Ghi
tạc ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
Liên Khúc Quân Hành Việt Nam Cộng Hòa
Nguyễn Lộc Yên (Danlambao) - Ngày
5-6-1948, cựu hoàng Bảo Đại gặp Cao ủy Pháp là Bollaert ở vịnh Hạ Long, trên
chiến hạm Duguay Trouin, bản tuyên ngôn Việt-Pháp được công bố là nước Pháp
thừa nhận nền độc lập và thống nhất Việt Nam. Nhưng đến ngày 20-7-1954, cộng
sản Bắc Việt ký kết với Pháp Hiệp định Genève, đem nước Việt chia đôi, lấy vĩ
tuyến thứ 17 tại sông Bến Hải làm giới tuyến quân sự. Sau đấy, quân đội Pháp
rút khỏi Việt Nam, Quân Đội Quốc Gia Việt Nam ra đời trong một hoàn cảnh quốc
gia rối ren.
Ngày 1-7-1955, Bộ Tổng Tham Mưu của Quân Đội
Quốc Gia Việt Nam chính thức hình thành, quân đội còn non trẻ lại nhận lãnh
trách nhiệm chiến đấu chống lại cả một khối cộng sản quốc tế hung hãn từ phương
Bắc tràn xuống phương Nam, nhân dân thế giới đã thán phục: “Miền Nam Việt Nam là
‘Quốc gia tiền đồn’ chống cộng”. Dù vậy, người Quân nhân của Việt Nam Cộng Hòa
(VNCH) vẫn vững tâm kiên cường chiến đấu vì sứ mạng thiêng liêng bảo vệ tổ quốc
và dân tộc.
Bối cảnh lịch sử thời cận đại tại miền Nam
Việt Nam
Sau khi các tướng lãnh trong quân đội VNCH đảo
chánh, lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm ngày 1-11-1963, đã thành lập Hội Đồng
Quân Nhân Cách Mạng (HĐQNCM) do trung tướng Dương Văn Minh làm chủ tịch và nắm
chính quyền. HĐQNCM cử Nguyễn Ngọc Thơ lập chính phủ lâm thời.
Đến ngày 30-1-1964, trung tướng Nguyễn Khánh gây
áp lực tướng Minh, bắt giam 5 vị Tướng thân cận của tướng Minh, vẫn để tướng
Minh làm quốc trưởng, tướng Khánh tự đứng ra lãnh đạo gọi là chỉnh lý và lập
chính phủ ngày 8-2-1964. Ngày 16-8-1964, tướng Khánh mở cuộc họp Hội đồng tướng
lãnh tại Vũng Tàu, cuộc họp này đã thông qua một hiến chương mới, thường gọi là
Hiến chương Vũng Tàu, tướng Khánh lên làm chủ tịch VNCH, trung tướng Dương Văn
Minh làm cố vấn.
Hiến chương Vũng Tàu đã bị chống đối từ nhiều
phía, trong đấy có đông đảo tín đồ Phật giáo và sinh viên học sinh. Trước tình
trạng này, tướng Khánh phải tuyên bố hủy bỏ Hiến chương Vũng Tàu và từ chức.
Ngày 25-8-1964, Hội Đồng Quân Đội Cách Mạng họp
tại bộ Tổng tham mưu đồng thuận sẽ bầu vị nguyên thủ quốc gia, nguyên thủ quốc
gia phải thực hiện cơ cấu dân chủ; các tướng lãnh sẽ trở về với quân đội. Đến
ngày 27-8-1964, thành lập Ban Lãnh đạo Lâm thời Quốc gia: Dương Văn Minh làm
quốc trưởng, Nguyễn Khánh làm thủ tướng, tướng Trần Thiện Khiêm giữ chức Tổng
Tham Mưu Trưởng. Ngày 13-9-1964, trung tướng Dương Văn Đức tạo cuộc binh biến
nhằm cảnh cáo tướng Khánh độc tài, nhưng thất bại, tướng Đức bị bắt và giải ngũ
sau đó.
Ngày 7-10-1964, đại tướng Trần Thiện Khiêm bị
trung tướng Khánh buộc lưu vong. Ngày 24-10-1964, Thượng Hội Đồng Quốc Gia bầu
Phan Khắc Sửu làm quốc trưởng VNCH, đến ngày 31-10-1964, quốc trưởng Phan Khắc
Sửu ban hành sắc lệnh SL.005/QT/SL, bổ nhiệm ông Trần Văn Hương thành lập nội
các, đến ngày 4-11-1964, Trần Văn Hương thành lập chính phủ dân sự. Tuy nhiên,
sự thật các tướng lãnh vẫn còn nắm quyền lực.
Cuối tháng 11-1964, tướng Minh và tướng Khánh
lên cấp đại tướng.
Đến tháng 12-1964, đại tướng Dương Văn Minh lại
bị đại tướng Khánh đưa đi làm đại sứ Thái Lan.
Đến ngày 16-2-1965, thì bổ nhiệm bác sĩ Phan Huy
Quát làm thủ tướng. Ngày 25-2-1965, bổ nhiệm đại tướng Nguyễn Khánh làm đại sứ
lưu động và rời Việt Nam.
Sự bất ổn chính trị tại miền Nam Việt Nam là cơ
hội cho Bắc Việt đưa quân xâm nhập vào miền Nam, gây cho Quân lực VNCH phải đối
đầu với Cộng quân càng ngày càng đông đảo hơn.
Song song với khó khăn về tình trạng thay đổi
nhân vật lãnh đạo, thì chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng (TTMT), kể từ tháng 11 năm
1963 đến tháng 7 năm 1965, đã lần lượt thay đổi đến năm (5) lần:
1- Trung tướng Trần Văn Đôn, nhận chức TTMT ngày
2-11-1963, sau khi lật đổ tổng thống Diệm.
2- Trung tướng Trần Thiện Khiêm, nhận chức TTMT
ngày 31-1-1964, sau khi tướng Đôn bị bắt.
3- Trung tướng Nguyễn Khánh, nhận chức TTMT ngày
8-10-1964, sau một ngày đại tướng Trần Thiện Khiêm lưu vong.
4- Trung tướng Trần Văn Minh (không phải là
trung tướng Trần Văn Minh mà sau này là Tư lệnh Không quân), nhận chức TTMT
ngày 26-2-1965, sau một ngày tướng Khánh lưu vong.
5- Trung tướng Minh bàn giao chức vụ TTMT cho
thiếu tướng Nguyễn Hữu Có ngày 15-7-1965.
6- Lần thứ sáu: Thiếu tướng Có bàn giao chức vụ
Tổng Tham Mưu Trưởng cho thiếu tướng Cao Văn Viên ngày 15-10-1965.
Như vậy, chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng từ tháng
11-1963 đến tháng 7-1965, chưa tròn hai năm đã thay đổi 5 lần; trung bình mỗi
vị Tổng Tham Mưu Trưởng giữ chức vụ này khoảng bốn (4) tháng, thử hỏi với thời
gian ngắn ngủi ấy, làm sao tổ chức được một hệ thống quân đội vững vàng, hùng
mạnh?! Trong khi đấy tình hình quân sự tại chiến trường càng ngày càng ác
liệt?!
Vì sao ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa là ngày 19 tháng 6.
Đến ngày 25-5-1965, thủ tướng Phan Huy Quát cải
tổ chính phủ, bổ nhiệm một số tổng trưởng mới, nhưng quốc trưởng Phan Khắc Sửu
không đồng ý, đã gây nên cuộc khủng hoảng nội các.
Ngày 9-6-1965, thủ tướng Phan Huy Quát họp báo,
tường trình về cuộc khủng hoảng chính trị và đề nghị các tướng lãnh đứng ra làm
trung gian để ổn định cho đến khi có một chính phủ dân cử. Các tướng lãnh áp
lực quốc trưởng Phan Khắc Sửu, thủ tướng Phan Huy Quát giao lại cho quân đội
trách nhiệm và quyền lãnh đạo quốc gia mà trước đấy đã ủy thác cho chính phủ
dân sự.
Do yêu cầu mạnh mẽ của các tướng lãnh, quốc
trưởng Phan Khắc Sửu, thủ tướng Phan Huy Quát và chủ tịch Hội đồng Quốc gia Lập
pháp Phạm Xuân Chiểu đồng ký bản tuyên cáo vào ngày 11-6-1965. Nội dung chính
của bản tuyên cáo là: Chúng tôi, Quốc Trưởng Việt Nam Cộng Hòa, Chánh Phủ Việt
Nam Cộng Hòa và Hội Đồng Quốc Gia Lập Pháp, đồng quyết định long trọng trao trả
lại cho Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa trách nhiệm và quyền hành lãnh đạo quốc gia
đã được Hội Đồng Quân Lực ủy thác cho chúng tôi chiếu theo Quyết định số 4 ngày
16-2-1965, Quyết định số 6 ngày 17-2-1965 và Quyết định số 8 ngày 5-5-1965,
Tuyên cáo số 7 ngày 5-5-1965. Yêu cầu toàn thể đồng bào các giới không phân
biệt thành phần xã hội, đảng phái và tôn giáo, ủng hộ Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa trong việc lãnh đạo toàn Quân và toàn Dân đúng theo tinh thần của Cách Mạng
ngày 1-11-1963.
Ngày 14-6-1965, Hội Đồng Quân Lực họp tại Sài
Gòn, đồng thuận đứng ra lãnh trọng trách điều khiển quốc gia một lần nữa. Liền
sau đó thành lập Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia, sau khi thảo luận đã đồng ý đưa đến
quyết định:
Thành phần của Ủy Ban Lãnh đạo Quốc gia gồm có:
Một Chủ Tịch, một Tổng Thơ Ký, một Ủy Viên phụ trách điều khiển Hành Pháp, Tổng
Trưởng Quốc Phòng, Tổng Tham Mưu Trưởng, các Tư Lệnh Vùng Chiến Thuật, Tư Lệnh
Biệt Khu Thủ Đô. Các vị được tín nhiệm gồm có:
1- Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia: Trung
tướng Nguyễn Văn Thiệu.
2- Tổng Thư Ký: Trung tướng Phạm Xuân Chiểu.
3- Ủy Viên phụ trách điều khiển Hành Pháp: Thiếu
tướng Nguyễn Cao Kỳ.
- Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa:
Thiếu tướng Nguyễn Hữu Có.
- Tư Lệnh Quân Đoàn I: Thiếu tướng Nguyễn Chánh
Thi.
- Tư Lệnh Quân Đoàn II: Thiếu tướng Nguyễn Văn
Mạnh.
- Tư Lệnh Quân Đoàn III: Thiếu tướng Cao Văn
Viên.
- Tư Lệnh Quân Đoàn IV: Thiếu tướng Đặng Văn
Quang.
Ngày 19-6-1965, Hội Đồng Quân Lực ra quyết định
số 4/ QLVNCH, giải tán Hội đồng Quốc gia Lập pháp và thiết lập các tổ chức: Đại
hội đồng Quân lực, Ủy Ban Lãnh đạo Quốc gia, Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương, Hội
đồng An ninh Quốc gia, Hội đồng Kinh tế và Xã hội. Ngoài ra, Chủ tịch Ủy Ban
Lãnh đạo Quốc gia Nguyễn Văn Thiệu, đã ký sắc lệnh 001/a/CT/LĐQG thành lập nội
các chiến tranh, gọi là Ủy ban Hành pháp Trung ương và quyết định số 5/QLVNCH
thành lập Thượng Hội đồng thẩm phán. Từ đấy, “Ngày 19 tháng 6 là ngày Quân Lực
Việt Nam Cộng Hòa”, còn gọi là “Ngày Quân Lực” và Ngày Quân Lực 19-6 đầu tiên
được tổ chức trọng thể vào ngày 19-6-1966.
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa can trường, danh
bất tử.
Sau khi ký hiệp định Genève ở Thụy Sĩ vào ngày
20-7-1954, quân Pháp lần lượt rút về nước Pháp, còn số người theo Việt Minh từ
miền Nam tập kết ra Bắc không có thống kê đầy đủ. Nhưng theo Hội nghị tại Liễu
Châu (Quảng Tây, Tàu) ngày 3-7-1954, trước khi ký hiệp định Genève, thì Hồ Chí
Minh và Chu Ân Lai dự tính rút khoảng 60.000 người cả bộ đội và chính trị viên
về Bắc và sẽ lén gài người ở lại miền Nam Việt Nam khoảng 10.000 người với vũ
khí chôn giấu để chờ thời cơ.
Đến ngày 20-12-1960, Bắc Việt thành lập “Mặt
trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam” tại xã Tân Lập (nay là Tân Biên, nơi
núi rừng tỉnh Tây Ninh) và lén lút đưa quân vào Nam. Cũng từ đấy, quân đội Bắc
Việt xâm lược miền Nam từ du kích chiến sang vận động chiến, mở những trận đánh
lớn, như: Trận ấp Bắc thuộc tỉnh Tiền Giang ngày nay, đã đụng độ lớn vào ngày
2-1-1963. Trận Bình Giã đụng độ dữ dội vào cuối tháng 12 năm 1964 tại làng Bình
Giã, tỉnh Phước Tuy.... Như vậy, quân Bắc Việt tấn công miền Nam Việt Nam từ
khi chưa có quân Mỹ tham chiến.
Đến ngày 8-3-1965, đơn vị Thủy quân lục chiến
Hoa Kỳ (United States Marine Corps) đổ bộ lên bãi biển Nam Ô, Đà Nẵng (mật hiệu
của bãi đổ bộ: Red Beach Two). Đơn vị đổ bộ đầu tiên thuộc Tiểu đoàn 3/9
(Battalion Landing Team 3/9), vào bờ lúc 9 giờ 18 phút (giờ địa phương). Từ đấy
bắt đầu một trang sử mới về sự can thiệp quân sự của Hoa Kỳ tại Việt Nam.
Hiệp định Paris (Ba Lê) ký kết ngày 27 tháng 1
năm 1973, đến tháng 11 năm đó, Quốc hội Mỹ thông qua luật buộc Tổng thống báo
cho Quốc hội trong vòng 48 tiếng về quyết định điều quân Hoa Kỳ trong chiến
tranh, và triệt thoái quân đội trong vòng 60 ngày. Hai biện pháp này đã khiến tổng
thống Nixon không thể can thiệp ở Đông Dương.
Như vậy, quân Mỹ bắt đầu đến Việt Nam từ năm
1965 và rút quân về nước vào năm 1973, thời gian kể từ trước năm 1965 và sau
năm 1973, chỉ có Quân đội VNCH chống chọi với Cộng quân mà thôi. Và Mỹ không hề
chiếm một (01) tấc đất nào của VN, ngược lại nước VN rõ ràng bị Tàu cộng xâm
lược:
- Ngày 19-1-1974, Hải quân Tàu cộng đánh cướp
đảo Hoàng Sa của VNCH.
- Ngày 14-3-1988, quân Tàu cộng đánh cướp đảo
Gạc Ma của Việt Nam.
- Ngày 30-12-1999, Tàu cộng lấn chiếm khoảng 700
km vuông lãnh thổ VN.
- Ngày 25-12-2000, Tàu cộng lấn chiếm khoảng
11.000 km vuông vịnh Bắc Việt.
- Vào đầu tháng 5-2014, Giàn khoan HD-981 của
Tàu cộng xâm phạm vào vùng Đặc quyền kinh tế của Việt Nam...
Vậy ai nói rằng Mỹ xâm lược là kẻ đổi trắng thay
đen, có những quốc gia “cần quân xâm lược Mỹ” để vẹn toàn lãnh thổ, tiêu biểu
như:
- Nhật, Nhật-Mỹ đã lần lượt ký kết nhiều thỏa
thuận, xác lập “dự toán quan tâm” bằng hình thức lập pháp đặc biệt và ngân sách
Nhật sẽ cung cấp cho quân đội Mỹ đóng tại Nhật tăng dần theo từng năm. Năm
1999, dự toán quan tâm với ngân khoản là 275,6 tỉ Yên (khoảng 2,7 tỉ US
Dollard).
- Nam Hàn, thỏa thuận Hoa Kỳ-Hàn Quốc có thời
hạn trong 5 năm, đã được thông qua hồi tháng 7 năm 2013, theo thỏa thuận này,
Hàn Quốc sẽ đóng góp khoảng 930 tỷ won (khoảng 875 triệu USD) trong năm 2014,
cho chi phí đóng quân của binh sĩ Mỹ ở đất nước này.
Từ đấy theo thiển kiến của người viết đừng có kẻ
nào ra rả loạn ngôn “chống Mỹ xâm lược cứu nước”, vì định nghĩa xâm
lược là: “cướp lãnh thổ và chủ quyền của nước khác bằng vũ lực hoặc
bằng các thủ đoạn chính trị”.
Lý do nào, miền Nam Việt Nam bị thất bại vào
năm 1975?!
Có nhiều nguyên nhân mà nguyên nhân chính là
thiếu quân dụng, đạn dược để chiến đấu, để minh chứng điều này xin trích bài
“Những sự thật về Chiến Tranh Việt Nam” của Giáo sư Robert F. Turner ở Đại Học
Luật Khoa Virginia và Học Viện Hải Quân thuộc Trung tâm an ninh Luật Pháp Quốc
Gia, đã thẳng thắn nói rằng: “Có một bài viết trong báo Foreign Affairs
năm 2004, do Giáo sư John Lewis Gaddis là Khoa trưởng American Diplomatic
Historians đã nhận định đúng đắn: Các sử gia hiện tại công nhận rằng miền Nam
Việt Nam và đồng minh đã thắng cuộc chiến quân sự. Nhưng lại thua cuộc chiến
tâm lý tại Mỹ. Tôi xin nhắc lại cho quý vị trẻ biết sau khi bị bỏ bom tơi bời
Hà Nội vội vã trở lại đàm phán tại Paris. Và mọi chuyện êm xuôi nếu chúng ta
dùng máy bay B52 để trấn giữ hiệp định. Nhưng quốc hội với áp lực của ‘Phong
trào Hòa Bình’ đã thông qua dự luật vào năm 1973. Sẽ là bất hợp pháp nếu Tổng
thống sử dụng bất cứ đồng nào trong công quỹ cho cuộc chiến tại Việt Nam, Lào
và Cambodia. Làm như vậy, Quốc hội đã chuyển thắng thành bại. Quốc hội phản bội
lời cam kết lịch sử của Hoa Kỳ là bảo vệ các nước không Cộng sản tại Đông
Dương. Lúc ấy tôi làm việc tại Thượng nghị viện, nghị sĩ Ted Kennedy tuyên bố
rằng ‘Việt Nam không cần giúp đỡ, họ đã có lượng vũ khí trị giá vô số triệu đô
la’. Đó là sự thật, Việt Nam có phi cơ trực thăng, xe tăng Hoa Kỳ. Nhưng cái mà
họ không biết là Việt Nam không có đạn, không có xăng, không có phụ tùng. Đống
đồ đó trở nên vô dụng. Đây là câu chuyện tôi chưa bao giờ kể cho ai nghe”.
Dù người Quân nhân của Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa bị bức tử, nhưng danh bất tử. Vì sao, là vì trong suốt 20 năm chiến tranh,
những nơi xảy ra chiến trận ác liệt, người Quân nhân của VNCH đã can trường
biến những địa danh: Bình Long An Lộc (1972). Cổ thành Quảng Trị (1972). Đồi
Charlie, Đắk Tô, Tân Cảnh (1972). Hải chiến Hoàng Sa (1974). Phòng tuyến Xuân
Lộc (1975)... thành những địa danh nổi tiếng trong lịch sử thời cận đại và khi
nhắc nhở đến những địa danh này đã làm sống lại tinh thần chiến đấu can trường
của Quân lực VNCH.
Ngày nay, có nhiều người Quân nhân QLVNCH đã đến
các nước tự do, dù không còn trực tiếp cầm vũ khí chiến đấu nhưng đa số trái
tim vẫn yêu nước nồng nàn, có những Quân nhân ngày nay không còn cầm vũ khí thì
cầm bút chống Cộng rất mạnh mẽ và hiệu quả. Người Quân nhân QLVNCH luôn tâm
niệm “Huynh đệ chi binh”, thế nên trong khi chiến đấu thì thân thương dìu dắt
lẫn nhau, nay kẻ hải ngoại người quốc nội, tâm tư vẫn lo lắng cho nhau, nên
chẳng những có nhiều người Quân nhân cùng Đồng bào luôn lo lắng giúp đỡ Thương
binh VNCH trong nước đã, đang bị chế độ phân biệt đối xử?!
Thương binh tàn tật, sống gian nan
Xã hội đổi thay, quá phũ phàng!
Kẻ thắng hung hăn, cười ngạo nghễ
Người thua lận đận, tủi miên man!
Nhớ người thương tật, bởi quê hương
Đời sống khó khăn, cảnh đoạn trường!
Mong mỏi đồng bào, hoan hỷ giúp
Nhắn nhe chiến hữu, tận tình thương?!!!
Trong suốt 20 năm (1954-1975) chiến tranh tàn
khốc đã gây ra số tử thương: Quân đội của VNCH bị tử thương khoảng: 250.000
người. Quân độ CSVN bị tử vong khoảng: 1.100.000 người, trong số này bao gồm
chết vì chiến trận, chết vì bị máy bay trên đường xâm nhập vào Nam và chết vì
bệnh tật. Thường dân Việt Nam bị chết khoảng: 3.000.000 người. Và hai nước láng
giềng là: Cao Miên bị chết khoảng 70.000 người, Lào bị chết khoảng 50.000 người.
Tổng kết quân đội các bên, kể cả quân Mỹ, Nam Hàn... giúp miền Nam; quân Tàu...
giúp miền Bắc và thường dân Việt Nam, Miên và Lào, đã bị chết ước tính khoảng
4.480.000 người.
Quân lực VNCH, trên hai mươi năm gìn giữ miền
Nam Việt Nam tự do, với những chiến tích lẫy lừng, chẳng những bảo vệ miền Nam
Việt Nam tự do, phồn thịnh, mà còn chận đứng làn sóng xâm lăng ào ạt của Cộng
sản suốt 20 năm dài đằng đẵng, đã làm cho cả thế giới phải tôn vinh và thán
phục. Người Quân nhân VNCH đã để lại những tấm gương hào hùng lẫm liệt, tô điểm
trang Sử Việt rực rỡ và giống nòi sẽ muôn đời lưu luyến biết ơn.
Trong suốt 20 năm chiến tranh, người Chiến sĩ
của VNCH đã gian nan bền bỉ chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc và bảo bọc Đồng bào,
biết bao người đã dũng cảm lẫm liệt hy sinh, lòng son sắt ấy mãi mãi thắm đượm
núi sông. Người viết kính cẩn nghiêng mình tưởng nhớ anh linh của 250.000 người
Chiến sĩ VNCH bị tử thương và lực lược đồng minh, với 58.000 người Chiến sĩ Hòa
Kỳ đã hy sinh vì bảo vệ tự do tại miền Nam Việt Nam:
Xưa Chiến sĩ núi non lặn lội
Giữ tự do, vượt suối, băng rừng
Nhớ người son sắt kiên trung
Nhớ ơn báo quốc, hào hùng chiến công!
Nhìn thăm thẳm lên không lồng lộng!
Thấp thoáng xa những bóng anh linh!
Nhớ ra người đã hy sinh
Sao còn lẫm liệt, rập rình tiếng quân?!!!
Ngày nào mất, mộ phần không biết?!
Ngưỡng mộ người, thương tiếc, tiếc thương!
Nguyện cầu Tử sĩ muôn phương
Thảnh thơi cực lạc, thiên đường an vui!(*)
Ngày 9 tháng 6 năm 2014
_______________________________________
Tài liệu tham khảo:
- Ngày 19 tháng 6 Quân lực Việt Nam Cộng hòa của
Phạm Bá Hoa.
- Ý nghĩa ngày Quân lực Việt Nam Cộng hòa 19-6,
của Phạm Phong Dinh.
(*)- Muốn xem hết bài thơ, click vào Google:
“Tiếc Thương Tử Sĩ-báo Calitoday”.
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết