Khác với muôn
loài vật khác,chó có trí thông minh hơn cả và được coi như người bạn
thân của con người và có đặc tính hơn cả con người là lòng trung
thành.Cho nên,nở lòng nào lại giết chó để ăn thịt,chẳng khác nào ăn
thịt bạn mình để trở thành loại người bất nghĩa???Con người ta hay
dựa vào những lý do gọi là bổ dưỡng để giết hại và thỏa mãn khẩu
vị của mình.Những dân tộc ăn thịt chó là những dân tộc dể dàng
phản bội, hại đồng loại lẫn nhau nhứt trên hành tinh như Tầu
cộng,Việt cộng,Bắc Hàn..?
From: Nguyễn VânTùng <
To:
Sent: Wednesday, July 3, 2013 6:00 AM
Subject: [DDCL] Re: Chú Ch ó Trung Th ành
To:
Sent: Wednesday, July 3, 2013 6:00 AM
Subject: [DDCL] Re: Chú Ch ó Trung Th ành
From: Date:
Mon, 1 Jul 2013 12:10:20 -0700Subject: Chú Ch ó Trung Th ành
Văn
Hóa Sống Trên Đời
* Bút Xuân TRẦN ĐÌNH NGỌC
LTS: Phải đặt mình vào
các cụ ta xưa khi còn sống ở Động đình Hồ, Cao bằng, Lạng Sơn, Ba Vì, Việt trì
Tuyên
Quang, Phú thọ…đời sống còn quá thô sơ chân chất, quanh năm chi có tôm cá bắt
được ở các sông ngòi, hồ ao, rau hái trong rừng hoặc vườn sau nhà, gà vịt, lợn,
trâu bò còn rất ít không dám giết thịt, vả nghèo thì tiền đâu mà giết gà vịt,
lợn bò? Chó nuôi giữ nhà nhưng lúc cần phải dùng nó cho bữa tiệc của con người
thì cũng phải đành, chứ ai không thuơng nó. Mời bạn đọc đi sâu vào truyện ngắn
sau đây của Nhà văn Bút Xuân TĐN để hiểu được vì sao chúng ta lại có Văn hóa
Sống trên đời. Trân trọng.
Trước hết, Văn hóa thường được định nghĩa như một tập
hợp tòan thể các họat động nói chung của con người trên một lục địa, một miền,
trong một dân tộc, một bộ tộc v.v...Thí dụ ở thời cổ có Văn hóa Ai Cập, Văn hóa
Trung Hoa, Văn hóa Ấn Độ, Văn hóa Mesopotamia, Văn hóa Âu châu, Văn hóa Hi lạp
v.v...Ngày nay có Văn hóa Tây phương, Văn hóa Đông phương, Văn hóa châu Mỹ
Latinh v.v...
Ăn là một nét đặc thù của Văn hóa vì ăn đứng đầu và quan trọng
nhất trong sinh họat của con người. Ngày Tết bàn về các món ăn là điều
rất hợp vì cổ nhân ta thường nói:
Làm như ngày dưng ăn sao
cho hết
Ăn như ngày Tết lấy gì mà ăn.
Món ăn ngày Tết thì nhiều, rất nhiều, nhớ không xuể kể không hết,
nhưng vì là năm con Chó, chúng ta chỉ giới hạn một món cờ tây, món
sống trên đời, thức ăn khoái khẩu bổ dưỡng đã từng được ca tụng hết mình do
nhiều văn nhân, thi sĩ trong văn chương bình dân.
Sống trên đời ăn miếng dồi
chó
Chết xuống âm phủ biết có hay
không?
Chết là bỏ lại tất cả mà vẫn còn nhớ nhỏm cái món thích khẩu ấy,
đủ biết nó phải ngon như thế nào!
Tuy nhiên, vì người Việt hiện nay di tản đi khắp cùng thế giới
nhập nhiễm nhiều nền Văn hóa địa phương nên khi nói về “Văn hóa Sống trên đời”
hay “Văn hóa cờ tây”, chúng ta phải giao hẹn với nhau thế này. Trước nhất phải
dùng cái tâm thức thuần túy Việt Nam để cùng bàn bạc vì món cờ tây là một món
ăn đặc thù không món ăn Việt hoặc ngọai quốc nào tương tự. Nếu nói chuyện hạ cờ
tây với lớp người trẻ Việt đã sinh ra hoặc sinh sống nhiều năm tại Hoa kỳ, Âu
châu ... đã nhiễm tư tưởng học thuật Tây phương; các bạn trẻ này sẽ không thể
hiểu được vì sao người ta dám...giết chó và ăn thịt chó.
Thứ hai, nếu bạn đã từng thưởng thức món “hương nhục” ở Việt
Nam và nhận biết nó ngon không thua một thứ thịt gì, hoặc có phần trội hơn, thì
câu chuyện đang kể bạn nghe đây mới lí thú, bằng không nó chỉ là những dòng chữ
chóan cho đầy trang báo mà thôi.
Để cho có đầu đuôi, chúng ta nên ngược dòng từ nguồn gốc. Quí bạn
đọc cũng dư biết Bắc Việt chính là cái nôi của nước Việt Nam ta. Nông thôn Bắc
Việt, một năm mới có một lần Tết, có nhiều người, một năm mới được ăn thịt một
lần vào dịp Tết, thế thì Tết chẳng đáng cho người ta mong chờ, quan trọng hóa
và hồi hộp khi trống mõ làng báo tin Giao thừa sao? Chẳng nói đâu xa, chỉ ngay
trong thời Pháp thuộc, vật trâu vật bò là chuyện đại sự của làng, của tổng, của
huyện; mổ heo khi có đình đám lớn của làng hay tư nhân khá giả. Còn một, hai
gia đình, khi có lễ lạc, mừng rỡ chỉ dám hạ cờ tây là cùng vì tiền đâu mà mua
heo, mua bò? Cờ tây tiện ở chỗ vừa túi tiền, nó rẻ hơn heo, bò. Bốn gia đình
đánh đụng một con tức mỗi phần một đùi là đủ cho một dịp lễ lạc, vợ chồng, con
cái no nê hạnh phúc. Cờ tây lại cũng ngon không thua bất cứ thứ thịt gì ngòai
chợ, nó lại được tiếng là bổ dưỡng, kiện tì, tráng thận, ích tim. Bằng ấy lí do
xác thực, người nông dân Bắc Việt đa số tay làm hàm nhai khi xưa chẳng ăn cờ
tây thì ăn cái gì cho có chút thịt thà ngày lễ, ngày tết? Một điều nữa, gia vị
cho heo, bò thì tốn chứ gia vị cho cờ tây chỉ kiếm trong vườn. Con cháu gái cứ
xách rổ ra vườn đào vài mậm riềng, xắn vài củ chuối non, hái một ít xương xông,
mìn tưới, ngò gai, húng quế, húng lủi và nhất là lá mơ tam thể đang leo từng
bụi lớn, chọn lá ngon mà hái. Thế là xong! Đỗ xanh và vừng, nhà nào không trữ?
Vài đồng bánh đa đem nướng lên. Vài cút rượu đâu mua từ cô hàng rượu bán rong
sáng nào không nhởn nhơ khắp giong, khắp xóm trêu nguơi mấy anh bợm nhậu?
Còn trời, còn nước, con
non
Còn cô bán rượu anh còn say
sưa!
(Ca dao)
Dễ dàng vậy và giản dị vậy, lại rất bình dân học vụ, chẳng nhắm
vào cờ tây thì còn nhắm cái gì?
Chúng ta cũng cần ghi nhận một điều tối quan trọng. Thịt chó ta
khác thịt chó Mỹ, chó bẹc-dê xa lắc xa lơ, một trời một vực về phẩm chất vì chó
ta xưa nay chỉ ăn cơm, ăn cám heo, mút mát miếng xương miếng xẩu của chủ
thải ra nên chó ta thịt thơm, dòn cũng ví như thịt gà thả rẫy, gà đi bộ chứ
không phải lọai gà nhốt trong chuồng, nuôi thúc cho béo, thịt mủn mùn. Của đáng
tội, dù không thanh lắm cũng phải thêm rằng, thỉnh thỏang ban đêm thằng cu Tèo
hay cái Đĩ nhớn, Đĩ bé có yếu bụng, mẹ nó chẳng cần phải gọi bố nó nằm chình
ình bên cạnh mà cứ việc mắt nhắm mắt mở cầm hai cẳng chân đứa con giơ ra. Vàng,
Vện hay Mực đã túc trực từ bao giờ, tự động lo liệu sạch sẽ như lau như li.
Xong việc, hai mẹ con lại trùm mền ôm nhau ngủ tiếp không phí đến mươi giây
đồng hồ trong khi “bố nó” vẫn cứ ngáy đều như cái bễ lò rèn. Thật là tiện lợi!
Trở lại những năm tôi còn đi dạy học ở Sàigòn, quen biết cũng khá
nhiều, dân ở thành cũng đông mà dân miền quê ỏ các tỉnh phụ cận cũng lắm, một
số là phụ huynh học sinh có con học tôi tại Sàigòn.
Một bữa thứ bảy mát trời, ba ông bạn đến rủ đi chơi. Hai ông và
hai bà ngồi chung chiếc xe Jeep dân sự với tôi và nhà tôi; còn một ông
chở bà xã trên chiếc xe Vespa lái theo sau vì xe của tôi đã quá chật.
Lái xe ra xa lộ Biên hòa, chưa biết có nên đi Lái Thiêu mua ít sầu
riêng, măng cụt và soài cát, thì chợt ông bạn ngồi phía sau - Được - nói:
“Ði Hố Nai kiếm thịt cầy ăn
đi cậu! Tớ thấy nhớ thịt cầy rồi.”
Vì chẳng có định kiến, nghe đề nghị, tôi đáp:
“Ừ thì Hố Nai!”
Xa lộ do nhà thầu Hoa Kỳ RMK làm, phẳng phiu láng bóng như mặt
kiếng, chẳng bao lâu chúng tôi đã tới Hố Nai. Hai chiếc xe ngừng trước một ngôi
nhà khang trang, sân gạch, tường xây, mái tôn. Hai con chó nhỏ xồ ra sủa inh ỏi
làm ông chủ nhà đã có tuổi bước ra:
“Ủa thầy giáo Vũ! Sao lạ lùng
vậy?”
“Chào bác. Chúng tôi đến thăm
hai bác đây. Hai bác và gia đình có khỏe không?”
Ông chủ nhà mời chúng tôi vào phòng khách, bảo đứa con gái nhỏ nấu
nước pha trà. Ông là hàng xóm của tôi năm xưa khi tôi có căn nhà ở khu
Chợ Quán, hơn nữa, mấy đứa con ông đã học tôi mấy năm. Sau đó gia đình ông dọn
về khu Hố Nai hố bò này nhưng thỉnh thỏang lên Sàigòn ông vẫn ghé thăm chúng
tôi.
“Mời thầy cô giáo và các ông
các bà mời nước.”
Sau khi uống xong được một tuần trà, bác Hạng - tức ông chủ nhà -
hỏi tôi:
“Thầy giáo Vũ đến thăm chúng
tôi hôm nay còn có việc gì không?”
Tôi đặt cái tách Nhật xuống khay:
“Anh em muốn bác cho thưởng
thức một bữa nai đồng quê. Tiệm tùng không thiếu nhưng thấy không ngon và sạch
sẽ bằng ở nhà làm.”
“Quá dễ. Để tôi bảo cháu Long
lo liệu.”
Tôi móc túi lấy xấp giấy bạc trao vào tay bác Hạng:
“Bác trao cho anh Long để trả
tiền con cầy và mua gia vị.”
Bác Hạng giẫy nẩy:
“Ấy không, thầy cô giáo với
các ông các bà xuống thăm gia đình tôi là quí lắm rồi. Thường ngày cha con tôi
cũng mua về giết hòai. Chúng tôi đãi thầy cô giáo và các ông các bà một bữa
không được sao?”
“Được vẫn là được, chỗ bác
với chúng tôi mà. Nhưng xin bác cứ cầm cho chúng tôi vui lòng. Lần sau chúng
tôi mới dám đến quấy rầy bác nữa.”
Bác Hạng vẫn không cầm nhưng tôi nhất định không nghe, cứ dúi tiền
vào tay bác, đóan chừng số tiền ấy cũng đủ để làm bũa tiệc.
Anh Long, con lớn bác Hạng nghe bố dặn dò ở dưới bếp xong lên chào
chúng tôi rồi ra đề xe Lam ba bánh chạy đi. Bác Hạng bảo với chúng tôi, tuyến
đường xe Lam đưa khách hôm nay người kia chạy, Long được nghỉ.
Chẳng bao lâu, tôi thấy Long về, khệ nệ vác một cái bao tải. Anh
ném ịch cái bao xuống sân gạch và lôi ra cho chúng tôi coi một con chó vàng to
trung bình, lông ngắn, tai nhỏ mới khỏang hơn năm, giống chó ta hòan tòan.
“Nhất bạch, nhì hòang, tam khoang, tứ đốm.” Được lắm đây.
Nhưng các thầy lang ta lại cho điểm Mực cùng với bạch đứng đầu sổ:”Nhất bạch,
mực, nhì hòang, tam khoang, tứ đốm”vì các cụ nói cái mật con chó mực chữa được
nhiều bệnh lắm. Để chiều các cụ “lương y như từ mẫu”, thôi cũng cứ được đi.
Con chó đã bị trói bốn chân và mõm không cựa quậy được, đôi mắt
của nó trông thật buồn rầu. Sau khi cho coi, Long đưa chó ra vườn sau, ở đó có
bác Hạng gái, vợ Long và mấy đứa em phụ việc mổ chó và nấu nướng. Để cho chúng
tôi được tự nhiên, bác Hạng cũng rút về phía nhà bếp.
Cũng như mọi lần đã đến đây ăn, tôi không nghe một tiếng chó kêu
vì Long nói, để nó bớt đau đớn, Long đã cho nó một cái vồ vào giữa ót xong mới
cắt tiết.
Chỉ hơn tiếng sau, khi chúng tôi đang đánh chắn ở phòng khách giết
thì giờ thì chợt nghe mùi chả nướng thơm tưng thơm lừng theo khói từ ngòai sân
bay vào. Vợ anh Long và vài cháu gái khác lên bày bàn ăn. Khỏang nửa tiếng sau,
bác Hạng mời bọn tôi nhập tiệc. Tôi hỏi bác Hạng:
“Hôm nay anh chị Long làm có
vẻ nhanh dữ. Chỉ mới ba tiếng từ lúc đi bắt chó mà bây giờ đã được ăn?”
‘Hôm nay quả nhanh thực vì
con chó này tôi đã mua xong và trả tiền cho chủ, Long cứ đến là trói đem về.
Còn nếu lại phải đi hỏi dăm, ba nhà mới mua được thì mất thời gian thêm. Việc
nấu nướng cũng đã qui họach từ trước. Ai việc nào cứ việc ấy, từ người pha thịt
đến người đâm riềng, nhặt rau thơm nên bớt việc mà lại nhanh. Ấy vợ chồng Long
nó tính nếu mệt về cái xe ba bánh này thì chúng cho mướn, xong ở nhà mở một
quán cầy tơ, ngày giết một con cũng đủ sống. Cái quán ở đầu xa lộ đường vào
Biên hòa nghe nói ngày tiêu thụ ba con cơ đấy. Nào mời thầy cô và các ông các
bà.”
“Mời hai bác cùng ngồi ăn cho
vui.” Tôi nói.
“Vâng, tôi xin ngồi tiếp thầy
cô và các ông các bà một lát thôi. Tôi ngồi lâu mỏi lưng không chịu được.”
Chúng tôi đã mang theo một chai rượu thuốc của chú Năm ngã
ba Tân Vạn vì có mồi ngon mà thiếu chén rượu “bồ đào mĩ tửu dạ quang bôi” này
thì mồi ngon cũng hỏng. Lại có thêm bia 33 và bia-lây, ai không hạp rượu thì
uống bia, các bà không uống bia thì uống bia-lây. Nhưng quả thực tuy
không nói ra, ăn thịt cầy mà uống nước ngọt thì cũng y như mặc áo gấm đi đêm ba
mươi, nó phí cả thịt cả áo đi. Thịt cầy chỉ đế, uống đến la-de đã là bết rồi.
Tôi phải xuống bếp cố chèo kéo bằng được Long lên bàn ăn. Long là
học trò cũ của tôi những năm lớp 10 và lớp 11, sau đó đi khóa Hạ sĩ quan Đồng
đế, bị thương đang khi huấn luyện, được tạm thời về chờ ngày ra Hội đồng Miễn
dịch quyết định thương tật.
“Mời thầy cứ tự nhiên. Con
còn bận tay lắm. Con phải coi nồi xáo này để lát quí vị ăn bún.”
“Cứ để đó cho chị ấy coi
giùm. Lên uống với thầy một li đã.”
Long bất đắc dĩ phải để cho vợ coi và lên bàn ngồi, nhưng chỉ uống
hết một li la-de là đã cáo lỗi trở xuống bếp.
Một cái bàn lớn đầy những đĩa, những bát. Đầu tiên, theo thông lệ,
chúng tôi ăn tiết canh. Những lát gan thái mỏng đặt kín trên mặt đĩa tiết canh
đông cứng đã để tủ lạnh một lúc, trên đó là đậu phọng rang đâm nhỏ và lưa thưa
mấy lá ngò gai, húng quế. Chúng tôi nâng những cái chén nhỏ đặc biệt để uống
rượu rắn hổ, to hơn chén mắt trâu một chút. Uống kiểu này không có uống từ từ
mà cứ mỗi chén chỉ tợp một cái ực. Thế mới ngon. Thế mới đã. Vắt chút chanh vào
miếng tiết canh, ngắt vài cái lá húng quế, ngò gai, ngò ôm bỏ lên trên, rồi
từ từ và vào miệng. Ôi chao sao nó ngon, nó bùi! Nhất là miếng tiết canh đang
ăn lại trúng ngay cái cổ họng con cầy nhai sần sật trong miệng. Miệng nhai
nhưng tay vẫn bẻ miếng bánh đa vừa nướng dòn tan, thơm phức ăn kèm. Món tiết
canh này nghe đâu đã có từ thời Hồng Bàng vì các cụ ta quí máu huyết lắm. Trâu,
bò, lợn, gà, vịt...khi giết các cụ không bỏ huyết đi bao giờ. Quí cũng phải vì
máu huyết trong mỗi sinh vật chính là sự sống còn của sinh vật đó. Thiếu huyết,
cạn huyết, sinh vật lăn quay ra ngay. Tuy nhiên, về cái “sự cố”đánh tiết
canh, chúng ta còn thua người Lào và người Lào-Hmong một bậc. Chúng ta chỉ
ăn tiết canh vịt chứ không ăn tiết canh gà nhưng các người Lào và Lào Hmong lại
hãm tiết gà đánh tiết canh thưởng thức cũng y như vịt vậy. Và họ khen rất ngon.
Xong tiết canh thì đến các thứ khác như chả nướng trên bếp
than, có rắc mè lên trên. Những miếng thịt vàng ươm vì có ướp bột nghệ, hành,
riềng, mẻ, nước mắm đem nướng trên than, khi mỡ sôi xèo xèo trên mỗi miếng thịt
và thịt săn lại, ngả mầu nâu nhạt ấy là chả đã chín. Một hớp rượu, một miếng
chả, mảnh bánh đa, mảnh riềng mỏng, vài cọng húng, lá mơ. Đời quả là đáng sống,
các cụ ạ! Chắc Lưu Linh, bợm rượu và hai ông Lưu Thần, Nguyễn Triệu lạc vào
động Thiên thai xưa kia được tiên cung phụng cũng chỉ ăn ngon đến thế! Ghiền
thịt cầy nhà sư giả dạng Lỗ trí Thâm trong chuyện Thủy Hử hay 108 Anh hùng
Lương sơn Bạc làm gì có chả nướng, rựa mận mà ăn. Đùi chó luộc, ông cứ bỏ vào
tay nải, hễ ngon ngót bụng lại moi ra ngọam, chấm chút muối. Riềng, lá mơ chẳng
có, bánh đa thì không, may ra có được vò đế nhưng ăn mộc tồn kiểu đó sao bằng
chúng tôi đang thưởng thức với đầy đủ gia vị, rượu ngon ở nhà bác Hạng đây. Yến
lão đã là nhất nhưng không hơn bữa hạ cờ tây này được.
Sách kể rằng có mấy nhà sư chân tu có vẻ khi dể chế diễu ông Lỗ
khi ông uống rượu và ăn thịt chó tì tì:
Đi tu Phật đã dạy rằng:
Chớ ăn thịt chó, chớ năng liếc đào!
Ông Lỗ giận lắm, một lần, hai lần rồi ba lần, không nhịn nổi
nữa, ông không nói không rằng xô tới dằn ngửa nhà sư kia ra ở ngay sân chùa,
thồn đùi chó vào miệng, bắt ăn bằng được, gây ra một cuộc vật lộn thi đấu quyền
cước công phu dữ dội, đá cát bay mù mịt làm anh hùng hảo hớn trong giới võ lâm
cười vỡ bụng.
Sau tiết canh và chả là đến rựa mận. Cờ tây bảy món mà. Miếng thịt
do lửa riu riu quánh lại với nhau thấm đủ các thứ gia vị như riềng, mẻ, xương
sông, lá mơ, thơm mùi thơm đặc biệt không thứ thức ăn nào có. Thịt nấu rựa mận
còn cả da, vừa nạc vừa mỡ, tuy nhiên chó ta hong hong con - với phụ nữ gọi là
mình dây - mỡ ít mà thịt nhiều. Khi ăn ta thong thả vừa nhai vừa ngẫm nghĩ cái
bùi béo, thơm tho, mảnh da dòn sần sật và phải chịu rằng các thứ gia vị đã tạo
cho miếng thịt cầy một ý vị đằm thắm, một hợp chất hài hòa đến không thể nào
làm hơn. Cũng có những người lại thích ăn rựa mận với chút bún trắng tươi, lấy
làm vô cùng mãn nguyện.
Lại đến cái món dồi. Đúng là Sống trên đời. Ruột chó được
“ken” có ngghĩa là rửa thật sạch bằng những chất khử mùi hôi nhu chanh, lá khế,
muối để những chất lờn, chất dơ theo nước rửa đi ra hết chỉ còn lại bộ ruột dài
thòng, mỏng, dai, sạch sẽ từ trên xuống dưới. Nhân bên trong dồi là thịt, mỡ
vụn, tiết đọng, là mơ, ngò gai, húng quế và cả đỗ xanh, tất cả đã cà, đã đâm
nhỏ trộn với riềng mẻ, mắm tôm, nước mắm... Sau đó, nhân được nhồi vào trong
ruột cho đầy, cho chắc. Bịt hai đầu lại, lấy kim châm một ít lỗ thông hơi trên
khúc dồi xong cho vào nồi nước luộc đang sôi.
Sau khi luộc xong, Long còn đem cả khúc dồi quấn vào một
thanh tre đem hơ trên bếp than cho đến khi mầu da vàng hực, miếng dồi chắc và
khô. Dồi thái ra đặt chung với tim, gan và khi ăn, ăn nó với thịt luộc
cùng một lúc. Dồi và luộc thì phải chấm mắm tôm chanh, đánh cho thật nổi lên,
thêm chút đường cho dịu. Cùng là những thứ nhà quê nhà mùa với nhau, mắm tôm
chanh sao lại ăn ý hết mình với thịt cầy như thế. Còn nếu ai không quen với mắm
tôm thì cứ muối tiêu chanh cũng chẳng sao.
Thịt chó ngon như thế không hổ là thịt chó Việt và các tiền nhân
ta, các người đã ăn, đã mê nó không phải là vô lí. Danh bất hư truyền.Chứ cái
giống chó bẹc-giê, chó Mỹ, sống để làm cảnh, chết chôn chứ ai dám động vào một
miếng thịt hôi rình và nhẽo nhèo nhèo của nó?
Khi chúng tôi đã thấy gần no rồi, sắp sửa buông chén buông đũa thì
chị Long khệ nệ bưng lên một thố thịt hầm củ chuối để ăn với bún. Dù là món
cuối, bao tử không tiếp nhận được mấy nữa nhưng món hầm ăn với bún này thật
ngon, mỗi người cũng phải một tô nhỏ vơi vơi.
Chúng tôi ra khỏi nhà bác Hạng thì trời đã ngả chiều. Trên đường
về, các bà còn đòi cho ghé mấy quán bên đường mua bưởi Biên Hòa, thứ bưởi tôi
nghĩ ngon nhất thế giới, cũng như khóm Long An.
Sau ngày 30-4-1975, di tản sang nước Mỹ, tôi có cái may mắn là
được ở cùng một thành phố miền Đông Nam cùng với một số quân nhân Hạ sĩ quan và
binh sĩ trước kia dưới quyền tôi trong một đơn vị. Kể cả gia đình tôi là bảy,
chúng tôi cùng được một nhà thờ Tin Lành bảo trợ từ Guam sang và nhà thờ mướn
cho chúng tôi mỗi gia đình một căn trong chúng cư thuộc một khu trung bình
không quá giầu cũng không quá nghèo trong thành phố mà mùa Đông tuyết rơi ngập
đường đi lên cả foot.
Có gia đình và bạn bè thật đấy nhưng sao những ngày đầu đến đây,
chúng tôi vẫn buồn nẫu ruột. Hầu như ai cũng còn cha già mẹ héo, anh chị em,
cháu chắt bỏ lại nơi quê hương. Chúng tôi nao lòng khi nghĩ đến đại đơn vị và
các cấp chỉ huy, các bạn cũ sau khi sẩy đàn tan nghé, những bạn bè nào
còn sống, những ai đã nằm xuống và quê hương yêu dấu khi xưa giờ chỉ còn là một
nơi tan hoang, điêu tàn, đau khổ cho những người còn đang phải đối diện với
những thực tế chua chát não lòng.
Càng đau khổ, chúng tôi càng tựa vào nhau, bám víu vào nhau để tìm
lẽ sống bởi xung quanh chỉ tòan là xa lạ, hờ hững, lạnh lùng. Thực ra, giáo dân
của giáo xứ bảo trợ đã hết lòng giúp đỡ chúng tôi: tặng giường, nệm, bàn ghế,
nồi niêu bát đĩa, tuy đã dùng nhưng thảy đều còn tốt, còn đẹp. Ngòai những buổi
lễ chủ nhật chở chúng tôi đến làm việc phụng vụ tại nhà thờ, họ cũng thay phiên
chở chúng tôi đi chợ mua thêm thức ăn, đi bưu điện, đi bác sĩ và cả đi làm.
Sau hơn tháng, chúng tôi được chở đi thi lấy bằng lái xe nhưng chỉ
có tôi và một người nữa đậu vì 100 câu hỏi được đặt vào những chiếc máy
computer, thi abc khoanh nhưng phải hiểu câu hỏi rồi mới bấm vào câu trả lời
trên màn hình. Bữa thi, khi tôi còn đang tiếp tục làm bài thì bỗng cái máy reo
lên một hồi chuông dài. Cô thư kí đến bảo tôi đậu rồi vì tôi đã đáp trúng 75
câu. Nếu làm xong 100 câu mà không trúng được 75 thì kể như hỏng. Tôi vui nhưng
thấy năm bạn rớt nên cũng ái ngại cho các bạn. Họ là những tài xế rất giỏi
trong đơn vị nhưng khổ cái chưa học tiếng Anh bao giờ. Để có đủ trình độ làm
bài thi này, tôi không nghĩ chỉ học sáu tháng. Nếu được thi bằng tiếng Việt thì
quả là may mắn.
Tôi không hiểu nếu cả bảy người trong nhóm chúng tôi đều đậu thì
giáo xứ có đủ xe cũ phát cho anh em chúng tôi mỗi người một chiếc không
nhưng một tuần sau khi Sở Lộ Vận thành phố gửi bằng lái xe cho tôi và Mười thì
đồng thời ông chủ tịch Hội đồng giáo xứ cũng giao cho tôi và Mười mỗi người một
chiếc xe. Tôi được chiếc Chevrolet, Mười được chiếc Ford, cả hai đều tám máy,
bự tổ chảng tuy ghế nệm giữ kĩ còn khá mới. Máy xe còn khá tốt, không có bệnh
gì chỉ mỗi tội chúng uống xăng quá ấy là lúc đó xăng chưa tới nửa đô-la một
ga-lông.Từ nay, tôi và Mười tình nguyện làm tài xế cho cả bảy gia đình cho đến
khi mỗi gia đình có được ít nhất một người tài xế và một chiếc xe.
Chúng tôi đưa nhau đi làm để kiếm sống bằng hai chiếc xe “đầu đời”
này. Làm đủ thứ việc khi có người mướn: trồng cây, cắt cỏ, làm sạch vườn tược,
tỉa cây, cưa cây, dọn dẹp kho hàng... Khi mới chân ướt chân ráo tới đây, tiếng
Anh tiếng U còn quá dở thì không có quyền kén việc mà chỉ có việc kén người
miễn sao cho các bà xã có đủ gạo và thức ăn nấu nướng mỗi ngày, đám trẻ nhỏ
được cắp sách đến trường là vui rồi.
Ba tháng đầu, chúng tôi không phải lo tiền nhà vì đã có giáo
xứ yểm trợ.
Mỗi thứ bảy, chúng tôi vẫn luân phiên tổ chức ăn uống truyện trò
cho đỡ nhớ nhà. Các bà xã bày ra nấu bún bò Huế, phở, bún riêu, rán chả giò,
làm nem cuốn. Nhưng ăn mãi các thứ này rồi cũng chán. Một bữa, thượng sĩ Chửng,
nói với tôi và cả bọn:
“Có một món nhớ quá đã lâu
không được ăn, ông thầy ơi!”
“Món gì vậy chú Chửng?” Tôi
hỏi.
“Ông thầy có nhớ ngày xưa
thỉnh thỏang ông thầy vẫn bảo tụi tui đến Sở bắt chó đường Yên đổ xin cờ tây về
nhậu không?”
“Sao quên được. Nhưng ở đây
đâu có xe bắt chó?”
“Để tụi em tính, ông thầy.”
Tôi thấy manh nha một cái “sự cố” không nên, không phải bèn chặn
ngay:
“Ấy, cái xứ này người ta
trọng mấy con cầy lắm. Họ gọi chúng là “man’s best friend”. Các chú có thèm thì
mua giò heo thui lên nấu giả cầy ăn đỡ nhớ. Chớ có đụng vào mấy con khuyển kẻo
tù rục xương đó.”
Thấy tôi lo ngại, Năm Gò Quao trấn an ngay:
“Tụi em nhắc cho vui đấy ông
thầy. Làm gì có cái vụ hạ cờ tây ở Mỹ.”
Chửng nhắc làm tôi nhớ ra, anh Q. thú y sĩ được đào luyện từ
trường Quân Y là bạn tôi lâu ngày. Chúng tôi học với nhau năm Đệ Nhất tức lớp
12. Sau khi đậu Tú tài II, chúng tôi cùng ghi danh vào trường Đại học
Khoa học. Tôi theo ban Tóan ra làm nghề godautre, còn anh học Lý Hóa Sinh và
thi vào trường Quân Y ra bác sĩ Thú y. Chúng tôi gặp lại nhau khi anh được bổ
nhiệm về Sở Thú Y đô thành đường Yên Đổ, trong đó có dịch vụ đi bắt chó
lạc.
Ngồi với tôi trong một quán thạch chè đường Phan đình Phùng, Q nói
có ngày xe bắt về cả hai, ba chục con chó vô chủ hoặc đi lạc. Chó nhốt lâu ngày
rất tốn đồ ăn mà ngân quĩ có hạn nên thường phải giải quyết bằng cách chích
thuốc cho ngủ rồi đem chôn tập thể nếu sau hai tuần chủ chó không đến nộp phạt
chuộc chó về. Lúc đó,Trung đội của tôi vốn chỉ là một trung đội yểm trợ quân xa
đóng ở Sàigòn nhưng cũng có khi chúng tôi đi ra những vùng phụ cận như Tây
Ninh, Hậu Nghĩa ...để công tác. Tôi hỏi Q xin cờ tây cho Trung đội ăn thịt, có
trở ngại gì không? Q. nói, mặc sức đem xe đến mà bắt. Thế là thỉnh thỏang khi
có giờ rỗi rảnh một chút, tôi gọi điện thọai cho Q. xong bảo mấy đệ tử đến bắt chó,
nhưng tôi không cho bắt nhiều, chỉ mỗi lần một con, khi nào muốn đãi cả đại đội
mới bắt hai con. La-de Quân tiếp vụ, các thứ gia vị tôi bỏ tiền cho anh em đi
mua, trực gác đã sắp xếp đâu vào đấy, cả mấy chục người chúng tôi trải bạt ra
sân chén chú chén anh vô cùng hào sảng.
Như trên đã nói, tôi đã dặn đi dặn lại. Tất cả vâng vâng dạ dạ
ngon lành trước khi ai về nhà nấy.
Nhưng khỏang hơn tuần sau, một bữa thứ bảy đến phiên chú Mười, khi
đang ngồi trò chuyện tại bàn ăn, Mười cười cười bảo tôi:
“Ông thầy lại đây em cho coi
cái này.”
Vừa nói Mười vừa lại đứng bên cái tủ lạnh. Tôi theo Mười, vừa đứng
trước tủ thì Mười mở tủ ra cho tôi nhìn thấy một cái đầu chó lông cạo sạch sẽ,
đang nhe hai hàm răng trắng nhởn như răng ông da đen thuốc đánh răng Hynos ở
Sàigòn. Tôi ngạc nhiên nhưng rồi nghĩ liền ra, mấy đệ tử thân mến của tôi bất
kể lời tôi dặn đã bắt được con chó này làm thịt. Tôi chưa kịp nói gì thì thì cả
bọn đã nhao nhao lên:
“Tiết hãm đàng hòang ông thầy
à. Đánh tiết canh, làm dồi, nướng chả, nấu rựa mận, bó giò, nấu xáo ăn với bún.
Thầy trò mình hôm nay phải thiệt say nghen ông thầy!”
Đã đến nước này, tôi có lùi cũng không được mà có khi còn bị đồ đệ
chê là ông thầy không chịu chơi, không chịu làm đầu tầu cho đám đàn em. Tuy
nhiên tôi nói họ phải rất thận trọng vì nếu hàng xóm biết được thì rầy rà to:
“Không phải là tôi nhát nhưng
các chú phải rất cẩn thận. Nhà mất chó nó sẽ đi tìm, nó mà tìm ra báo Cảnh sát
thì ở tù cả lũ, lại mang tiếng với người bản xứ nữa. Đã lỡ rồi thì đành chịu
vậy nhưng đây là lần chót, nghe các chú. Vả lại, theo chỗ tôi biết, chó Mỹ thịt
mủn và hôi vì chó Mỹ ăn thực phẩm riêng chứ không ngon và thơm như chó ta, ăn
cơm như người. Lúc ăn các chú sẽ thấy. Thế các chú bắt nó bằng cách nào?”
“Tụi em thấy nó đi ở bên
đường liền dùng xe cán. Chó cán xe, xe cán chó đấy mà ông thầy.Xong vứt lên xe,
đưa về nhà hãy còn nóng hổi, thế là lấy huyết. Không một tiếng kêu. Êm thấm
lắm.”
Tôi đưa tiền cho Năm Gò Quao đi mua la-de và gia vị rồi về qua nhà
trong khi Chửng pha thịt làm các món. Mười bắc nồi nước luộc để lấy nước
dùng đánh tiết canh. Bà xã của Mười và hai, ba bà khác đã sẵn sàng để phụ. Lúc
tôi trở qua thì hai bà đang quạt chả, thơm tưng thơm lừng nhưng khói um lên
muốn ngạt thở. Mười bảo không dám đưa ra ngòai sợ lối xóm nghi, bể mánh. Tôi
phải chịu là mấy ông đệ tử của tôi làm nhiệm vụ quân nhân - ngày còn ở trong
nước - cũng hăng mà nhậu cũng không thua ai.
Buổi chiều hôm đó, chúng tôi quây quần thưởng thức món mộc tồn nơi
xứ lạ quê người. Y như tôi nói, phẩm chất thịt chó ta và thịt chó Mỹ một trời
một vực. Tôi nhấm nháp chút đỉnh còn chỉ uống cầm chừng nhưng tôi phải ngồi cho
anh em vui. Hơn chục người, trẻ con người lớn thưởng thức tận tình các món vừa
làm xong chỉ phải cái thiếu gia vị như riềng, rau thơm, lá mơ mà mãi ít
năm sau các chợ Việt ở quận Cam, Cali mới có. Nhưng thôi, được voi đòi tiên,
biết thế nào thỏa mãn được mọi thứ. Vừa cầm li la-de nhâm nhi tôi vừa ngẫm nghĩ
chắc chủ con chó bị mất đi tìm nó dữ lắm và biết đâu họ không trình Cảnh Sát?
Nhưng mọi chuyện đã được bảo mật phòng gian tối đa đến nỗi các bà mẹ phải dặn
dò cẩn thận những đứa con đã đi học chớ có nói với bạn hay cô giáo rằng gia
đình tôi mới ăn “real hot dog” mà bỏ mạng sa tràng đấy nhé!
Đó là lần đầu và cũng là lần cuối thầy trò tôi biểu diễn
“Văn hóa Sống Trên Đời” ngay trên cái xứ mà cầy tơ được coi trọng rất mực này.
Little Saigon, CA Tân Xuân Bính Tuất 2006
GS Xuân Vũ TRẦN ĐÌNH NGỌC
GHI CHÚ: Hot dog (chó nóng) ở Mỹ là một lọai súc-sích
làm bằng thịt heo hay bò, chiên hoặc nướng lên ăn kèm bánh mì, khá ngon. Real
hot dog: thịt chó thật, không phải súc-sích nữa.
|
Hi! I simply would like to give you a huge thumbs up for your excellent information you've got here on this post.
ReplyDeleteI am coming back to your web site for more soon.
I don't even understand how I stopped up right here, but I assumed this publish was great.
ReplyDeleteI don't realize who you might be however definitely you are going to a famous blogger in case you are not already.
Cheers!
Hello would you mind letting me know which web host you're using?
ReplyDeleteI've loaded your blog in 3 completely different
internet browsers and I must say this blog loads a lot faster then most.
Can you recommend a good web hosting provider at a fair price?
Thanks a lot, I appreciate it!
It's in fact very difficult in this active life to listen news
ReplyDeleteon Television, so I only use the web for that purpose,
and take the newest news.