Những sự thật cần phải biết (Phần 8) - Lịch sử lá cờ của dân tộc
Đặng Chí Hùng
(Danlambao) - Trong lịch sử dân tộc, đã không thiếu những lần đất nước Việt
Nam gặp sự xâm lăng của giặc Tầu từ phương Bắc. Và cũng chính từ những lần xâm
lăng ấy, dân tộc Việt Nam đã xuất hiện những Bà Trưng, Bà Triệu, Lê Lợi, Trần
Hưng Đạo, Trần Quốc Toản, Quang Trung… để đánh bại ngoại xâm, đem lại tự do cho
đất nước. Để có được những chiến thắng lẫy lừng như Hàm Tử, Chương Dương, Chi
Lăng... những vị anh hùng dân tộc đã biết cách đoàn kết tất cả sức mạnh của dân
tộc dưới ngọn cờ chính nghĩa, ngọn cờ của đấu tranh, ngọn cờ của dân tộc. Sức
mạnh đấu tranh của cả dân tộc khi hội tụ dưới một ngọn cờ đã đem lại sức mạnh
vô biên để chiến thắng kẻ thù hung bạo.
Cho đến lịch sử cận đai, dân tộc Việt Nam vì sự
đô hộ của thực dân Pháp, tham vọng mở rộng vòng quyền lực của cộng sản mà đứng
đầu là Liên Xô, Trung cộng đã dẫn đến tình cảnh non nước chia ly, lòng người
đau xót. Cả dân tộc vướng vào một trong những giai đoạn mất mát đau thương
nhiều nhất trong lịch sử cũng bởi sự thèm muốn quyền lực của cộng sản và sự đấu
tranh chống lại sự độc tài đó của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Dân tộc bị chia ly
bởi hai bờ sông Bến Hải và cũng từ đó có hai ngọn cờ cho Việt Nam. Cờ đỏ sao
vàng cho Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) phía Bắc và cờ vàng 3 sọc đỏ của
VNCH phía Nam. Nói đúng ra thời kỳ này có 3 lá cờ tồn tại, ngoài cờ vàng, cờ đỏ
còn có cờ xanh đỏ của Mặt trận Dân Tộc GPMN Việt Nam, nhưng trên thực tế như đã
biết đây là cánh tay nối dài, hay nói cách khác là đứa con của đảng cộng sản
(cờ đỏ) và tồn tại trong thời gian ngắn, thực chất chỉ là bù nhìn cho
VNDCCH nên không cần xét tới. Trong bài viết này, tôi xin gửi tới bạn đọc sự
thật về lá cờ lịch sử của dân tộc đã bị đảng cộng sản bôi nhọ là “Cờ ba que xỏ lá”, trong khi
đó, lá cờ vay mượn từ Trung cộng lại được đảng cộng sản tô vẽ là cờ dân tộc.
Chính sự mập mờ, không cho người dân biết rõ lịch sử lá cờ dân tộc của đảng
cộng sản đã khiến bao thế hệ phải hi sinh oan uổng cho những âm mưu bẩn thỉu
của cộng sản.
I. Lịch sử của lá cờ Vàng ba sọc đỏ của dân
tộc:
Cho đến hôm nay, rất nhiều hệ người Việt Nam vẫn
bị nhầm về lịch sử của lá cờ Việt Nam Tự Do nền vàng ba sọc đỏ, họ cứ tưởng
rằng lá cờ này mới có từ thời chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Và rất nhiều người lầm
tưởng như cộng sản tuyên truyền rằng đó là lá cờ “Ngụy”. Nhưng thực chất lá cờ
vàng 3 sọc đỏ chính là lá cờ xuất phát lâu đời hơn rất nhiều cờ đỏ sao vàng của
cộng sản và còn là lịch sử của dân tộc.
Nguồn gốc sự hình thành lá cờ vàng:
Theo học giả Nguyễn Hữu Quang trong tác phẩm "Hồn Nước Trong Kinh Dịch và
Luận Giải Về Lẽ Biến Dịch của Lá Cờ Việt Nam Quốc Gia" đăng trên báo Cộng Đồng, số 3 tháng
12, 1992, tại Ottawa, Canada, thì vào năm 40 Dương Lịch, Hai Bà Trưng đã "đầu voi phất ngọn cờ
Vàng" đem quân đánh Tô
Định lấy được 65 thành trì để lập quốc xưng vương. Sau này vào thời nhà Nguyễn,
triều vua cuối cùng của nước ta, hai sọc đỏ được thêm vào lá cờ vàng.
Trong thời Bắc thuộc, khi Hai Bà Trưng khởi
nghĩa chống quân Tô Định năm 40, Hai Bà Trưng đã mặc áo giáp vàng cưỡi voi ra
trận dưới bóng cờ vàng. Suốt gần một ngàn năm Bắc thuộc, lá cờ dân tộc dưới
hình thức này hay hình thức khác vẫn xuất hiện trong những cuộc khởi nghĩa
chống lại quân Hán như của Bà Triệu, Lý Bôn, Triệu Quang Phục, nhưng phải đợi
đến thời Ngô Vương Quyền đánh tan quân Hán trên sông Bạch Đằng gây dựng nền độc
lập năm 938, lá cờ dân tộc mới lại phất phới tung bay. Trải qua các triều đại
tự chủ tiếp theo như Đinh, Lê, Lý, Trần, nước ta luôn có quốc kỳ hình vuông
hoặc chữ nhật gồm có nhiều màu viền quanh theo màu của ngũ hành, ngoài cùng là
tua răng cưa và có hình con rồng hoặc một chữ Hán chỉ tên triều đại ngay chính
giữa. Để chứng minh cho điều này, xin điểm qua các dẫn chứng sau đây.
Thứ nhất, rrên báo Hà Nội mới của chính quyền cộng sản có bài nói về cuộc khởi
nghĩa Hai Bà Trưng chống xâm lược đã có post tấm ảnh mô tả cờ vàng của Hai Bà
Trưng.
Điều này cho thấy không có nghi ngờ gì về mặt
lịch sử của lá cờ vàng thời Hai Bà đánh đuổi quân xâm lược phương Bắc.
Thứ hai, mặc dù là website được lập bởi đội ngũ dư luận viên thân cận của
chủ tịch nhà nước cộng sản Trương Tấn Sang, nhưng website này đã có bài viết công
nhận cờ vàng là lịch sử của dân tộc. Lá cờ đó có từ thời Hai Bà Trưng, có lịch
sử lâu đời hơn cờ đỏ của cộng sản: “Cờ
vàng” theo đúng ý nghĩa lịch sử dân tộc Việt Nam là một hình ảnh đẹp, thấp
thoáng từ thời hai vị nữ anh hùng dân tộc Hai Bà Trưng: “phất ngọn cờ vàng”,
đứng lên đánh đuổi quân Tàu vào năm 40 sau Công nguyên.”
Qua đây cho thấy chính cộng sản cũng phải công
nhận sự việc cờ vàng có trước cờ đỏ và cờ vàng là biểu trưng xuất phát từ lịch
sử của anh hùng dân tộc Hai Bà Trưng chống quân xâm lược.
Thứ ba, cũng cần phải nhắc đến cuốn sách “Đại Nam quốc sử diễn ca” -
Phạm Đình Toái và Lê Ngô Cát đã được nhà in Thực nghiệp- Hà Nội, 1934 có viết
về cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng có đoạn như sau: “...Theo kế của nàng,
Triệu Quốc Đạt dựng cờ khởi nghĩa, dưới trướng có đến hàng chục hổ tướng, quân
đông đến năm mươi vạn người. Ẩu nữ lại dùng
sắc vàng chế ra quần áo, màu cờ riêng để
quân mình khỏi lẫn với quân Ngô. Một thời gian sau, thanh thế của hai anh em
trở nên lừng lẫy, quân đội của họ đã nhổ sạch các đồn lũy của quân Tàu phía Bắc
Na Sơn. Ẩu nữ được mọi người gọi tôn là Bà Vương, tiếng tăm vang khắp cõi Giao
Chỉ. Thái thú quận Cửu Chân nghe tin hốt hoảng phải cho người phi báo về Tàu
xin viện binh sang đánh dẹp. Bà Vương liền thẳng đường rong ruổi tiến ra Cửu
Chân, đi đến đâu yết bảng an dân đến đó, dân chúng dọc đường kéo đến đón rước
đông như kiến cỏ.”
Như vậy qua đây có thể thấy, cờ vàng chính là lá
cờ có nguồn gốc xuất phát lịch sử xa xưa, gắn liền với ý chí không chịu khuất
phục giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam mà minh chứng bằng bốn câu thơ trong “Đại Nam quốc sử diễn ca”:
Đầu voi phất ngọn cờ vàng,
Sơn thôn mấy cõi chiến trường xông pha
Chông gai một cuộc quan hà,
Dù khi chiến tử còn là hiển linh.
Lịch sử cờ vàng có từ Hai Bà Trưng và cho đến
khi triều Nguyễn, lá quốc kỳ mới được chính thức thiết kế lại một cách cẩn thận
hơn, nhưng vẫn lấy nền vàng làm chủ đạo. Vua Gia Long (1802-1820) dùng màu vàng
tiêu biểu cho vương quyền và lá cờ vàng tiêu biểu cho quốc gia Việt Nam. Từ năm
1863 cho đến năm 1885, triều đình Huế dụng cờ Long Tinh Kỳ (nền vàng, viền
xanh, chấm đỏ lớn ở giữa) làm cờ hiệu. Sau đó là Vua Thành Thái (1/2/1889). Lá
cờ vàng ba sọc đỏ lấy làm cờ hiệu thay thế cho cũ là Đại Nam Kỳ (nền vàng viền
lam, chấm đỏ lớn ở giữa đã được dụng từ năm 1885 đến năm 1890). Lá cờ vàng ba
sọc đỏ này còn được tiếp tục sử dụng cho đến khi vua Duy Tân kháng Pháp bất thành
vào năm 1916 và được thay thế bằng lá cờ Long Tinh (có nền vàng và một vạch đỏ
lớn nằm vắt ngang, phần đỏ nhiều hơn phần vàng).
Vua Khải Định (1916-1925) thêm hai vạch đỏ tượng
trưng cho hình rồng vào giữa lá cờ vàng thành Cờ Long Tinh. Năm 1945, chính phủ
Trần Trọng Kim thêm một vạch đỏ đứt khúc vào giữa hai vạch đỏ của cờ Long Tinh
thành cờ Quẻ Ly (Quẻ thứ tư trong Bát Quái Đồ theo Kinh Dịch, tượng trưng cho
mặt trời, văn minh). Năm 1948, Hoàng Đế Bảo Đại một lần nữa ra lệnh nối liền
vạch đứt khúc ở giữa để cờ Quẻ Ly trở thành cờ Quẻ Càn (Quẻ thứ nhất trong Bát
Quái Đồ, tượng trưng cho trời, quyền lực) và vào ngày 2 tháng 6, 1948, chính
phủ lâm thời Nguyễn Văn Xuân chính thức dùng lá cờ vàng ba sọc đỏ làm quốc kỳ
của quốc gia Việt Nam. Từ đó, lá quốc kỳ vàng ba sọc đỏ đã tung bay khắp mọi
miền đất nước từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau.
Để chứng minh hành trình lịch sử của lá cờ vàng chúng ta có những dẫn chứng như sau:
Thứ nhất, lịch sử của các lá cờ này đã được blog Zings được sự đồng ý của nhà
cầm quyền cộng sản công nhận trong một bài viết “Cờ Việt Nam qua các thời kỳ”:
Một Website khác của sinh viên nhà nước cộng sản
cũng đã cho đăng lại bài viết này:
Thứ hai, trên một website độc lập nói đến cờ của các quốc gia trên thế
giới đã có phần thống kê lịch sử Việt Nam qua các thời kỳ và cho biết lịch sử
chính xác của lá cờ vàng thông qua phần lịch sử “Cờ và Tiền tệ” tại Việt Nam. Bạn đọc có thể tham khảo
tại đường link trích dẫn:
Qua đây chúng ta có thể thấy hai điều: Điều thứ
nhất đó là lá cờ có nền Vàng có nguồn gốc lịch sử lâu đời của dân tộc; thứ hai
đó là lá cờ nền Vàng 3 sọc đỏ xuất hiện chính thức lần đầu từ thời Vua Thành
Thái cho đến Khải Định. Và lần thứ hai thì lá cờ vàng xuất hiện là thời kỳ Vua
Bảo Đại cho đến đệ I, Đệ II Cộng Hòa. Nhưng xen lẫn giữa hai thời kỳ đó cũng có
một lá cờ vàng 3 sọc hình quẻ ly của chính phủ ông Trần Trọng Kim bị cộng sản
cướp đoạt trái phép.
Như chúng ta đã biết, sau khi Mỹ thả 2 quả bom
nguyên tử xuống đất Nhật, san bằng 2 thành phố Hiroshima ngày 6 tháng 8 năm
1945, và Nagasaki ngày 9 tháng 8 năm 1945, Hoàng Đế Nhật Bản phải tuyên bố đầu
hàng vô điều kiện vào ngày 15 tháng 8 năm 1945. Nhờ vậy, đại chiến thế giới lần
II, do phe Phát Xít Đức, Ý, Nhật chủ xướng từ năm 1939 được coi là chấm dứt
hoàn toàn trên cả 5 Châu: Âu, Phi, Á, Úc, và Mỹ.
Khi kết thúc đại chiến thế giới lần II, chính
phủ Mỹ hỗ trợ Cao trào các Tiểu nhược quốc Thuộc địa trên toàn Thế giới, đang
bị các nước Thực dân Đế quốc da trắng đô hộ cai trị áp bức, vùng lên giành lại
Độc lập Tự do cho Dân tộc mình, để xây dựng Thể chế Chính trị theo mô thức Dân
chủ Tự do Tư bản.
Trong cùng lúc đó, Khối Quốc tế Cộng sản do Liên
Xô lãnh đạo cũng nhân cơ hội này, dùng các tay sai người bản xứ lôi cuốn các
nhóm công nông vô sản dùng bạo lực hăm dọa song hành với phương thức tuyên
truyền xảo quyệt, buộc quảng đại quần chúng dân lành phải đi theo dưới mỹ từ
làm Cách mạng giải phóng quê hương, để bành trướng thế lực nhằm thực hiện sách
lược nhuộm đỏ Toàn cấu và tiến lên “Thế giới đại đồng”.
Trên thực tế Việt Nam đã được độc lập mà không
cần cộng sản:
Tại Việt Nam, vào ngày 11 tháng 3 năm 1945 (hai
ngày sau khi quân Nhật lật đổ Pháp nắm toàn quyền cai trị Đông Dương), Vua Bảo
Đại được Vua Nhật giúp tái lập Quốc Gia Việt Nam Độc Lập (thống nhất cả 3 miền
Bắc Trung Nam) trong Khối Đại Đông Á do Nhật chủ xướng. Ông Trần Trọng Kim đã
được Vua Bảo Đại cử làm Thủ Tướng thành lập chính phủ điều hành Quốc gia, và
ban bố chương trình hưng quốc vào ngày 8 tháng 5 năm 1945, trong đó quy định
Quốc Kỳ là cờ Quẻ Ly, Quốc Ca là bài “Việt
Nam minh châu trời Đông” của nhạc
sĩ Hùng Lân.
Để chứng minh cho luận điểm này tôi xin đưa ra
các bằng chứng sau đây để khẳng định rằng nước Việt chúng ta không cần Hồ Chí
Minh và đảng cộng sản vẫn được độc lập như các nước khác.
Thứ nhất, một đoạn văn trên website của tỉnh Thừa Thiên Huế đã công nhận
sự kiện Nhật trao trả độc lập cho Việt Nam là có thật. Trong bài giới thiệu về
điện Kiến Trung có đoạn: “Ngày
9 tháng 3, Nhật đảo chính Pháp và thỏa thuận trao trả độc lập cho Việt Nam. Hai
ngày sau, 11 Tháng Ba vua Bảo Đại triệu cố vấn tối cao của Nhật là đại sứ Yokoyama
Masayuki vào điện Kiến Trung để tuyên bố nước Việt Nam độc lập. Cùng đi với
Yokoyama là tổng lãnh sự Konagaya Akira và lãnh sự Watanabe Taizo.” Đây
là link của bài viết:http://dulichhue.com.vn/new/vi/a4841/dien-kien-trung.html
Một website của đảng cộng sản cũng phải công
nhận một sự thật lịch sử hiển nhiên là Nhật đã chấp nhận trao trả độc lập cho
Việt Nam thông qua chính quyền của vua Bảo Đại.
Thứ hai, chính quyền Liên Xô sau khi nhận được tin Nhật trao trả độc lập
cho Việt Nam đã phải thốt lên qua lời của Stalin ghi trong cuốn sách có tên tạm
dịch “Đường dài xã hội chủ
nghĩa”. Cuốn sách này là tổng kết những phát biểu về xã hội chủ nghĩa Liên
Xô và thế giới của Lê Nin, Stalin, Breznep... được viết bởi N. Badasov - một
nhà nghiên cứu lịch sử tại Liên Xô - đảng viên đảng cộng sản Liên Xô. Cuốn sách
tại trang 233 có viết về Stalin đã thốt lên: “Thật
sự khó khăn cho hệ thống xã hội chủ nghĩa khi Việt Nam được người Nhật ưu ái”.
Điều này càng minh chứng thêm cho sự kiện chính quyền Nhật trao trả độc lập cho
Việt Nam là có thật.
Chính phủ của ông Trần Trọng Kim không phải
chính phủ bù nhìn:
Chính phủ của ông Trần Trọng Kim được Hoàng Đế
Bảo Đại thành lập sau ngày 9 tháng 3 năm 1945, ngày Nhật đảo chính Pháp và chỉ
tồn tại trong một thời gian ngắn, rất ngắn, từ ngày 17 tháng 4 năm 1945 đến
ngày 25 tháng 8 năm 1945 kể cả thời gian xử lý thường vụ. Tổng cộng hơn bốn
tháng. Chính phủ này thường bị những người Cộng Sản và luôn cả các tác giả các
sách giáo khoa hay những nhà nghiên cứu chuyên môn ở miền Bắc thời trước và sau
năm 1975 trực tiếp hay gián tiếp gọi là bù nhìn, là Việt gian, là tay sai của
Nhật. Nhưng sự thật có phải như vậy hay không?
Thứ nhất, sự việc minh chứng rõ rệt nhất cho một chính phủ hợp hiến và
không phải bù nhìn đó là việc chính quyền của ông Trần Trọng Kim tồn tại được
bốn tháng, rất ngắn ngủi nhưng đã làm được nhiều việc lớn như điều đình thành
công với người Nhật để họ trả lại toàn bộ ba xứ bắc-trung-nam, thống nhất đất
nước, chính phủ "có quyền tự trị khác hẳn với lời đồn rằng chính phủ ông
là bù nhìn". Điều này được thể hiện rất rõ trong cuốn “Một cơn gió bụi” của chính ông Trần Trọng Kim -
chương 4 - Ra Huế lập chính phủ (xuất bản năm 1949 tái bản năm 1969). Một chính
phủ đi từ số không, trong vòng 4 tháng tồn tại, không quân đội hùng mạnh mà chỉ
thông qua đàm phán với Phát Xít Nhật đang hùng mạnh để lấy độc lập, tự trị cho
nhân dân có đáng được gọi là “bù nhìn” không? Thực chất chỉ là luận điểm bôi
nhọ và chụp mũ của cộng sản mà đó chính là ngón nghề quen thuộc của cộng sản.
Thứ hai, cho đến nay chính những người cộng sản cũng đã phải công nhận
một sự thật không thể chối bỏ đó là Chính phủ của ông Trần Trọng Kim không phải
là một chính quyền bù nhìn mặc dù họ chưa dám thừa nhận sự vu khống của đảng
cộng sản cho chính phủ của ông Kim. Trong một bài viết đăng trên website của sở
văn hóa tỉnh Nghệ An có link như sau:
Tác giả Lê Xuân Khoa trong bài viết của mình có
tên “Huế năm 1945 và chính phủ
Trần Trọng Kim” đã viết: “Chính phủ Trần Trọng Kim ra đời
trong một hoàn cảnh rất tình cờ của lịch sử, không do kết quả tranh đấu cho nền
độc lập của Việt Nam dưới sự lãnh đạo của một đảng phái hay một phong trào
chính trị nào. Sau gần một thế kỉ bị Pháp đô hộ, lần đầu tiên nước Việt Nam
được độc lập (dù mới chỉ một phần) mà không phải hi sinh xương máu.”
Rõ ràng việc tác giả này đánh giá nước Việt Nam
chúng ta được độc lập (dù chỉ một phần) mà không phải hi sinh xương máu cũng
cho thấy chính phủ của ông Trần Trọng Kim là một sự công nhận đầu tiên chính
phủ đó rất hợp hiến.
Tiếp sau đó tác giả Lê Xuân Khoa viết: “Chính phủ Trần Trọng Kim ra đời
trong những điều kiện khó khăn về chính trị, an ninh và kinh tế như vậy. Trong
phiên họp đầu tiên của Hội đồng Nội các, bên cạnh công tác khẩn cấp cứu trợ nạn
đói ở miền Bắc đã làm ngót hai triệu người thiệt mạng, chính phủ Trần Trọng Kim
đã ấn định một chương trình sáu điểm:
1. Chuyển giao tất cả các cơ sở hành chính cho
các viên chức Việt Nam.
2. Thâu hồi đất Nam Kỳ và các nhượng địa đã dành
cho Pháp.
3. Ân xá toàn thể các phạm nhân chính trị.
4. Cho phép thành lập các đảng phái chính trị.
5. Miễn thuế cho công chức, thợ thuyền và dân
nghèo.
6. Thiết lập các Ủy ban tư vấn quốc gia để soạn
thảo Hiến pháp và nghiên cứu cải tổ chính trị, hành chính và giáo dục.
Chỉ trong thời gian bốn tháng (từ 17 - 4 đến 16
- 8), chính phủ Kim đã thực hiện được gần hết chương trình này. Kết quả có thể
được tóm tắt như sau:
Cứu đói: Bộ Tiếp tế do bác sĩ Nguyễn Hữu Thi cầm
đầu nỗ lực điều động việc vận tải thóc từ Nam ra Bắc. Lúc này, Pháp đã mất khả
năng ngăn cấm việc tiếp tế gạo và, nhờ sự can thiệp của chính phủ Kim, giới
quân phiệt Nhật cũng không còn thi hành chính sách độc đoán về sản xuất nông
phẩm...”
Như vậy chỉ trong một thời gian ngắn chính quyền
của ông Trần Trọng Kim đã thực thi được những điều lớn lao mà một chính phủ
đúng nghĩa không phải bù nhìn đã thực hiện được. Ngay như công việc hết sức khó
khăn là phần cứu đói cũng đã thực hiện rất tốt thông qua đàm phán với Nhật. Vậy
thì đây không thể là chính phủ bù nhìn được. Tại sao chính phủ bù nhìn lại toàn
làm được những điều lợi cho dân cho nước? Đây là minh chứng cho sự bịp bợm của
đảng cộng sản nhằm bôi nhọ chính phủ của ông Trần Trọng Kim.
Có nhiều người sẽ thắc mắc một người có quốc
tịch Mỹ, gốc Việt, nguyên Phó viện trưởng Viện Đại học Sài Gòn, tiến sĩ triết
học như ông Lê Xuân Khoa viết sẽ có phần “bênh vực” cho ông Trần Trọng Kim.
Nhưng sự việc nó được đăng tải trên một website của tình Nghệ An, của đảng cộng
sản Việt Nam cho thấy tình chính xác của bài viết.
Thứ ba, cũng cần nhắc lại cuốn sách “Đường
dài xã hội chủ nghĩa” của tác
giả N. Badasov đã giới thiệu ở trên. Chính tác giả cuốn sách này khi đánh giá
về lịch sử Việt Nam cũng có đoạn viết:
“Một chính phủ ngắn ngủi của một người theo
trường phái dân tộc như ông Trần Trọng Kim đã nỗ lực làm được nhiều điều cho
đất nước. Tiếc rằng nó không được hợp lắm trong xu hướng phát triển của phong
trào cộng sản...”
Đây là một mình chứng cho thấy người cộng sản
Liên Xô không hề đánh giá thấp công lao của chính quyền ông Trần Trọng Kim. Và
người Liên Xô không hề coi đây là một chính quyền bù nhìn như sự chụp mũ của
cộng sản Việt Nam.
Thứ tư, trong cuốn sách Décolonisation
du Vietnam: Un Avocat Tðmoigne (Công
cuộc giải thực dân của Việt Nam - Một luật sư, hồi ký) (Paris: L’Harmattan, 1994),
62; Tác giả cuốn hồi ký bằng Pháp văn này là luật sư Trịnh Đình Thảo, viết sau
năm 1975 và trước khi ông mất năm 1986 nhưng tới năm 1994 mới được xuất bản ở
Pháp, do trưởng nam của ông là luật sư Trịnh Đình Khải đứng tên tác giả, trang
62,63 có viết:
“Khoảng tháng 6 - 1945, khi Thủ tướng Kim gặp
Tổng tư lệnh Tsuchihashi để yêu cầu Nhật dứt khoát trả lại ba tỉnh Hà Nội, Hải
Phòng, Đà Nẵng và toàn bộ đất Nam Kỳ cho Việt Nam, ông đã nói: "Quân đội
Nhật đã đánh quân đội Pháp và công nhiên hứa hẹn trả quyền tự chủ cho nước Việt
Nam. Bởi vậy tôi không quản tuổi già và sự khó khăn của hoàn cảnh mà đứng ra
lập chính phủ. Tôi làm việc một lòng giúp nước tôi, cũng như các ông lo việc
giúp nước Nhật... Nếu các ông cho tôi là người làm việc cho nước Nhật, việc ấy
không phải là phận sự của tôi, tôi sẵn lòng xin lui". Chỉ tiếc rằng vài
tháng sau, lúc gần đạt được mục tiêu thì Chính phủ Kim phải ra đi.”
Chính tuyên bố của ông Trần Trọng Kim đã cho
thấy một sự thật là ông không chịu làm việc cho Nhật mà chỉ làm một việc duy
nhất là cho sự độc lập cho dân tộc Việt Nam. Vậy càng có thể khẳng định sự thật
chính quyền của ông Kim không phải là chính phủ bù nhìn.
Bằng việc chứng minh tính hợp hiến của chính
quyền của ông Trần Trọng Kim chúng ta có thể thấy rằng cờ Vàng quẻ ly của chính
phủ ông Kim chính là bước tiếp nối cho lịch sử hào hùng của cờ vàng dân tộc.
Cờ vàng ba sọc đỏ xuất hiện lần thứ hai:
Từ năm 1920, Hồ Chí Minh đã là đảng viên của Đệ
Tam Quốc Tế Cộng Sản và từ đó được cộng sản Liên xô, Trung cộng huấn luyện, ủng
hộ để trở thành đảng viên nòng cốt thi hành kế hoạch bành trướng Chủ nghĩa Cộng
Sản tại Đông Nam Á bằng xương máu dân Việt. Lẽ ra Đảng cộng sản phải hợp lực
với các đảng phái khác chống lại nước Pháp thực dân, ủng hộ triều đình Huế thì
Hồ Chí Minh lại tuân lệnh quan thầy Liên xô, Trung cộng đấu tranh cho quyền lợi
khối cộng sản quốc tế. Thay vì hợp lực với triều đình Huế cùng các đảng phái
quốc gia yêu nước khác đánh đuổi quân Pháp thực dân thì Hồ Chí Minh đã ly khai
với triều đình Huế, lợi dụng cảnh"giậu đổ bìm leo" để "đục
nước béo cò" cho tham
vọng cá nhân, âm mưu cướp chính quyền ông Trần Trọng Kim vào tháng 9 năm 1945
biến Đảng cộng sản Việt Nam thành một lực lượng phản bội lại dân tộc.
Sau Hiệp Định Genève 1954 chia đôi đất nước, Hồ
Chí Minh cùng Đảng cộng sản chiếm đoạt miền Bắc, tiếp thu Hà Nội mới tổ chức lễ
thượng kỳ đầu tiên ngày 10 tháng 10 năm 1954 và đảng kỳ nền đỏ sao vàng chính
thức trở thành quốc kỳ của nước VNDCCH. Trong khi đó, Hoàng Đế Bảo Đại trị vì
miền Nam dưới sự bảo hộ của Pháp và dần dần được Pháp dân chủ sau thế chiến thế
giới lần II (Lúc này nước Pháp không còn thực dân nữa, xin bạn đọc xem thêm
luận điểm này đã được chứng minh tại “Những
sự thật không thể chối bỏ” phần 12 và phần 13) (*) trả lại quyền hành cùng nền độc
lập qua Hiệp Ước Vịnh Hạ Long (1948). Ngày 2/6/1948, chính phủ lâm thời Việt
Nam ra đời do tướng Nguyễn Văn Xuân chủ tọa, lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ do họa sĩ Lê
Văn Đệ đề nghị được chấp nhận làm quốc kỳ và lấy bài Tiếng gọi Thanh Niên của Lưu Hữu Phước được đổi tên là Tiếng Gọi Công Dân đã được chấp nhận làm quốc ca của quốc
gia Việt Nam. Năm 1954, Bảo Đại thoái vị, ông Ngô Đình Diệm được nhân dân miền
Nam bầu thành tổng thống nước Việt Nam Cộng Hòa qua cuộc tổng tuyển cử dân chủ
vào ngày 26 tháng 10 năm 1955 tiếp nối giòng chính sử nước ta bằng cách thay
thế triều Nguyễn và giữ lá cờ vàng ba sọc đỏ truyền thống làm quốc kỳ của Miền
Nam. Ngày 7/7/1954, Ông Ngô Đình Diệm về nước thành lập chính phủ và lập nên
nền đệ Nhất Cộng Hòa VN. Quốc Hội Lập Hiến VNCH năm 1956 đã quyết định giữ lại
bài Tiếng Gọi Công Dân làm quốc ca, nhưng lời được đổi lại
như sau:
Này công dân ơi! Quốc gia đến ngày giải phóng.
Đồng lòng cùng đi, hy sinh tiếc gì thân sống!
Vì tương lai quốc dân, cùng xông pha khói tên,
Làm sao cho núi sông từ nay luôn vững bền.
Dầu cho thây phơi trên gươm giáo,
Thù nước lấy máu đào đem báo.
Nòi giống lúc biến phải cần giải nguy,
Người công dân luôn vững bền tâm trí,
Hùng tráng quyết chiến đấu làm cho khắp nơi
Vang tiếng người nước Nam cho đến muôn đời!.....
(*) http://danlambaovn.blogspot.com/2012/08/nhung-su-that-khong-choi-bo-phan-12-su.html#.UcyDZr0y0wO
Sự kiện tiếp nối của lá cờ vàng dân tộc đã được
quy chỉnh đó chính là lá cờ vàng 3 sọc đỏ của chính phủ VNCH. Qua hai thời kỳ
Đệ nhất và Đệ nhị Cộng Hòa, nhân dân miền nam được no ấm và hạnh phúc. Lá cờ
vàng ba sọc đỏ cũng chính là sự tiếp nối truyền thống dân tộc Việt Nam đã tung
bay trên khắp các con đường, góc phố, làng mạc ở miền Nam Việt Nam. Đó là biểu
hiện cho tinh thần dân chủ và đoàn kết của dân tộc. Để biết rõ hơn mà chính thể
VNCH đệ nhất và đệ nhị đã làm được cho nhân dân Miền Nam, xin bạn đọc tìm hiểu
thông qua bài viết “Những sự
thật cần phải biết”- phần 2 (**)
đã được đăng tải.
(**): http://danlambaovn.blogspot.com/2012/10/nhung-su-that-can-phai-biet-2-viet-nam.html#.UcyIN70y0wM
Nếu bạn đọc có điều kiện, xin đọc câu chuyện “Mẹ tôi và lá cờ vàng ba sọc đỏ” của tác giả Nguyễn Kiến để thấy tình
cảm của người dân Miền Nam giành cho lá cờ dân tộc như thế nào. Trong bài viết
có đoạn:“Trong lúc lục giấy tờ để làm khai tử cho mẹ, tôi tìm thấy chiếc ví
nhỏ mà Mẹ tôi vẫn thường dùng để đựng ít tiền và các giấy tờ tùy thân như thẻ
an sinh xã hội, thẻ căn cước... Trong một ngăn ví là lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ bằng
giấy, khổ bằng chiếc thẻ tín dụng mà có lẽ Mẹ tôi đã cắt ra từ một tờ báo nào
đó. Tôi bồi hồi xúc động, thì ra Mẹ tôi vẫn giữ mãi lá Cờ Quốc Gia bên mình, có
lẽ lá cờ vàng hiền lành này đối với Mẹ tôi cũng thiêng liêng như linh hồn của
những người đã khuất.”
Và một câu chuyện ngắn khác của tác giả Nguyễn
Duy An đã nói lên sự trân trọng của người dân đối với lá cờ vàng ba sọc, câu
chuyện về người thầy giáo đã phải thốt lên khi nhìn thấy lá cờ vàng: “Tôi
vừa quẹo xe vào cổng, thầy tôi đã nghẹn ngào thốt lên: - Ôi! Đẹp quá. Lá cờ… Lá
Cờ Vàng… Ôi! Mấy chục năm rồi… Con nhớ chụp cho thầy mấy tấm hình dưới cột cờ
nhé.”
Cho đến hôm nay, sau 38 năm cộng sản bành trướng
khắp đất nước Việt Nam, nhưng đồng bào Việt Nam vẫn luôn tin tưởng và lá cờ
chính nghĩa của dân tộc. Khắp nơi trên thế giới, người dân Việt vẫn luôn tự hào
về lá cờ vàng truyền thống.
Và ngay tại Việt Nam, hai sinh viên yêu nước là
Phương Uyên và Nguyên Kha đã cho thấy sự lựa chọn của mình cho cờ vàng dân tộc
là chính xác. Đồng hành cùng hai bạn trẻ là lá cờ vàng vẫn ngạo nghề tại Việt
Nam, nơi cộng sản đang ngày cảng hung bạo và độc ác.
Ý nghĩa triết lý và biểu trưng trên lá cờ vàng
Cờ vàng đã được người dân VNCH nâng niu và trân
trọng cho đến hôm nay sau 38 năm lưu lạc vì cộng sản tàn ác. Không những vậy,
những tầng lớp thanh niên như chúng tôi lớn lên sau năm 1975, khi tìm hiểu sự
thật lịch sử đã thấy cờ vàng là lá cờ có nhiều ý nghĩa đối với dân tộc, nó
không phải là “ba que xỏ lá” của “Ngụy” như cộng sản vẫn tuyên truyền. Vậy thực
sự ý nghĩa của lá cờ vàng 3 sọc đỏ thế nào. Xin phép được gửi tới bạn đọc.
Lá cờ Việt Nam Tự Do có nền vàng và ba sọc đỏ.
Màu vàng là màu quốc thổ và cũng là màu da của giống nòi Việt Nam.Theo vũ trụ
quan của người Việt, màu vàng còn thuộc về hành thổ và có vị trí trung ương,
tượng trưng cho lãnh thổ và chủ quyền của quốc gia. Chính vì thế mà vua chúa
thời xưa thường xưng là Hoàng Đế và mặc áo có tên hoàng bào.
Màu đỏ thuộc hành hỏa và là màu của phương Nam.
Đây là biểu tượng của một dân tộc bất khuất, anh hùng, và độc lập trong cõi
trời Nam, tách biệt hẳn với nước Tàu ở phương Bắc. Ba sọc đỏ còn tượng trưng
cho ba miền: Bắc, Trung, và Nam. Tuy gọi là ba miền (ba sọc đỏ) nhưng chúng có
cùng chung một nhà (nền vàng). Đó là nhà Việt Nam, con dân muôn đời thương yêu
đùm bọc lẫn nhau.
Khi chính phủ Trần Trọng Kim cầm quyền vào năm
1945, một vạch đỏ đứt giữa được thêm vào giữa hai vạch đỏ đã có sẵn trên lá cờ
vàng tạo thành lá cờ có hình Quẻ
Ly Đơn. Tiếp đến, khi về nước làm Quốc Trưởng vào năm 1948, Cựu Hoàng Bảo Đại
đã cho đổi vạch đứt chính giữa thành vạch liền tạo thành lá cờ có nền vàng và
ba sọc đỏ giống nhau. Ba vạch đỏ kỳ này có hìnhQuẻ Kiền. Quẻ Kiền, còn
gọi là Quẻ Càn, tượng trưng cho trời Nam, tức là nước Việt Nam ta.
Trong bài "Quốc
Kỳ và Quốc Ca Việt Nam", giáo sư Nguyễn Ngọc Huy giải thích về ý nghĩa
của hình Quẻ Ly trên lá Cờ Vàng của thời chính phủ
Trần Trọng Kim với đại ý là Quẻ Ly, một quẻ trong Bát Quái, tượng trưng cho mặt
trời, lửa, ánh sáng, và cho văn minh. Ngoài ra, ông Huy còn giải thích thêm là
bên trong quẻ Ly hiện lên một nền vàng gồm hai vạch liền và một vạch đứng nối
liền hai vạch ấy. Đó là chữ công trong nghĩa của các từ công nhân và công nghệ,
tức là người thợ và nghề biến chế các tài nguyên để phục vụ đời sống con người.
Vì thế, Quẻ Ly còn hàm ý ca ngợi siêng năng cần mẫn và sự khéo léo của dân tộc
Việt Nam. Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy (1924 -1990) là một cựu chính khách Việt Nam
Cộng hòa. Ông là một trong những người sáng lập đảng Tân Đại Việt và là Tổng
thư ký đầu tiên của đảng này. Ông cũng là Tổng thư ký của Phong trào Quốc gia
Cấp tiến và là một thành viên trong phái đoàn Việt Nam Cộng hòa tham dự Hòa đàm
Paris.
Ông Nguyễn Ngọc Huy cũng giải thích về ý nghĩa
của lá cờ vàng có hình Quẻ Càn dưới thời Vua Bảo Đại. Theo ông, Quẻ Càn tượng
trưng cho trời, cho vua, cho cha, và quyền lực. Ngày nay, chúng ta sống trong
chế độ dân chủ thì Quẻ Càn trên quốc kỳ có thể dùng để tượng
trưng cho quốc gia và dân tộc Việt Nam cùng sức mạnh của toàn dân ta. Tuy bắt
nguồn từ đời Hai Bà, năm 40 Dương Lịch, tức là cách đây 1961 năm, lá cờ Việt
Nam Tự Do chỉ mới được qui định rõ ràng bằng sắc lệnh từ năm 1948, tức là cách
đây (2003) 55 năm. Thiếu Tướng Nguyễn Văn Xuân, với tư cách đứng đầu chính phủ
lâm thời Quốc Gia Việt Nam thời đó đã ký Sắc Lệnh số 3 ngày 2 tháng 6 năm 1948
để qui định những tiêu chuẩn về lá quốc kỳ của nước Việt Nam như sau: "Biểu hiệu Quốc Gia là một lá
cờ nền vàng, chiều ngang bằng 2/3 chiều dài, giữa có ba sọc đỏ đi suốt lá cờ,
rộng bằng 1/15 chiều dọc và cũng cách bằng nhau chừng ấy."
Giáo sư Nguyễn Chính Kết, tên gọi khác là Đoàn Chính
Kết, sinh tháng 5-1952, tại huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây. Năm 1954, Kết theo
gia đình di cư vào Nam, ở tại xã Tân Phú Trung, huyện Củ Chi, TP HCM. Từ năm
1963 đến năm 1975, ông theo học tại Tiểu chủng viện Sài Gòn và Giáo hoàng Học
viện Đà Lạt. Ông là một trong những nhà đấu tranh dân chủ cho Việt Nam. Ngày
13-3-2007, Cơ quan An ninh Điều tra, Công an TPHCM của nhà cầm quyền cộng sản
đã ra lệnh truy nã đối với ông tại thời điểm ông đang thường trú tại 6/8A đường
Quang Trung, phường 12, quận Gò Vấp, TPHCM, vì đã có hành vi tuyên truyền chống
Nhà nước CHXHCN Việt Nam theo Điều 88 và 91 - Bộ Luật Hình sự nước CHXHCN Việt
Nam. Giáo sư Kết cho biết: "cờ
vàng ba sọc đỏ – đã có từ 118 năm trước (tính đến năm nay, 2008) - không phải chỉ
là cờ của một chế độ hay một thể chế chính trị nào, mà là quốc kỳ truyền thống
của dân tộc Việt Nam".
Cờ Việt Nam Tự Do được hun đúc bằng khí thiêng
trời đất và tinh thần quật khởi của dân tộc Việt suốt gần hai ngàn năm lịch sử.
Nó tượng trưng cho hồn thiêng sông núi, cho vận hội thái hoà, và cho sự thành
công vĩnh cửu của giống nòi Việt Nam. Kể từ năm 40 Tây lịch, thời Hai Bà Trưng,
lá cờ Việt Nam Tự Do đã được cải tiến để có hình dạng màu sắc như hiện nay.
Thật quả là một ý nghĩa cao cả và đáng được hãnh diện. Lá cờ Việt Nam Tự Do đã
thăng trầm với lịch sử oai hùng của dân tộc, nhuốm khí thiêng sông núi, tượng
trưng cho dân chủ tự do nhân quyền, cho ý chí kiêu hùng của nòi giống Việt, cho
thái hòa thịnh trị của muôn dân, và cho đoàn kết trong việc giữ nước và dựng
nước của tổ tiên ta.
Như vậy có thể thấy Lá cờ Vàng 3 sọc đỏ chính là
lá cờ của Việt Nam Tự Do không phải là của riêng một chế độ hay của riêng một
chính phủ nào mà là của chung cho cả dân tộc Việt. Lá Cờ Việt Nam Tự Do là linh
hồn của cả dân tộc Việt. Lá cờ còn, chính nghĩa còn. Lá cờ còn, tinh thần chiến
đấu còn, vì nó là tín bài để chúng ta nhận diện những người Việt Tự Do. Chỗ nào
có lá cờ Việt Nam Tự Do thì chỗ đó có tình thương, có dân chủ, có tự do, và có
nhân quyền. Giờ này, đa số nhân dân yêu tự do dân chủ, ở trong nước cũng như ở
hải ngoại, mỗi khi nhìn thấy Lá Cờ Việt Nam Tự Do tức là như nhìn thấy vị cứu
tinh dân tộc.
Hơn thế nữa, lá Cờ Vàng - yếu tố Liên bang - Tam
quyền phân lập. Dưới hai trào chánh phủ Trần Trọng Kim và Nguyễn Văn Xuân/Trần
Văn Hữu, vua Bảo Đại dùng cờ vàng làm quốc kỳ. Theo thể chế Quân chủ Lập hiến,
giống như Anh quốc, Nhật, Thái Lan. Chia Việt Nam ra làm 3 Miền: Nam, Trung,
Bắc (giống như 3 Tiểu bang). Mỗi Miền có Khâm sai đứng đầu. Đây là hình thức
Liên bang mà Hoa kỳ, Úc,... áp dụng rất thành công.
Màu vàng là da vàng, sọc đỏ là máu đỏ. Màu vàng
biểu tượng của vương quyền phương Nam, hành thổ là đất nuôi sống toàn dân. Ba
sọc đỏ tượng trưng cho ba Tiểu bang (ba kỳ/ba miền) là ba anh em Nam Trung Bắc
cùng chung sống hài hòa, an lành trên dãi đất Việt Nam. Ba sọc đỏ song song là
biểu tượng của ba anh em đồng hành, đồng quyền, tương kính; không được quyền
lấn lướt, hà hiếp, hãm hại nhau, cùng chung nhau xây dựng, phát triển, bảo vệ
mảnh đất màu vàng Việt Nam để cùng cộng sinh và cộng hưởng. Ba sọc đỏ còn là
biểu tượng của tam quyền phân lập (Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp) và là ba biểu
tượng của Tự do, Dân chủ, Nhân quyền mà Hoa kỳ và các quốc gia tự do đang áp
dụng, kể cả VNCH.
Lá cờ Vàng có một ý nghĩa cao cả, và đã thăng
trầm với lịch sử oai hùng của dân tộc Việt. Nó nhuốm khí thiêng sông núi, tượng
trưng cho Dân chủ, Tự do, Nhân quyền, cho ý chí kiêu hùng của nòi giống Việt,
cho thanh bình thịnh trị của muôn dân, và cho đoàn kết dân tộc trong việc giữ
nước và dựng nước của tổ tiên ta. Lá Cờ Vàng Quốc Gia Việt Nam là linh hồn của
cả dân tộc Việt. Lá cờ còn, chính nghĩa còn. Lá cờ còn, tinh thần chiến đấu
còn. Lá cờ còn, sự đoàn kết còn, đó là sự khác biệt giữa người Việt Quốc Gia và
Cộng Sản.
II. Lịch sử của lá cờ Đỏ của cộng sản:
Cờ đỏ sao vàng là cờ đảng cộng sản, là đảng kỳ,
không phải Quốc kỳ. Hồ Chí Minh theo cộng sản, đưa chủ nghĩa cộng sản vào Việt
Nam nhằm phục vụ Liên Xô và Trung cộng. Đảng cộng sản và Hồ Chí Minh lấy cờ đỏ
một sao là mẫu cờ tỉnh Phúc Kiến làm cờ đảng, chấp nhận làm chư hầu Trung cộng.
Vì thế, Phạm văn Đồng theo lệnh Hồ Chí Minh dùng công hàm trao Hoàng Sa Trường
Sa cho Tàu năm 1958. Đổi lại, Hồ Chí Minh và cộng sản Hà nội được Trung cộng
giúp vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng thực hiện mục tiêu xâm lăng Miền
Nam. Dẫn đến cảnh anh em hai miền Nam Bắc cùng chết và nghèo đói. (Xin xem
thêm: Những sự thật không thể chối bỏ phần 2,3)(***)
(***):
Thực hiện đúng mục tiêu của Hồ Chí Minh là dâng
Việt Nam cho Trung cộng. Từ đó, các cấp lãnh đạo của đảng cộng sản theo gương
bán nước của HCM tiếp tục nhượng đất, thác Bản giốc, Ải Nam quan, biển, Boxit
Tây Nguyên... cho Tàu mà cả nước đã biết. Ngay cả Bộ giáo dục cộng sản trong
nước đang muốn áp dụng môn học tiếng Tàu hầu biến Việt Nam thành một tỉnh của
Trung quốc. Để chứng minh cờ đỏ xuất phát từ cờ của tỉnh Phúc Kiến và làm chư
hầu cho Trung cộng chúng ta có những chứng cứ sau đây:
Thứ nhất, CỜ ĐỎ SAO VÀNG là cờ của tỉnh Phúc Kiến Trung quốc (1933). Trong
tài liệu của (http://www.worldstatesmen.org/China.html)
bạn đọc có thể thấy lá cờ của cộng sản vào 29/09/1945 là lá cờ đỏ ngôi sao
vàng, với cánh sao cong bầu ra chớ không phải là đường thẳng, được ghi vào
khoảng giữa trang như sau:
Chú ý: lá cờ đỏ sao vàng này đã bị lấy ra sau khi Worldstatemen.org bị
chính quyền cộng sản khiếu nại, bây giờ chỉ còn để lại hàng chữ: “Chairman of the People's
Government (at Fuzhou) 21 Nov 1933 - 21 Jan 1934 Li Jishen (b. 1884 - d. 1959)”.
Lá cờ của tỉnh Phúc Kiến (Trung Cộng), bị gỡ ra trong trang web: http://www.worldstatesmen.org/China.html từ 2005.
Vào thời gian chỉ có 2 tháng, từ 21/11/1933 đến
21/01/1934, ông Li Jishen làm chủ tịch của thủ phủ Phúc Châu (Fuzhou) thuộc
tỉnh Phúc Kiến (Fujian). Đây là tài liệu lịch sử có ghi chú (b. 1884 – d. 1959)
và ông Li Jishen là một nhân chứng lịch sử.
Sự giống nhau đến “lạ kỳ: của hai lá cờ Phúc
Kiến-cộng sản Việt Nam
Thứ hai, bạn đọc có thể tham khảo bộ phim “Trường Chinh” 24 tập của TC do
đạo diễn Kim Thao, với Đường Quốc Cường thủ vai Mao Trạch Đông đánh với quân
đội của Tưởng Giới Thạch, nếu bạn để ý một chút sẽ thấy cảnh Hồng Quân TC phất
cờ đỏ sao vàng mập trong các trận đánh. Phim này được chiếu trên đài truyền hình
VTV3 tại Việt Nam. Như vậy có hai ý nghĩa ở đây đó là: Mao Trạch Đông đã có dã
tâm xem Việt Nam như là một chư hầu, nên gạt lãnh đạo thời đó lấy lá cờ của
tỉnh Phúc Kiến làm cờ nước, hoặc lãnh đạo thời đó đã tình nguyện làm quân
khuyển mã cho Trung Cộng. Có nghĩa là sau khi VC trương lá cờ đỏ sao vàng vào
năm 1945, thì 5 năm sau, 1949, Trung Cộng đổi lại lá cờ nước của họ thành lá cờ
có 4 ngôi sao vàng và 1 ngôi sao lớn tượng trưng cho Đại Hán. Thế là lá cờ đỏ
sao vàng trở thành lá cờ của 1 trong 4 chư hầu. Thêm một bằng chứng nữa là sau
này, có lẽ vì nhiều người biết được sự thật là lá cờ của tỉnh Phúc Kiến, nên
vào ngày 30/11/1955, cộng sản Việt Nam cho đổi lá cờ nước thành lá cờ hơi khác
là những đường cong bầu, trở thành những đường thẳng:(http://www.worldstatesmen.org/Vietnam.html)
29 Sep 1945 - 20 Jul 1954 North Vietnam
Áp dụng 30 Nov 1955 (North only to 2 Jul
1976).
Lưu ý: Xin xem thêm dã tâm của Trung cộng và âm mưu bán nước của cộng
sản Việt Nam tại “Những sự thật không thể chối bỏ “ phần 9,10, và bài viết của
tác giả Truyền Tấn để biết tại sao cờ đỏ là cờ Phúc Kiến.
Links:
Hình ảnh về lá cờ trong cuộc vạn lý Trường Chinh
của Mao Trạch Đông:
Thứ ba, Trong cuốn sách của tác giả Hà Cẩn (Viện văn học Trung quốc) có
một cuốn sách được in năm 1997 và tái bản năm 2000 với tiêu đề tạm dịch sang
tiếng Việt: “Mao chủ tịch của
tôi” bởi nhà xuất bản Trung
ương Trung quốc. Cuốn sách dày 438 trang có đoạn ở trang 130 nói về quan hệ với
Việt Nam. Đoạn đó tạm dịch như sau: “Giữa
Trung Hoa và Việt Nam còn có tình thân đó chính là biểu hiện của lá cờ. Lá cờ sao
vàng thể hiện tình đồng chí mà Mao chủ tịch hằng gửi gắm...”
Đọc đến đây chúng ta có thể thấy rõ bản chất bán
nước và làm chư hầu của đảng cộng sản Việt Nam thể hiện ngay từ tư tưởng dùng
lá cờ của tỉnh Phúc Kiến theo chỉ đạo “gửi gắm” của Mao Trạch Đông. Như vậy cờ
đỏ sao vàng càng chứng tỏ không thể là cờ của dân tộc Việt Nam.
Thứ tư, cũng vẫn cuốn sách “Đường
dài xã hội chủ nghĩa” là tổng kết những phát biểu về xã hội chủ nghĩa Liên
Xô và thế giới của Lê Nin, Stalin, Breznep... được viết bởi N. Badasov - một
nhà nghiên cứu lịch sử tại Liên Xô - đảng viên đảng cộng sản Liên Xô ở trang 237
có viết: “Sau khi giành chính quyền, dường như Việt Minh thể hiện sự
thân thiện với người Trung Quốc hơn. Điều này minh chứng ngay ở việc lấy lá cờ
đỏ sao vàng làm quốc kỳ...”. Chỉ cần tác giả Liên Xô bật mí như vậy, chúng
ta có thể thấy đảng cộng sản đã dùng cờ của giặc làm cờ Việt Nam. Đây là một sự
thật cần phải được người dân Việt Nam lên án.
III. Kết Luận
Tôi là một người trẻ tuổi, sống tại Việt Nam,
được học tập dưới mái trường CNXH, tôi không được biết về VNCH, về cờ vàng 3
sọc đỏ... bài viết này tôi xin kính tặng những người Việt Quốc Gia (VNCH) như
một lời khẳng định về lá cờ họ đã chọn cho mình là hoàn toàn chính nghĩa và phù
hợp với lịch sử của dân tộc. Bài viết này tôi cũng xin dâng tặng cho những
người cộng sản và những bạn trẻ như thế hệ tôi và sau tôi biết rằng: Chúng ta
đã bị đảng cộng sản bán rẻ và lừa bịp mấy chục năm qua cho dã tâm bán nước và
làm nô lệ cho Tầu. Tất cả sự việc đau khổ của dân tộc đều xuất phát từ lá cờ đỏ
mang thân phận của chư hầu. Chính vì vậy cũng cần phải nhắc lại cho bạn trẻ lời
của thi sĩ Trần Dần:
Tôi bước đi không thấy phố không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa trên mầu cờ đỏ.
Đó là những câu nói đầy ý nghĩa diễn tả cho sự
điêu tàn của Việt Nam dưới sự lãnh đạo của cờ đảng CSVN - cờ đỏ sao vàng. Nếu
chúng ta, những người dân Việt Nam còn tôn thờ và hiểu sai về ý nghĩa của lá cờ
đỏ sao vàng mà vẫn coi nó là lá cờ của dân tộc thì đó là một sai lầm lớn. Thật
buồn là rất nhiều người được coi là có tư tưởng tiến bộ, đấu tranh với đảng vẫn
không dám nhìn thẳng vào sự thật là cờ đỏ sao vàng chính là cờ bán nước.
Cờ sáu sao bán nước của cộng sản Việt Nam.
Muốn có dân chủ tự do không còn cách nào khác là
vứt bỏ đi lá cờ ô nhục, làm tay sai cho Trung Cộng. Nếu cần thiết có một lá cờ
làm lá cờ đấu tranh thì đó chính là lá cờ vàng, vì cờ vàng chính là biểu trưng
của dân tộc chứ không phải của đảng phái, chính quyền nào. Và với ý nghĩa đầy
đủ về dân tộc Việt, con người Việt thì lá cờ vàng sẽ là lựa chọn cho tương lai
như lịch sử đã từng lựa chọn.
28/06/2013
*
Những phần “Những sự thật cần phải biết” đã
đăng:
Phần 1: http://danlambaovn.blogspot.com/2012/09/nhung-su-that-can-phai-biet-su-that-ve.html#.UcwHub0y0wM
Phần 3: http://danlambaovn.blogspot.com/2012/11/nhung-su-that-can-phai-biet-noi-day-hay.html#.UcwHzL0y0wM
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết