Xin mời
đọc
From: DienDanCongLuan]
Sent: October-17-17 3:30 AM
To: DienDanCongLuan
Subject: [DDCL] Ls. Lê Duy San __ Tưởng nhớ công ơn Tổng Thống Ngô Đình Diệm
Sent: October-17-17 3:30 AM
To: DienDanCongLuan
Subject: [DDCL] Ls. Lê Duy San __ Tưởng nhớ công ơn Tổng Thống Ngô Đình Diệm
Cam on LS Lê Duy San . Bài qua hay .
Nhân ngày giỗ thứ 53
Tưởng nhớ công ơn Tổng Thống Ngô
Đình Diệm
Ls. Lê Duy San
“Tôi tiến, hãy tiến theo tôi.
Tôi lùi, hãy giết tôi.
Tôi chết, hãy nối chí tôi”
Ngô Đình Diệm
Ngày
7/5/1954 Diện Biên Phủ
thất thủ. Hoàng Đế Bảo Đại mời ông Ngô Đình Diệm đảm nhiệm chức vụ Thủ Tướng.
Biết tình hình khó khăn, ông
đã từ chối mấy lần nhưng Hoàng Đế Bảo Đại vẫn năn nỉ. Sau cùng, ông đã đòi phải
được tòan quyền về dân sự cũng
như quân sự ông mới nhận lời.
Ngày 7/7/1954, cụ Ngô Đình Diệm về nước chấp chính. Chưa đầy hai tuần sau,
ngày 20/7/1954, Hiệp Định
Jenève được ký kết phân chia nước Việt Nam thành hai miền Nam Bắc.
Về nước đúng lúc đất nước bị chia đôi, miền Nam lại chia
năm xẻ bẩy: nào Bình Xuyên, Cao Đài, Hòa Hảo, nào phe thân Pháp, phe thân Cộng.
Quốc gia thì chậm tiến, xã hội thì đầy dẫy tệ đoan, dân trí thì thấp kém. Ruộng
vườn thì bị bỏ hoang, đường xá, cầu cống thì bị Việt Cộng phá hoại. Ðó là chưa
kể đến sự phá hoại ngấm ngầm của thực dân Pháp và Việt Cộng. Ngay cả người Mỹ cũng chưa hoàn toàn
tin tưởng cụ Diệm. Các chính trị gia thì mỗi người một ý. Không những thế,
ông còn phải lo cho cả triệu người Bắc di cư vào Nam để tránh nạn Cộng Sản.
Trong bài này, chúng tôi xin trình bầy 2 vấn đề: Thiết lập
nền Đệ I Công Hoà và những thành quả của chính phủ Ngô Đình Diệm trong 9 năm cầm
quyền.
Tưởng niệm TT Ngô
Đình Diệm ngày 02-11-2013 Atlanta , Georgia
I/ Thiết lập nền đệ Nhất Cộng Hoà.
Noí tới vấn đề thiết lập nền Đệ I Cộng Hoà Việt Nam,
chúng ta không thể không nói tới vấn đề truất phế Hoàng Đế Bảo Đại tức
cuộc trưng cầu dân ý ngày 23/10/1955.
Tuy ông Diệm đã được Hoàng Đế Bảo Đại trao toàn quyền về
dân sự cũng như về quân sự. Nhưng thực tế về quân sự, tướng Nguyễn Văn Hinh là
Tổng Tham Mưu Trưởng quân đội. Tướng Hinh lại là người thân Pháp, luôn luôn chống
đối ông Diệm và có âm mưu đảo chánh lật đổ ông Diệm. Nhưng âm mưu đảo chánh bất
thành và tướng Hinh bị trục xuất khỏi Việt Nam.
Ngày 28/3/1955, Bình Xuyên nổi loạn, pháo kích vào dinh Độc
Lập rồi mấy ngày sau đó tấn công vào thành Cộng Hoà.
Trước tình thế khó khăn như vậy, vậy mà Hoàng Đế Bảo Đại lại gây khó khăn cho Thủ Tướng
Ngô Đình Diệm bằng cách từ Cannes (Pháp Quốc) gửi ngay một công điện vào
ngày 28/4/1955, triệu hồi Thủ Tướng Diệm qua Pháp nói là để “tham khảo ý kiến”,
Theo luật sư Lâm Lễ Trinh thì ý đồ của Hoàng Đế Bảo Đại là để
cất chức Thủ Tướng Diệm vì ông Diệm đã khai trừ tướng Nguyễn Văn Hinh và đã
đóng cửa sòng bài Đại Thế Giới của Bẩy Viễn là nơi cung cấp tiền bạc cho Bảo Đại
và muốn thay thể bằng Lê Văn Viễn tức Bẩy Viễn, xếp sòng Bình Xuyên, lúc đó
đang nắm giữ guồng máy cảnh sát, công an..
Bị
đẩy vào chân tường, Thủ Tướng Diệm đã tham khảo ý kiến hội đồng nội các rồi
phúc đáp: “Hội đồng Nội Các không
đồng ý để ông xuất ngọai giữa tình thế rối ren của xứ sở và một Hội nghị các
chánh đảng và nhân sĩ quốc gia sẽ được triệu tập ngày 29/4/55 tại dinh Độc Lập để
cho biết ý kiến “Thủ Tướng có bổn
phận thi hành lệnh triệu thỉnh của Quốc Trưởng hay không?” Hội nghị này
gồm có 18 chính đảng, đòan thể
và 29 nhân sĩ miền Nam trong
đó có ba tổ chức nổi bật và có thực lực là: VN Dân Xã Đảng (Hòa Hảo) mà bí
thơ là Nguyễn Bảo Tòan, VN Phục
Quốc Hội (Cao Đài) do Hồ Hán Sơn thay mặt và Mặt Trận Quốc Gia Kháng Chiến VN
của Trịnh Minh Thế do Nhị Lang đại diện.
Ông Nhị Lang, tác giả cuốn sách Phong Trào kháng chiến Trịnh
Minh Thế cho biết “Đúng 10 giờ sáng ngày 29/4/55 Hội nghị khai mạc, Thủ
Tướng Diệm tiến vào phòng họp với vẻ mặt ưu tư, sau khi ngỏ lời chào mừng Hội
Nghị, ông tuyên bố: “Để qúy ngài
được tự do thảo luận” rồi ông kiếu từ đi ngay…”
Trong khi các hội viên yên lặng chăm chú đọc chương trình
nghị sự, thì ông Nhi Lang đứng lên tuyên bố: “Thưa quí vị, tôi được chỉ thị của
đòan thể chúng tôi là Mặt trận Quôc gia Kháng chiến Việt Nam đến đây gặp quí vị
không phải đề nói chuyện về việc Thủ Tuớng Ngô Đìng Diệm có bổn phận hay
không bổn phận thi hành lệnh của Bảo Đại. Mà trái lại, tôi xin thẳng thắn đặt vấn
đề, là đã đến lúc chúng ta cần trút bỏ quyền hành của ông Quốc trưởng vô dụng
kia đi. Là vì ông ta đang làm một việc trái với nguyên tắc lãnh đạo quốc gia.
Thử hỏi, thành phố Sài Gòn đang có biến, dân chúng đang xôn xao lo sợ, tại sao
ông Bảo Đại lại chọn ngay lúc này để bắt buộc Thú tướng phải bỏ nước sang bên
Pháp xa xôi kia, để ‘’tham khảo ý kiến?’’ Tham khảo cái gỉ? Phải chăng đây là
mưu kế để nhắm lật đổ Chánh phủ này? Vậy tôi xin tuyên bố dứt khoát, nếu quí vị
bằng lòng thảo luận việc truất phế Bảo đại ngay bây giờ, thì tôi ở lại. Bằng
không, tôi xin phép ra khỏi phòng hội này ngay!’’.
Trong khi cử toạ còn đang bang hoàng và sửng sốt thì đại
tá Hồ hán Sơn, đại diện tướng Cao đài Nguyễn thành Phương đứng lên và tuyên
bố tiếp: “Nhân danh Việt Nam Phục
Quốc hội, chúng tôi đồng ý với mặt trận Quốc gia kháng chiến, yêu cầu quí vị đừng
bận tâm tới lệnh triệu thỉnh vô lý của Bảo đại nữa, mà hãy đồng tâm làm một cuộc
cách mạng, chấm dứt ngay vai trò của ông Quốc trưởng Bảo Đại kia đi cho xong. Nếu
ý kiến nầy không được hưởng ứng, tôi cũng xin rút lui ngay tức khắc!’’
Phiên
họp kéo dài 7 tiếng. Đúng 5 giờ chiều, Chủ Tịch Nguyễn Bảo Tòan mời Thủ Tướng
Diệm xuống phòng họp để nghe kết qủa. Kết qủa gồm có 3 điểm sau:
* Truất phế Bảo Đại.
* Giải
tán chính phủ Diệm và ủy nhiệm chí sĩ Ngô Đình Diệm thành lập Chính phủ Cách mạng
Lâm thời.
* Tổ chức
tổng tuyển cử, thành lập chế độ cộng hòa.
Ông
Nhị Lang viết: “Khi Thủ tướng
nghe xong, tôi thấy mặt ông tái hẳn đi. Tôi chắc ông không ngờ Hội nghị này lại
quay sang một chiều hướng khác và lôi kéo ông đi một bước quá xa như vậy. Thủ
Tướng Diệm lộ vẻ đăm chiêu và nói bằng một giọng trầm mặc: “Xin qúy ngài cho tôi được có thì giờ
suy nghĩ kỹ về vấn đề quan trọng này”.
Ngay ngày hôm sau, 30/4/55, cụ Diệm lại nhận được
thêm một công điện thứ 2 triệu hồi ông Diệm sang Pháp. Đây có thể nói là giọt
nước cuối cùng đã buộc ông Diệm phải đi tới quyết định truất phế ông Bảo Đại.
Như vậy, việc truất phế Hoàng Đế Bảo Đại không phải hoàn toàn do
Thủ Tướng Diệm quyết định mà là do cả một Hội nghị gồm có 18 chính đảng, đòan
thể và 29 nhân sĩ miền Nam quyết định.
Ông chỉ là người quyết định sau cùng và quyết định của ông cũng
đứng trên quyền lợi của quốc gia dân tộc chứ không phải quyền lợi của cá nhân
hay phe phái.
Với cuộc trưng cầu dân ý vào ngày 23/10/1955, Quốc Trưởng Bảo Đại
bị truất phế và ông Ngô Đình Diệm trở thành Tổng Thống. Tổng Thống Diệm đã cho
bầu cử Quốc Hội Lập Hiến để sọan thảo bản Hiến Pháp cho nước Cộng Hòa Việt Nam
và bản Hiến Pháp này đã được Tổng Thống Diệm ban hành ngày 26/10/1956.
II/ Những thành qủa của Tổng Thống Ngô Đình Diệm sau 9 năm cầm
quyền.
1/ Về
Hành Chánh: Cải biến Trương Quốc Gia Hành thành Học Viện Quốc Gia Hành
Chánh.
Trường Quốc gia Hành chánh ở Đà Lạt thành lập từ năm 1952
thời Quốc gia Việt Nam.
Chương trình học là 1 năm. Đến
năm 1955
thì trường được chuyển về Sài Gòn và đổi tên là Học
viện Quốc gia Hành chánh ở đường Alexandre de Rhodes gần Dinh Độc lập sau dời về
trụ sở mới ở số 10 đường Trần Quốc Toản, Quận 3. Đây là một cơ sở giáo dục của Việt Nam Cộng hòa nhằm
đào tạo nhân viên hành chánh cao cấp cho chính phủ Việt Nam Cộng hòa.
Chương trình học là 3 năm.
2/ Về Quân đội: Cải biến Trường Võ Bị Liên Quân ĐàLạt thành Trường Võ Bị Quốc Gia ĐàLạt và nâng cao trình độ các TT Huấn Luyện Hải
Quân và Không Quân Nha Trang.
Trường Võ bị Liên quân Đà Lạt (tiếng Pháp: École militaire Inter-armes)
thành lập năm 1950, nhằm đào
tạo sĩ quan cho quân đội quốc gia Việt Nam, thời gian thụ huấn là 1 năm. Sang thời Đệ I Cộng hòa Việt Nam,
chính phủ Ngô Đình Diệm cải tổ lại và kể từ ngày 29 tháng
7 năm 1959
theo nghị định của Bộ Quốc phòng đổi tên thành Trường Võ bị Quốc gia Việt Nam với
nhiệm vụ huấn luyện sĩ quan hiện dịch cho ba binh chủng: hải
quân, lục quân, và không quân cho Quân đội Việt Nam Cộng hòa.
Chương trình thụ huần là 2 năm,
sau tăng lên 3 năm.
Ngòai ra các Trung Tâm Huyấn Luyện Không Quân Nha Trang,
Trung Tâm Huấn Luyên Hải Quân Nha Trang …, cũng được nâng cao trình độ kiến thức
để đào tạo các sĩ quan có khả năng cho hai ngành Không Quân và Hải Quân cho
quân lực VNCH. Ai muốn vào 2 binh chủng này phải có bằng Tú Tài và phải qua một
kỳ thi tuyển.
3/ Về Giáo Dục: Việt Hóa Trung Học và Đại Học, Thành lập thêm Đại
Học Huế.
Trước khi ông Diệm về nước, chỉ có mỗi một Viện Đại Học
đó là Viện Đại Học Hà Nội. Sau năm 1954 được di chuyển vào Nam. Không những trường
Đại Học mà hầu hết các trường Trung Học ở miền Nam lúc bấy giờ vẫn còn giảng
dậy bằng Pháp Ngữ. Tới khi Thủ Tướng Diệm về nước chấp chính, nền giáo dục được
cải tổ và Việt Ngữ được dùng để giảng dậy không những ở cấp Tiểu Học mà cả ở cấp
Trung Học. Riêng cấp Đại Học thì vì vấn để thiếu giảng viên Việt Ngữ nên được
Việt hóa dần dần.
Chỉ 2 năm sau ngày nền Đệ I Cộng Hoà được thành lập, nhiều
trường trung và tiểu học đã được thành lập thêm. Số học sinh trung học đã tăng
lên 40% và số học sinh tiểu học đã tăng lên 60%. Trường Quốc Gia Nông Lâm Súc
thành lập năm 1955, sau đổi thành trường Cao Đẳng Nông Lâm Súc. Trung Tâm Kỹ
Thuật Phú Thọ, sau đổi thành Đai Học Kỹ Thuật Phú Thọ và Viện Đại Học Huế cũng được thàng lập
vào năm 1957.
Chỉ 2 năm sau ngày nền Đệ Nhất Cộng Hoà được thành lập,
nhiều trường Tiểu học và Trung học đã được thành lập thêm. Số học sinh tiểu học
đã tăng lên 60% và số học sinh trung học đã tăng lên 40%.
4/ Về Nông nghiệp: Thành lập Khu Trù Mật, Hữu Sản Hóa Nông Dân.
Phong trào Cải Cách Ruộng Đất ở miền Bắc của Cộng
Sản dùng biện pháp đấu tố, tra tấn dã
man và chém giết địa chủ để cướp đất của họ, nhằm tiêu diệt giới điền
chủ và bần cùng hóa người dân, khiến cả trăm ngàn người dân vô tội
bị chết chỉ vì họ có vài ba mẫu ruộng. Trái lại, chương trình Cải Cách Điền Địa ở miền Nam do
Tổng Thống Ngô Đình Diệm thực hiện nhằm hữu sản hóa nông dân. Đối với điền
chủ, Tổng thống Ngô Đình Diệm chỉ thị cho các viên chức địa phương trả tiền mua
số đất vượt quá giới hạn một cách thỏa đáng, chứ không tịch thu, đấu tố như miền
Bắc. Chương trình này bị gián đoạn vì biến cố 1/11/63 và được tiếp tục vào những
năm 1971, 1972, 1973 (6).
5/ Về Kinh Tế và kỹ nghệ.
“Kế hoạch 5 năm” đầu tiên từ 57-61 được thực hiện để kỹ
nghệ hoá đất nước đã làm gia tăng sự sản xuất lúa gạo và cao su. Khu Kỹ Nghệ
Biên Hoà được thành lập. Nhiều nhà máy dệt, nhà máy giấy, nhà máy ván ép được
xây cất và các viện bào chế dược phẩm được thành lập. Đường xe lửa xuyên Việt
được tái lập.
6/ Cải tạo xã hội: Bãi bỏ chế độ đa thê, Bài trừ tệ đoan xã hội.
Năm 1961 luật Gia Đình được bàn hành, chế độ đa thê bị
bãi bỏ. Các tệ đoan xã hội như cờ bạc, hút sách v.v … bị bài trừ khiến xã hội
trở nên lành mạnh. Đời sống kinh tế của người dân miền Nam ổn định và sung túc
không như người dân miền Bắc phải sống dưới chế độ tem phiếu.
7/ Về Tài Chánh: Thành lập Ngân Hàng Quốc Gia và Viện Hối Đoái.
Ngày 3/12/1954, Thủ Tướng Diệm ký sắc lệnh thành lập Ngân
Hàng Quốc Gia Việt Nam một cách gấp rút để có thể hoạt động từ 1/1/1955, khi
Hoa Kỳ viện trợ trực tiếp cho Việt Nam và Viện Hối Đoái để phụ trách các giao dịch
về ngoại tệ.
Ngòai những thành qủa trên, Tổng Thống Diệm còn cho thành
lập khu Trù Mật, khu Dinh Điền, thi hành Quốc Sách Ấp Chiến Lược và phát động
Phong Trào Tố Cộng, Tổng Thống Ngô Đình Diệm cũng đã ra bản Tuyên Cáo vào ngày
17 tháng 4 năm 1963 mở đầu chiến dịch Chiêu Hồi khiến cho Cộng Sản miền Bắc lo
sợ.
III/ Kết luận.
Về nước trong trong tình thế nhiễu nhương, đầy khó khăn,
vậy mà ông đã ổn định được miền Nam, thu hồi được chủ quyền từ tay người Pháp
và lập lên nền Đệ Nhất Cộng Hòa Việt Nam. Với một thể chế dân chủ tuy không được
hoàn hảo như các nước tân tiến tây phương nhưng chính phủ Ngô Đình Diệm cũng đã
đem lại cho người dân được hưởng một cuộc sống tự do dân chủ, no ấm và một nền
giáo dục tốt đẹp, đầy tính cách nhân
bản và khai phóng. Trong khi đó, miền Bắc, cho tới năm 1975 người dân
vẫn còn phải sống dưới chế độ ngu dân, độc tài và đói khổ.
Có thể nói, kể từ khi Nhật đầu hàng và trao trả độc lập cho Việt Nam cho tới
bây giờ, chưa có một vị Tổng thống, Quốc Trưởng hay Chủ Tịch nước nào đạo đức,
liêm khiết và hết lòng vì nước, vì dân bằng Tổng thống Ngô Đình Diệm. Và cũng kể
từ khi Việt Nam được độc lập tới nay, cũng chưa có chính phủ nào thực hiện được
những thành quả tốt đẹp cho quốc gia dân tộc như chính phủ của Tổng thống Ngô
Đình Diệm.
Có thể nói: Tổng Thống Ngô Đình Diệm là người đã tái thiết miền
Nam sau chiến tranh Việt Pháp 1946-1954, đã đưa miền Nam Việt Nam trở thành một quốc gia
có một nền kinh tế tốt đẹp và một quân đội hùng mạnh. Còn ông Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản
Việt Nam chì lo phá hoại, lo chiến tranh và lo khủng bố, giết hại đồng bào miền
Nam vô tội.
Không phải chỉ có người Việt Nam chúng ta mới mới kính trọng
Tổng Thống Diệm mà nhiều người ngọai quốc trong đó có Giáo Sư Sử Gia Edward
Miller và Sử Gia Henry Fairbanks
cũng phải cộng nhận ông là một người có hoài bão thực hiện một
nhà nước được xây dựng trên những giá trị tốt đẹp nhất của Tây Phương và khôi
phục những giá trị cổ truyền tốt đẹp (của Đông Phương) làm nền tảng cho phương
thức canh tân xứ sở. Tổng
Thống Tưởng Giới Thạch thì nói: “Một trăm năm nữa thì Việt Nam cũng
không thể tìm được một người như Tổng Thống Ngô Đình Diệm” và Tổng Thống Eisenhower cũng phải
công nhận ông là : Một người phi thường “He’s a miracle man”. Phó TT Hoa Kỳ Johnson cũng đã
ca ngợi rằng: “Tổng Thống Diệm là một Churchill của Á Châu...Lịch sử xếp ông ta
như là một trong những vĩ nhân của thế kỷ 20”.
Từ ngày miền Nam xụp đổ người dân miền Nam đã nhận
thức được ông Ngô Đình Diệm là người thế nào và đâu là nguyên do thực sự đưa đến
sự xụp đổ của miền Nam, thì hầu như khắp nơi trên thế giới, nơi nào có đông người
Việt tỵ nạn Cộng Sản cũng đều tổ chức Lễ Tưởng Niệm Tổng Thống Ngô Đình Diệm một
cách trang nghiêm và long trọng vào tháng 11 hàng năm để tưởng nhớ công ơn của
cố Tổng Thống Diệm.
Những
việc làm của Tổng Thống Diệm không phải là không có khuyết điểm và thiếu sót.
Nhưng với những thành quả mà ông đã đạt được, dân tộc Việt Nam sẽ đời đời nhớ
ơn ông. Rồi đây, khi đất nước Việt Nam thanh bình và chế độ Cộng Sản không còn,
chắc chắn sẽ có những kỳ đài, những quảng trường, những trường học, những đại lộ
mang tên NGÔ ĐÌNH DIỆM, để tưởng nhớ vị tổng thổng đầu tiên của Việt Nam
đã vị quốc vong thân.
Ls. Lê Duy San
Xin mời đọc
From: DienDanCongLuan]
Sent: October-24-17 1:01 PM
To: DienDanCongLuan
Subject: [DDCL] Tưởng Niệm 02-11-2017 - - TT Diệm làm người Việt Nam hãnh diện trên toàn thế giới .
Sent: October-24-17 1:01 PM
To: DienDanCongLuan
Subject: [DDCL] Tưởng Niệm 02-11-2017 - - TT Diệm làm người Việt Nam hãnh diện trên toàn thế giới .
Nhìn đoàn quân danh dự , quân phục đẹp đẽ , kiếm súng oai
hùng .
Mỗi người lính đều mang cờ My riêng...
chào đón TT đầu tiên của VNCH . Thật quá hãnh diện
Trái lại trong ba chục năm qua ,
các Tổng Thống Mỹ tiếp đón các nhà lãnh đạo CS VN qua nhạt nhẽo , không cơm cháo gì nên
thân ... coi người Việt Nam không có ký lô nào cả .
----
Trong lịch sử Mỹ từ
ngày lập quốc đến
nay , chưa bao giờ chính phủ
và nhân dân Mỹ nô nức tiếp
đón một vị lãnh đạo thế
giới , như đã dành cho TT VNCH Ngô
Đình Diệm , 1957 .
Ông Diệm tốt nghiệp Trường Hậu Bổ ( tiền thân của Học Viện Quốc Gia Hành Chánh ) . Đây là trường do các giáo sư giảng dạy là người Pháp . Sau này khi lên TT , ông Diệm đã thành lập Học Viện QGHC , đào tạo những người con ưu tú trong chánh quyền , có trình độ học vấn cao , nhắm đưa đất nước lên văn minh hàng đầu ở Á Châu .
Ông Diệm tốt nghiệp Trường Hậu Bổ ( tiền thân của Học Viện Quốc Gia Hành Chánh ) . Đây là trường do các giáo sư giảng dạy là người Pháp . Sau này khi lên TT , ông Diệm đã thành lập Học Viện QGHC , đào tạo những người con ưu tú trong chánh quyền , có trình độ học vấn cao , nhắm đưa đất nước lên văn minh hàng đầu ở Á Châu .
Qua nhiều
Video , TT Diệm được Tổng Thống Mỹ ,
PTT , Tòa Bạch Ôc ra tận
sân bay chào đón. Sau đó được
cùng TT Eisenhower mời lên ngồi
trên xe chung chạy khắp thủ
đô Washington , DC .
Dân chúng Mỹ nô nức chào đón ở Tiểu Bang New York ... Hình lá cờ vàng ba sọc đỏ VNCH tung bay ... Ngồi trên xe gồm có TT Mỹ , TT VNCH , Thống Đốc New York , chạy qua phố xá New York . Hàng chục ngàn dân Mỹ reo hò , thả bông giấy từ các Buildings .
Dân chúng Mỹ nô nức chào đón ở Tiểu Bang New York ... Hình lá cờ vàng ba sọc đỏ VNCH tung bay ... Ngồi trên xe gồm có TT Mỹ , TT VNCH , Thống Đốc New York , chạy qua phố xá New York . Hàng chục ngàn dân Mỹ reo hò , thả bông giấy từ các Buildings .
Banners " Welcome President NGÔ
ĐÌNH DIỆM " được
treo trên đường phố New York.
TT Diệm được mời nói chuyện trước diễn đàn Quốc Hội Mỹ , có sự tham dự của TT Eisenhower , PTT Nixon và Quốc Hội Mỹ .
TT Diệm đọc diễn văn bằng Anh Ngữ .
TT Diệm được mời nói chuyện trước diễn đàn Quốc Hội Mỹ , có sự tham dự của TT Eisenhower , PTT Nixon và Quốc Hội Mỹ .
TT Diệm đọc diễn văn bằng Anh Ngữ .
|
Điểm đặc biệt là đoàn xe Môtô của cảnh sát Mỹ New York ,
ngoạn mục chưa từng thấy bao giờ dành cho lãnh đạo thế giới .
KHONG
VE VIET NAM NEU CON VIET CONG MUON CHONG TRUNG CONG PHAI DIET VIET CONG MUON
DIET VIET CONG PHAI DIET VIET GIAN
LDS
'hungthe' via 0 Tin Tức
Việt Mỹ
<>
wrote:
Xin quývị, quýCH tiếp tay phổ biến rộng, ht
Thời Gian Trôi
Nhanh Quá ... Lại Sắp Đến Lễ Cụ Diệm Rồi
Chu Mỹ Dung
Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm
Vị sáng lập nền Cộng Hòa Việt Nam
Vị sáng lập nền Cộng Hòa Việt Nam
I- Công Lao của Tổng Thống Ngô Đình Diệm đối với Quốc Gia Việt Nam
Vì sao cái chết của TT Ngô Đình Diệm lại là một món nợ của lịch
sử?
Vì đó là món nợ “quốc gia hưng vong” mà những kẻ giết người,
những kẻ đã và còn đang thỏa mãn với hành động phi pháp này, cũng như những kẻ
đã phỉ báng ông bằng những tội ác mà ông chưa từng bao giờ làm, phải nợ dân tộc
Việt Nam một trang sử oan nghiệt: đó là vì mất ông mà quốc gia Việt Nam đã bị cộng
sản thôn tính, dẫn đến con đường Bắc Thuộc Hán hóa như ngày hôm nay.
Một cách đơn giản những kẻ giết người họ phải nợ quốc gia
dân tộc vì họ đã giết nguyên thủ quốc gia trong tình trạng đất nước đang dầu
sôi lửa bỏng cần sự dìu dắt của ông.
Nói một cách khác những kẻ giết ông và những kẻ đã hả hê về
cái tội ác này đã “chặt đầu Việt Nam”, theo như cách nói của bà Ngô Đình Nhu.
Còn nói theo Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ thì “Thus, as the nine-year rule of Diem came
to a bloody end, our complicity in his overthrow heightened our
responsibilities and our commitment in an essentially leaderless Vietnam” .
(Pentagon Papers viii). . Chín năm cầm quyền của Diệm chấm dứt trong máu, sự đồng
lõa của chúng ta trong việc lật đổ ông ta đã làm tăng thêm trách nhiệm cũng như
sự trói buộc của chúng ta vào trong một đất nước
Việt Nam hoàn toàn không có lãnh đạo.
Hồi tưởng lại giai đoạn bi thảm đó, toà án nhân dân Phật
Giáo Tranh Đấu gồm những nhà sư và các đội “Phật Tử Quyết Tử” đã đi khắp nơi và
đã cuồng nhiệt gào thét các khẩu hiệu “Phật Giáo bị bách hại” “Đàn áp quý thầy”
“Độc tài gia đình trị” “Mật vụ Nhu Diệm” “Diệm mà không Diệm”mà không cần phải
đưa ra một bằng cớ nào cả. Chỉ cần nói có tội là đủ có tội!
Cụ thể người ta đã đấu tố chính quyền VNCH như sau: Hòa Thượng Hội Chủ Phật
Giáo Thích Tịnh Khiết đã bị giết, hằng trăm Phật tử đã bị chính quyền dìm chết
dưới sông Sài gòn, nhiều ni cô đã bị mổ bụng, và chùa Xá Lợi đã bị đốt cháy,các
nhà sư đã bị ném từ trên các tầng lầu cao xuống vào đêm Thiết quân luật
20/8/1963 khi lực lượng quân đội của chính quyền Tổng Thống Diệm mở cuộc hành
quân lục soát chùa Xá Lợi.
Thậm chí “Phái Đoàn cũng đã tìm gặp
được một số nhà sư lãnh đạo Phật Giáo và thanh niên phật tử mà theo những báo
cáo trước đây mà phái đoàn đã nhận được rằng những người nầy đã bị chính quyền
của Tổng Thống Diệm giết chết, nay hóa ra đó chỉ là những báo cáo khống, không
đúng sự thật.” (Báo cáo của Đại Sứ Volio phái đoàn điều tra LiênHiệp Quốc)
Tóm lại, ông hoàn toàn vô tội, nhưng người
ta đã giết ông và vu cho ông cái tội đó. Vì vậy nếu nói rằng chỉ có ở Miền Bắc
mới có đấu tố mà Miền Nam không có, điều này xem ra không đúng.
Miền Nam cũng có đấu tố. Nguyên thủ quốc gia và Cố Vấn bị
thảm sát ngày 2/11/1963, hai nạn nhân nữa đã bị hành quyết vào cùng một ngày
9/5/1964, các ông Phan Quang Đông và Ngô Đình Cẩn, một nạn nhân nữa cũng đang
chờ đợi đem ra pháp trường xử bắn, ông Đặng Sĩ, và hàng ngàn những mảnh đời đã
bị đào tận gốc trốc tận rễ nơi chốn lao tù vì can tội “tay sai” của cái chính
quyền “Nhu Diệm dàn áp Phật Giáo” đó
Tuy nhiên, không bàn tay nào có thể che nổi mặt trời. Năm
mươi năm đã trôi qua Tổng Thống Ngô Đình Diệm vẫn là Tổng Thống Ngô Đình Diệm
mà câu nói của TT Tưởng Giới Thạch “Một trăm năm nữa thì Việt
Nam cũng không thể tìm được một người như Tổng Thống Ngô Đình Diệm” và
câu nói của Tổng Thống Eisenhower “He’s a miracle man” là một hằng số không gì
thay đổi được.
Nhân 50 năm ngày thác oan của Tổng Thống, xin được nhắc lại
đôi dòng về ông
I- Thân thế, tiểu sử và nhân sinh quan của TT Ngô Đình Diệm:
Khi nói về TT Ngô Đình Diệm, nét điển hình mà người ta thấy
được ở ông đó là một nhà nho trí thức nhưng lại theo tây học, dòng dõi quan quyền
khoa bảng và một nhân cách liêm chính quân tử, một nhân vật chính trị thông
minh kiệt xuất với tư tưởng chống cộng triệt để. Một cây trúc của quan niệm Á
Đông
Cá nhân TT Ngô Đình Diệm là sự thể hiện đồng thời của cả
ba triết lý Nho Giáo, Thiên Chúa Giáo và triết lý Đông Phương. Nền tảng Nho
Giáo đã tạo cho cá nhân ông cách hành xử khắc kỹ, quân tử, Thiên Chúa Giáo đã
đem đến cho ông đức bác ái, bao dung công chính, và triết lý văn minh phương
tây đã đem đến cho ông kiến thức cấp tiến và cởi mở về tự do dân chủ. Và bao
trùm lên tất cả các nền giáo dục Đông Tây mà ông đã được may mắn lãnh hội, đó
là thượng đế đã ban cho ông tư chất thông minh và tấm lòng ái quốc yêu dân mãnh
liệt
Nói về Tổng Thống Ngô Đình Diệm, có thể tóm tắt bằng câu
nói của Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, cháu ngài, khi nói với cậu mình với đức
khâm sứ Tòa Thánh như sau như sau: Cậu Diệm của con là một
người hoàn hảo
Những tài liệu của chính thức của VNCH ghi rằng ông sinh
ngày 3 tháng 1năm 1901 tại Phước Quả, Thừa Thiên. Nguồn tuyên truyền nói rằng
ông sinh tại Quảng Bình năm 1897 vì là con của vợ thứ cụ Ngô Đình Khả, nhưng
không cho biết vợ thứ là ai, và sinh trước ĐGM Ngô Đình Thục. Nguồn tuyên truyền
này có quá nhiều điểm vô lý. Trên thực tế Đức Giám Mục Ngô Đình Thục trông già
dặn hơn TT Ngô Đình Diệm rất nhiều. Tóm lại qua sự việc về ngày sinh của ông,
cho thấy người ta đã không từ nan bất cứ những gì để bôi nhọ ông
Là con trai thứ 4 trong một gia đình có truyền thống chính
trị, nổi tiếng về lòng yêu nước và chống cộng triệt: ông anh cả Ngô Đình Khôi tổng
đốc Quảng Nam và con là Ngô Đình Huân cả hai đã bị cộng sản giết, Ngô Đình Luyện
đại sứ VNCH tại Anh, Ngô Đình Cẩn linh hồn thực sự của lực lượng tình báo Đoàn
Đặc Nhiệm Miền Trung. Trong gia đình, Tổng thống Ngô Đình Diệm là người con tài
ba đức độ nhất của Đại Thần Ngô Đình Khả. Ngoài thân phụ ra, ông còn chịu ảnh
hưởng bởi dưỡng phụ Nguyễn Hữu Bài cũng là một nhà Nho ái quốc, đức độ uyên bác
Đông Tây như cụ Ngô Đình Khả
TT Ngô Đình Diệm tư chất rất thông minh: 16 tuổi đổ nhì
Thành Chung, 17 tuổi được mời dạy Quốc Tử Giám và 18 tuổi vào học trường Hậu Bổ ( tương đương với Quốc
Gia Hanh Chánh) năm 21 đổ thủ khoa. Ông đặc biệt xuất sắc trong các
môn học về hành chánh, luật pháp và chính trị . Ngay sau tốt nghiệp, ông được bổ
nhiệm làm tri huyện Quảng Điền Huế, Hải Lăng Quảng Trị. Bảy năm sau, 29 tuổi,
ông được bổ làm Tuần Phủ Ninh Thuận và Bình Thuận, tức là tỉnh trưởng. Dưới sự
lãnh đạo của ông, Ninh Thuận và Bình Thuận có đời sống kinh tế khả quan, có chiến
lược cụ thể đối phó với sự tuyên truyền của cộng sản và phá vỡ nhiều mạng lưới
nằm vùng. Uy tín này lan đến triều đình cho nên năm 31 tuổi ông được mời làm
thượng thư Bộ Lại, tương đương với chức Thủ Tướng Chính Phủ. Năm 33 tuổi ông được
mời kiêm nhiệm chức vụ Tổng Thư Ký hội đồng Hỗn Hợp Việt Pháp.
-Với chức vụ quan trọng bậc nhất quốc gia này, ông đòi hỏi
nhiều quyền lợi cho đất nước. Ông yêu cầu người Pháp thực thi việc thống nhất đất
nước bằng việc sát nhập Trung Kỳ và Bắc Kỳ , thực hiện dân chủ bằng cách cho
phép Viện Dân Biểu được lo những vấn đề quốc sự giống như Quốc Hội. Nhưng đề
nghị của ông không được Toàn Quyền Pasquier chấp thuận. Thấy việc tham chính của
mình không thể đem lại lợi ích cho đất nước, ông xin từ chức Thượng Thư, chọn
con đường làm thường dân để phục vụ đất nước theo cách riêng của ông, năm đó
ông chỉ 33 tuổi.
Hành động từ quan này làm chấn động Triều Đình Huế và Chính
Phủ Pháp. Điều
này chứng minh rằng ngay khi còn rất trẻ, ông đã là người không hề màng danh lợi.
Nó cũng bẽ gãy luận điệu của những kẻ bất tài không được ông sử dụng đem lòng
oán hận luôn rêu rao rằng ông độc tài tham quyền cố vị. Với
tiết tháo xem thường danh lợi như vậy, những ai đến bây giờ còn cho rằng Tổng
Thống là một người độc tài gia đình trị thì rõ ràng họ chỉ là những kẻ vu khống
và muốn sửa đổi lịch sử, nhưng tiếc rằng họ chẳng bao giờ có khả năng làm điều
đó.
Thâm tâm ông, con đường phục vụ quốc gia qua chức vụ Thượng
Thư Bộ Lại không thể thực hiện được nên ông đã quyết định chọn con đường khác,
đó là từ chức để có thì giờ học hỏi về chính trị luật pháp xã hội và cũng để
kín đáo hoạt động chống Pháp. Trong 17 năm ở ẩn, ông đọc rất nhiều sách vở về
chính trị phương tây, về cộng sản chủ nghĩa về các phong trào đòi độc lập. Song
song với việc nghiên cứu chính trị, ông liên kết với các nhà cách mạng có uy
tín khác như Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, cụ Phan Bội Châu trong phong trào Cường Để,
ông cũng là đại diện chính thức của Kỳ Ngoại Hầu tại Việt Nam.
Ông đã từng nói “người Pháp chỉ là giai
đoạn và sớm muộn gì Pháp cũng phải trao trả độc lập cho Việt Nam, mà cộng sản mới
là nguy cơ trầm trọng và dài hạn. Tuy nhiên nếu giữ được Nam Kỳ là giữ được nước”. Theo
ông, nếu Miền Nam lọt vào tay cộng sản thì cuối cùng sẽ lọt vào tay Trung Cộng.
Chúng ta cũng hiểu một cách đơn giản : Nếu mất Nam Kỳ vào tay
cộng sản là mất nước. Khi rời Dinh Độc Lập vì bị bọn phản tướng làm lọan,
ông đã nói câu cuối cùng” Như ri là mất nước rồi!”. Điều này đã diễn ra đúng
như lời nhận xét của ông 11 năm sau đó!
Có quá nhiều điều ông phát biểu từ mấy chục năm trước đã trở
thành hiện thực. Người ta ca ngợi ông là người có viễn kiến chính trị, điều này
theo chúng tôi chưa chính xác lắm. Ông không phải là một nhà tiên tri chính trị
mà thực sự ông là một nhà toán học chính trị, tính toán chính xác đường bay quỹ
đạo chính trị thuộc về chiến lược. Ông có sở học sâu sắc và một năng khiếu đặc
biệt về chính trị cộng với tư chất thông minh đã làm ông trở thành người thấy
xa trông rộng, một yếu tố không thể thiếu của lãnh đạo quốc gia
Pháp đánh giá được tiềm năng và tâm huyết của ông, vì vậy
cuộc sống ẩn dật ngụy trang cho các hoạt động bí mật của ông không làm sao qua
được tầm theo dõi của Pháp. Toàn Quyền Đông Dương Jean Decoux ra lệnh bắt ông
đi đày ở Lào, ông được mật báo và trốn vào Sài Gòn. Một thời gian sau, ông bị Hồ
Chí Minh bắt sau đó ông lại may mắn thoát khỏi bàn tay của y. Ông sang Nhật gặp
Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, tại đây, Kỳ Ngoại Hầu khuyên ông sang Mỹ để tìm sự hậu
thuẫn của Hoa Kỳ, mà không thể trông cậy vào Nhật hay chờ đợi gì từ Pháp.
Sang Mỹ, qua sự giới thiệu của Hồng Y Spellnam, ông được sự
tiếp xúc và đánh giá cao của một số chính trị gia Hoa Kỳ, thẩm phán Tối Cao
Pháp Viện William Douglas dân biểu Kennedy, Mike Mansfield v,v Ông tham gia diễn
thuyết về các vấn đề Việt Nam, Châu Á và hiểm họa cộng sản tại một số các trường
Đại Học. Một số nhân vật trong quốc hội và chính quyền Hoa Kỳ đã chú ý đến ông,
nhưng chưa bao giờ chính quyền Hoa Kỳ quyết định chọn ông làm một con bài chính
trị. Giả thuyết cho rằng nhờ sự vận động của Hồng Y Spellman cho nên ông được
chính giới Hoa Kỳ đưa về làm Thủ Tướng là một giả thuyết không đứng vững. Theo
luật pháp Hoa Kỳ Hồng Y Spellman không có quyền và trên thực tế ông cũng không
có khả năng can thiệp vào chính quyền Hoa Kỳ. Và nếu như được chính quyền Hoa Kỳ
ủng hộ, thì những năm sau đó Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã không phải nản lòng rời
Hoa Kỳ bôn ba sang Châu Âu tìm kiếm sự hổ trợ khác
Tình hình Miền Nam trước khi TT NĐD về nước rất tuyệt vọng.
Cựu hoàng Bảo Đại trong cuốn hồi ký đã xác nhận yêu cầu ông về lập chính quyền,
ông từ chối và thưa rằng sau bao năm bôn ba, giờ đây ông muốn trải cuộc đời còn
lại trong một tu viện dòng kín. Cựu Hoàng Bảo Đại lộ vẻ tức giận và dẫn ông vào
một căn phòng vắng, đưa cho ông một cây thánh giá và nói rằng “ Đây Chúa của ông
đây, ông hãy thề trước mặt chúa là gìn giữ đất nước Việt Nam, ông phải bảo vệ
nó để chống lại cộng sản, nếu cần phải chống cả người Pháp. Cầu nguyện hồi
lâu một mình trong phòng kín, ông trở ra nói với cựu hoàng là ông nhận lời
Vì không đành tâm đứng nhìn đất nước rơi vào tay cộng sản,
TT Ngô Đình Diệm nhận đã nhận lời. Để có thể chu toàn nhiệm vụ, ông đã yêu cầu
cựu hoàng phải giao cho ông toàn quyền về quân sự lẫn dân sự để lèo lái đất nước.
Trên thực tế, lúc đó Cựu Hoàng đã hoàn toàn không hề có binh quyền hay chính
quyền gì cả để giao cho ông. Có chăng cựu hoàng đã giao cho TT Ngô Đình Diệm một
Miền Nam đầy tham nhũng bài bạc đĩ điếm và thuốc phiện ma túy và những tay anh
chị khét tiếng như Bảy Viễn, Nguyễn Văn Hinh, và giao cho ông sứ mạng nặng nề
và nguy hiểm nhất đó chống lại bóng đen của khối cộng sản đang có sức mạnh khổng
lồ về quân sự và tiền bạc để nuốt chửng Miền Nam
Miền Nam lúc đó, không có tổ chức quân sự cũng như kinh tế
nào khả dĩ có thể đối đầu với đảng cộng sản đã có trên 24 năm kinh nghiệm, sẳn
sàng sử dụng những thủ đoạn chính trị vô cùng tàn bạo nhất và sau lưng là nguồn
viện trợ vũ khí tiền bạc dồi dào từ khối cộng sản Đông Âu, Liên Xô và quan trọng
nhất là Mao Trạch Đông. Trong khi đó thì chí sĩ Ngô Đình Diệm chỉ có một mình ông
và người em đang sống tại Việt Nam là ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu, đang cố gắng hết
sức lực của mình để kiếm nguồn ủng hộ cho anh mình trong nước. Vì lý do đó cho
nên chính quyền Hoa Kỳ đã không muốn phiêu lưu uy tín của họ để ủng hộ Thượng
Thư Ngô Đình Diệm, mặc dù chính phủ Pháp lúc đó đang hết sức kiệt quệ, một điều
kiện tốt cho Hoa Kỳ đang muốn thay thế Pháp có mặt tại Đông Dương .
Tóm lại, về thân thế sự nghiệp, tổng thống Ngô Đình Diệm
trước khi về nước đã từng là một vị thượng thư trẻ tuổi không màng danh lợi,
quyết tâm chống Pháp và chống cộng tới cùng. Và ông đã nhận lời cựu hoàng Bảo Đại
để gìn giữ một quốc gia đang đứng trên bờ vực thẳm chờ cộng sản thâu tóm. Binh
quyền không có mà chính quyền cũng không có, ông một thân một mình về nước đảm
nhận sứ mệnh mà chỉ có một người ái quốc mãnh liệt mới dám an bài số phận bấp
bênh đó cho mình. Do đó, lập luận cho rằng TT Ngô Đình Diệm về nước chấp chánh
là do sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ qua bàn tay của Hồng Y Spellman chỉ là sự dèm pha
để phủ nhận tài năng của ông.
Người đã cậy nhờ chí sĩ Ngô Đình Diệm nắm lấy chức vụ thủ
tướng không ai khác ngoài cựu hoàng Bảo Đại, như ông đã tự xác nhận trong cuốn
sách “ Con rồng Việt Nam”. Và chỉ có vậy!
Đó là sự thật lịch sử mà không ai có thể chứng minh khác được!
II- Hoàn cảnh đất nước khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm về chấp
chính:
Muốn đánh giá công hay tội của một vị lãnh đạo quốc gia, lịch
sử phải xem xét gia tài mà vị lãnh đạo đó tiếp nhận trước khi điều hành đất nước,
và so sánh với những đất nước có được sau khi họ rời chức vụ. Thế nhưng, đối với
tổng thống Ngô Đình Diệm, những kẻ chê bai hay kết tội ông đều không bao giờ
dám đề cập đến hoàn cảnh của Miền Nam vào thời điểm 1954.
Tại sao họ không dám đề cập? Bởi vì khi về nước, binh quyền
mà ông có được là 12 người cảnh sát thay phiên nhau canh giữ dinh Gia Long. Miền
Nam lúc đó hoàn toàn không có quan hệ lãnh đạo, mà chỉ có nạn thập nhị sứ quân.
Đó là một con rắn không đầu, mỗi người thống trị một lãnh vực và khu vực. Tất cả
những khuôn mặt nổi bật bấy giờ như Bảy Viễn, Ba Cụt, Lại Văn Sang, Nguyễn văn
Hinh và các giáo phái v.v mỗi người hùng cứ một phương và thủ đắc các phương tiện
kiếm chác tài chánh riêng cho mình, không ai chấp nhận từ bỏ quyền lực để phục
vụ cho quốc gia dưới sự điều động của một chính phủ trung ương. Quân sự, kinh tế,
ngoại giao, tài chánh, hối đoái, quan thuế đều thuộc quyền của Pháp và các tay
sai Pháp, trong lúc đó thì Việt Cộng nằm vùng được cài đặt tràn đìa. Tổng Thống
chỉ có quyền với 12 người cảnh sát gác dinh Gia Long và một ngân khố quốc gia
trống rỗng, bên cạnh đó là một Miền Nam mà hạ tầng cơ sở bị phá hủy vì chiến
tranh tàn phá nặng nề toàn bộ ruộng đồng bỏ hoang, thất học và thất nghiệp tràn
lan, tham nhũng cờ bạc đĩ điếm, thuốc phiện và nguy hiểm nhất là mạng lưới cộng
sản rất mạnh, đang được sự viện trợ của Tàu và Liên Xô từ lâu, đã và đang phát
triễn dày đặc khắp đất nước. Bên cạnh đó là gánh nặng ngàn cân về an ninh chính
trị và xã hội của một triệu người mới di cư từ Bắc vào Nam tháng 8 năm 1954.
Sự giúp đỡ của Hoa Kỳ cho ông lúc bấy giờ là một nhân viên
CIA Mỹ cố giúp ông để chiêu dụ những người đang nằm trong các phe phái khác, Đại
Tá Edward Lansdale
Một cách ngắn gọn, Ông không có bất cứ một quốc gia đồng
minh nào có thể nương nhờ khi ông về nước, trong khi đó cộng sản Hà Nội có cả một
nguồn viện trợ khổng lồ từ Liên Xô, Đông Âu và đặc biệt là Trung Cộng và đã hoạt
động từ năm 1930. Ông ngay cả cũng không có được một đảng phái hay một tổ chức
quốc gia quan trọng nào làm hậu thuẫn, và tài chánh thì quá eo hẹp, trong khi
đó thì ông lại có quá nhiều kẻ thù: Pháp và tay sai, các Giáo Phái và Bình
Xuyên, mà nguy hiểm nhất là cộng sản. Một số các chính trị gia khác đồng ý hổ
trợ cho ông vì lúc đó thật sự mà nói chẳng ai dám dấn thân lãnh nhận một tài sản
quốc gia thảm thương như thế. Nhưng ông đã chấp thuận, vì chỉ một lẽ duy nhất:
ông yêu nước!
III-Những thành tựu TT Ngô Đình Diệm đã đem lại cho đất nước
Sau 11 tháng cầm quyền trong sóng gió Thủ Tướng Ngô Đình Diệm
đã ổn định tình hình chính trị tuyệt vọng của Miền Nam nhờ vào uy tín và lòng
can trường của ông. Sau 11 tháng theo dõi khả năng và những thành tựu của ông,
chính phủ Eisenhower không còn thấy mình phiêu lưu khi hổ trợ cho Ngô Đình Diệm
nữa, mới chính thức quyết định hổ trợ cho ông
Một số bài viết và dư luận cho rằng Mỹ đã hổ trợ và viện trợ
rất nhiều cho TT Ngô Đình Diệm ngay khi ông về nước, nhờ vậy ông mới làm nên
cơm cháo. Điều này hoàn toàn không đúng. Căn cứ vào các sự kiện lịch sử xảy ra
lúc bấy giờ và căn cứ vào các tài liệu được giải mã cách đây hơn 15 năm thì quả
thật số viện trợ cho TT Ngô Đình Diệm khi ông về nước trong 11 tháng đầu tiên hầu
như chỉ là con số không. Nổi bật chỉ có sự tiếp xúc và vận động kín đáo của Đại
Tá Edward Lansdale với các phe nhóm chính trị như Cao Đài Hòa Hảo để thuyết phục
họ ủng hộ TT Ngô Đình Diệm v.v.
Xin dẫn chứng sự yểm trợ yếu ớt và đầy nghi ngờ của Hoa Kỳ
cho chính phủ TT Ngô Đình Diệm giai đoạn 1954-1955 như sau:
Cứ hai lần mỗi tháng, Joe Lawton Collin, bạn thân tổng thống
Eisenhower, và là đặc sứ của ông tại Sài Gòn, đề nghị tổng thống Eisenhower phải
loại bỏ Diệm và thay thế bằng Phan Huy Quát hay Trần Văn Đỗ. Còn người Pháp thì
khỏi nói, họ xem TT Ngô Đình Diệm là kẻ thù của họ. Hãy nghe tướng Pháp Paul
Ely đại diện tối cao của Pháp phá đám với người Mỹ như sau:” Ông ta chỉ là tên
bù nhìn tệ hại nhất không được nhân dân ủng hộ. Cho nên vì lợi ích của Việt Nam
và lợi ích của thế giới, không nên cứu Diệm”. Chính phủ Hoa Kỳ có lúc
đã tin rằng chính phủ Ngô Đình Diêm sẽ không tồn tại quá sáu tháng và vì vậy họ
chỉ viện trợ rất cầm chừng với thái độ chờ xem, và thậm chí đã có những chỉ dấu
loại bỏ ông, như Collin đã ngày đêm thuyết phục tổng thống Eisenhower và tổng
thống Eisenhower đã sắp sửa nghe lời Collin. Bất thần, trong tình huống tuyệt vọng
đó, đầu tháng 5 năm 1955, tổng thống Ngô Đình Diệm với lòng can đảm và sự sáng
suốt, ông đã lật ngược thế cờ, triệt hạ những tên trùm Bảy Viễn, Lại Văn Sang,
Nguyễn Văn Hinh, thu phục được sự ủng hộ của Cao Đài Hòa Hảo và các tướng như
Trịnh Minh Thế. Với sự thành công tuyệt vời này, Hoa Kỳ từ đó mới dám thở phào
viện trợ cho chính phủ TT Ngô Đình Diệm, triệu hồi Lawton Collin về nước.
Có thể tóm tắt công lao của tổng thống Ngô Đình Diệm trong
việc tái thiết và ổn định Miền Nam qua lời nhận xét của một vĩ nhân thế giới, Tổng
Thống Eisenhower như sau: He is a miracle man.
Không thần kỳ sao được khi từ một quốc gia bị sáu vấn nạn: một là là
chiến tranh tàn phá từ 1945 đến 1954, hai là vấn nạn chia rẽ ly tán thập nhị xứ
quân, ba là vấn đề giáo dục cộng đồng quá thấp, bốn là tệ nạn xã hội đen tràn
lan đến độ lấn lướt cả chính quyền, năm là thực dân Pháp và tay sai người Việt
vẫn nắm quyền lực chính về kinh tế và quân sự, sáu là, và nguy hiểm nhất là, phải
đối đầu với khối cộng sản thế giới, ông đã làm cho Miền Nam trở thành Hòn ngọc
Viễn Đông!
Ai có thể phản bác lại lời của Tổng Thống
Eisenhower rằng Tổng Thống Ngô Đình Diệm không phải là một miracle man, một con
người của huyền thoại?
Vài nét chính về những thành tựu trong việc tái thiết xứ sở
dưới sự cầm quyền của TT Ngô Đình Diệm:
1/Cuộc di cư vĩ đại trong lịch sử của
dân tộc Việt Nam năm 1954
Đây là một thành tích vĩ đại của Tổng Thống Ngô Đình Diệm
mà không ai có thể phủ nhận. Lịch sử Việt Nam sẽ ghi nhớ công ơn của TT Ngô
Đình Diệm
Đáp máy bay về nước ngày 26 tháng 6 năm 1954, ngày 30 tháng
6 ông bay ra Hà Nội để xem xét dân tình, ngày 20 tháng 7 năm 1954 Pháp và Bắc
Việt ký hiệp ước chia đất nước Việt Nam, tổng thống Ngô Đình Diệm tuyệt vọng
bay ra Hà Nội ngày 3 tháng 8, đọc một bài diễn văn kêu gọi dân chúng theo ông
di cư vào Nam xây dựng đất nước tự do, và khoảng một triệu người đã nghe ông
theo ông vào Nam với sự trợ giúp bằng không vận và đường hàng hải của Hoa Kỳ,
Pháp, Thụy Sĩ v.v
Ngày 4 tháng 8 cuộc di cư chính thức bắt đầu. Trong lúc
chính quyền đang còn rất mong manh, bị sự chống đối và hoành hành của Bình
Xuyên Bảy Viễn, Nguyễn Văn Hinh, Tổng Thống đã lập Phủ Tổng Ủy Di Cư đảm nhận
việc tiếp thu gần một triệu đồng bào Miền Bắc vào Nam. Lo ổn định đời sống cho
khoảng một triệu người ồ ạt di cư vào Nam trong một thời gian chỉ hơn một tháng
và gìn giữ cho đời sống vật chất an ninh xã hội tại Miền Nam không bị rối loạn
phải nói là một công việc quá phi thường vượt quá sức của một chính phủ còn quá
non trẻ, không tiền, trên nền tảng của một quốc gia bị chiến tranh tàn phá,
chia rẽ, tệ nạn xã hội và cộng sản hoành hành.
Hãy so sánh tất cả các cuộc di cư, nhập cư và tị nạn của tất
cả các quốc gia trên thế giới đê thấy rằng chưa có một vị nguyên thủy quốc gia
nào có khả nặng làm việc như Thủ Tướng Ngô Đình Diệm. Ông gìn giữ xã hội Miền
Nam không bị rối loạn vì số lượng di dân quá bất thần và quá lớn, cung cấp những
dịch vụ cần thiết như nhà ở thực phẩm y tế thuốc men, giáo dục cho một triệu
người và nhanh chóng ổn định đời sống họ trong vòng vài tháng. Ai có thể phủ nhận
được nỗ lực kinh khủng và khả năng tổ chức hiếm có, sử dụng, và theo dõi đồng
tiền viện trợ một cách hữu hiệu, và đặc biệt là sự cần kiệm của chính phủ Thủ
Tướng Ngô Đình Diệm trong vấn đề định cư một số quá lớn người như thế? Điều gì
đã làm cho ông can đảm đứng ra lãnh nhận gánh nặng to lớn này và đã hoàn thành
tốt đẹp công tác định cư cho cả triệu đồng bào trong tình thế bấp bênh của
chính quyền và đất nước như thế? Không gì khác hơnđó chính là lòng yêu nước
thương dân vô hạn và sự can đảm thông minh phi thường của ông!
2/Giáo dục và y tế:
Trong khi ở Miền Bắc, giáo dục rất thiếu sót chương trình
trung học chỉ có 10 năm, và đội ngũ khoa học kỹ thuật của họ rất tồi tệ, thì ở
Miền Nam Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã có những điểm sáng chói như sau: Chương
trình trung học ở Miền Nam đúng theo tiêu chuẩn quốc tế là 12 năm. Chương trình
đại học cũng có chất lượng của các nước phương tây. Xin được dẫn chứng vài vì dụ:
Chương trình mở mang giáo dục dưới thời TT Ngô Đình Diệm
đem lại số học sinh và số trường trung học tiểu học tăng vọt hàng năm với tốc độ
khoảng 60% 70%. Từ năm 1957 đến 1961, số học sinh và trường học tăng lên gấp 4.
Ông cũng cho thành lập rất nhiều các trường dạy nghề. Về giáo dục đại học, tổng
số sinh viên tăng trong vòng 3 năm là 60% vào năm 1957. Đại Học công lập Huế và
đại học tư thục Đà Lạt được mở ra dưới thời của TT Diệm theo sau là Viện Đại học Sài Gòn The University of Saigon,
là một viện đại học công lập, được thành lập vào năm 1957 dưới chính quyền của
Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Đây là viện đại học được xem là có uy tín nhất ở Miền
Nam Việt Nam, cung cấp các giáo sư đi thỉnh giảng ở các viện đại học khác. Viện
đại học này cấp bằng cử nhân, thạc sĩ, và tiến sĩ. Năm 1961 ông cho thành lập Đại
Học Y Khoa Huế. Số sinh viên chỉ trong vòng 3 năm sau khi ông về nước chấp
chánh đã tăng lên gấp 4 lần đồng thời chính phủ cũng có chương trình cấp học bổng
cho sinh viên du học ở các nước tiên tiến phục vụ mục tiêu Việt Nam hóa đội ngũ
giáo sư đại học với tiêu chuẩn quốc tế. Trường Đại Học Y Khoa là một dẫn chứng
cụ thể rằng Tổng Thống coi trọng quốc thể, vào năm 1961 trường này đã hoàn toàn
không còn giảng viên người Pháp. Xin được lập lại, chỉ sau 5 năm cầm quyền, ông
đã xây dựng được một trường hệ thống Đại Học mà các nước trong vùng phải kính nể.
Ông đã chứng minh cho thế giới thấy người Việt Nam hoàn toàn không thua bất cứ
một dân tộc nào trên thế giới. Nhiều bệnh viện nổi tiếng chẳng hạn bệnh viện
Bình Dân cũng được thành lập để phục vụ nhu cầu chữa bệnh cho dân chúng và giảng
dạy y khoa.
3/Kinh Tế:
Nhờ kiến thức sâu rộng về chính trị, bản chất thông minh,
trọng của công, cần kiệm và rất cẩn trọng trong việc sử dụng tiền viện trợ, ông
đã lèo lái đất nước đưa đến bến bờ của sự thanh bình thịnh vượng và nhân quyền.
Qua chương trình CIP ( Comercial Import Program), mỗi năm ông nhận viện trợ
kinh tế của Hoa Kỳ là 322 triệu năm 1955, và nhờ việc sử dụng hiệu quả và chính
xác, viện trợ Mỹ đã tăng lên 450 triệu Mỹ Kim sau đó. Với sự trợ giúp này, ông
lại nhanh chóng biến Miền Nam thành một hòn ngọc viễn đông trong một thời gian
kỷ lục là ba năm, đến nỗi tổng thống Eishenhower đã đón ông với 21 phát súng đại
bác. Xin được cụ thể hóa vài thành tựu nổi bật về kinh tế của ông như sau:
1.Toàn
bộ hệ thống giao thông thủy bộ và đường xe lửa xuyên Việt được tái thiết lại, phục
vụ nhu cầu thương mại và sản xuất và nông nghiệp. Chương trình cải cách ruộng đất
và khuyến nông đã biến những thửa ruộng và đồn điền bỏ hoang thành những cánh đồng
phì nhiêu và đồn điền trù phú, làm đem lại số gạo và cao su xuất cảng tăng vọt.
Đơn cử là chỉ mới năm 1957 mà số gạo sản xuất là 3 triệu tấn, chăn nuôi heo gà
vịt phát triễn mạnh và đã xuất cảng được một số lượng đáng kể hàng năm.
2.Điều quan trọng đáng nói là dù Miền Nam
căn bản là một quốc gia nông nghiệp, ông vẫn quyết tâm biến Miền Nam trở thành
một quốc gia kỹ nghệ.
Giai đoạn này chúng ta thấy Miền Nam đã có những nhà máy ván ép, nhà máy giấy,
nhà máy dệt, nhà máy xà bông, viện bào chế dược phẩm v.v. TT thống Ngô Đình Diệm
là con người thấy xa trông rộng và rất chu đáo trong tất cả mọi kế hoạch phát
triễn quốc gia. Chương trình mở mang và nâng cao chất lượng giáo dục song song
với phát triễn kinh tế là một dự án đồng bộ và hoàn chỉnh nhằm chuẩn bị tài
nguyên con người để thực hiện việc kỹ nghệ hóa Miền Nam. Các trường đại học và
các trường dạy nghề đào tạo công nhân và chuyên viên kỹ thuật ở mọi mọi lãnh vực
từ hành chánh đến khoa học đến kỹ thuật để có thể đáp ứng nhu cầu kỹ nghệ hóa đất
nước. Trung tâm nguyên tử Đà Lạt và đập Đa Nhim cộng với 2 kế hoạch ngũ niên
1957 đến 1961, 1962-1967 và chương trình đẩy mạnh mở mang giáo dục là một bằng
chứng về một kế hoạch phát triễn rất hợp lý và đồng bộ của tổng thống để có đủ
tài nguyên vật chất và tài nguyên con người cho một quốc gia kỹ nghệ. Nếu tổng
thống còn sống, thì chắn chắn Miền Nam còn tiến xa hơn Nam Hàn gấp bội, một Nhật
Bản thứ hai cũng không phải là điều nói quá, vì ông và Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, cụ
Phan Bội Châu là người đã sống ở Nhật hiểu biết về Nhật. Tuy không tin tưởng và
cũng không hợp tác với chính phủ Nhật, nhưng ông rất ngưỡng mộ thể chế chính trị,
sự phát triễn kinh tế khoa học của Nhật. Khuôn mẫu chính trị và sự tiến bộ của
Nhật Bản là điều TT Ngô Đình Diệm muốn Việt Nam đạt được.
4/ Quân sự và nội chính:
Ông hết sức quan tâm đến vấn đề nội chính và quốc phòng. Để
đối đầu với cộng sản, ông phân chia Miền Nam thành 4 vùng chiến thuật, không ngừng
canh tân quân đội và Việt Nam hóa quân đội và đào tạo các chuyên viên hành
chánh cao cấp của quốc gia. Ông hết sức chú tâm đào tạo một thế hệ sĩ quan trẻ
có tiêu chuẩn ngang với quốc tế để thay thế hàng ngũ sĩ quan được Pháp đào tạo.
Sự cải tổ sâu rộng và đầu tư hai trường quân sự lớn hàng đầu Đông Nam Á và Học
Viện Quốc Gia Hành Chánh là những ví dụ cụ thể.
- Học Viện Quốc Gia Hành Chánh:
Xuất thân là khôi nguyên trường Hậu Bổ, tức trường dạy về
chính trị luật pháp và hành chánh, Tổng Thống Ngô Đình Diệm khi chấp chánh, ông
đã hết sức coi trọng công việc nội chính quốc gia. Ông bắt tay cải tổ trường
QGHC mà trước đây đặt ở Đà Lạt và trực thuộc bộ Giáo Dục. 1954, ông cho dời trường
về Sài Gòn và đặt học viện này dưới sự đào tạo và giám sát của Phủ Thủ Tướng
sau đó thuộc phủ Tổng Thống, tức trực thuộc sư chăm sóc của ông
Chương trình học của học viện này do Michigan State
University (MSU) trợ
giúp trong việc soạn giáo trình. Kho sách của trường được coi là một trong những
thư viện lớn nhất của Việt Nam Cộng hòa. Sinh Viên cũng được huấn luyện quân sự
ở các trường quân sự chuyên nghiệp như trung tâm huấn luyện Quang Trung, học
chiến thuật ở rừng cao su Phú Thọ hay trung tâm Nhảy Dù Hoàng Hoa Thám v.v Môn
học chính của QGHC gồm những kiến thức như soạn thảo công văn, kế toán thương mại,
định chế chính trị, luật hành chánh và cả quân sự. Tùy theo bằng cấp tốt nghiệp
là tham sư, đốc sự hay giám sự, các chuyên viên hành chánh cao cấp này sẽ về
làm việc tại các bộ như Bộ Nội vụ hoặc cơ quan hành chánh địa phương. Giám sự
được bổ nhiệm ở các phủ bộ chuyên môn khác như Bộ Tài chánh, Tổng Nha Kế Hoạch.
Sau khi ra trường thì chuyên viên được bổ dụng từ Phủ Thủ tướng, Phủ Đặc Ủy
Trung Ương Tình báo hay Tổng Nha Ngân Sách và các Bộ cấp quốc gia cho đến các
ty, các sở ở địa phương như phó tỉnh trưởng hoặc phó quận trưởng.
- Trường Võ Bị QGVN:
Tuy trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt được thành lập năm 1950
nhưng đên năm 1959 dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm mới thực sự có những cải
tổ sâu rộng và huấn luyện theo tiêu chuẩn quốc tế. Năm 1961, TT Ngô Đình Diệm
cho xây dựng lại cơ sở đào tạo mới tại đồi 1515, ông đưa ra chương trình đào tạo
4 năm thay vì 3 năm như trước đây, nhưng vì những rối ren chính trị và ông bị
thảm sát, mãi đến năm 1966 chính phủ tiếp theo mới thực hiện được chương trình
này. Trường VBQGVN đào tạo sĩ quan chuyên nghiệp cho Không Quân, Hải Quân và Lục
Quân.
-Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức năm 1955 đến 1961 đã cung cấp
2/3 số sĩ quan cho QLVNCH và khoảng trên 90% các binh chủng như Thiết Giáp,
Công Binh Pháo Binh Quân Nhu Quân Cụ truyền tin. Giữa tháng 10 năm 1961 ông lại
tiếp tục cải tổ tách các trường đào tạo chuyên môn thành các trường riêng chỉ
còn giữ lại Bộ Binh và Thiết Giáp là chính
-Phân chia các vùng chiến thuật: 42 tỉnh Miền Nam được chia
làm 4 vùng chiến thuật với trách nhiệm bảo vệ các vùng chiến thuật này Quân
Đoàn. Quân Đoàn 1 bản doanh tại Đà Nẵng, QĐ II tại Pleiku, Quân Đoàn III tại
Biên Hòa, QĐ IV tại Cẩn Thơ.
Để thấy được thành công trong lãnh vực quân sự, chống trả lại
các cuộc tấn công quân sự của khối cộng sản trong giai đoạn của tổng thống Ngô
Đình Diệm, cần đánh giá sức mạnh quân sự của đối phương. Giai đoạn này đặc biệt
là bắt đầu vào khoảng năm 1961, 1962 cộng sản gia tăng chiến tranh quân sự và
gia tăng các hoạt động khủng bố, để cố chiếm lấy nữa nước còn lại nhằm phục vụ
cho ý thức hệ cộng sản và gấp rút thỏa mãn ý đồ Hán Hóa Việt Nam của Trung Cộng.
Dẫn chứng: trong giai đoạn chiến tranh từ năm 1954 đến 1975, luôn luôn có mặt của
cán bộ Trung Cộng và ngay cả của tất cả các nước công sản khác như Tiệp Khắc,
Cuba v.v tại Hà Nội. Có lúc con số lính Trung Cộng lên đến 300 ngàn. Hồ Chí
Minh và những đảng viên trung ương đã đến tiếp kiến Chu Ân Lại ở Nam Ninh tháng
7 năm 1957 để cùng hợp tác soạn thảo kế hoạch cài cán bộ cộng sản nhằm phục vụ
mưu đồ thôn tính Miền Nam. Kế hoạch này gồm 2 chiến lược chính đó là làm suy yếu
chính quyền VNCH bằng các âm mưu gây bất ổn chính trị xã hội, hai là tấn công
quân sự và tấn công khủng bố. Tất cả các kế hoạch này lấy tinh thần ái quốc chống
ngoại xâm và bịa đặt vấn đề đàn áp Phật Giáo để lừa phỉnh lòng yêu nước và đánh
lận tín ngưỡng của người dân VN. Sự hiện diện trong chiến tranh của bọn cộng sản
Bắc Việt chỉ là bề ngoài, bên trong chính là Trung Cộng vẽ kế hoạch từng giai
đoạn và cung cấp vũ khí tiền bạc. Như vậy chính phủ Ngô Đình Diệm đang đối đầu
với cả một khối cộng sản lúc đó đang vô cùng mạnh, và nguy hiểm hơn nữa là khi
chính quyền Kennedy đồng ý trung lập Lào, tạo đường giao thông cho Hà Nội liên
tiếp đưa quân vào Miền Nam và làm gia tăng các trận tấn công quân sự của Hà Nội
vào Miền Nam.
Tuy phải đương đầu với muôn vàn khó khăn như trên, nhưng Tổng
Thống Ngô Đình Diệm đã giữ cho hậu phương Miền Nam luôn thanh bình ấm no, người
dân đi lại an toàn, không có nạn đắp mô xe đò đánh du kích v.v
5/ Ngoại giao:
với sự thành cộng vượt bực về chính trị kinh tế và khống chế
được cộng sản, ổn định Miền Nam một cách nhanh chóng, ông đã được rất nhiều các
nguyên thủ quốc gia cũng như các nhân vật chính trị nỗi tiếng trên thế giới ca
ngợi, chẳng hạn tổng thống Lyndon Johson vào năm 1955 và 1961 đã ca ngợi tổng
thống Ngô Đình Diệm là Churchill của Châu Á, Tổng Thống Tưởng Giới Thạch nói rằng
100 năm nữa Việt Nam cũng chưa tìm được người tài đức như TT Ngô Đình Diệm. Tổng
Thống Eisenhower gọi ông là Miracle man, ông được giải thưởng Magsaysay và đã tặng
số tiền này cho Đức Đạt Lai Lạt Ma. Trước uy tín cá nhân và những thành tựu vượt
bực về kinh tế quân sự, Miền Nam đã được trên 80 quốc gia công nhận, rất nhiều
nước mời tổng thống Ngô Đình Diệm công du, và vinh dự nhất là chuyến viếng thăm
Hoa Kỳ và New York của ông đã được đích thân TT Eisenhower ra tận máy bay đón
và chào mừng bằng 21 phát súng đại bác.
Cho đến bây giờ, thật hiếm hoi có một vị nguyên thủ quốc
gia được Hoa Kỳ đón tiếp với thủ tục cao quý nhất như vậy. Đó là niềm vinh dự
cho cá nhân TT Ngô Đình Diệm và cũng là niềm vinh dự cho chính thể VNCH và cho
chính chúng ta hôm nay.
6/ Thành công về mặt an ninh tình báo:
Theo cuốn hồi ký của Đại Tướng Việt Cộng Văn Tiến Dũng, số
cán bộ cộng sản gài tại Miền Nam là 60 ngàn tên, sau 3 năm dưới sự cầm quyền của
chính phủ TT Ngô Đình Diệm con số này chỉ còn lại 5 ngàn. Tức là trong ba năm
chính phủ đã tận diệt trên 90% số cán bộ nằm trong màng lưới gián điệp. Đây là
sự tự thú mà chính cộng sản sau 1975 đã đưa ra, như vậy thành công vô cùng to lớn
này là do ai? công lao này là do ai? Nếu không phải là của TT Ngô Đình Diệm và
các ông như Phan Quang Đông, Ngô Đình Cẩn, Dương Văn Hiếu và toàn bộ hệ thống
tình báo công an mật vụ của Đệ Nhất Cộng Hòa. Hế thống tình báo này đã bắt và
loại trừ được 55 ngàn tên cán bộ cộng sản qua chiến dịch tình báo xâm nhập
chiêu hồi và tố cộng, bẽ gãy âm mưu thâm nhập vào hệ thống quân sự dân sự và
chính quyền VNCH. Hệ thống tình báo thời kỳ tổng thống Ngô Đình Diệm là một hệ
thống vô cùng hữu hiệu và có công lớn với đất nước, đã phá vỡ một hệ thống tình
báo cộng sản tinh vi và dày đặc, thế nhưng người ta vẫn lập đi lập lại như một
thành ngữ: hệ thống mật vụ Nhu Diệm đàn áp Phật Giáo trong lúc kết luận điều
tra của Liên Hiệp Quốc là hoàn toàn không tìm thấy bằng chứng đàn áp Phật Giáo
của chính quyền Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
Liệu chúng ta có thể chấp nhận sự thật bị đánh tráo này
không, hoặc để cho những kẻ cuồng tín tiếp tục vu khống?
Để đánh giá thành công này, chúng ta phải xem xét đến cách
cài người vô cùng tinh vi của khối cộng sản có tên gọi là Lucy. Xin được điểm
qua kế hoạch Lucy của Xô Viết để chúng ta thấy rằng loại trừ được hệ thống cộng
sản nằm vùng không phải là một công việc dễ dàng mà là một công việc muôn vàn
khó khăn mà hệ thống công an mật vụ của chính phủ Ngô Đình Diêm và ông Ngô Đình
Cẩn đã đạt được.
Kế hoạch Lucy là gì?
Đó là kế hoạch mà sau cách mạng Nga 1917, Nga đã chỉ thị
cho các cán bộ cộng sản trẻ của mình ở lại trong hệ thống quân đội và chính quyền
Đức dù lúc đó chính quyền Đức bị bại trận và số lính tình nguyện giải ngũ rất
nhiều, chỉ còn lại khoảng 100 ngàn. Các cán bộ trẻ này vẫn sống một đời bình
thường hoàn toàn không hoạt động tình báo gì cả. Nhóm này hiện diện trong các
lãnh vực quân sự, dân sự và trong các ngành quan trọng của chính quyền. Hai
mươi năm sau, khi thế chiến II bùng nổ 1939, các cán bộ cộng sản này trở thành
những sĩ quan cao cấp trong hàng ngũ quân đội Đức, tức là trở thành những tên
cán bộ điệp viên cộng sản cho Nga ngay trong chính quyền nổi tiếng sắt máu tàn
bạo và tinh vi của Hitler. Những tên sĩ quan cao cấp này của Đức đã cung cấp
toàn bộ tin tức tình báo kế hoạch hành quân cho Nga và đã góp phần tạo nên chiến
thắng cho Liên Xô trong trận đệ nhị thế chiến. Chính phủ Nhật Hoàng cũng bị bại
trận trước Nga cũng trong môt tình huống tương tự khi một điệp viên cộng sản Đức
trở thành một chuyên viên tín cẩn của chính quyền quốc xã Hitler làm việc cho
tòa Đại sứ Đức tại Tokyo.
Điểm qua kế hoạch cài người Lucy để chúng ta thấy rằng việc
loại trừ khoảng 55 ngàn điệp viên cộng sản tại Miền Nam mà Văn Tiến Dũng đã thừa
nhận là một kỳ công của hệ thống “ Mật vụ Nhu Diệm” của ông Phan Quang Đông,
Ngô Đình Cẩn và Đoàn Đặc Nhiệm Miền Trung. Trở lại vấn đề cán bộ tình báo nằm
vùng tại Miền Nam Việt Nam: Trong lúc chính quyền của TT Ngô Đình Diệm là một
chính quyền mới khai sinh sau ngày chia đôi đất nước, chỉ thật sự có quyền lực
và được Hoa Kỳ viện trợ đáng kể sau khi dẹp loạn Bình Xuyên Bảy Viễn và Nguyễn
Văn Hinh, tức là 11 tháng sau khi về nước chấp chính, thì chính quyền CSVN lúc
đó đã hoạt động được 24 năm, có ngân sách điều hành dồi dào và rất ổn định từ
khối cộng sản quốc tế đặc biệt là Trung Cộng, nên đã tạo được một màng lưới
gián điệp nguy hiểm nằm sâu và nằm sẳn trong tất cả các cơ quan dân sự, chính
quyền, quân đội và tôn giáo của Miền Nam. Ngoài ra còn có thêm số cán bộ cộng sản
từ Bắc được gởi vào Miền Nam qua làn sóng di cư 1954. Điều này giải thích lý do
tại sao điệp viên cộng sản đã trở thành các đảng viên cao cấp trong các đảng
phái quốc gia, trở thành các sĩ quan cao cấp, trở thành tướng lãnh, trở thành
các nhà tu, nhà báo, các chính trị gia đối lập và thậm chí len lõi vào cả Dinh
Độc Lập. Đó cũng giải thích lý do tại sao có quá nhiều tên cán bộ cộng sản giả
dạng quốc gia mà chỉ sau 1975 dân chúng mới biết, chẳng hạn như Phạm Xuân Ẩn,
Huỳnh văn Trọng, Vũ Ngọc Nhạ ni sư Huỳnh Liên, Thích Trí Quang v.v
Cuối 1956, khi thấy nền kinh tế và chính trị Miền Nam càng
ngày càng vững mạnh, cộng sản Hà Nội và Bắc Kinh cùng với Liên Xô đổi chiến lược
tấn công, đó là bên cạnh các cuộc tấn công quân sự, tổ chức chiến tranh khủng bố
ám sát bắt cóc trên toàn Miền Nam gây hoang mang lo sợ trong dân chúng, đồng thời
năm 1960, chúng đẻ ra tổ chức gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam được lãnh đạo
bởi những tên cộng sàn gộc pha trộn các trí thức thiên tả của Miền Nam, chẳng hạn
Nguyễn Hữu Thọ, Võ Chí Công, Nguyễn Thị Định, Huỳnh Tấn Phát, Dương Quỳnh Hoa,
Trương Như Tảng, rêu rao rằng đây là tổ chức do dân chúng Miền Nam nổi dậy chống
chính quyền. Thủ đoạn chính trị này đã lừa bịp một số trí thức Miền Nam như
Trương Như Tảng, Dương Quỳnh Hoa, Đoàn văn Toại v.v hăng say hoạt động cho
chúng, đồng thời đã lừa bịp được dư luận thế giới rằng MTGPMN không phải là tổ chức
cộng sản mà chỉ là do dân Miền Nam nổi dậy
Nói chung, chính phủ VNCH không phải chỉ đối đầu với cộng sản
Miền Bắc, mà chính là đối đầu với Bắc Kinh và Nga, đòi hỏi chính phủ phải thấy
xa trông rộng và bắt buộc phải giới hạn một số quyền tự do bình thường để khống
chế số Việt Cộng nằm vùng ngụy trang trong các tổ chức báo chí, tôn giáo, học
sinh sinh viên, tôn giáo v.v.Trong đó đòi hỏi chính quyền phải chọn người tài
giỏi tâm đầu ý hợp trong quan điểm và đường lối chống cộng. Số kết luận rằng
chính phủ TT Ngô Đình Diệm độc tài, thì họ là những người đã nhắm mắt bịt tai để
không thấy rằng, dưới thời chính phủ của Tổng Thống Ngô Đình Diệm người dân có
được các quyền căn bản về tự do dân chủ, đặc biệt là quyền tự do biểu tình tự
thiêu chống đối thóa mạ chính phủ, tuy vậy chính phủ vẫn thừa khả năng vô hiệu
hóa mạng lưới tình báo cộng sản. Đó là một điểm son khi điểm lại lịch sử
Hãy nghe cộng sản ghi nhận về hệ thống an ninh tình báo mật
vụ Nhu Diệm như sau:
“Từ 1957 đến 1958, tình thế dần dần đổi
thay. Kẻ thù liên tục phá hoại sự thi hành hiệp định Geneva, củng cố và tăng cường
một cách tích cực ngành an ninh quân sự và bộ máy hành chánh, từ trung ương xuống
đến tận thôn xóm, ám sất tàn bạo cán bộ và thật sự đã phá hủy đảng ta một cách
hữu hiệu…”
Chúng ta phải công bằng rằng tất cả những thành công về
giáo dục, y tế, kinh tế, quân sự, ngoại giao, nội chính, an ninh tình báo của
TT Ngô Đình Diệm trong hoàn cảnh đất nước phải đương đầu với cộng sản Việt Nam,
chống Nga, chống Bắc Kinh, là vượt quá sự mong đợi của người dân Việt Nam, vượt
quá sự tiên liệu của Hoa Kỳ và các quốc gia khác. Uy tín của Miền Nam và của cá
nhân của Tổng Thống lên cao đến mức TT Eisenhower, không những là vĩ nhân của
Hoa Kỳ mà còn là vĩ nhân của thế giới, đã thân chinh đón ông tận cửa máy bay với
thảm đỏ trải dài từ chân cầu thang và 21 phát súng đại bác chào mừng, là một chứng
minh rõ ràng nhất mà không ai có thể phản bác về uy tín và thành công quá lớn của
Tổng Thống
Tóm lại, những người cho rằng TT Ngô
Đình Diệm độc tài đàn áp Phật Giáo gia đình trị, hầu như họ đã tránh né việc mà
họ phải làm để thuyết phục dư luận rằng họ đúng, đó là họ phải so sánh tình trạng
đất nước trước khi ông về, với một đất nước sau đó với 9 năm đất nước dưới quyền
lãnh đạo của ông, rồi sự suy yếu bệ rạc xảy ra ngay sau khi đất nước không còn
bóng dáng ông nữa. Những kẻ đánh giá sự nghiệp của một vị lãnh đạo quốc gia mà
chỉ đưa ra tình hình bất ổn chính trị của đất nước do Phong Trào Phật Giáo
Tranh Đấu gây ra vài tháng trước khi ông mất là một việc làm gian trá đánh lận
con đen, tự làm giảm giá trị của mình và không ai có thể chấp nhận được. Vì vậy
sự kết luận rằng Tổng Thống Ngô Đình Diệm là người không có tài tham quyền cố vị
là những lời nói vô giá trị mà không lịch sử nào nhìn nhận.
Tổng Thống Ngô Đình
Diệm: “Tôi tiến, hãy tiến theo tôi; tôi lui hãy giết tôi; tôi chết hãy nối chí
tôi” (Nguyễn Đức Chung)
Tổng Thống Ngô Đình Diệm: “Tôi tiến, hãy tiến theo tôi; tôi lui
hãy giết tôi; tôi chết hãy nối chí tôi”
Nguyễn
Đức Chung
Trong
Cộng Đồng Người Việt Tỵ nạn CS tại Hải ngoại, đa số người Việt chúng ta
đã biết, cứ gần đến tháng 11, một cái mốc lịch sử dẫn đến việc chấm dứt nền Đệ
Nhất Việt Nam Cộng Hòa nói riêng và sự đen tối đổ xuống cho cả nước Việt Nam Cộng
Hòa chúng ta nói chung, thì chúng ta lại thấy xuất hiện một số nhân vật len lỏi
qua các phương tiện truyền thông, nhằm dấy lên những luận điệu vu khống, xuyên
tạc lịch sử, bôi bẩn và đổ lỗi cho vị khai sáng Nền Cộng Hòa Việt Nam.
Đã gần
54 năm qua, kể từ ngày Tổng thống Ngô Đình Diệm và nhị vị bào đệ của Ông bị sát
hại. Nguyên do và những kẻ trực tiếp nhúng tay vào máu của các Ông đã rõ mặt. Sử
liệu chân chính của những người trong cuộc, ngoài những kẻ trực tiếp nhúng tay vào
máu, một số đã ôm kín sự thật xuống tuyền đài, còn một số đã lẩn tìm vào chốn
“thiền tịnh” để cố che dấu tội ác, mà chúng đã gây ra không riêng gì cho cá
nhân và gia đình Tổng Thống Ngô Đình Diệm, mà cho cả nước và người dân của Việt
Nam Cộng Hòa nữa!
Vừa
qua, chính quyền Mỹ đã cho giải mật vụ ám sát Tổng Thống Kenedy cùng những diễn
biến liên quan tới vụ thảm sát Tổng Thống Ngô Đình Diệm của nước Việt Nam Cộng
Hòa, thì mọi việc lại càng sáng tỏ về lòng yêu nước, hy sinh cả tính mạng để bảo
vệ chủ quyền và nền độc lập của nước nhà trước một “đồng minh” to lớn, nhưng lại
luôn nghĩ mình là kẻ được “quyền áp đặt”.
Qua
nhân chứng sống, từng là những người làm việc kề cận và đã từng chứng kiến lối
sống, cách hành xử hàng ngày của Tổng thống Ngô Đình Diệm lúc sinh thời với mọi
người đã được ghi lại trên sách vở, báo chí, phim ảnh và cả việc lưu lại qua
các cuộc phỏng vấn trực tiếp. Thì câu nói của Tổng Thống Ngô Đình Diệm:
“Tôi tiến, hãy tiến theo tôi.
Tôi lui, hãy giết tối.
Tôi chết, hãy nối chí tôi”
Tới
nay, vẫn còn những kẻ ngoan cố, hạ cấp sửa đổi thành: “… Tôi chết, hãy trả thù
cho tôi”. (sic)
Trong
ý kiến mới đây của Luật sư Lê Duy San: “Bàn về Những lời trối trăn của cố TT
Ngô Đình Diệm” là có tính thuyết phục nhất như sau:
“Lúc
còn sinh tiền, cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm có nói:
“Tôi
không phải là thần thánh, tôi chỉ là một người bình thường. Tôi chỉ biết thức
khuya dậy sớm làm việc, một lòng hiến dâng đời tôi cho đất nước và dân tộc.”
Tôi lùi, hãy giết tối.
Tôi chết, hãy nối chí tôi” (1)
Ngô Đình Diệm
Có người
nói câu “Tôi chết hãy nối chí tôi” thực ra là : “Tôi chết,
hãy trả thù cho tôi”.
Tôi
nghĩ là không đúng. Đây chỉ là sự cố ý xuyên tạc lời nói của TT Ngô Đình
Diệm. Cụ nói: “Tôi chết…” chứ cụ đâu có nói: “Nếu tôi bị giết hay bị ám hại…”
mà nói : “hãy trả thù cho tôi” ?
Hơn nữa,
cụ là một người đạo đức, tên Hà Minh Trí đã ám sát cụ khi cụ đang đi
kinh lý ở Ban Mê Thuật vậy mà cụ cũng không giết thì cụ đâu còn màng
gì tới hận thù sau khi cụ đã chết”.
Ls
Lê Duy San
Và qua
những lời của Luật sư Lê Duy San, người viết đã đọc lại Hồi ký “Nhớ lại những
ngày bên cạnh Tổng Thống Ngô Đình Diệm” của Đại tá Nguyễn Hữu Duệ, xin trích đoạn
như sau:
“…. Mấy
tuần sau, ông lại đi thăm ngôi vườn ở Gia Định. Nơi này, ông đặt tên là vườn
Phượng Hoàng. Vườn tọa lạc giáp ranh tỉnh Gia Định và Bình Dương, gần sông Vàm
Cỏ. Lần này có kiến trúc sư Ngô Viết Thụ và Thiếu Tá Nguyễn Đức Xích, tỉnh trưởng
Gia Định tháp tùng. Vườn này hình con phượng hoàng, có khu trồng hoa rộng, có hồ
thả cá trồng sen, có nhà nguyện, trường học và một khu khá lớn đã làm xong một
số nhà cấp cho gia đình tử sĩ ở. Một khu ở cạnh nhà nguyện đã được dành sẵn để
làm nhà cho ông ở khi về hưu.
Lần đầu
tiên trong mấy tháng nay, tôi thấy ông vui vẻ và thoải mái. Sau khi cầu nguyện
độ 15 phút ở nhà nguyện (tuy nhỏ nhưng kiểu đẹp lắm, do ông Ngô Viết Thụ vẽ),
ông ra ngoài nói chuyện với các bà sơ và một số em nhỏ đứng quây quần quanh
ông. Lúc ấy, khu vườn chưa làm xong nhưng đã xây được nhiều phòng học và các sơ
đã bắt đầu dậy cho các em nhỏ ở khu gia đình tử sĩ mới dọn đến. Ý của ông là
lúc đầu dựng độ chừng 100 nhà cho gia đình tử sĩ ở, sau sẽ xây dựng thêm để
thành một làng tử sĩ. Khi về hưu, ông sẽ ở tại đây để trông nom các gia đình
này và vui cùng các con em tử sĩ. (Tôi nghe nói ở Vĩnh Long cũng có một làng Tử
Sĩ rồi nhưng chưa được đi xem).
Sau
đó, ông Ngô Viết Thụ trình ông xem họa đồ vẽ ngôi nhà ông sẽ ở. Nhà làm bằng gỗ
có ba phòng ngủ và một phòng đọc sách. Ông muốn lợp tranh thật dầy cho mát và
có một giàn hoa trước nhà. Tôi thấy họa đồ rất sơ sài, giống kiểu nhà ánh sáng
như báo Ngày Nay đã vẽ mà tôi được đi xem khi còn nhỏ. Sau khi nghe ông nói muốn
lợp tranh thật dầy, tôi nói nhỏ với một sĩ quan cận vệ đứng cạnh là nếu lợp bằng
ngói đỏ cũng đẹp và mát lắm chứ. Chắc ông nghe được, ngẩng đầu nhìn tôi:
-
Thôi, việc lợp tranh hay ngói sẽ tính sau.
Tôi thầm nghĩ chắc ông sẽ so sánh giá cả, rồi quyết định sau. Ở gần ông, tôi biết tính ông không muốn phung phí về tiền bạc, nhất là những gì cho ông.
Ngày
phá dinh Độc Lập để xây lại sau khi bị bỏ bom. Giá ước tính của Bộ Công Chánh
chắc ông nghĩ là quá cao nên nhờ Nha Công Binh tính lại. Tôi được đứng gần ông
nghe Thiếu Tá Nguyễn Văn Chức thuyết trình về ước lượng thời gian và kinh phí để
phá hủy của Nha Công Binh, chỉ bằng 60% giá Bộ Công Chánh ước lượng, và thời gian
ngắn hơn. Ông tỏ vẻ vui mừng và khen ngợi Thiếu Tá Chức.
Tôi
cũng nhớ một hôm ở Đà Lạt, ông bảo tôi cho gọi Đại Úy Đẳng lên cho ông nhờ một
việc. Đại Úy Đẳng là sĩ quan Quân cụ ở Sài Gòn theo lên Đà Lạt để bảo trì những
khẩu súng săn của cựu hoàng Bảo Đại. Khi gặp Đại Úy Đẳng, ông móc túi lấy hộp
thuốc lá ông dùng hằng ngày, và hỏi:
- Anh
xem có thể sửa cái hộp thuốc này được không, sao nó không đóng lại được.
Tôi ngạc nhiên nhìn vào cái hộp thuốc đã quá cũ và sây sát nhiều. Ông nhìn tôi như nói cho tôi hiểu:
- Tôi
thích cái hộp thuốc này vì nó nhẹ và dùng nó đã lâu, tôi còn mấy cái nữa, đẹp
hơn nhưng tôi không thích. Bây giờ nhớ lại những lời ông nói tôi vẫn còn thấy
xúc động.
Nhớ ngày ông đến khánh thành trường Quốc Gia Nghĩa Tử ở Sài Gòn do Đại Tá bác sĩ Trương Khuê Quan làm giám đốc. Trường lớn và đẹp vô cùng, cũng do kiến trúc sư Ngô Viết Thụ vẽ.
Ông
nói với Đại Tá Quan:
-
Trong cuộc chiến này chỉ có con của tử sĩ là thiệt thòi nhất vì vậy tôi chọn
cái tên Quốc Gia Nghĩa Tử để nhớ là quốc gia phải có bổn phận với họ. Tôi sẽ lo
cho các tỉnh đều phải có trường Quốc Gia Nghĩa Tử và sau khi tốt nghiệp sẽ là
các cán bộ trung thành của Quốc Gia. Ngoài ra tôi sẽ lập các ký túc xá ở gần các
trường đại học cho các học sinh giỏi ở để học đại học.
Xem họa
đồ căn nhà ông dự định sẽ ở khi về hưu ở vườn Phượng Hoàng, so sánh với nhà của
Phó Tổng Thống và các ông bộ trưởng, tôi nghĩ mà thương ông. Sau ngày đảo
chánh, gặp ông Võ Văn Hải là chánh văn phòng và cũng là người lo giữ tiền bạc của
cải cho ông, tôi hỏi ông Hải:
- Thế
cụ định hết nhiệm kỳ này thì nghỉ, phải không?
-
Đúng, ông cũng mệt quá rồi, nhất là sau vụ Phật giáo xảy ra.
- Thế
cụ định khi về hưu thì ở đâu? Ở cái nhà tại vườn Phượng Hoàng đâu có được. Ai
lo cho cụ.
-
Không, cụ có tâm sự với tôi là sẽ về Huế ở với bà cụ cố. Nếu cụ cố chết sẽ vào
tu ở Dòng Chúa Cứu Thế”.
(hết
trích)
Đọc những
dòng của Đại tá Nguyễn Hữu Duệ, có lẽ những người có lương tri đều hiểu được rằng:
Lúc
sinh tiền, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã quyết định cho dựng một ngôi nhà bằng
mái lợp tranh, để khi nghỉ hưu sẽ sống cùng với các con em Quốc Gia Nghĩa Tử.
Nhưng sau khi Đại tá Nguyễn Hữu Duệ có ý kiến:
“Ở
cái nhà tại vườn Phượng Hoàng đâu có được. Ai lo cho cụ”; thì theo ông Võ Văn Hải:
“Không,
cụ có tâm sự với tôi là sẽ về Huế ở với bà cụ cố. Nếu cụ cố chết sẽ vào tu ở
Dòng Chúa Cứu Thế”.”
Chính
những lời này, đã cho những người có lương tri hiểu thêm:
Tổng
Thống Ngô Đình Diệm không hề nghĩ tới việc sẽ “bị sát hại”, mà chỉ nghĩ đến
ngày nghỉ hưu, có thể sẽ sống trong ngôi nhà lợp tranh với các con em Quốc Gia
Nghĩa Tử, hoặc về sống với mẫu thân, và thăm viếng các con em Quốc Gia Nghĩa Tử,
và sau khi Thân Mẫu mất, sẽ vào sống và chết ở Dòng Chúa Cứu Thế, rồi sẽ “chết
già” hoặc “chết bệnh”, thì làm gì có “Kẻ thù” mà nói cái câu “Tôi chết, hãy trả
thù cho tôi”.
Và một
lần qua cuộc phỏng vấn của ông Minh Võ với Cụ Cao Xuân Vỹ, Cụ Vỹ đã thuật lại
nguyên văn:
“Lúc ấy
tôi đang ở bên Tổng Thống Diệm và ông Nhu tại dinh Gia Long. Chính tôi nghe điện
thoại của ông Duệ và trình lên Tổng Thống. Tổng Thống la tôi: Các anh muốn gì? Ở
với tôi bấy lâu mà không hiểu ý tôi sao? Dân Nghệ An các anh chỉ thích làm loạn.
Đem quân đội chống quân đội là cách bảo vệ tổ quốc hả? Tôi thưa: Nhưng người ta
đánh mình thì mình phải đánh lại chứ Tổng Thống. Chẳng lẽ để phải chết sao? Ông
quát lên: Chết thì đã sao.”
Với những bằng
chứng hiển nhiên qua các nhân chứng sống trong lịch sử, người Việt Nam chân
chính chúng ta chỉ có một con đường để cứu nước là: Nối chí Chí sĩ Ngô đình Diệm!
Anh quốc,
ngày 30/10/2017
Nguyễn
Đức Chung
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết