấy gia đình mình đã được di tản về hậu phương an toàn tại
Long Bình.
2- CHIẾN TRƯỜNG XUÂN LỘC :
Chiến trường Xuân Lộc gồm 3 mặt trận chính : Mặt trận Ngã ba Túc Trưng,, thành
phố Xuân Lộc và Khu vực Núi Chứa Chan-Gia Ray. Do nắm được tình hình chính sự,
biết chắc khi Phan Thiết-Lâm Ðồng thất thủ, Bắc Việt sẽ xuyên qua QL1 và 20 để
về tấn chiếm Sài Gòn. Do trên Xuân Lộc sẽ là chiến địa đẫm máu. Biết như vậy,
cho nên tướng Ðảo sớm chuẩn bị trận địa để chờ. Trườc hết, khuyến khích dân
chúng có phương tiện, nên về lánh nạn binh lửa ở Biên Hoà hay Sài Gòn. Ðồng thời
cho di chuyển trại gia binh, bệnh viện, thương bệnh binh cùng các phòng sở
chuyên môn về hậu cứ tại Long Bình, làm một đầu cầu tiếp vận từ Trung ương tới
Chiến trường. Tại Long Khánh, tướng Ðảo cho sửa sang tất cả các phòng tuyến
trong cũng như ngoài thị xã, đào giao thông hào khắp nơi, để chuẩn bị chiến đấu
lâu dài. Chiếm lại tất cả các vị trí cao quanh Xuân Lộc, để quan sát địch từ mọi
hướng. Ðem tất cả pháo dấu trong các vị trí đào sẵn, một số câu lên núi Thị và giao
cho TD2/43 cuả Thiếu Tá Nguyễn Hửu Chế bảo vệ, chỉ để lại 2 khẩu cho Tiểu Khu
Long Khánh và 2 khẩu khác cho Chiến Ðoàn 43 của Ðại Tá Lê Xuân Hiếu, trong thị
xã Xuân Lộc sử dụng mà thôi. Lại đặt ba bộ chỉ huy Sư Ðoàn, một tại Xuân Lộc, một
tại Tân Phong và một trên núi Thị có TD2/43 bảo vệ. Tất cả các Bộ Tư Lệnh Hành
Quân, đều giống nhau, được thiết kế đầy đủ máy móc truyền tin kể cả đài siêu tầng
số. Trong số này, BTL/HQ trên núi Thị giao cho Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế,
TDT/TD2/43 trách nhiêm, như một đài liên lạc giữa Tướng Ðảo và Quân Ðoàn cũng
như các cấp tại Trung Ương, nhờ máy móc siêu tần đặt trên núi cao nên rất mạnh.
Ngoài ra, nhờ có ba BTL/HQ nên tướng Ðảo để di chuyển liên tục, tránh phao địch.
Về Truyền Tin của Ta cũng rất tài giỏi, nhờ thế nên đã bắt và giải mã được tần
số của giặc, gần như biết trước lệnh tấn công của các đơn vị Bắc Việt, nên đã
tránh được rất nhiều tổn thất. Riêng bộ tham mưu của SD18BB lúc đó gồm có : Tướng
Lê Minh Ðảo là tư lệnh SD, Ðại Tá Lê Xuân Mai tư lệnh phó, Ðại Tá Huỳnh Thao Lược
- tham mưu trường SD, Ðại Tá Hứa Yến Lến ố tham mưu phó hành quân tiếp vận và Ðại
Tá Dương Phun Sang ố chánh thanh tra SD..
Theo tất cả các cấp chỉ huy thuộc SD18BB còn sống , hiện đang ở Mỹ, hầu hết ai
cũng xác nhận một sự thật rất quan trọng, đó là khi quân Bắc Việt bắt đầu tấn
công vào Xuân Lộc, thì Tướng Lê Minh Ðảo đang có mặt tại Bộ Tư Lệnh Tiền Phương
của SD18BB tại căn cứ Long Bình và chỉ một vài giờ sau đã bay vào biển máu bom
đạn và xác người tại trận địa Xuân Lộc. Trong lúc đó, đại úy Nguyễn Khiêm, trưởng
ban ba của TrD43/18 vì công vụ cũng có mặt tại Long Bình và chính Tướng Ðảo đã ra
lệnh cho phi công chiếc C&C của TL, chở ông ta vào BTL/HQ tại Tân Phong.
Bốn ngày đầu chưa có Lữ Ðoàn 1 Dù tăng viện nhưng Chiến Ðoàn 43 và các Tiểu
Ðoàn Ðịa Phương Quân thiện chiến của TK Long Khánh, cùng TD82 BDQ vẫn giữ được
Xuân Lộc. Từ ngày 12/4/75 , Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù của Ðại Tá Ðỉnh tăng viện, đảm
trách mặt trận Gia Ray-Chứa Chan, nên tướng Ðảo đả dùng Trung Ðoàn 48 và Thiết
Ðoàn 5 kỵ binh, làm lực lượng tiếp ứng khắp nơi. Cũng theo tướng Ðảo , trong trận
Long Khánh, chỉ có cứ điểm Ngã Ba Túc Trưng, do Chiến Ðoàn 52 của Ðại Tá Ngô Kỳ
Dũng trấn giữ, là khó khăn và ác hiểm nhất nhưng quân ta dù lực lượng ít ỏi so
với quân biển người của Bắc Việt, vẩn anh dũng chống cự. Oanh liệt nhất là trận
Ðồi Móng Ngựa, chỉ có hai đại đội của TD3/52 do Thiếu Tá Phan Tấn Mỹ, tức nhà
văn nổi tiếng Ý Yên làm Tiểu Ðoàn Trưởng, đã giữ vững vị trí từ ngày 10-4 tới 15-4-75,
qua nhiều đợt tấn công biển người, cấp Trung Ðoàn của SD6 Bắc Việt. Trận tử chiến
trên Ðồi Móng Ngựa cũng như hai trái bom con heo tại Dầu Giây-Túc Trưng, đều là
những huyền thoại đẹp nhất trên những trang cận sử vừa nở hoa vừa loang đỏ máu,
mà sau này mỗi khi đọc tới, chắc ai cũng không thể ngăn nổi giọt nước mắt muộn
màng, để khóc tủi cho những người lính trận năm nào, đã vì ai mà xả thân không
tiếc hận.
Ðánh mãi không lấy được Xuân Lộc, Văn Tiến Dũng điều động Trần văn Trà
thay Hoàng Cầm nhưng chiến trường vẫn không thay đổi. Do trên Trà một mặt để
SD7 VC ở lại cầm chân SD18 BB và Dù tại Xuân Lộc, mặt khác tấn công biển người
vào các vị trí của Chiến Ðoàn 52, mở một đường máu từ Túc Trưng xuyên qua Biên
Hòa, đối mặt với các Ðơn Vị phòng thủ của Lực Lượng 3 Xung Kích, của tướng Trần
Quang Khôi. Riêng Chiến Ðoàn 52 của Ðại Tá Dũng, tuy bị tổn thất gần 1/2 quân số,
nhưng cuối cùng vẩn mở được đường máu Từ ngã ba Túc Trưng về Biên Hòa.
3- HAI TRÁI BOM DAISY CUTTER VÀ CUỘC LUI QUÂN CỦA SD18 :
Trong ‘ Ðứa con cầu tự ‘, ông Nguyễn Cao Kỳ nguyên Thiếu tướng QLVNCH, cựu tư lệnh
Không quân, cựu chủ tịch ủy ban hành pháp trung ương, cựu phó tổng thống VNCH từ
1967-1971, có viết rằng chính ông ta là nhân vật đã ra lệnh sử dụng bom con heo
tại mặt trận Xuân Lộc. Ai cũng biết từ sau năm 1972, ông Kỳ đã là một tướng lãnh
bị phế thải, ngồi chơi xơi nước , trong tay ‘ không quân, không đơn vị ‘ . Cũng
từ đó cho tới ngày 29-4-1975 bay trực thăng ra biển để đi Mỹ . Như vậy, sức nào
để ra lệnh cho KQ đánh bom , một sự kiện quan trọng bậc nhất của an ninh quốc
phòng quốc gia VNCH, lúc đó chỉ có chính Tổng Thống, Thủ Tướng và Tổng Tham Mưu
Trưởng QLVNCH mới có thẩm quyền quyết định.
Bom Daisy Cutter , còn được gọi là bom con heo hay tiểu nguyên tử, có chiều dài
và chièu cao gần tương đương với lòng chiếc vận tải cơ C130, trọng lượng là 7 tấn,
gồm vỏ bọc và khối thuốc nổ 15.000 cân Anh TNT. Bom dùng mở bãi đáp cho cấp sư đoàn
hay lộ quân trong bất cứ địa thế nào. Với con người, bom có tầm sát hại trong
vòng bán kính 5 dặm Anh, hút hết dưỡng khí, làm cho người bị chết ngạt. Những
ngày cuối cùng của tháng 4-1975, Mỹ có để lại cho VNCH chừng 10 trái nhưng
không có ngòi nổ. Trong trận Xuân Lộc, truyền tin của Bắc Việt gần như bị ta giải
mả hết, nên nhờ đó mà Bộ tư lệnh của SD18BB đều biết trước. Nhờ vậy đã kịp thời
xin không quân hay pháo binh, bắn hay giội bom vào các vị trí của địch hay xe
tăng một cách vô cùng chính xác. Ngày 15-4-75, khi tướng Ðảo nhận tin vị trí của
Chiến đoàn 52 của Ðại Tá Ngô Kỳ Dũng, từ Ngã ba Túc Trưng xuống tới Dầu Giây, bị
hai sư đoàn Bắc Việt 6 và 341 tràn ngập, nên đã xin tướng Nguyễn văn Toàn, tư lệnh
QD3, trình Bộ TTM, sử dụng bom con heo, để ngăn chận và giải cứu Chiến đoàn 52.
Do trên , trong ngày 15-4-1975, Bộ TTM đã dùng vận tải cơ C130A thả 2 trái bom
khổng lồ này, xuống vị trí của Bắc Việt, từ Túc Trưng về tới Dầu Giây, khiến cả
một quân đoàn Bắc Việt, gồm người, tăng, pháo như rối loạn trong ba ngày liền
vì có quá nhiều thương vong. Vì Hà Nội la làng, Mỹ vi phạm hiệp định ngưng bắn,
dùng bom nguyên tử và trở lại VN, nên Hoa Kỳ đã chở số bom con heo còn lại về Mỹ.
Ngày 16-4-1975, phòng tuyến tại Phan Rang vở, các tướng lãnh Nguyễn Vĩnh Nghi,
Pham Ngọc Sang, Ðại Tá Nguyễn Thu Lương và hầu hết các sĩ quan cao cấp trong Bộ
tư lệnh tiền phương của QD3, vì đi bộ với lính (dù có máy bay), và Ðại Tá
Lương, lúc đó đả cùng với các tiểu đoàn Dù về tới Cà Ná, nhưng ông cũng đã trở
lại tìm hai tướng Nghi-Sang, nên đã bị giặc Cộng bắt giữa chốn ba quân. May mắn
nhất vẫn là tướng Trần văn Nhựt ,Tư lệnh SD2 BB đang tham chiến tại mặt trận,
nhờ lanh lẹ, nên leo L19, chạy kịp xuống tàu hải quân, đậu trong vịnh Ninh Chữ,
sau đo cũng là một trong nhiều tướng lãnh tới Mỹ sớm. Ðêm 19-4-1975, Bình Thuận-Phan
Thiết mất và Bình Tuy ngày 20-4-1975. Như vậy các tuyến phòng thủ trên QL1 và
20, dẫn về Long Khánh gần như khai thông. Tướng Nguyễn Văn Toàn vì không muốn
Xuân Lộc, lúc đó lại trở thành một Ðiện Biên Phủ hay Khe Sanh, giữa trùng vây của
hơn mấy vạn quân Bắc Việt như trước. Hơn nửa, khi Trần Văn Trà thế Hoàng Cầm,
đã dùng SD7 Bắc Việt cầm chân quân ta, còn Lộ quân 4 thì tìm đường khác tại Ngã
ba Túc Trưng về Biên Hoà. Ở đó, chỉ có Lực lượng 3 Xung Kích của tướng Khôi,
cùng Trung Ðoàn 8 /SD5BB tăng phái, nên không đủ quân chống giữa. Do trên tướng
Toàn đã xin Bộ Tổng Tham Mưu, chấp thuận bỏ Xuân Lộc, rút toàn bộ lực lượng
đang chiến đấu tại đây gồm SD18BB, TK Long Khánh, Lữ Ðoàn Dù, BDQ về Phước Tuy,
giữ Biên Hòa-Sài Gòn, và đã được chấp thuận, dù lúc đó, quân ta còn đầy đủ đạn
pháo và tinh thần chiến đấu. Tại Gia Ray-Chứa Chan, Lữ Ðoàn Dù-BDQ-Thiết Ðoàn 5
và Trung Ðoàn 48/18 đang gom SD7 Bắc Việt vào rọ, để tiêu diệt.
Theo tướng Ðảo, thì vào lúc 9 giờ sáng ngày 20-4-1975, tướng Toàn thân hành bay
trực thăng vào BTL.SD18BB tại chiến trường Xuân Lộc, ban lệnh RÚT QUÂN, BỎ LONG
KHÁNH của Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH, tới Tướng Ðảo và CUỘC RÚT QUÂN hoàn toàn bằng
đường bộ, không có ai được máy bay tới chở về. Quan trọng hơn hết, tất cả đều
đi, không có 600 quân nào của Trung Ðoàn 43, do Ðại Tá Lê Xuân Hiếu tình nguyện
ở lại bán mạng, như một vài người đả vin vào tài liệu Mỹ, viết sử. Cảm động vô
cùng, là khi Lữ Ðoàn 1 Dù của Ðại Tá Ðỉnh rút quân, đồng bào công giáo ở các xã
Bảo Ðịnh, Bảo Toàn, Bảo Hòa.. đã đồng loạt rút theo, làm cho cánh quân này vì
phải bảo vệ đồng nào tị nạn, nên bị thiệt hại nhiều nhất.
Ngay khi nhận được lệnh, trong ngày 20-4-1975, tướng Ðảo ra lệnh cho Lữ Ðoàn 1
Dù, tấn công tới tấp SD7 VC để nghi binh. Trên núi Thị, rút hết pháo, chỉ để lại
2 khẩu cho Tiểu Ðoàn 2/43 bắn cầm chừng, làm giặc không biết đâu mà mò. Cuộc
lui quân, bắt đầu, lúc 8 giờ đêm 20-4-1975, bằng Liên Tỉnh lộ 2, Tân Phong-Long
Giao-Bà Rịa. Ðây cũng là một quyết định táo bạo, đồng thời cũng là một yếu tố bất
ngờ mà Bắc Việt không bao giờ đoán nổi. Vì Liên tỉnh lộ 2 dài khỏng 40 km, từ
khi quân Ðồng Minh rút, đường đã bị bỏ hoang và trở thành căn cứ địa cuả các lực
lượng Du kích tỉnh cũng như Trung Ðoàn 33 chính quy Bắc Việt. Theo kế hoạch lui
quân, Trung Ðoàn 48 của Trung Tá Trần Minh Công mở đường. Cánh 2 là đoàn cơ giới,
pháo, chiến xa Thiết đoàn 5 của Trung Tá Nô. Ðặc biệt tướng Ðảo, đã mang trả lại
cho QD3 hai khẩu đại pháo 175 ly cho mượn, có tầm bắn xa trên 30 km, đặt trên
xe xích . Tất cả lực lượng này do Ðại Tá Hứa Yến Lến, tham mưu phó hành quân SD
18BB chỉ huy. Ðơn vị kế tiếp là DPQ và NQ Long Khánh của Ðại Tá BDQ. Phạm văn
Phúc, Tỉnh trưởng Long Khánh. Cánh quân này, trong lúc rút bị đụng nặng, làm
Trung Tá Tiểu Khu Phó tử thương. Còn Ðại Tá Phúc bị bắt và giải ngay ra Bắc, chịu
nhiều năm tù khôc hận như các cấp Sĩ quan/QLVNCH sau ngày 30-4-1975. Tướng Ðảo
đi bộ với cánh quân Trung Ðoàn 43 của Ðại Tá Lê Xuân Hiếu, hiện ở Oregon. Và cuối
cùng là Lữ Ðoàn 1 Dù đoạn hậu. Theo kế hoạch lui quân, Tiểu đoàn 2/43 của Thiếu
tá Chế từ Núi Thị xuống sẽ đi trước Lữ Ðoàn Dù, nhưng vì trục trặc chiến thuật,
nên cuối cùng lại trở thành đơn vị cuối khi rời Long Khánh. Tóm lại cuộc lui
quân coi như thành công, nhờ có tổ chức, kế hoạch và trên hết, chính tướng Ðảo
cũng như tất cả các đơn vị trưởng từ Tỉnh Trưởng Phạm văn Phúc, Ðại tá Ðỉnh, Lữ
Ðoàn trưởng Dù.. đều đi bộ và tác chiến như lính. Thử hỏi sao không đạt được
chiến thắng ?.
4- NGƯỜI VỀ TỪ ÐỊA NGỤC :
Tiểu Ðoàn Trưởng TD2/Trung Ðoàn 43/SD18BB là Nguyễn Hữu Chế, xuất thân từ khóa
13, sĩ quan trừ bị Thủ Ðức. Từ năm 1972 khi Ðại Tá Ðảo, về làm tư lệnh SD18BB,
thay tướng Thơ, lúc đó Trung Úy Nguyễn Hữu Chế ở TD2/43 nhưng sau những chiến
công rền vang khắp các mặt trẩn từ Chà Rầy-Trung Lập, tới Tam Giác Sắt-An Ðiềm,
chỉ trong 1 năm, đã được vinh thăng ngay tại mặt trận , Ðại Uý rồiThiếu Tá và
giữ TDT.TD2/43 là một đơn vị cùng với TD1/52 của Ðại Uý Út, là hai đơn vị kiệt
hiệt nhất của SD18BB.
Theo lời Thiếu Tá Chế, thì trong đêm lui quân 20-4-1975, lệnh hành quân ghi rõ
: kể từ 12 giờ đêm, TD2/43 sẽ trở về hệ thống liên lạc của sư đoàn. Tiểu đoàn sẽ
di chuyẻn trước, sau đó là Lữ Ðoàn 1 Dù, theo lộ trình về hướng Ðức Thanh-Bà Rịa.
Lệnh là vậy nhưng thực tế vô cùng khó khăn, vì khi Lữ Ðoàn 1 Dù, cho lệnh
TD2/43 trở về với hệ thống của sư đoàn 18BB, thì lúc đó đã 3 giờ sáng. Tiểu
đoàn liền cho lệnh gom quân các tiền đồn về, trong đó có Trung Ðội Biệt Kích hoạt
động tận núi Ma, cho nên tới 5 giờ sáng mơi hoàn tất việc thu quân. Vì vậy khi
xuống núi Thị, thì trời đã rạng đông. Tiểu đoàn tiếp tục di chuyển theo lộ
trình rút quân, gần tới Căn cứ Long Giao, lúc đó đã 7 giờ sáng, thì Ðại Tá Ngô
Kỳ Dũng, Trung Ðoàn Trưởng TrD52/18 , bay trên chiếc C&C của Tư Lệnh, chuyển
lệnh của Tướng Ðảo, ra lệnh cho TD2/43 phải hủy bỏ lộ trình củ như lệnh hành
quân ban đầu và phải băng rừng, chuyển hướng về Long Thành, vì Bắc Việt đã phát
giác SD18BB lui quân, mà đơn vị cuối cùng là TD2/43 nên ra lệnh cho SD7 VC phải
truy sát cho tận tuyệt.Thật ra, lúc đo cũng còn một vài toán Ðịa Phương Quân và
Nghỉa Quân, lạc đàn chạy theo. Nhưng trong tình cảnh hiểm nguy đó, làm sao biết
được ai là bạn hay thù, hoặc có thể VC đã theo kíp họ, nên TD 2/43 đã tìm cách đổi
hương, để giữ mạng.
Khi rời núi Thị, quân số của TD2/43, kể cả tăng phái trong đó có nhiều SQ,HSQ,
và binh sĩ Pháo Binh,hơn 600 người. Ngoài Hậu cứ của TD2/43 đã di chuyển trước
với cánh quân của Trung Ðoàn, Bộ Chỉ Huy TD ngoài TDT Chế, còn có TDP là Ðại Uý
Nguyễn Tấn Chi (Khóa 12 SQTB/TD), Trung Úy Võ Kim Thạch (DDT/DDCH), Trung Uý
Nguyễn Văn Hào (DDT/DD1), Trung Uý Võ Văn Mười (DDT/DD2), Trung Uý Nguyễn Văn
Hùng (DDT/DD3), Trung Uý Hà Văn Dương (DDT/DD4) cùng các Sĩ quan truyền tin,
ban 2, ban 3 , quân y , sĩ quan tiền sát viên pháo binh..
Nhưng sau lần liên lạc được với Ðại Tá Dũng, TD2/43 coi như lạc lỏng trong rừng
sâu từ giây phút đó. Vùng này bốn bề xưa nay đầy rẩy các căn cứ cọng sản trong
đó có mật khu Hắc Dịch nổi tiếng, đang có sự hiện diện của SD341 Bắc Việt tân lập.
Từ đó, TD2/43 không còn ai liên lạc, chẳng có pháo binh, không quân hay thiết kỵ
nào yểm trợ, vì mọi đơn vị bạn đều cách xa. Nhưng cũng may, từ khi được thành lập
tại Phan Rí, tỉnh Bình Thuận vào năm 1955, qua danh xưng TD265, 84 sau đó là
TD2/43 biệt lập cho tới ngày nay. Hầu hết các vị Tiểu Ðoàn Trưởng như Ðại Uý
Nguyễn Văn Hai, cố Trung Tá Hắc Long Ðổ văn Tân, cố Trung Tá Hắc Long Nguyễn
Văn Thoại và cuối cùng là Thiếu Tá Bảo Ðinh Nguyễn Hữu Chế, tất cả đều là những
đơn vị trưởng tài giỏi, đầy kinh nghiệm hành quân trong vùng, biết địa thế rõ
như lòng bàn tay, mà không cần phải xem bàn đồ., nhờ vậy mới không bị biển người
cọng sản tiêu diệt.
Từ 9 giờ sáng, TD2/43 đã bắt đầu chạm địch ở phía tây căn cứ
Long Giao., nhưng vì không có quân bạn yểm trợ, nên Thiếu Tá Chế đã cố gắng đoạn
chiến, đổi hướng nhiều lần lộ trình, vì không muốn gây thương vong cho đơn vị.
Ðến chiều cùng ngày, khi TD2/43 vào tới bìa của một khu rừng rậm, sau khi nghĩ
ngơi, Thiếu Tá Chế chia TD làm hai cánh, một do Ðại Uý Chi TDP chỉ huy, để hành
quân xuyên rừng về Long Thành. Cũng từ đó, TD chạm địch liên miên, đến đổi cánh
quân do Thiếu Tá Chế chỉ huy, chỉ còn vỏn vẹn có 28 người. Cũng trong đêm đó,
toán người của Thiếu Tá Chế lại bị lọt vào vòng vây, nhưng nhờ trong số này còn
có Trung Ðội Biệt kích thiện chiến nhất của TD, nên cuối cùng anh em thoát được.
Ðến ngày thứ tư, TD đến gần Long Thành nhưng TT Chế vẫn không dám liên lạc truyền
tin vì sợ lộ mục tiêu, dù lúc đó trên bầu trời lúc nào cũng có phi cơ của SD18BB
bay tìm kiếm TD2/43. Tại căn cứ Long Bình, tiền trạm của TD2/43 do Trung Uý
Nguyễn Văn Thắng, SQ ban 1 chỉ huy hậu cứ, điều động quân xa vào các bìa rừng
ven Long Thành để đón lính TD2/43., đã vượt thoát được vòng vây, trở về cõi sống.
Nói chung, cánh quân do Ðại Uý Chi, TDP chỉ huy gần như còn nguyên vẹn khi ra tới
Long Thành. Nhưng trái lại, cánh quân của Thiếu Tá Chế lại đụng độ rất nặng,
nhưng nhiều quân nhân còn sống sót, đã tìm được đường về điểm tãp trung. Dù đã
liên lạc được với Ðại Tá Hiếu Trung Ðoàn Trưởng TrD43 vào buổi chiều ngày
24/4/1975 nhưng tới 9 giờ sáng hôm sau, bốn chiếc trực thăng của SD mới vào bốc
người nhưng vẫn bị VC truy sát, không buông tha.
Tại căn cứ Long Bình, Tiểu Ðoàn tập hợp lại, bổ sung và tiếp tục chiến đấu,
sau khi thoát chết, để cùng với SD18BB và tướng Ðảo, cũng như tất cả các đơn vị
trưởng, chiến đấu cho tới ngày 30-4-1975, mới phải buông súng, rã ngũ vì lệnh đầu
hàng của Dương Văn Minh. Riêng Tiểu Ðoàn Trưởng TD 1/43 là Ðại Uý Chu hiện ở Úc
nhưng vào ngày 12-4-1975 được thay thế bởi Thiếu Tá Tùng. Thảm nhất là Tiểu
Ðoàn Trưởng TD3/43, Ðại Uý Du, ngày tan hàng về nhà, thì bị giặc bất ngay, đem
thủ tiêu mất xác.
Trong ‘ Ðại thắng mùa xuân’, Văn Tiến Dũng, Tổng tư lệnh bộ đội miền Bắc,
đã lấy lý do vì không kịp vẽ bản đồ Long Khánh, nên đã bị bại trận Xuân Lộc. Thật
sự trong 12 ngày ác chiến, Bắc Việt đã tung vào chiến trường sáu Sư Ðoàn , gồm
6,7,341,325,10 và 304 để chọi với SD18BB, Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù, TD82BDQ và các
TD.DPQ , Trung Ðội NQ của tỉnh Long Khánh. Kết quả có hơn 6000 cán binh bộ đội
bị phơi thây tại chỗ và 37 chiến xa đủ loại bị bắn cháy.
Ðể tưởng thưởng những quân nhân có công trong trận Xuân Lộc, quyền Tổng Tham
Mưu Trưởng lúc đó là Trung Tướng Ðồng Văn Khuyên, ban hành SVVT ân thưởng cho tất
cả quân nhân các đơn vị đã tham chiến , được lên một cấp. Riêng Chuẩn tướng Lê Minh
Ðảo, Tư lệnh Mặt Trận Long Khánh kiêm TL.SD18BB, được chính Tổng Thống Trần Văn
Hương, vinh thăng Thiếu Tướng, đặc cách tại Mặt Trận từ ngày 25-4-1975.
Bốn mươi mốt năm qua, cuộc chiến đã tàn theo năm tháng. Ngày nay ai có dịp được
xuôi ngược trên các nẻo đường quê hương lửa khói xa xưa, từ cổng bắc của Thị Trấn
Hố Nai, qua Bầu Cá, Trảng Bom, Hưng Lộc, Dầu Giây, lên Kiệm Tân, Túc Trưng, Ðịnh
Quán .. hay về Xuân Lộc, Tân Phong, Long Giao, Gia Ray, không hiểu họ có còn nhớ
chăng những ngày bi thảm tận tuyệt của đất nước vào cuối tháng 4-1975. Cũng
chính tại Xuân Lộc, người dân cũng như lính tráng của miền cao su-đất đỏ, trước
sự tàn bạo của giặc cộng xâm lăng Bắc Việt, đã phẩn nộ, tử chiến lần cuối cùng
với rợ Hồ. Trong lúc tại Sài Gòn người ta tìm đường trốn khỏi nước, thì tại
Xuân Lộc, người lính từ quan cho tới cấp binh nhì, binh sĩ quân dịch, từng giây
lội trong hố máu, hầm xương, còn trên đầu thì đội bom hứng đạn, giành nhau từng
vách tường cháy, đống gạch vụn, các công sự phòng thủ để giữ mạng . Tội nhất là
những lính của TD2/43 đơn vị cuối cùng, đói khát chết chóc trong rừng sâu, giữa
chốn ba quân, để tìm đường về cõi sống.
Bỗng dưng thấy thật u uất ngậm ngùi, khi vô tình đọc được bài cổ thi ‘ Lưỡng
Tây Hành’ của Trần Ðào thời Hậu Hán, nói lên thảm trạng chiến tranh, đến nỗi
xác của những người lính tại sa trường, đã trở thành ‘ đống xương vô định cao
hơn đầu ‘, mà tại hậu phương những người thiếu phụ vẫn cứ mãi bên án trông chồng
ngoài quan tái. Hỡi ơi mới đó mà đã bốn mươ mốt năm đoạn trường máu lệ, tóc xanh
thành tóc bạc, bạn bè thân thương một còn, chín mất, lưu lạc khắp ngàn phương,
khiến mất cứ mãi ngóng tìm.
‘
nghiêng bầu mà hỏi
thiên
hạ mang mang
ai người
tri kỷ
lại
đây cùng ta cạn một hồ trường
hồ
trường, hồ trường
ta
biết rót về đâu ?
(
thơ của Nguyễn Bá Trác)
Bài
viết qua các cuộc phỏng vấn :
-Thiếu
Tướng Lê Minh Đảo,
Cựu
Tư Lệnh SĐ18BB và Mặt Trận Long Khánh tháng 4/75
(tại
Honolulu tháng 4/2010 trong Đại Hội Ân Tình IV)
-Thiếu
Tá Nguyễn Hữu Chế
Cựu
Tiểu Đoàn Trưởng TĐ2/TrĐ43/SĐ18BB
(trong
ngày ra mắt sách của MG tại Westminster tháng 6/2007)
-Các
Cựu SQ/SĐ18BB : Đặng Trần Hoa, Tô Phạm Thái, Nguyễn Văn Liêu, Đặng Phúc..)
-Thiếu
Uý Trần Đình Cảnh tại Honolulu
Cựu
Trung Đội Trưởng TrĐ Trinh Sát/TĐ3/Tr52, trấn giữ Đồi Móng Ngựa..
-Tài
liệu của Nguyễn Đức Phương, Phạm Phong Dinh..
-Sách
báo trong và ngoài nước
Xóm
Cồn Hạ Uy Di
Tháng
4-2016
HỒ
ĐINH
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết