Một
mặt trận hai kẻ thù
Giặc
cộng bán nước, tàu phù xâm lăng.
NGHÌN THU NHỚ ANH
TRÀ KHAN
Kỷ Niệm Ngày Quân Lực
VNCH 19/6
__________
Nghìn thu nhớ anh
Làng Côn Đan tên một làng miền quê tỉnh Quảng
Trị giáp tuyến với dòng sông Bến Hải. Tất cả nơi đây đều mang những địa danh
tuyệt đẹp như Cồn Tiên, Trung Lương, Gio Linh, Ái Tử v.v… Nhưng oan nghiệt
thay, những địa danh này cũng là những nơi hứng chịu gió đạn mưa bom tàn khốc
đêm ngày không ngơi nghỉ.. Và cũng nơi này là vùng đất cày lên sỏi đá, có người
bừa thay trâu cày.
Người em gái thuộc cư dân nơi miền đất kể
trên. Em mồ côi cha mẹ từ thuở nhỏ, bởi trái pháo oan nghiệt đã giết chết cả
cha lẫn mẹ em, kể từ lúc em ba tháng tuổi. Em được viện mồ côi nuôi dạy và đặt
cho tên Lệ Mi, cái tên định mệnh cho đến cả cuộc đời nàng, lúc nào tiếng khóc
cũng thay cho tiếng cười trên gương mặt ôm trọn nỗi buồn của nhân thế.
Những địa danh gió tanh mưa máu, nơi đây có những
gia đình đều chết hết, không còn một ai để nhớ để thương, hay để oán trách hận
gì thù nữa!
Dòng sông Bến Hải là nơi chia hai miền
Nam-Bắc. Nhưng chỉ một dòng chảy nhỏ, một con lạch nhỏ cũng có thể chia con
người thành đôi bờ, chẳng còn lệ thuộc về một ai nữa, trên cả lĩnh vực tình yêu
cũng như ý thức hệ.
Lệ Mi, như cây trụi mùa Đông, nàng vẫn là cây
cổ thụ miệt mài dẫu Đông có về nhưng hoa lòng vẫn nở, nàng có biết gặp ai không
để đợi chờ! Nàng chỉ hy vọng một chút nắng chiều dầu là hắt hiu, mong rọi đến
để nàng thắp sáng chút hy vọng, nhưng cũng thấy rất hiếm hoi.
Lệ Mi chờ và chờ mãi người bạn đời của nàng là
người lính mang tên Vũ đồn trú nơi đầu giới tuyến, vừa quen nhau lúc nàng ở
tuổi mười tám, lứa tuổi đầy mộng mơ cho một ngày mai tươi sáng. Họ cưới nhau
chưa tròn những chiếc hôn, chàng phải quay bước ra đi về đơn vị, và cũng từ đó
chồng nàng đã xa và xa mãi.
Tình yêu giữa nàng và chàng đã chết ngay giữa
hoàng hôn, thế mà Lệ Mi cứ ngỡ rằng ảo ảnh ấy vẫn còn nguyên vẹn.
Nàng biết yêu lính là chấp nhận cuộc sống
buồn, “chinh phu tử sĩ mấy người” và mấy người đi rồi trở lại. Thế nhưng nàng
vẫn yêu lính, như một thứ tình yêu thiêng liêng, nàng vẫn phải tiếp tục đi cho
trọn nghĩa tình thủy chung.
Nhạc buồn đời lính là những tình khúc thời
chinh chiến làm cứu cánh của những người ở hậu phương, và cũng là nguồn an ủi
duy nhất khi lính dừng chân nghỉ, hay nơi tiền đồn nay rừng mai mốt núi thẳm.
Vặn nhỏ chiếc radio qua chương trình Dạ Lan người em gái hậu phương “nếu em
không là người yêu của lính” hay thăm hỏi gởi qua làn sóng điện “giờ nay anh ở
đâu, Bến Hải hay Cà Mau”
Người lính cho đó là sân khấu thu nhỏ nơi
chiến trường, hạnh phúc mong manh từng phút qua từng giây trong giờ phút đêm
khuya, đôi khi lời ca tiếng nhạc hòa lẫn những đốm mắt hỏa châu soi sáng, người
lính tưởng đang mơ một ngày về phép nơi kinh thành. Nhưng dầu sao cũng là nguồn
xúc tác to lớn cho người lính VNCH đang xông pha ngoài trận tuyến, xem cái chết
nhẹ tựa lông hồng.
Người lính ngày ấy dẫu ở tiền đồn hay biên khu
xa thẳm, thì vợ con và người yêu anh nơi hậu phương, xem như những cánh hoa
thời loạn bên dây kẽm hầm chông, là nguồn tiếp liệu tinh thần vô giá để người
lính có thêm sức sống.
Hy vọng ngày chinh chiến tàn, Lệ Mi cũng như
những người vợ lính khác, mong đợi ngày đoàn viên cùng các anh trong khúc khải
hoàn ca. Nhưng thời gian trôi qua, năm tháng trôi theo không như ý, và những ai
đã từng yêu lính mang một niềm thương tiếc vô bờ, khi nghe tin anh gục ngã
trước đạn thù.
Và chính nơi này là cái bến cuối cùng của cuộc
sống. Người lính đã về đây lạnh ngắt, máu đông khô cứng từng cục, hay còn rịn
máu tươi nguyên. Dòng máu ấy, máu nào là của mẹ và tình thương nào là của em!
Người thân anh, vợ con anh và bạn bè anh, “nào ai gọi mặt nào ai gọi hồn”!
Nhưng đau thương hơn hết, khi hình hài anh
không còn nguyên vẹn trở về, thân xác anh đã gói tròn trong tấm poncho, mà
trước đây chính anh đã dùng nó để che mưa trắng nắng. Ngòi bút nào dẫu có điêu
luyện sâu sắc đến đâu, cũng không diễn tả hết cảnh thực, người thực, đớn đau
tột cùng trên hiện trường giờ phút cuối ấy, khi anh đã trở về thực thụ bằng một
thể xác lụn vụn thịt xương, giữa những vật vã đau thương gào thét của vợ con
anh và người thân anh, bên cạnh những vành khăn sô và hai hàng nến trắng.
Giờ đây, anh nằm đó trong chiếc quan tài phủ
lá cờ vàng, và chỉ còn một “tấm thẻ bài mang tên anh.” Anh chỉ có ngần ấy để
lại em và cho người thân anh. Anh đã chết cho em, và cho Dân Tộc anh, qua hai
thời Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa.
Hỡi người chiến sĩ đã yên giấc nghìn thu, và
những người lính hiện sống còn đang phiêu bạt trên khắp năm châu bốn bể, có phải
các anh là hiện thân của “kiếp dã tràng xe cát biển động” thời đại hay của giấc
mộng Nam Kha bất bình?
Sau khi phủi sạch tay, một đau thương ê chề đổ
nát, cho những cô nhi quả phụ, những anh em thiếu hụt, người hao mòn, đang tiếp
diễn trên quê hương người lính hôm nay.
Người dân miền Nam chân chính, hay những ai
còn mang nặng vết thương lòng với người lính VNCH ắt phải còn thiếu món nợ tinh
thần, mặc dầu các anh không đòi hỏi. Nhưng dân tộc anh cần phải có nhiệm vụ ơn
đền nghĩa đáp, thiết thực bằng hành động không bằng lời. Các anh là những những
bậc thánh đã có công với Tổ Quốc, vì nước quên mình, vì đồng bào anh hy sinh.
Cuộc sống của gia đình người lính nói riêng và
của đồng bào miền Nam Việt Nam nói chung, là tình ruột thịt của những người
cùng hội cùng thuyền, khi thấy máu chảy ắt ruột phải mềm, và lúc nào cũng mang
theo sau một trang sử lòng, đang dày vò mãi đến hôm nay và đến tận mai sau, khi
con đường đi không có đến.
Anh, hơn 40 năm sau ngày quốc biến, có còn chi
không anh, hay chỉ còn là tấm thẻ bài mang tên anh, và hàng hàng lớp lớp nấm mồ
người lính VNCH nơi nghĩa trang bị những kẻ may mắn thắng cuộc nhưng là lũ hèn
hạ, tiểu nhân man rợ và vô nhân tính đào bới san bằng, hủy hoại bởi chúng rất
sợ các anh, ngay cả sau khi các anh đã không còn trên cõi đời này nữa.
Ôi, còn đâu “Nghĩa tử là nghĩa tận” anh ơi!
Người lính có thấy gì không anh! Tượng tiếc
thương rơi xuống ngoài đường phố, để hồn thiêng anh phẫn uất những việc làm bất
nhân của kẻ thắng, để từ đó anh đứng dậy đòi hỏi câu trả lời. Và anh sẽ tha thứ
cho họ, để họ có dịp được làm người một lần nữa.
Và còn nhiều nữa nữa! Những nấm mộ nơi góc núi
bìa rừng không tên tuổi, người thân của anh cũng chẳng biết đâu đi tìm.
Lệ Mi, người thiếu phụ phụ son trẻ góa chồng
lúc tuổi 18. Nàng giữ lời sắc son, dầu không ai bắt buộc nàng phải ở vậy thờ
chồng! Đến nay Lệ Mi 56 tuổi đời, nàng không bước thêm bước nữa.
Hằng năm, đến ngày 30 tháng 4 và dịp Tết
Nguyên Đán về trước đó một tháng. Nàng âm thầm mua bông hoa nhang khói, và cầm
bên tay nhiều tấm thiệp nàng tự làm, và viết sẵn trên trang giấy bìa cứng cỡ
trang giấy học trò. Lệ Mi mượn mấy vần thơ “anh hùng vô danh” của Đằng Phương
để cắm trên mộ người quá cố. Nàng tìm đến những ngôi mộ nơi nghĩa trang đã bị
bọn tiểu nhân hèn hạ đào bới, hủy hoại, và những ngôi mộ người lính VNCH vô
chủ.
Lệ Mi cắm thiệp, hoa, và thắp nhang trên những
ngôi mộ. Nàng mím chặt môi để khỏi bật lên tiếng khóc, nhưng đau thương uất
nghẹn vẫn dâng trào.
“Họ là những anh hùng không tên tuổi.
Tuy bảng vàng bia đá chẳng đề tên.
Tuy mồ hoang xiêu lạc dưới trời quên.
Không ai đến khấn nguyền dâng lễ vật.
Nhưng máu họ đã len vào mạch đất.
Thịt cùng xương trộn lẫn với non song
Và anh hồn chung với tấm tình chung.
Đã hòa hợp làm linh hồn giống Việt.”
Nàng có linh cảm hồn thiêng của những người
chiến sĩ đâu đây, hòa trong cơn gió chiều buông xuống, mang từng loạt tiếng thở
dài vọng lên từ lòng đất lạnh, như muốn chia sẻ nỗi xót xa của người cô phụ
bằng dư âm đáp lễ.
Rồi những ngày tháng quen thuộc ấy. Lệ Mi
thường gặp những tiếng ca bên ngoài hè phố, bên góc chợ cuối đường. Anh em ấy
đến ngày tàn cuộc chiến, mất tay thiếu chân, nay chỉ còn là thân xác rã rời, đã
mượn lời ca bất đắc với cây đàn tự tạo một dây, qua bài hát tự tạo “không ai
ngăn nỗi lời tôi ca” làm lay động lòng người, khi nghĩ đến tình cố cựu, và
những ai còn giữ chút nghĩa xưa, bằng liên khúc tình ca rướm “sau cuộc chiến
này có còn chi không anh”!
Tiếng ca ngoài đường phố, tiếng ca của lứa
tuổi thanh xuân đầy nhựa sống, giờ đây đã mất hẳn. Những người anh em ấy ngày
nay, họ bị xã hội thống trị bạc đãi và người đời lãng quên họ.
Ai quên ai nhớ đến người lính hiện đang sống
còn trên quê mẹ. Họ là những người một thời đang ôm kín nỗi cô sầu, nhưng lương
thiện trên đôi môi, sống nơi đây và chết cũng nơi đây! Để cho ai và cho những
ai “nhất tướng danh thành vạn cốt khô.”
Người lính đi không ai tiễn, người lính về
không ai đón, chỉ có vợ con người lính hiểu và biết được giá trị đều đó, và
cũng không ai thương lính bằng vợ con người lính, một trái hỏa châu lập lòe về
phía trời xa, nơi người lính đóng quân, cũng làm vợ con họ mất ngủ âu lo. Để
cho những ai không mấy mẩy may, không một chút gì liên hệ đến người lính, cứ
ngủ ngáy thẳng giấc trong chăn êm nệm ấm, và cho một ai đó chưa thức khuya làm
sao biết đêm dài. Ngày nay, anh đã mượn sân khấu cuộc đời còn lại, bên chiếc
nạng gỗ làm đôi chân đứng, với chiếc nón sắt phai màu thuở trước. Sau cuộc
chiến tàn khốc và tang thương, anh chỉ còn có ngần ấy thôi.
Anh đã từng vào sinh ra tử nhờ nó che chở, để
tránh những viên đạn thù bắn thẳng vào đầu anh. Anh đã dùng nó như người bạn
đời ngoài trận tuyến. Chính nó đã giúp anh trong mọi lãnh vực của sự sống lúc
quân hành, nấu nướng, xách múc, tắm rửa. Giờ này anh không xem nó là vật kỷ
niêm, mà chính Chiếc Nón Sắt đã trở thành một thứ tình yêu thiêng liêng mầu
nhiệm đối với đời anh.
Rồi hôm nay đây, nó theo sát anh bên cạnh. Anh
xem nó như một “người tình không chân dung” “anh đâu em đó.” Anh đã đem sinh
mạng đời mình, đặt trên đường bay của tầm đạn, và đặt niềm tin vào sự sống còn
nơi anh trên nòng súng thân quen. Anh đã quen trong gian khổ, và làm bạn với
hiểm nguy.
Xin ai đó, đừng hiểu lầm là anh đã bán nó một
cách dễ dàng, hay những ai lợi dụng sự nghèo đói của anh, mua về làm mũ bảo
hiểm che chở cho người thân quen họ! Không! Tất cả đều không! Dầu anh là lính
quê mùa dốt nát. Nhưng anh vẫn còn một chút liêm sỉ, anh không bán rẻ lương
tâm, nhất là “bán” với ‘buôn.” Anh muốn nhắn lời gửi đến những ai còn tự coi mình
là “con người”: Nếu có bán buôn gì thì buôn
bán, xin đừng “bán nước” và “buôn dân.”
Giờ phút này, anh đặt nó bên cạnh chân anh, để
anh “mua lòng từ tâm” những ai còn có chút tình người qua lại nơi đây. Tiếng
hát của anh chỉ là tiếng ca ngoài đường phố, chỗ đứng của anh chỉ còn vỏn vẹn
trên nạn gỗ. Anh đã về từ bốn vùng chiến thuật, từ những quân binh chủng kiêu
hùng, đã từng một thời làm bạt vía kinh hồn quân giặc.
Thế nhưng, có kẻ nào đó không một chút gì
thương xót đến người bạc phận hôm nay, đã liệng vào nón sắt anh những trái
chanh chua hơn giấm, thay vì cho anh một vài tờ “bạc cụ” để anh mua được dĩa
xôi cho ngày.
Hành vi đó, không làm anh tổn thương chút nào.
Anh sẵn sàng đưa tay đón nhận kẻ đã cho anh trái chanh chua, nếu có cả quả cam
sành hay quít hôi anh cũng nhận tất cả.
Anh nghĩ rằng “chanh chua khế chín cũng chua.”
Anh không chê chua và cũng không trách đắng. Anh sẽ biến những quả chanh, hay
quả cam sành thành những ly chanh đá có đường uống rất hữu ích, vừa giải nhiệt
vừa đỡ khô cổ. Anh chẳng biết nói gì hơn, bằng hai chữ cảm ơn người cho chanh!
Dầu anh hôm nay thân tàn ma dại, nhưng lương tâm anh không ma dại.
Lòng khoan dung của người lính vừa thua trận
hôm qua, luôn luôn là tấm lòng vị tha đáng giá nhất trên đời, cho những ai thật
tâm kể cả những kẻ manh tâm.
Chế độ VNCH trước đây, đã giáo dục người lính
qua bài công dân giáo dục, “hãy trọng người để
được người trọng lại.”
Và giờ đây anh không còn là những ngày xưa
thân ái thuở trước. Tiếng hát của kẻ đã bị tước đoạt mọi quyền sống. Tiếng hát của
anh thăng trầm không theo phách nhịp, có lúc gào thét vùng vẫy như con mãnh thú
bị đạn, thoát ra từ con tim se thắt, đôi mắt anh mở to rồi từ từ nhắm nghiền
lại, giọng hát trầm lắng mang nhiều đau thương rồi tắt lịm, đã làm những ai còn
chút tình người, dừng chân đứng nghe chắc chắn sẽ làm não lòng không ít.
Ai đã yêu lính bằng lời, qua sách vở, trên màn
ảnh tivi, và những hoạt cảnh mang nặng phần trình diễn, bên quân phục mũ xanh
mũ đỏ, mũ nâu, với bộ Trelli “cáu cạnh” ủi hồ thẳng nếp, và dưới chân với đôi
boot bóng loáng, để cho người xem thấy rằng người lính “nhìn quân phục biết tư
cách.” Và nhịp nhàng lâm ly hơn, bên những vần thơ ngậm ngùi “Sông Dịch tiễn
anh đi” rồi dũng cảm trong tiếng vó ngựa “thét roi Cầu Vị ào ào gió thu..”
Thế thì, nước mắt nào là của Lưu Bị, và nước
mắt nào là của Tào Tháo, xin người “ngoài vòng cương tỏa” trả lời giúp.
Nhìn lại hôm nay, những người lính VNCH đang
bước đi những bước cuối đời trên quê hương mình; một quê hương đã quá tang
thương, khốn khổ, nhục nhằn sau cơn binh lửa ngút trời, nhưng bây giờ, trên
chính quê hương mình, những kẻ tiểu nhân lại không muốn chừa một chỗ nào cho
các anh.
Lịch sử giờ đây tạm sang trang nhưng cuộc
chiến này vẫn chưa hề thật sự chấm dứt. Dân Tộc Việt Nam nói chung và gia đình
bạn bè anh nói riêng, đã ghi chiến công các anh vào trang sử xanh hào hùng của
Dân Tộc. Ngày nay, những người con dân Việt yêu Tổ Quốc, yêu Dân Tộc, yêu Tự
Do, vẫn luôn ghi khắc câu “Tôi nhớ tên anh” trong trái tim của họ.
Người viết bài này, xin mượn hai câu thơ Nguyễn
Du thay lời kết:
“Áo xiêm ràng buộc lấy nhau,
Vào luồn, ra cúi, công hầu mà chi!”
(Sài Gòn trong tôi - Trà Khan)
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết