Chiến hữu Đỗ Hữu Nhơn
27/10/201606:37:00(Xem: 1335)
Chiến hữu Đỗ Hữu Nhơn
Giao Chỉ, San Jose
Chiến Hữu Đỗ Hữu Nhơn với chúng tôi
là bạn đồng khóa. Cùng một lớp tuổi. Năm xưa ở tuổi 20. Người miền Trung, người
miền Bắc. Người miền Nam. Cùng động viên nhập ngũ tháng 3 năm 1954. Tên là khóa
Cương Quyết số 2. Cương Quyết đầu tiên đã vào học được 3 tháng. Bây giờ đến
lượt chúng tôi. Thanh niên miền Nam và miền Trung vào trường Thủ Đức với 3 đại
đội. Thanh niên miền Bắc được đưa vào trường Đà Lạt có 2 đại đội. Chúng tôi
cùng ra trường tháng 10 năm 1954. Đất nước đã chia đôi. Các thiếu úy trẻ chỉ
còn về các các đơn vị từ Ca mau đến Bến Hải. Đám Bắc Kỳ chúng tôi mất Hà Nội.
Sau 21 năm chúng tôi cùng miền Nam xây dựng 2 nền cộng hòa rồi cùng chia tay vì
thảm họa nước mất nhà tan. Một số di tản 75. Nhiều chiến hữu ở lại trải qua
trên dưới 10 năm tù lao động cải tạo. Những anh em may mắn gặp nhau đầu thập
niên 90 tại đất Hoa Kỳ. Cương Quyết Đà Lạt họp khóa nhiều lần . Cương Quyết Thủ
Đức cũng gặp nhau nhiều lần. Mấy năm trước chúng tôi họp chung cả Thủ Đức lẫn
Đà Lạt. Tuy 2 bên không biết nhau trong quân trường nhưng đã nhiều phen là
chiến hữu suốt 2 thập niên quân vụ. Hôm nay, tại San Jose ghi dấu Cương Quyết
số 2 của cả 2 trường cùng ở một phương trời lận đận. Anh Đỗ Hữu Nhơn Trung Kỳ
mời các chiến hữu cả Nam và Bắc kỳ đến uống rượu mừng ông bà trong kỷ niệm 60
năm hôn lễ.
Tôi muốn giới thiệu chiến hữu Đỗ Hữu
Nhơn với các bằng hữu bốn phương. Nhưng biết nói gì đây. Biết viết làm sao. Ông
chiến binh già của tôi 21 năm quân ngũ một vợ 5 con. Người sinh viên sỹ quan
trẻ tuổi vốn là học sinh trường Khải Định, Huế sớm vô
quân đội, sớm lập gia đình nhưng năm 1961 đã nhẩy dù xuống mật khu Hải Yến. Nếu
các bạn đã từng ở lính trên 20 năm chắc biết chuyện mật khu Hải Yến ra sao. Đó
là mật khu của phe ta nằm sâu trong lòng đất địch. Vào thì dễ mà ra thì khó.
Chuyện cha Hóa với cái mật khu trong rừng Cà Mau phải viết riêng một bài. Thời
đó Liên đoàn 77 đã bắt anh trung úy trẻ cùng một toán lực lượng đặc biệt đầu
tiên nhẩy dù đêm xuống miền đất cuối cùng của miến Nam giáp vịnh Thái Lan. Để
hiểu biết về anh bạn cao niên vô cùng nguyên tắc chúng tôi xin bạn vàng cho coi
lại tài liệu và cuộc đời. Đời trung tá Đỗ Hữu Nhơn gồm nhiều giai đoạn. Sớ 1 là
đời chiến binh. Số 2 là các huy chương, số 3 là các quân trường, số 4 là giai
đoạn hơn 8 năm tù cộng sản và thứ 5 là chuyện xuất ngoại. Gia đình ông ngày nay
xum họp tại San Jose sau khi có đủ các mẫu hàng. Có các con vượt biển thành
công. Có con đi đoàn tụ và có cả gia đình HO qua Mỹ. Trải qua 21 năm quân vụ
ông Nhơn có đủ các loại huy chương. Ông trải qua tất cả các quân trường. Nơi
ông đi học và nhiều nơi ông là người đứng lớp dạy học trò. Là một trong các sĩ
quan Lực lượng đặc biệt đợt đầu tiên, ông đã nhiều phen vào sinh ra tử.
Trong suốt đời quân ngũ, Việt Nam Cộng Hòa đã giao cho ông không phải một quận
mà lần lượt làm quận trưởng ba quận kiêm chi khu trưởng 3 vùng đất oan nghiệt.
Ngay tại quận đầu tiên ông đã tham dự vào trận Diên Khánh để được cả ba tổng
thống VNCH, Đại Hàn và Hoa Kỳ ban thưởng huy chương. Biết bao nhiêu sĩ quan
VNCH đã từng làm quận trưởng ở những vùng chiến tranh nhưng chưa ai mà trong
liên tiếp 10 năm từ 1965 đến 1975 lần lượt nhận chức và bình định từ quận này
qua quận khác.
Những thành tích cuộc đời ông quận Nhơn cũng chưa xuất sắc bằng cuộc đời người tù lương tâm Đỗ Hữu Nhơn. Đọc qua nhật ký trong tù mới thấy được những quyết tâm của người sỹ quan lực lượng đặc biệt. Người tù câm nín, âm thầm ghi lại từng ngày từng giờ trong lao tù cộng sản. Tuyệt đối không oán thù, không cường điệu. Sự ghi nhận từng ngày từng giờ chứng tỏ ông còn hoàn toàn tin tưởng ở tương lai. Không hề thất vọng. Ông tin chắc sẽ có ngày chiến thắng. Ngày tìm được ánh sáng tự do. Ngày sẽ thoát khỏi ngục tù. Xin các cùng tôi đọc nhật ký hành quân suốt 60 năm qua của trung tá Đỗ hữu Nhơn. Đi lính viết nhật ký hành quân đã đành. Đi tù cũng vẫn là hành quân và sau cùng lập hồ sơ đi Mỹ cũng là hành quân. Khi qua Mỹ năm 1990 ông lại tiếp tục hành quân. Đỗ hữu Nhơn là cựu chiến sĩ thứ thiệt. Suốt 25 năm ở đất Hoa Kỳ ông tham dự hầu hết các sinh hoạt cộng đồng, các cuộc biểu dương các kỳ hội họp. Không bao giờ mỏi mệt. Được như vậy bởi vì ông có một gia đình vợ con hòa thuận và nhiệt tình với người chồng, người cha người ông luôn luôn là biểu tượng của một gia đình hãnh diện. Bạn Đỗ hữu Nhơn, anh em cùng khóa cần hiểu thêm ông để hãnh diện vì ông. Ai đã từng sống trong đặc khu Hải Yến năm 1961 và ai là những người dân của ba quận Diên Khánh, Vĩnh Xương và Ninh Hòa sẽ mãi mãi nhớ đến ông..Sau đây là bản tướng mạo quân vụ và cả cuộc đời tù đầy được tóm tắt lại:
Những thành tích cuộc đời ông quận Nhơn cũng chưa xuất sắc bằng cuộc đời người tù lương tâm Đỗ Hữu Nhơn. Đọc qua nhật ký trong tù mới thấy được những quyết tâm của người sỹ quan lực lượng đặc biệt. Người tù câm nín, âm thầm ghi lại từng ngày từng giờ trong lao tù cộng sản. Tuyệt đối không oán thù, không cường điệu. Sự ghi nhận từng ngày từng giờ chứng tỏ ông còn hoàn toàn tin tưởng ở tương lai. Không hề thất vọng. Ông tin chắc sẽ có ngày chiến thắng. Ngày tìm được ánh sáng tự do. Ngày sẽ thoát khỏi ngục tù. Xin các cùng tôi đọc nhật ký hành quân suốt 60 năm qua của trung tá Đỗ hữu Nhơn. Đi lính viết nhật ký hành quân đã đành. Đi tù cũng vẫn là hành quân và sau cùng lập hồ sơ đi Mỹ cũng là hành quân. Khi qua Mỹ năm 1990 ông lại tiếp tục hành quân. Đỗ hữu Nhơn là cựu chiến sĩ thứ thiệt. Suốt 25 năm ở đất Hoa Kỳ ông tham dự hầu hết các sinh hoạt cộng đồng, các cuộc biểu dương các kỳ hội họp. Không bao giờ mỏi mệt. Được như vậy bởi vì ông có một gia đình vợ con hòa thuận và nhiệt tình với người chồng, người cha người ông luôn luôn là biểu tượng của một gia đình hãnh diện. Bạn Đỗ hữu Nhơn, anh em cùng khóa cần hiểu thêm ông để hãnh diện vì ông. Ai đã từng sống trong đặc khu Hải Yến năm 1961 và ai là những người dân của ba quận Diên Khánh, Vĩnh Xương và Ninh Hòa sẽ mãi mãi nhớ đến ông..Sau đây là bản tướng mạo quân vụ và cả cuộc đời tù đầy được tóm tắt lại:
Đỗ Hữu Nhơn: (1) Đời quân ngũ.
1954
1954
-1954: Học sinh lớp Đệ tam C (Ban
Sinh ngữ) Trường Trung học Khải Định, Huế (niên khóa 1953-1954)
-Động viên Khóa 4 Phụ (Cương Quyết 2)
Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức.
14 tháng 03 năm 1954
Nhập ngũ ngày 14 tháng 03 năm 1954. Mãn khóa ngày 01 tháng 10 năm 1954 với cấp bậc Thiếu úy Trừ bị.-Thuyên chuyển về Tiểu đoàn 2 BVN, Liên đoàn Lưu động số 6 do Trung tá Nguyễn hữu Có chỉ huy, giữ chức vụ Trung đội trưởng của Đại đôi 3.
14 tháng 03 năm 1954
Nhập ngũ ngày 14 tháng 03 năm 1954. Mãn khóa ngày 01 tháng 10 năm 1954 với cấp bậc Thiếu úy Trừ bị.-Thuyên chuyển về Tiểu đoàn 2 BVN, Liên đoàn Lưu động số 6 do Trung tá Nguyễn hữu Có chỉ huy, giữ chức vụ Trung đội trưởng của Đại đôi 3.
1955
01.03.1955: Sĩ quan Tiếp Liệu Tiểu đoàn 1/6. 10.10.1955: Đại đội trưởng Đại đội Chỉ huy Tiểu đoàn 1/6, đóng quân ở Bắc Môn Phường,Tỉnh Quảng Ngãi.
01.03.1955: Sĩ quan Tiếp Liệu Tiểu đoàn 1/6. 10.10.1955: Đại đội trưởng Đại đội Chỉ huy Tiểu đoàn 1/6, đóng quân ở Bắc Môn Phường,Tỉnh Quảng Ngãi.
1956
01.04.1956: Đại đội
trưởng Đại đội 4, Tiểu đoàn 1/6.
Sư đoàn 2 Bộ Binh được thành lập.Toàn
bộ di chuyển ra Đà Nẵng, đóng quân trong Xã An Thái, phía Hữu ngạn Sông Hàn).
Trung đoàn 6 đóng quân trong Phi trường Đà Nẵng, Đại đội 4 đóng quân
trong Xã Hòa Cầm, huyện Hòa Vang,Tỉnh Quảng Nam
Thăng cấp Trung úy trừ bị tạm thời: 04.08.1956
Thăng cấp Trung úy trừ bị chính thức:
01.10.1956
Chuyển sang Hiện dịch.
1957
14.08.1957: Theo học Khóa
A, Khóa đầu tiên Sĩ quan Lực Lượng Đặc biệt Việt Nam tại Trường Biệt đông đội
Thể dục,Thể thao Đinh tiên Hoàng, Đồng Đế, Nhatrang do Toán A/LLĐB Mỹ từ
Okinawa (Nhật bổn). sang huấn luyện.Sở Liên Lạc Khai Thác Địa Hình, trực thuộc Phủ
Tổng Thống, gọi đích danh lên đường thụ huấn
1958
01.01.1958:Thuyên chuyển
từ Tiểu đoàn 1/6 về Liên đội Quan sát số 1 sau đổi thành Liên đoàn 77 Lực Lượng
Đặc Biệt. Đơn vị đóng quân bên trong Trường Biệt Động Đội Nhatrang.
04.03.1958: Theo học
Khóa Nhảy dù tại Bộ Tư Lệnh Nhảy dù (Trại Hoàng hoa Thám),Sài gòn. Lúc bấy giờ
đứa con trai đầu lòng mới được 25 ngày sanh.
04.04.1958: Mãn khóa
Dù, trả về đơn vị cũ, làm Huấn luyện viên Phá hủy, Phá hoại, Thuốc nổ, Mìn, Bẫy.
1960
16.02.1960: Theo học
Khóa 13 Sĩ quan Tham mưu tại Trường Đại học Quân sự Sài gòn (trong Trại Trần
hưng Đạo), thời gian kéo dài 6 tháng.Trung tướng Trần văn Minh, Chỉ huy trưởng
Trường. Trung tá Hoàng xuân Lãm, Giám đốc Khóa học.
16.07.1960: Mãn Khóa
Tham mưu, trả về đơn vị cũ tiếp tục làm Huấn luyện viên.
Trong thời gian vừa huấn luyện, vừa
xây dựng, vừa phát triễn, đơn vị thường xuyên mở các cuộc hành quân thực tập
ngắn hạn và dài hạn vào các Mật khu địch như Mật khu Tỉnh ủy Hòn Giũ (Khánh
hòa); Mật khu Lê hồng Phong (Phan Thiết); Chiến khu D (Võ Đất, Tánh Linh); Khe
Sanh, Lao Bảo; Biên giới Lào Việt...
1961 Nhẩy dù xuống Hải Yến
01.02.1961: Liên đoàn 77 Lực Lượng Đặc Biệt chỉ định làm Trưởng toán A Hành quân & Huấn luyện, danh hiệu Toán Con Ó, (Toán Tiểu đoàn), thâm nhập bằng dù vào ban đêm xuống Xã Tân hưng Tây, Quận Cái Nước, Tỉnh An Xuyên. Đây là Toán A/LLĐB đầu tiên, xuất phát hành quân để trắc nghiệm kết quả sau khi được LLĐB Mỹ huấn luyện. Liên đoàn 77 Lực Lượng Đặc Biệt báo cáo lên Sở Khai thác địa hình Phủ Tổng Thống. Nơi đây đúc kết đệ trình lên Bộ Tổng Tham Mưu, lên Tổng Thống để có kế hoạch phát triển LLĐB/VN sau nầy.
01.02.1961: Liên đoàn 77 Lực Lượng Đặc Biệt chỉ định làm Trưởng toán A Hành quân & Huấn luyện, danh hiệu Toán Con Ó, (Toán Tiểu đoàn), thâm nhập bằng dù vào ban đêm xuống Xã Tân hưng Tây, Quận Cái Nước, Tỉnh An Xuyên. Đây là Toán A/LLĐB đầu tiên, xuất phát hành quân để trắc nghiệm kết quả sau khi được LLĐB Mỹ huấn luyện. Liên đoàn 77 Lực Lượng Đặc Biệt báo cáo lên Sở Khai thác địa hình Phủ Tổng Thống. Nơi đây đúc kết đệ trình lên Bộ Tổng Tham Mưu, lên Tổng Thống để có kế hoạch phát triển LLĐB/VN sau nầy.
Cha Nguyễn lạc Hóa, Đại úy Quốc Dân
đảng của Trung hoa Dân Quốc (Tưởng giới Thạch). Khi Cộng sản chiếm trọn Trung
hoa, Cha hướng dẫn trên một trăm gia đình người Nùng theo Cha đến lập nghiệp ở
Móng Cáy, Bắc Việt. Khi Hiệp định Geneve được ký kết, chia đôi đất nước, Cha
lại đưa số gia đình nói trên sang Cao Miên lập nghiệp, làm phu cho Đồn diền cao
su. Tổng thống Ngô đình Diệm chấp thuận, cho phép Cha thành lập một Chiến khu
chống Cộng ở khu vực miệt rừng tràm Cà Mau, gần bờ Vịnh Thái Lan, ngay trong
lòng địch, với số con chiên thuộc thành phần dân tộc Nùng di cư. Lúc mới thành
hình, mang tên là Giáo xứ Bình Hưng (sau nầy đổi danh xưng thành Biệt khu Hải
yến).
Vào ngày giờ được ấn định, một Toán
A/LLĐB nhảy dù đêm xuống Biệt Khu Hải Yến.
Toán làm gi? Đi đâu? Khi nào đi? Đi
bằng phương tiện gi? Đi thời gian bao lâu?... người không có nhiệm vụ, kể cả
gia đình, hoàn toàn không biết.
Tôi đứng ở cửa máy bay, hai tay chống
vào thân tàu, đầu ló ra ngoài tìm bãi thả. Phi cơ bay quần quần hơn nửa giờ
đồng hồ. Khi bay ra biển đông, nước biển ánh lên màu bạc. Khi bay vào nội địa,
rừng tràm, rừng đước đen kịt, đen ngòm ! Phi công định bay về theo lệnh, bỗng
nhiên một số ánh lửa bùng sáng lên trong đêm đen lần lượt Toán nhảy dù ra
ngoài. Hôm nay Trời hơi có gió. Những cánh dù bay lạc ra khỏi bãi. Gần 2 giờ
sau, khoảng 3 giờ sáng, Toán Tiếp nhận mới đón đủ 14 người. Người nào, người
nấy quần áo ướt nhẹp, giày vớ sũng bùn.Nhiệm vụ của Toán LLĐB nhảy dù xuống, ở
lại giúp Cha tổ chức đơn vị; huấn luyện; trang bị vũ khí; thiết lập hệ thống
tình báo và phản tình báo; thiết lập hệ thống truyền tin & liên lạc; hệ
thống tiếp liệu; quân y & tản thương, hướng dẫn hành quân.
Khi công tác châm dứt, để tưởng
thưởng công lao tôi đã được thăng cấp Đại úy tạm thời và ân thưởng Huy
chương Anh Dũng. 01.10.1961: Lên đường du
học Hoa kỳ.
1962
01.01.1962: Mãn khóa học,
về nước, thuyên chuyển về đơn vị cũ.
20.04.1962- Giữ chức vụ
Chỉ huy Trưởng trại Hòa Cầm, Đà Nẵng, huấn luyện Lực Lượng Dân sự Chiến đấu,
Thanh niên chiến đấu bảo vệ Ấp Chiến lược, Trail forces (Lực lượng tìm và theo
dõi đường mòn).
26.12.1962: Chỉ huy trưởng B5/77 (Toán Trung đoàn) kiêm Chỉ huy Trưởng Trại Dù Tho (Ba Xuyên).
26.12.1962: Chỉ huy trưởng B5/77 (Toán Trung đoàn) kiêm Chỉ huy Trưởng Trại Dù Tho (Ba Xuyên).
1963
16.08.1963 Thăng cấp
Đại úy chính thức:
1964
01.07.1964: Được chỉ định
theo học Khóa Sĩ quan Bộ Binh Cao cấp (Advanced Infantry Career Course) tại
Trường Bọ Binh Fort Benning, Georgia, USA.
1965 Trận Diên Khánh.
29.03.1965: Mãn khóa, về
nước giữ chức vụ Trưởng khối Quân huấn Trung tâm huấn luyện LLĐB Đồng bà Thìn
(Cam ranh).
16.06.1965: Sĩ quan
Phụ tá Chỉ huy trưởng TTHL/ĐBT kiêm Trưởng Khối Quân huấn.
Vào khoảng đầu năm 1965, Bộ Tư Lệnh
LLĐB/VN và Liên đoàn 5 LLĐB Hoa kỳ di chuyển từ Sài gòn ra Nhatrang. Thành lập
Trại Trung Dũng gồm Bộ Chỉ huy Trại và 4 Đại đội Biệt kích, đồn trú trong Thành
Diên khánh. Nhiệm vụ: bảo vệ 2 Bộ Tư Lệnh Việt Mỹ (Vòng đai Phi trường) và hành
quân lưu động trong toàn Tỉnh.
26.10.1965: Tôi được
Bộ Tư Lệnh LLĐB/VN chọn và giới thiệu sang Tỉnh. Tỉnh đề nghị Bộ Nội Vụ bổ
nhiệm tôi vào chức vụ Quận trưởng kiêm Chi khu trưởng Diên khánh thay thế Đại
úy Hoàng kim Ninh.
Thời gian nầy, tình hình an ninh Quận
Diên khánh không mấy tốt đẹp. Tối đến, dân chúng đều co cụm về Khu vực Thành và
Quận lỵ. Tôi còn nhớ rõ, mấy tháng đầu tôi nhậm chức, có tháng đụng trận nhỏ
đến 22 lần trong đêm. Lần hồi, trong Chương trình Bình định & Phát triễn
của Chương trình Xây dựng Nông thôn + những cuộc hành quân liên miên của các
Lực Lượng Biệt kích, Địa phương Quân, Nghĩa quân, tình hình mỗi ngày được cải
thiện. Bộ Tư lệnh Sư đoàn Bạch Mã Đại hàn đóng quân trong Ấp Đắc Lộc, Xã Vĩnh
Phương, giáp ranh với Quận Diên Khánh. Một Đại đội Đại hàn đóng quân trên đỉnh
Núi Hòn Ngang, Xã Diên Sơn, Quận Diên Khánh, cung cấp an ninh xa, luôn mở những
cuộc hành quân bên ngoài.
Tuy vậy, những cuộc đụng độ cấp Trung
đội trở xuống giữa Lực Lượng Biệt kích, Địa phương quân, Nghĩa
Ttrong thời gian tôi làm Quận trưởng
Diên Khánh (từ ngày 26.10.1965 đến 23.07.1969), có khoảng 3 trận đụng độ cấp
Trung đội (2 lần đụng độ với Biệt kích trong Xã Diên An; một lần đụng độ với
Nghĩa quân trong Ấp Bình Khánh, Xã Diên Hòa). Đụng độ cấp nhỏ, không kể. Mỗi
lần đụng độ cấp Trung đội, địch rút lui, bỏ lại vài chục xác đếm, được tại chỗ.
Một trận đánh lớn, cấp Tiểu đoàn, đã
xảy ra vào cuối năm 1968 tại Âp Phú Lộc, Xã Diên Thủy, Quận Diên Khánh
(Việt Cộng đặt tên là Chiến dịch Quần Bám Trụ) kéo dài một ngày, một đêm. Bên
ta, có Pháo binh và Phi cơ yểm trợ. Lực Lượng diện địa gồm BKQ + ĐPQ + NQ. Lực
Lượng Đại hàn ở vòng đai bên ngoài, xa xa, không trực chiến.
Sau một ngày, một đêm giao chiến,
địch rút lui, bỏ lại 67 xác chết (đếm tại chỗ). Xác được mang vể để tại đầu cẩu
Phú Lộc. Thân nhân đến nhận diện. Nếu đúng, cho phép mang về chôn. Số còn lại,
Chính quyền sở tại lo việc mai táng tập thể.
Trong trận đánh nầy tôi được Tướng Tư
lệnh Sư đoàn Bạch Mã Đại hàn, đại diện Tổng thống Pac Chung Hy trao gắn Huy
chương Võ công bội tinh (Wharang) tại Quận đường Diên Khánh.
Sau trận đánh nầy, tình hình an ninh
trong Quận được cải thiện tốt đẹp.
1968
01.02.1968 Thăng cấp Thiếu tá
nhiệm chức:
01.04.1968 Thăng cấp Thiếu tá
thực thụ:
1969
23.07.1969: Tôi được bổ nhiệm giữ
chức vụ Quận trưởng kiêm Chi khu trưởng Quận Vĩnh Xương,Tỉnh Khánh hòa. (Tỉnh
trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Khánh hòa lúc bấy giờ là Trung tá Lê Khánh và Trung
tá Lý trọng Lễ).Trong ngày tôi lên đường dự Lễ bàn giao chức vụ Quận trưởng
Vĩnh Xương, một đoàn xe chở Quân, Cán, Chính và Thân hào Nhân sĩ Quận Diên
khánh theo sau đưa tiễn tôi và cùng vào Hội trường Quận Vĩnh Xương tham dự Lễ.
1970
01.07.1970 Thăng cấp Trung tá nhiệm chức
1971
01.01.1971 Thăng
cấp Trung tá thực thụ
15.10.1970: Tôi được đề
cử theo học bổ túc Khóa 5 Quân chánh mở tại Trường Đại học Quân Y, Sài gòn. Thụ
huấn xong, trở về đọn vị đảm nhiệm chức vụ cũ.
01.01.1971 Thăng cấp
Trung tá thực thụ:
1972
24.05.1972: Tôi nhận lệnh
của Đại tá Lý bá Phẩm, Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Khánh hòa cấp tốc ra
Ninh hòa thay thế Thiếu tá Nguyễn văn Dơi trong chức vụ Quận trưởng kiêm Chi
khu trưởng Ninh Hòa. Ngồi quận Ninh Hòa cho đến ngày mất nước. Sau đó là trận
tù :Cải tạo".
Đỗ Hữu Nhơn (4) TÙ CỘNG SẢN.
QUÁ TRÌNH TÙ CỘNG SẢN SAU KHI MIỀN NAM BỊ MẤT (30/4/1975) :
QUÁ TRÌNH TÙ CỘNG SẢN SAU KHI MIỀN NAM BỊ MẤT (30/4/1975) :
1975
1.5.1975 Trình diện đăng ký tại khóm 9, Cư xá Lữ Gia , phường Phú Thọ, quận 11, Ủy Ban Khởi nghĩa Huyện 11, Thành phố Hồ Chí Minh.
10-5-1975(sáng) : Trình diện đăng ký tại 91 Trần hoàng Quân, Chợ Lớn. Ban An Ninh Nội Chính Ủy Ban Quân Quản Thành phố Sài Gòn Gia Định
10-5-1975 (chiều) : Trình diện đăng ký Đảng phái ( Đảng Dân Chủ), Ban An Ninh Nội Chính Thành phố Hồ Chí Minh đặt tại Trường Bác Ái.
14-6-1975 (chiều 5 tháng 5 ÂL) Trình diện tập trung đi HỌC TẬP CẢI TẠO thực tế là TÙ KHỔ SAI LƯU ĐÀY BIỆT XỨ VÔ THỜI HẠN tại trường DONBOSSCO Gò Vấp, Gia Định.
16-6-1975 : 12 giờ đêm xe chở tù di chuyển, 7 giờ sáng 17-6-1975 đổ tù xuống trại Long Giao (Long Khánh). Đây là doanh trại của Sư Đoàn 18 Bộ Binh Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa. Thời gian này vừa lao động, vừa học 10 bài căn bản Cũa Chủ nghĩa Xã hội.
10-11-1975 : Xe di chuyển tù từ Trại Long Giao về trại Tân Hiệp, Suối Máu, Biên Hòa.
1976
10-6-1976 : 20 giờ xe chở tù, bịt kín mui, từ trại Tân Hiệp đến Tân Cảng ( New Port). Xuống tàu thủy chạy cận duyên ra miền Bắc Xã hội Chủ Nghĩa.
13-6-1976 : 17 giờ tàu thủy đến Bến Thủy, Vinh. 19 giờ lên tàu hỏa chạy bằng củi và than đá. Hơn 60 người tù đực nhốt trong một toa chở súc vật, cửa toa đóng kín.Tàu ngừng lại ở Ga Thanh Hóa và Ga Cổ Loa để nhận bánh mì và ruốc chà bông Trung Quốc. Tàu hỏa đến Ga Yên Bái lúc 2 giờ đêm
15-6-1976. 5 giờ sáng các cửa toa tàu buộc chặt bằng dây kẽm gai được chặt bằng búa.Tù được đổ xuống. Hai Sĩ quan cấp Trung Tá bị ngộp thở, đã chết từ lâu trong toa tàu trên đường di chuyển.
15-6-1976 : Xe chở tù đến Trại 3, Liên trại 1. Trại do Quân đội quản lý. Trại lợp bằn mái nứa, vách đan bằng nứa, sườn nhà và cộ bằng cây bường, cây vầu. Tất cả được buộc bằng mây và giang. Trại cất dựa vào vách núi. Thuộc địa phận xã Việt cường, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái ( Hoàng liên Sơn). Thời gian này Trại trồng cây lương thực ( sắn, bắp đậu . . .); chặt và cưa thành khúc 3m cây bồ đề để sản xuất cây diêm quẹt và giấy . . .
13-9-1976 : Lệnh chuyển trại. Rời trại 3. Di chuyển bộ trên 36 km trong một ngày. Tối ngủ đêm tại Bến ca nô Thác Bà.
14-9-1976 : Di chuyển bằng ca nô ( khoảng 2 giờ). Ca nô cặp bến Mỹ gia. Tiếp tục di chuyển bộ 5km để đến Trại 8, Liên trại 4, Đoàn 776. Trại cất bằng cây, bương, vầu, lồ ồ, nứa, dựa vào vách núi thuộc xã Mỹ Gia, huyện Yên Bình, Tỉnh Yên Bái ( Hoàng Liên Sơn). Thời gian này Trại khai hoang, phá rừng,Trồng cây lương thực, đốn vật liệu cây rừng để xây cất thêm doanh trại, Ngoài ra cung cấp vật liệu cây rừng để xây dựng doanh trại Đoàn 776 tại Cẩm Nhân. Trại còn phụ trách công tác làm đường từ Trại đến Cẩm Nhân.
1977-1978
30-10-1977 : Lệnh chuyển trại. Di chuyển bộ từ Trại đến tạm trú qua đêm tại một ngôi Trường. Đoạn đường dài độ 20 km.
31-10-1977 : Xe chở tù đến Trại Vĩnh Quang do công an quản lý. Trại nằm trong xả Đạo Trù, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phú ( Vĩnh Yên, Phúc Yên, Phú Thọ). VĩnhYên cách Hà Nội 63 Km. Vĩnh Yên cách trại Vĩnh Quang 28 km. Từ miền Thượng Du Bắc Việt nay chuyển về miền Trung Du. Biên chế vô đội chuyên làm chè ( trồng chè, chăm bón chè, cắt xén chè, hái chè, sao chè,đóng gói chè. . .). Các Đội khác sản xuất lương thực( trồng cây lương thực, nuôi gia súc, đào ao thả cá . . . )
1979-1981
15-2-1979 Dự khóa Chính trị 1 tháng tuổi do Bộ Nội Vụ tổ chức và điều hành. Mục đích: Viết về con người và tổ chức chế độ củ + Hồi chánh viên.
.
1982
2-5-1982 Lệnh chuyển trại. Xe chở tù từ trại Vĩnh Quang đến Ga Bình Lục ( Nam Định). Lần đầu tiên trong đời bị mang còng số 8. Còng chung với Thiếu tá Từ phục vụ ở Phòng 2 Bộ Tổng Tham Mưu. Ngủ đêm trong Ga Bình Lục, Chờ tàu về Nam.
3-5-1982 11 giờ trưa, lên tàu tại Ga Bình Lục, chuyển về Nam.
6-5-1982 Tàu đến Ga Giá Rai, Long Khánh lúc 2 giờ sáng. Di chuyển bộ 4 km về Trại Xuân Lộc. Phân trại A, Đội 21A, Z 30A ĐồngNai. Chuyên phá rẩy, trồng cây lương thực. Trong thời gian lao động kham khổ, cực nhọc, bị lao, ra máu 2 lần, nằm bệnh xá của trại 1 tuần lể.
.
1983
17-6-1983 Có tên trong Quyết Định Tha. Về đến nhà tối 18-6-1983 ( lệnh ký 20-6-1983) kết thúc 8 năm 6 ngày tù tội. Quản chế tại địa phương 12 tháng. Quyết định tha số 16 QĐ ngày 1/6/1983 của Bộ Nội Vụ.Giấy ra trại số 482/GRT ngày 20/6/1983 của Trại Xuân Lộc do Thượng tá Trịnh xuân Thích, Trưởng Trại ký tên và đóng dấu. Được tha ra khỏi Trại với Bệnh án lao phổ, giản phế quản, xuất huyết, nằm trong bệnh xá trong Trại Xuân Lộc.
.
1984
19-5-1984 Phục hồi quyền công dân. Quyết định số 07/QĐ ngày 19-5-1984 của Ủy Ban Nhân Dân quận Bình Thạnh, thành phố Hồ chí Minh. Phường 4, quận Bình thạnh trao lại ngày 24-7-1984. Địa chỉ tạm trú tại Thành phố Hồ chí minh: ( gia đình không có hộ khẩu tại Thành phố, (trừ Đức con trai trưởng) (1) 33/27A Vạn Kiếp , phường 4 ( nay đổi thành phường 3), quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ chí Minh từ 19-7-1983 đến 18-1-1989. (2) 522/2B đường Cù Lao, phường 2, Khu vực 4, Quận Phú Nhuận , Thành phố Hồ chí minh. Căn nhà này lúc đầu thuê, sau mua, trị giá 1 cây vàng( Ông bà nội cho vàng).
.
1.5.1975 Trình diện đăng ký tại khóm 9, Cư xá Lữ Gia , phường Phú Thọ, quận 11, Ủy Ban Khởi nghĩa Huyện 11, Thành phố Hồ Chí Minh.
10-5-1975(sáng) : Trình diện đăng ký tại 91 Trần hoàng Quân, Chợ Lớn. Ban An Ninh Nội Chính Ủy Ban Quân Quản Thành phố Sài Gòn Gia Định
10-5-1975 (chiều) : Trình diện đăng ký Đảng phái ( Đảng Dân Chủ), Ban An Ninh Nội Chính Thành phố Hồ Chí Minh đặt tại Trường Bác Ái.
14-6-1975 (chiều 5 tháng 5 ÂL) Trình diện tập trung đi HỌC TẬP CẢI TẠO thực tế là TÙ KHỔ SAI LƯU ĐÀY BIỆT XỨ VÔ THỜI HẠN tại trường DONBOSSCO Gò Vấp, Gia Định.
16-6-1975 : 12 giờ đêm xe chở tù di chuyển, 7 giờ sáng 17-6-1975 đổ tù xuống trại Long Giao (Long Khánh). Đây là doanh trại của Sư Đoàn 18 Bộ Binh Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa. Thời gian này vừa lao động, vừa học 10 bài căn bản Cũa Chủ nghĩa Xã hội.
10-11-1975 : Xe di chuyển tù từ Trại Long Giao về trại Tân Hiệp, Suối Máu, Biên Hòa.
1976
10-6-1976 : 20 giờ xe chở tù, bịt kín mui, từ trại Tân Hiệp đến Tân Cảng ( New Port). Xuống tàu thủy chạy cận duyên ra miền Bắc Xã hội Chủ Nghĩa.
13-6-1976 : 17 giờ tàu thủy đến Bến Thủy, Vinh. 19 giờ lên tàu hỏa chạy bằng củi và than đá. Hơn 60 người tù đực nhốt trong một toa chở súc vật, cửa toa đóng kín.Tàu ngừng lại ở Ga Thanh Hóa và Ga Cổ Loa để nhận bánh mì và ruốc chà bông Trung Quốc. Tàu hỏa đến Ga Yên Bái lúc 2 giờ đêm
15-6-1976. 5 giờ sáng các cửa toa tàu buộc chặt bằng dây kẽm gai được chặt bằng búa.Tù được đổ xuống. Hai Sĩ quan cấp Trung Tá bị ngộp thở, đã chết từ lâu trong toa tàu trên đường di chuyển.
15-6-1976 : Xe chở tù đến Trại 3, Liên trại 1. Trại do Quân đội quản lý. Trại lợp bằn mái nứa, vách đan bằng nứa, sườn nhà và cộ bằng cây bường, cây vầu. Tất cả được buộc bằng mây và giang. Trại cất dựa vào vách núi. Thuộc địa phận xã Việt cường, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái ( Hoàng liên Sơn). Thời gian này Trại trồng cây lương thực ( sắn, bắp đậu . . .); chặt và cưa thành khúc 3m cây bồ đề để sản xuất cây diêm quẹt và giấy . . .
13-9-1976 : Lệnh chuyển trại. Rời trại 3. Di chuyển bộ trên 36 km trong một ngày. Tối ngủ đêm tại Bến ca nô Thác Bà.
14-9-1976 : Di chuyển bằng ca nô ( khoảng 2 giờ). Ca nô cặp bến Mỹ gia. Tiếp tục di chuyển bộ 5km để đến Trại 8, Liên trại 4, Đoàn 776. Trại cất bằng cây, bương, vầu, lồ ồ, nứa, dựa vào vách núi thuộc xã Mỹ Gia, huyện Yên Bình, Tỉnh Yên Bái ( Hoàng Liên Sơn). Thời gian này Trại khai hoang, phá rừng,Trồng cây lương thực, đốn vật liệu cây rừng để xây cất thêm doanh trại, Ngoài ra cung cấp vật liệu cây rừng để xây dựng doanh trại Đoàn 776 tại Cẩm Nhân. Trại còn phụ trách công tác làm đường từ Trại đến Cẩm Nhân.
1977-1978
30-10-1977 : Lệnh chuyển trại. Di chuyển bộ từ Trại đến tạm trú qua đêm tại một ngôi Trường. Đoạn đường dài độ 20 km.
31-10-1977 : Xe chở tù đến Trại Vĩnh Quang do công an quản lý. Trại nằm trong xả Đạo Trù, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phú ( Vĩnh Yên, Phúc Yên, Phú Thọ). VĩnhYên cách Hà Nội 63 Km. Vĩnh Yên cách trại Vĩnh Quang 28 km. Từ miền Thượng Du Bắc Việt nay chuyển về miền Trung Du. Biên chế vô đội chuyên làm chè ( trồng chè, chăm bón chè, cắt xén chè, hái chè, sao chè,đóng gói chè. . .). Các Đội khác sản xuất lương thực( trồng cây lương thực, nuôi gia súc, đào ao thả cá . . . )
1979-1981
15-2-1979 Dự khóa Chính trị 1 tháng tuổi do Bộ Nội Vụ tổ chức và điều hành. Mục đích: Viết về con người và tổ chức chế độ củ + Hồi chánh viên.
.
1982
2-5-1982 Lệnh chuyển trại. Xe chở tù từ trại Vĩnh Quang đến Ga Bình Lục ( Nam Định). Lần đầu tiên trong đời bị mang còng số 8. Còng chung với Thiếu tá Từ phục vụ ở Phòng 2 Bộ Tổng Tham Mưu. Ngủ đêm trong Ga Bình Lục, Chờ tàu về Nam.
3-5-1982 11 giờ trưa, lên tàu tại Ga Bình Lục, chuyển về Nam.
6-5-1982 Tàu đến Ga Giá Rai, Long Khánh lúc 2 giờ sáng. Di chuyển bộ 4 km về Trại Xuân Lộc. Phân trại A, Đội 21A, Z 30A ĐồngNai. Chuyên phá rẩy, trồng cây lương thực. Trong thời gian lao động kham khổ, cực nhọc, bị lao, ra máu 2 lần, nằm bệnh xá của trại 1 tuần lể.
.
1983
17-6-1983 Có tên trong Quyết Định Tha. Về đến nhà tối 18-6-1983 ( lệnh ký 20-6-1983) kết thúc 8 năm 6 ngày tù tội. Quản chế tại địa phương 12 tháng. Quyết định tha số 16 QĐ ngày 1/6/1983 của Bộ Nội Vụ.Giấy ra trại số 482/GRT ngày 20/6/1983 của Trại Xuân Lộc do Thượng tá Trịnh xuân Thích, Trưởng Trại ký tên và đóng dấu. Được tha ra khỏi Trại với Bệnh án lao phổ, giản phế quản, xuất huyết, nằm trong bệnh xá trong Trại Xuân Lộc.
.
1984
19-5-1984 Phục hồi quyền công dân. Quyết định số 07/QĐ ngày 19-5-1984 của Ủy Ban Nhân Dân quận Bình Thạnh, thành phố Hồ chí Minh. Phường 4, quận Bình thạnh trao lại ngày 24-7-1984. Địa chỉ tạm trú tại Thành phố Hồ chí minh: ( gia đình không có hộ khẩu tại Thành phố, (trừ Đức con trai trưởng) (1) 33/27A Vạn Kiếp , phường 4 ( nay đổi thành phường 3), quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ chí Minh từ 19-7-1983 đến 18-1-1989. (2) 522/2B đường Cù Lao, phường 2, Khu vực 4, Quận Phú Nhuận , Thành phố Hồ chí minh. Căn nhà này lúc đầu thuê, sau mua, trị giá 1 cây vàng( Ông bà nội cho vàng).
.
Đỗ Hữu Nhơn: (5) Xuất ngoại
Từ năm 1981 đến năm 1985, nhịn ăn, nhịn tiêu, dành tiền bạc, gửi “CHUI’ nhiều hồ sơ sang Bangkok ( Thái Lan), xin cho gia đình nhập cảnh MỸ theo chương trình Ra Đi Có Trật Tự Orderly Deparure Program) Tòa Đại Sứ Mỹ tại Thái Lan cấp Thư Giới Thiệu (Letter of Introdution) đề ngày 20-6-1985 với số IV 44249 và Visa Entry Working List số 30002
.
1984
Nộp đơn xin xuất cảnh đi Mỹ tại công an quận Bình Thạnh, Biên nhận số 224/BN đề ngày 28-11-84. Công an quận Bình Thạnh báo tin đã chuyển hồ sơ lên công an Thành phố Hồ chí minh. Giấy báo tin số 154/GB/ANCT đề ngày 17-1-85 của trưởng công an quận Bình Thạnh. Giấy mời bổ túc hồ sơ xuất cảnh đề ngày 19-11-88 và 11-11-89 của trưởng phòng quản lý người nước ngoài và xuất nhập cảnh Thành phố Hồ chí minh. Thư mời của Sở Ngoại Vụ, Thành phố Hồ chí minh: diện TÙ CHÍNH TRỊ (HO 5 ). Sơ vấn ngày 31/7/1990. Nộp hồ sơ 13-8-1990.
.
1990
Phái Đoàn Mỹ phỏng vấn ngày 16-8-1990. Chích ngừa ngày 17-8-1990. Khám sức khỏe ngày 20-8- và 21-8-1990. Sơ kết tình trạng sức khỏe ngày 23-8-90. Tổng kết tình trạng sức khỏe ngày 30-8-90. Đăng ký chuyến bay 15-11-90. Cân hành lý ngày 11-12-90. Rời Việt Nam lên đường đi Mỹ ngày 14-12-1990. Ở lại Thái lan từ 14-12-90 đến 20-12-90 rời Thái Lan 7 giờ 30 sáng, đến Mỹ cùng ngày. Đi máy bay Hãng NORTHWEST (BOEING 747) từ Thái bay đến Nhật, từ Nhật đến SEATLE (WASHINGTON STATE). 10 giờ 30 đi máy bay Boeing 737 của Hãng AIR AMERICA, ghé phi trường Portland ( OREGAN STATE),
Đến Phi trường San Francisco (CALIFORNIA) lúc 16 giờ 30 ngày 20-12-1990.
Từ năm 1981 đến năm 1985, nhịn ăn, nhịn tiêu, dành tiền bạc, gửi “CHUI’ nhiều hồ sơ sang Bangkok ( Thái Lan), xin cho gia đình nhập cảnh MỸ theo chương trình Ra Đi Có Trật Tự Orderly Deparure Program) Tòa Đại Sứ Mỹ tại Thái Lan cấp Thư Giới Thiệu (Letter of Introdution) đề ngày 20-6-1985 với số IV 44249 và Visa Entry Working List số 30002
.
1984
Nộp đơn xin xuất cảnh đi Mỹ tại công an quận Bình Thạnh, Biên nhận số 224/BN đề ngày 28-11-84. Công an quận Bình Thạnh báo tin đã chuyển hồ sơ lên công an Thành phố Hồ chí minh. Giấy báo tin số 154/GB/ANCT đề ngày 17-1-85 của trưởng công an quận Bình Thạnh. Giấy mời bổ túc hồ sơ xuất cảnh đề ngày 19-11-88 và 11-11-89 của trưởng phòng quản lý người nước ngoài và xuất nhập cảnh Thành phố Hồ chí minh. Thư mời của Sở Ngoại Vụ, Thành phố Hồ chí minh: diện TÙ CHÍNH TRỊ (HO 5 ). Sơ vấn ngày 31/7/1990. Nộp hồ sơ 13-8-1990.
.
1990
Phái Đoàn Mỹ phỏng vấn ngày 16-8-1990. Chích ngừa ngày 17-8-1990. Khám sức khỏe ngày 20-8- và 21-8-1990. Sơ kết tình trạng sức khỏe ngày 23-8-90. Tổng kết tình trạng sức khỏe ngày 30-8-90. Đăng ký chuyến bay 15-11-90. Cân hành lý ngày 11-12-90. Rời Việt Nam lên đường đi Mỹ ngày 14-12-1990. Ở lại Thái lan từ 14-12-90 đến 20-12-90 rời Thái Lan 7 giờ 30 sáng, đến Mỹ cùng ngày. Đi máy bay Hãng NORTHWEST (BOEING 747) từ Thái bay đến Nhật, từ Nhật đến SEATLE (WASHINGTON STATE). 10 giờ 30 đi máy bay Boeing 737 của Hãng AIR AMERICA, ghé phi trường Portland ( OREGAN STATE),
Đến Phi trường San Francisco (CALIFORNIA) lúc 16 giờ 30 ngày 20-12-1990.
Nguồn : Viêt Báo on line
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết