Đại tá Lương Xuân Việt Được Vinh
Thăng Chuẩn Tướng — It’s official! Our first Vietnamese American Brigadier
General
Future Aircraft Technology
Will Blow your Mind - 2014
Linh Nguyễn
June 7, 20140 Bình Luận
June 7, 20140 Bình Luận
Đại Tá Lương Xuân Việt, tư lệnh phó Sư Đoàn 1 Thiết Kỵ, Fort Hood,
Texas, vừa được Tổng Thống Barack Obama đề cử thăng cấp Chuẩn Tướng hôm 20
Tháng Năm và có tên trong danh sách ngày 4 Tháng Sáu, đệ trình Thượng Viện Hoa
Kỳ. Theo thông lệ,
danh sách này coi như chính thức và đợi ngày Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua. Ông sẽ
là sĩ quan cấp tướng gốc Việt đầu tiên trong quân đội Hoa Kỳ.
Đại Tá Lương Xuân Việt phát biểu tại Đại Nhạc Hội Cám Ơn Anh kỳ 5,
2011, tại sân vận động Bolsa Grande High School, Garden Grove. (Hình: Huy
Phương/Người Việt)
“Đại Tá Lương Xuân Việt
được thăng cấp chuẩn tướng là niềm hãnh diện và vẻ vang cho các anh em quân
nhân Mỹ gốc Việt nói riêng và cho cộng đồng người Việt, nói chung. Ông là một
ngôi sao sáng của thế hệ chúng tôi,” cựu Trung Tá Ross Nguyễn, chủ tịch hội
quân nhân Mỹ gốc Việt (VAAFA) và là sĩ quan gốc Việt phục vụ 28 năm đơn vị công
binh tác chiến của quân đội Hoa Kỳ, nói với phóng viên nhật báo Người Việt.
“Ông Lương Xuân
Việt từng là tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 82 Biệt Kích Dù, rồi nắm chức trung
đoàn trưởng Sư Đoàn 101 Không Kỵ. Sau đó, ông là tư lệnh phó Sư Đoàn 1 Thiết Kỵ
cho đến nay. Chức vụ này thường phải do sĩ quan cấp tướng đảm nhiệm,” người cựu
sĩ quan gốc Việt nói.
“Hồi Tháng Tư năm
nay, khi ông về giữ chức tư lệnh phó đơn vị hiện thời, chúng tôi đã thấy xác
xuất để Đại Tá Việt lên cấp tướng rất cao. Trong tinh thần chiến hữu, ông là
niềm hãnh diện cho các quân nhân người Mỹ gốc Việt. Ông còn là gương sáng và là
mẫu người lãnh đạo cho giới trẻ gốc Việt mai sau,” vị chủ tịch hội VAAFA nói.
“Chúng tôi thường
đi uống cà phê khi gặp nhau tại Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ. Lúc ấy ông mới thuyên
chuyển về Fort Hood, Texas,” Cựu trung Tá Ross Nguyễn nói.
Theo trang nhà của
Sư Đoàn 1 Không Kỵ, Chuẩn Tướng Lương Xuân Việt cùng gia đình tị nạn chính trị
và định cư năm 1975 tại Hoa Kỳ. Ông nhập ngũ sau khi tốt nghiệp Đại Học USC.
Đơn vị đầu tiên ông
phục vụ là Trung Đoàn 8 Bộ Binh thuộc Sư Đoàn 1 tại Fort Carson, Colorado, với
chức vụ trung đội trưởng chống xe tăng và đại đội trưởng bảo trì của sư đoàn.
Năm 1993, ông được
thuyên chuyển đến Fort Bragg, North Carolina, phục vụ Trung Đoàn 325 Không Kỵ,
Lữ Đoàn 82 Nhảy Dù, thuộc Sư Đoàn 2, với chức vụ Phụ tá chỉ huy trưởng hành
quân của sư đoàn, sau là đại đội trưởng Đại Đội Alpha. Trong khi giữ chức vụ
này, ông được chuyển đến Haiti để tham gia cuộc “Hành Quân Vì Dân Chủ” với chức
vụ chỉ huy trưởng lực lượng “Theater Quick Reaction Force.”
Sau đơn vị ở Fort
Bragg, ông được được chọn gia nhập Trung Tâm Huấn Huyện Liên Quân ở Fort Polk,
Louisiana, với chức vụ quan sát viên thanh tra. Ông theo học Trường Cao Đẳng
Chỉ Huy và Tham Mưu và được chuyển đến Lực Lượng Đặc Nhiệm Phía Nam Âu Châu
(SETAF).
Ông là chỉ huy trưởng kế hoạch và sĩ quan hành quân Lữ Đoàn 173 Không
Kỵ thuộc Trung Đoàn Nhảy Dù 508 của Sư Đoàn 1, tại Vicenza, Ý. Nơi đây ông được
điều đến Kosovo và Bosnia-Herzegovina trong kế hoạch của Lực Lượng Đối Phó
Chiến Lược của khối NATO.
Ông tham gia và giữ
nhiều chức vụ quan trọng ở Fort Bliss, Texas để hỗ trợ Bộ Nội An. Năm 2005, ông
là chỉ huy trưởng Lữ Đoàn 3 Dã Chiến, Trung Đoàn Nhảy Dù 505 của Sư Đoàn 82
Nhảy Dù. Ông tham gia đơn vị hành quân “Operation American Assist,” trợ giúp
nạn nhân bão Katrina ở New Orleans, chiến dịc hành quân Freedom 06-08 “War on
Terror” ở Iraq.
Năm 2009, Chuẩn
Tướng Lương Xuân Việt chỉ huy Lữ Đoàn 3 Dã Chiến (Rakkasans) thuộc Sư Đoàn Nhảy
Dù 101. Năm 2010, Lữ Đoàn 3 tham gia cuộc hành quân “Enduring Freedom 10-11” ở
Afghanistan. Sau khi chỉ huy đơn vị này, ông được mời làm thành viên an ninh
quốc gia “National Security Fellow” và giám đốc “Pakistan Afghanistan
Coordination Cell” thuộc bộ tham mưu hỗn hợp J5.
It’s
official! Our first Vietnamese American Brigadier General
Chuẩn Tướng Lương
Xuân Việt tốt nghiệp đại học USC văn bằng Biological Sciences và bằng cao học
Military Arts and Science.
Ông là con trai duy
nhất trong gia đình có 7 chị em gái đều thành công trên đất Mỹ. Thân phụ ông là
Thiếu Tá Thủy Quân Lục Chiến thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, Lương Xuân
Đương, đã qua đời năm 1997 tại California. Thân mẫu của ông sinh sống tại Los
Angeles. Qua Mỹ năm 1975, khi chưa đầy 10 tuổi, gia đình ông chọn thành phố
Mountain View, California để sinh sống.
Linh Nguyễn
Nguồn: Người Việt
Nguồn: Người Việt
Lý Quang Diệu: Hoa Kỳ, Nhiều Trở Ngại
Nhưng Vẫn Giữ Vị Trí Số 1
Lý Quang Diệu
June 3, 20140 Bình Luận
June 3, 20140 Bình Luận
Cân bằng quyền lực
đang chuyển đổi. Về phía châu Á của Thái Bình Dương, theo
thời gian Hoa Kỳ sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trong việc gây ảnh hưởng. Mọi chuyện sẽ không
còn như trước. Địa lí là điểm mấu chốt trong trường hợp này.
Trung Quốc có lợi
thế hơn vì nằm trong khu vực và có khả năng phô trương sức mạnh dễ dàng hơn ở
châu Á. Đối với Hoa Kỳ, gây ảnh hưởng từ cách xa 8.000 dặm là một điều hoàn
toàn khác. Sự bất bình đẳng về ý chí, hậu cần và chi phí là rất đáng kể. Chỉ riêng
dân số của Trung Quốc, 1,3 tỉ người, so với 314 triệu người Mỹ, cũng góp phần
vào khó khăn của Hoa Kỳ.
Nhưng sự chuyển giao quyền lực sẽ không xảy ra một sớm
một chiều do ưu thế vượt bậc của Hoa Kỳ về công nghệ. Người Trung Quốc dù có
thể chế tạo tàu sân bay nhưng vẫn không thể đuổi kịp người Mỹ một cách nhanh
chóng về công nghệ tàu sân bay với sức chứa 5.000 quân và đầu máy hạt nhân.
Nhưng cuối cùng, những bất lợi của Hoa Kỳ do khoảng cách địa lý dần sẽ mang tính
quyết định. Hoa Kỳ sẽ phải điều chỉnh thế đứng của mình và chính sách của họ
trong khu vực này.
Chính quyền Obama
tuyên bố vào năm 2011 rằng Hoa Kỳ dự định tiếp cận khu vực châu Á-Thái Bình
Dương với một trọng tâm mới. Họ gọi đây là Sự Xoay Trục về Châu Á. Trên tờ Foreign Policy, ngoại trưởng Hillary
Clinton giải thích tư duy đằng sau chính sách mới này như sau: “Các thị trường
mở ở châu Á là những cơ hội chưa từng thấy đối với Hoa Kỳ về đầu tư, thương mại
và tiếp cận với các công nghệ tiên tiến… Về mặt chiến lược, việc gìn giữ hoà
bình và an ninh ở khắp khu vực Châu Á – Thái Bình Dương ngày càng trở nên thiết
yếu đối với sự tiến bộ trên toàn cầu, dù là thông qua bảo vệ tự do hàng hải
trên Biển Đông, chống lại việc phổ biến vũ khí hạt nhân ở Bắc Triều Tiên hay
đảm bảo sự minh bạch trong các hoạt động quân sự của các nước lớn trong khu
vực.” Vào tháng 4 năm 2012, 200 lính thuỷ đánh bộ Mỹ đầu tiên đã được triển
khai tới Darwin, Úc trong một phần nỗ lực nhằm tăng cường hiện diện của Hoa Kỳ
trong khu vực.
Nhiều quốc gia Châu
Á chào đón cam kết mới này từ người Mỹ. Trong nhiều năm, sự hiện diện của Hoa
Kỳ là một nhân tố quan trọng giúp ổn định khu vực. Kéo dài sự hiện diện này sẽ
giúp duy trì ổn định và an ninh. Kích thước của Trung Quốc có nghĩa là cuối
cùng chỉ có Hoa Kỳ – kết hợp với Nhật Bản và Hàn Quốc, đồng thời hợp tác với
các quốc gia ASEAN – mới có thể đối trọng lại được nước này.
Tuy nhiên, chúng ta
còn phải xem liệu người Mỹ có thể biến ý định thành cam kết trong lâu dài được
hay không. Ý định là một mặt, tài trí và khả năng là một mặt khác. Hiện nay Hoa
Kỳ có quân ở Úc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Guam. (Người Philippines đã không khôn
ngoan khi mời người Mỹ rời khỏi vịnh Subic vào năm 1992. Họ quên mất hậu quả về
lâu dài của hành động này và bây giờ họ bảo rằng “Hãy làm ơn quay lại.”) Người
Mỹ tin rằng họ có sẵn một dàn xếp quân sự trong khu vực cho phép họ cân bằng
lại được với hải quân Trung Quốc. Hơn nữa, vì các vùng nước trong khu vực tương
đối nông, người Mỹ có thể theo dõi hoạt động của các tàu thuyền Trung Quốc, kể
cả tàu ngầm.
Nhưng liệu lợi thế này có thể kéo dài được bao lâu? Một trăm năm?
Không thể nào. Năm mươi năm? Không chắc. Hai mươi năm? Có thể. Rốt cuộc, cân
bằng quyền lực có thể thực hiện được hay không còn phải chờ vào nền kinh tế Hoa
Kỳ trong một vài thập niên tới. Cần có một nền kinh tế vững mạnh thì mới có thể
phô trương quyền lực – đầu tư xây dựng tàu chiến, tàu sân bay và các căn cứ
quân sự.
Khi cuộc chiến
tranh giành quyền bá chủ trên Thái Bình Dương giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc diễn
ra, những quốc gia nhỏ hơn ở châu Á bắt buộc phải thích ứng với cục diện mới.
Thucydides đã từng viết rằng “kẻ mạnh làm những gì mà họ có thể và kẻ yếu phải
chịu đựng những gì họ phải chịu đựng”.
Các quốc gia nhỏ hơn ở châu Á có thể
không phải có một kết cục bi thảm như thế, nhưng bất cứ góc nhìn hiện thực chủ
nghĩa nào về sự suy giảm ảnh hưởng của Hoa Kỳ tại Châu Á Thái Bình Dương đều sẽ
khiến các quốc gia phải điều chỉnh chiến lược đối ngoại của mình. Người ta sẽ
phải quan tâm hơn đến những gì người Trung Quốc thích hoặc không thích khi
Trung Quốc ngày càng lớn mạnh về kinh tế lẫn quân sự. Nhưng điều quan trọng
không kém là không để cho Trung Quốc hoàn toàn thống trị. Cuối cùng, tôi không
cho rằng viễn cảnh người Trung Quốc hất cẳng hoàn toàn người Mỹ ra khỏi Tây
Thái Bình Dương có thể diễn ra.
Ví dụ như Việt Nam,
là một trong những quốc gia không an tâm nhất về sự bành trướng sức mạnh của
Trung Quốc. Đặng Tiểu Bình ra lệnh tấn công miền Bắc Việt Nam vào năm 1979 để
trả đũa việc Việt Nam can thiệp vào Campuchia. Đặng phá hủy một vài làng mạc và
thị trấn rồi sau đó rút lui, chỉ nhằm đưa ra một lời cảnh cáo với người Việt:
“Tôi có thể tiến thẳng vào và tiếp quản Hà Nội.” Đây không phải là bài học mà
người Việt có thể quên được. Một chiến lược có lẽ đã được chính phủ Việt Nam
bàn đến là làm thế nào để có thể bắt đầu thiết lập các mối quan hệ an ninh lâu
dài với người Mỹ.
Tôi cũng cảm thấy
rất tiếc rằng sự thay đổi cân bằng quyền lực đang diễn ra vì tôi cho rằng Hoa
Kỳ là một cường quốc hoà bình. Họ chưa bao giờ tỏ ra hung hãn và họ không có ý
đồ chiếm lãnh thổ mới. Họ đưa quân đến Việt Nam không phải vì họ muốn chiếm
Việt Nam. Họ đưa quân đến bán đảo Triều Tiên không phải vì họ muốn chiếm bắc
hay nam Triều Tiên. Mục tiêu của các cuộc chiến tranh đó là chống lại chủ nghĩa
cộng sản. Họ đã muốn ngăn chủ nghĩa cộng sản lan tràn trên thế giới.
Nếu như
người Mỹ không can thiệp và tham chiến ở Việt Nam lâu dài như họ đã làm, ý chí
chống cộng ở các nước Đông Nam Á khác chắc đã giảm sút, và Đông Nam Á có thể đã
sụp đổ như một ván cờ domino dưới làn sóng đỏ. Nixon đã giúp cho miền Nam Việt
Nam có thời gian để xây dựng lực lượng và tự chiến đấu. Nam Việt Nam đã không
thành công, nhưng khoảng thời gian gia tăng đó giúp Đông Nam Á phối hợp hành
động với nhau và tạo dựng nền tảng cho sự phát triển của ASEAN.
Singapore khá thoải
mái với sự hiện diện của người Mỹ. Chúng ta không biết Trung Quốc sẽ quyết đoán
hay hung hăng như thế nào. Vào năm 2009 khi tôi nói chúng ta phải cân bằng lực
lượng với Trung Quốc, họ dịch từ đó sang tiếng Trung thành “kìm hãm”. Điều này
làm nổi lên một làn sóng phẫn nộ trong cư dân mạng Trung Quốc. Họ cho rằng làm
sao tôi lại dám nói như thế trong khi tôi là người Hoa. Họ quá là nhạy cảm.
Thậm chí sau khi tôi giải thích rằng tôi không hề sử dụng từ “kìm hãm”, họ vẫn
không hài lòng. Đấy là bề mặt của một thứ quyền lực thô và còn non trẻ.
Trong cục diện đang
thay đổi này, chiến lược chung của Singapore là đảm bảo rằng mặc dù chúng ta
lợi dụng bộ máy tăng trưởng thần kì của Trung Quốc, chúng ta sẽ không cắt đứt
với phần còn lại của thế giới, đặc biệt là Hoa Kỳ. Singapore vẫn quan trọng với
người Mỹ. Singapore nằm ở vị trí chiến lược ở trung tâm của một khu vực quần
đảo, nơi mà người Mỹ không thể bỏ qua nếu muốn duy trì ảnh hưởng ở Châu Á –
Thái Bình Dương. Và mặc dù chúng ta xúc tiến các mối quan hệ với người Trung
Quốc, họ cũng không thể cản chúng ta có các mối quan hệ kinh tế, xã hội, văn
hoá và an ninh bền chặt với Hoa Kỳ.
Người Trung Quốc biết rằng họ càng gây áp
lực với các quốc gia Đông Nam Á thì các quốc gia này càng thân Mỹ hơn. Nếu
người Trung Quốc muốn đưa tàu chiến đến viếng thăm cảng của Singapore khi có
nhu cầu, như là người Mỹ đang làm, chúng ta sẽ chào đón họ. Nhưng chúng ta sẽ
không ngả về phía nào bằng cách chỉ cho phép một bên và cấm đoán bên kia. Đây
là một lập trường mà chúng ta có thể tiếp tục duy trì trong một thời gian dài.
Chúng ta còn liên
kết với phần còn lại của thế giới thông qua ngôn ngữ. Chúng ta may mắn được
người Anh cai trị và họ để lại di sản là tiếng Anh. Nếu như chúng ta bị người
Pháp cai trị, như người Việt, chúng ta phải quên đi tiếng Pháp trước khi học
tiếng Anh để kết nối với thế giới. Đó chắc hẳn là một sự thay đổi đầy đau đớn
và khó khăn. Khi Singapore giành được độc lập vào năm 1965, một nhóm trong
Phòng Thương Mại người Hoa gặp tôi để vận động hành lang cho việc chọn tiếng
Hoa làm quốc ngữ.
Tôi nói với họ rằng: “Các ông phải bước qua tôi trước đã.”
Gần 5 thập niên đã trôi qua và lịch sử đã cho thấy rằng khả năng nói tiếng Anh
để giao tiếp với thế giới là một trong những yếu tố quan trọng nhất trong câu
chuyện tăng trưởng của Singapore. Tiếng Anh là ngôn ngữ của cộng đồng quốc tế.
Đế quốc Anh đã truyền bá thứ ngôn ngữ này ra khắp thế giới, nên khi người Mỹ
tiếp quản, đó là một sự chuyển đổi dễ dàng sang tiếng Anh kiểu Mỹ. Đây cũng là
một lợi thế rất lớn đối với người Mỹ khi trên toàn thế giới đã có nhiều người
nói và hiểu ngôn ngữ của họ.
Khi sự trỗi dậy của
Trung Quốc tiếp diễn, Singapore có thể nâng cao chuẩn mực tiếng Hoa trong nhà
trường để cho học sinh của chúng ta có một lợi thế, nếu họ chọn làm việc hoặc
giao thương với Trung Quốc. Nhưng tiếng Hoa vẫn sẽ là ngôn ngữ thứ hai, vì thậm
chí nếu GDP của Trung Quốc có vượt qua Hoa Kỳ, họ cũng không thể cho chúng ta
được mức sống mà chúng ta đang hưởng thụ ngày nay.
Đóng góp của Trung Quốc vào
GDP của chúng ta ít hơn 20%. Phần còn lại của thế giới sẽ giúp Singapore duy
trì phát triển và đạt được thịnh vượng – không chỉ là người Mỹ, mà còn là người
Anh, người Đức, người Pháp, người Hà Lan, người Úc, vv…. Các nước này giao dịch
kinh doanh bằng tiếng Anh, không phải tiếng Trung. Sẽ là rất ngu ngốc nếu chúng
ta xem xét chọn tiếng Trung làm ngôn ngữ làm việc tại bất kì thời điểm nào
trong tương lai, khi mà chính người Hoa cũng rất cố gắng học tiếng Anh từ khi
mẫu giáo cho đến bậc đại học.
Cuộc cạnh tranh
cuối cùng
Hoa Kỳ không phải
đang trên đà suy thoái. Uy tín của Hoa Kỳ đã chịu nhiều tổn thất do việc đóng
quân lâu dài và lộn xộn tại Iraq và Afghanistan cũng như do cuộc khủng hoảng
tài chính nghiêm trọng. Nhưng những sử gia giỏi nhìn nhận sẽ chỉ ra rằng một
Hoa Kỳ dường như yếu đi và trì trệ đã từng phục hồi ra khỏi những tình huống
còn tệ hại hơn. Đất nước Hoa Kỳ đã đối mặt nhiều thử thách lớn trong những thời
kỳ chưa xa: cuộc Đại Suy thoái, chiến tranh Việt nam, thời kì trỗi dậy của các
cường quốc công nghiệp hậu chiến như Nhật Bản và Đức. Mỗi lần như vậy, Hoa Kỳ
đã tìm thấy ý chí và sức mạnh để phục hồi vị trí dẫn đầu cùa mình. Hoa Kỳ đã áp
đảo. Nó sẽ thực hiện được điều này một lần nữa.
Thành công của Hoa
Kỳ nằm ở nền kinh tế năng động, được duy trì không chỉ bằng khả năng đặc biệt
sản xuất ra cùng một thứ với chi phí ít hơn mà còn là liên tục đổi mới sáng tạo
– tức là sáng chế ra một mặt hàng hay dịch vụ hoàn toàn mới mà thế giới sớm cảm
thấy hữu dụng và đáng khát khao. Chiếc iPhone, iPad, Microsoft, Internet – tất
cả đều được tạo ra ở Hoa Kỳ chứ không phải nơi nào khác. Người Trung Quốc có
thể có nhiều nhân tài so với người Mỹ, nhưng sao họ không có những phát minh
tương tự? Rõ ràng họ thiếu một sự sáng tạo mà người Mỹ sở hữu. Và tia sáng đó
cho thấy người Mỹ thỉnh thoảng thể có sáng tạo đột phá thay đổi cục diện, điều
cho họ vị trí dẫn đầu.
Thậm chí nếu những
người theo thuyết suy thoái đúng, và thật là Hoa Kỳ đang trên đà xuống dốc, ta
phải nhớ rằng đây là một nước lớn và cần có một thời gian dài thì mới suy
thoái. Nếu Singapore là một nước lớn, tôi sẽ chẳng lo lắng lắm nếu chúng ta
chọn chính sách sai lầm, vì hậu quả sẽ xuất hiện chậm. Nhưng chúng ta là một
nước nhỏ và một quyết định sai lầm có thể gây hậu quả kinh khủng trong một thời
gian ngắn. Mặt khác, Hoa Kỳ như là một con tàu chở dầu lớn. Họ sẽ không thể
chuyển hướng nhanh như một chiếc thuyền. Nhưng tôi tin rằng các cá nhân tin vào
thuyết suy thoái đã sai lầm.
Hoa Kỳ sẽ không suy thoái. So sánh tương đối với
Trung Quốc, Hoa Kỳ có thể ít uy lực hơn. Có thể khả năng phô diễn sức mạnh ở
Tây Thái Bình Dương của Hoa Kỳ bị ảnh hưởng và có thể Hoa Kỳ không thể sánh với
Trung Quốc về dân số và GDP, nhưng lợi thế chính yếu của Hoa Kỳ – sự năng động
của họ – sẽ không biến mất. Hoa Kỳ, nếu đem ra so sánh đến giờ, là một xã hội sáng
tạo hơn. Và khi mà trong lòng nội bộ nước Mỹ đang có một cuộc tranh luận về
việc liệu họ có đang xuống dốc hay không thì đó là một dấu hiệu tốt. Điều đó có
nghĩa rằng họ không ngủ quên trên đỉnh cao.
Tại sao tôi lại tin
vào thành công về dài hạn của Hoa Kỳ?
Đầu tiên, Hoa Kỳ là
một xã hội thu hút đến độ mà Trung Quốc khó lòng bì kịp. Mỗi năm, hàng nghìn
người nhập cư đầy tham vọng và có trình độ được cho phép vào Hoa Kỳ, định cư và
trở nên thành công trong nhiều lĩnh vực. Những người nhập cư này sáng tạo và
thường mạo hiểm hơn, nếu không thì họ đã chẳng rời khỏi quê hương của mình làm
gì. Họ cung cấp một nguồn ý tưởng dồi dào và tạo nên một chất men nào đó trong
lòng xã hội Mỹ, một sức sống mà ta không thể tìm thấy ở Trung Quốc. Hoa Kỳ sẽ
không thành công được đến như vậy nếu như không có người nhập cư.
Trong hàng
thế kỉ, Hoa Kỳ thu hút nhân tài từ châu Âu. Ngày hôm nay, họ thu hút nhân tài
từ châu Á – người Ấn, người Hoa, người Hàn, người Nhật và thậm chí là người
Đông Nam Á. Vì Hoa Kỳ có thể dung nạp người nhập cư, giúp họ hoà nhập và cho họ
một cơ hội công bằng để đạt được giấc mơ Mỹ, luôn có một nguồn chảy tài năng
hướng vào Hoa Kỳ và đổi lại Hoa Kỳ có được công nghệ mới, sản phẩm mới và cách
làm ăn mới.
Trung Quốc và những
quốc gia khác rồi sẽ phải tiếp thu vài phần của mô hình thu hút nhân tài của
Hoa Kỳ phù hợp với hoàn cảnh của mình. Họ phải đi tìm người tài để xây dựng các
doanh nghiệp. Đây là cuộc cạnh tranh tối hậu. Đây là thời đại mà chúng ta không
còn có các cuộc đua quân sự giữa các cường quốc vì họ biết rằng họ sẽ huỷ hoại
nhau bằng cách ấy. Đây sẽ là cuộc cạnh tranh về kinh tế và kĩ thuật và tài năng
là nhân tố chính.
Hoa Kỳ là một xã
hội thu hút và giữ chân được nhân tài. Họ chiêu dụ được những tài năng bậc nhất
từ Châu Á. Hãy nhìn vào số lượng người Ấn trong các ngân hàng và trường đại học
của họ — lấy ví dụ như Vikram Pandit, cựu CEO của Citibank. Nhiều người Singapore
chọn lựa ở lại Hoa Kỳ sau khi du học. Đó là lí do mà tôi ủng hộ việc cho sinh
viên học bổng đi du học Anh, vì tôi chắc rằng họ sẽ trở về Singapore. Ở Anh,
bạn không ở lại vì bạn không được chào đón. Và vì nền kinh tế của Anh không
năng động như Mỹ, ở đấy có ít công ăn việc làm hơn.
Một lí do tại sao
Trung Quốc sẽ luôn kém hiệu quả hơn trong việc thu hút nhân tài chính là ngôn
ngữ. Tiếng Hoa khó học hơn tiếng Anh nhiều. Nói tiếng Hoa rất khó nếu như không
học từ nhỏ. Đây là ngôn ngữ đơn âm tiết và mỗi từ có tới 4 hay 5 thanh. Khi mà
bạn không biết tiếng thì bạn không thể giao tiếp. Đây là một rào cản rất lớn.
Đây là kinh nghiệm bản thân tôi. Tôi đã vật lộn trong suốt 50 năm và đến giờ
mặc dù tôi có thể nói tiếng Hoa và viết theo kiểu bính âm (pinyin), nhưng tôi
vẫn không thể hiểu được tiếng Hoa một cách thành thục như người bản ngữ. Đấy là
tôi đã rất cố gắng.
Trung Quốc trở nên hùng cường vào tương lai không thay đổi
sự thật cơ bản là tiếng Hoa là một ngôn ngữ cực kì khó học. Có bao nhiêu người
đến Trung Quốc, ở lại và làm việc ngoại trừ những người Hoa, người Châu Âu và
người Mỹ trở thành những chuyên gia nghiên cứu Trung Quốc? Người Trung Quốc cố
gắng truyền bá ngôn ngữ của mình ra nước ngoài bằng việc xây dựng các Viện
Khổng Tử trên toàn thế giới, nhưng kết quả không được tốt lắm. Người ta vẫn đến
Hội đồng Anh và những cơ sở của Hoa Kỳ. Chính phủ Hoa Kỳ thậm chí không cần
phải cố gắng. Một thời họ có Trung tâm Dịch vụ Thông tin Hoa Kỳ, nhưng đã bị
đóng cửa vì không cần thiết nữa. Đã có hàng loạt ấn phẩm, chương trình truyền
hình và phim ảnh làm công việc đó. Nên về quyền lực mềm thì Trung Quốc không
thể thắng.
Một nguồn lực
khác mang lại sức cạnh tranh cho Hoa Kỳ là nhiều trung tâm xuất sắc cạnh tranh
lẫn nhau khắp cả nước. Ở bờ Đông có Boston, New York, Washington, và ở bờ Tây
có Berkeley, San Francisco, và ở miền Trung nước Mỹ thì có Chicago và Texas.
Bạn sẽ thấy sự đa dạng và mỗi trung tâm lại cạnh tranh với nhau, không ai
nhường ai. Khi người Texas thấy rằng mình có nhiều dầu mỏ, James Baker – cựu
ngoại trưởng Hoa Kỳ và là người Texas – đã cố gắng thành lập một trung tâm ở
Houston để cạnh tranh với Boston hoặc New York. Jon Huntsman, cựu đại sứ Hoa Kỳ
ở Singapore và Trung Quốc và là bạn của tôi, là một ví dụ khác. Gia đình ông có
tiền sử bệnh ung thư tuyến tiền liệt. Vì vậy khi ông thừa hưởng gia tài từ cha,
ông mang những nhà khoa học giỏi nhất trong lĩnh vực ung thư tuyến tiền liệt về
quê nhà ông là bang Utah để nghiên cứu vấn đề này.
Mỗi trung tâm tin
rằng mình tốt như các trung tâm còn lại, chỉ cần tiền và nhân tài, điều có thể
kiếm được. Không ai cảm thấy phải tuân theo Washington hay New York. Nếu bạn có
tiền, bạn có thể xây dựng một trung tâm mới. Bởi vì khía cạnh này, có sự đa dạng
trong xã hội và một tinh thần cạnh tranh cho phép sản sinh ra những ý tưởng và
sản phẩm mới hữu ích dài lâu. Trung Quốc thì lại chọn một cách tiếp cận khác.
Người Trung Quốc tin rằng khi trung ương mạnh thì Trung Quốc sẽ giàu
mạnh. Đây là một thái độ cứng nhắc, yêu cầu mọi người phải tuân theo một trung
tâm duy nhất. Mọi người phải hành quân theo cùng một điệu trống. Ngay cả Anh và
Pháp đều không thể cạnh tranh với Hoa Kỳ về mặt này. Ở Pháp ai là nhân tài cuối
cùng đều vào các viện đại học nghiên cứu lớn. Ở Anh thì đó là Oxbridge (Đại học
Oxford và Đại học Cambridge). Những quốc gia này tương đối nhỏ, gọn vì vậy cũng
đồng bộ hơn.
Kể từ cuối thập
niên 1970 cho đến thập niên 1980, Hoa Kỳ mất vị trí dẫn đầu nền công nghiệp về
tay những nền kinh tế mới phục hồi như Nhật Bản và Đức. Họ bị vượt mặt về đồ
điện tử, thép, hoá dầu và ngành công nghiệp xe hơi. Đây là những ngành công
nghiệp sản xuất quan trọng huy động nhiều nhân công, kể cả những người lao động
phổ thông được các công đoàn bảo vệ. Ở một số nước châu Âu, các công đoàn chống
đối các cải cách lao động bằng việc đe dọa tiến hành các hành động công nghiệp
có thể mang lại tổn thất nghiêm trọng trong ngắn hạn. Nhưng ở Mỹ điều ngược lại
đã xảy ra. Các tập đoàn áp dụng những biện pháp thay đổi khó khăn nhưng cần
thiết.
Họ giảm qui mô, giảm biên chế và cải tiến năng suất qua việc sử dụng
công nghệ, trong đó có công nghệ thông tin (IT). Nền kinh tế Hoa Kỳ trỗi dậy
trở lại. Các doanh nghiệp mới được mở ra để giúp các công ty tối ưu hoá hệ
thống IT của mình, như là Microsoft, Cisco và Oracle. Sau một khoảng thời gian
điều chỉnh đầy đau đớn, các công ty có thể tạo ra nhiều việc làm mới trả lương
tốt hơn. Họ không thích thú với nhưng công việc lỗi thời mà Trung Quốc, Ấn Độ
hay Đông Âu có thể làm được. Họ thấy được một tương lai mà của cải không phải được
tạo ra bởi việc chế tạo đồ dùng hay xe hơi, mà bằng sức mạnh trí óc, sức sáng
tạo, tính nghệ thuật, kiến thức và bản quyền trí tuệ. Hoa Kỳ đã trở lại cuộc
chơi. Họ giành lại được vị trí là nền kinh tế phát triển nhanh nhất trong các
nước đã phát triển. Tôi thật sự khâm phục sự năng động và tin thần khởi nghiệp
của người Mỹ.
Bạn tiếp tục chứng
kiến điều đó ngay lúc này đây. Người Mỹ vận hành một hệ thống gọn gàng hơn và
có sức cạnh tranh hơn. Họ có nhiều bằng sáng chế hơn. Họ luôn cố gắng tạo được
thứ gì đó mới hoặc làm điều gì đó tốt hơn. Tất nhiên, điều này cũng có một cái
giá của nó. Chỉ số thất nghiệp của Hoa Kỳ lên xuống như một cái yoyo. Ở thời kì
suy thoái, chỉ số thất nghiệp từ 8 đến 10 phần trăm là chuyện hiển nhiên. Kết
quả là một tầng lớp dưới hình thành. Giữa những xa hoa, lấp lánh, các cửa hàng
đẹp đẽ ở New York, bạn cũng có thể dễ dàng thấy người Mỹ vô gia cư nằm trên vệ
đường. Họ không có gì ngoài tấm áo khoác thân và miếng thùng carton để nằm ngủ.
Một số người, kể cả nhà kinh tế học đoạt giải Nobel Paul Krugman, đã lên án
khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn ở xã hội Mỹ.
Điều này có chấp
nhận được không? Tôi không thể nói được. Có những tổ chức tôn giáo và từ thiện
giúp đỡ. Một số thành lập những quán ăn tình thương cho người thất nghiệp, vv….
Nhưng mà bạn không thể vừa muốn có chiếc bánh trong tay, vừa muốn ăn nó. Nếu
bạn muốn tạo nên sự cạnh tranh mà Hoa Kỳ đang có, bạn không thể tránh được việc
tạo nên khoảng cách đáng kể giữa tầng đỉnh và tầng đáy, và không thể tránh khỏi
việc tạo nên một tầng lớp dưới. Nếu như bạn chọn một nhà nước phúc lợi, như
châu Âu sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, bạn tự nhiên sẽ không còn năng
động.
Cuối cùng, Hoa Kỳ
có một nền văn hoá tôn vinh những người dám tự làm tự chịu. Khi họ thành công,
họ được ngưỡng mộ như là một nhà khởi nghiệp tài năng và có được sự công nhận
và vị trí xã hội họ đáng được hưởng. Khi họ thất bại thì điều này được coi là
một giai đoạn tạm thời, tự nhiên và cần thiết để rốt cuộc thành công. Vì vậy họ
có thể đứng lên và bắt đầu lại. Nền văn hoá này khác với Anh, một xã hội tĩnh
hơn – nơi mà mọi người biết vị trí phù hợp của mình. Nước Anh rất mang tính
châu Âu về điểm này. Người Anh từng có nhiều khám phá vĩ đại – máy hơi nước,
máy kéo sợi và động cơ điện. Họ cũng có nhiều giải Nobel khoa học. Nhưng rất ít
khám phá trong số này của họ trở nên thành công về mặt thương mại. Tại sao lại
như thế?
Những năm dài của 2 thế kỉ đế chế đã hình thành một xã hội nơi mà giới
thượng lưu cũ và những quý tộc có ruộng đất được kính trọng. Giới nhà giàu mới
bị xem thường. Các sinh viên trẻ ưu tú mơ ước trở thành luật sư, bác sĩ và trí
thức – những người được ngưỡng mộ vì trí tuệ và đầu óc của họ hơn là lao động
cực nhọc hoặc lao động tay chân. Hoa Kỳ thì lại khác, là một xã hội mới không
có khoảng cách tầng lớp. Mọi người đều ngưỡng mộ việc làm giàu – và muốn trở
nên giàu có. Đây là một động lực rất lớn để tạo nên các công ty mới và của cải.
Thậm chí ở các công ty của Mỹ, người trẻ có tiếng nói lớn hơn ở các cuộc họp,
và sức trẻ của họ được định hướng để giúp công ty trở nên sáng tạo hơn.
Lý Quang Diệu (2013)
Biên dịch: Nguyễn
Việt Vân Anh Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
Lý Quang Diệu: Việt Nam Mắc Kẹt Trong
Tư Duy Xã Hội Chủ Nghĩa
Lý Quang Diệu
June 3, 20140 Bình Luận
June 3, 20140 Bình Luận
Nhiều người giành
nhiều hy vọng cho Việt Nam khi họ quyết định áp dụng cải cách thị trường tự do
trong những năm 1980, vài năm sau khi Trung Quốc có động thái tương tự.
Đổi Mới, hay “thay đổi sang điều mới” như cách gọi cải cách trong tiếng Việt,
đã bắt đầu đầy hứng khởi. Trong số những bước đi đầu tiên đất nước này thực
hiện tách biệt khỏi chủ nghĩa xã hội là trả lại quyền kiểm soát những mảnh
ruộng mênh mông đã bị tập thể hóa cho các nông dân. Điều này dẫn tới sự gia
tăng mạnh sản lượng nông nghiệp trong vòng vài năm. Nhiều người cả trong và
ngoài nước đã nghĩ rằng Việt Nam đang đi đúng hướng. Quả thực khi cả thế giới
thấy rõ sự mở cửa của Trung Quôc là một thành công kinh tế không thể tin được
thì những ai không quan sát kỹ Việt Nam cũng bắt đầu cho rằng chương trình cải
cách của họ cũng sẽ đi theo quỹ đạo tương tự.
Hiện đang có một
cách nhìn thận trọng hơn. Quan điểm của riêng tôi về cải cách của Việt Nam đã
thay đổi đáng kể từ chỗ khá lạc quan khi tôi có các chuyến thăm đầu tiên vào
những năm 1990. Giờ tôi tin rằng thế hệ các nhà lãnh đạo cộng sản lớn tuổi của
Việt Nam không có khả năng phá vỡ tư duy xã hội chủ nghĩa một cách cơ bản. Lúc
đầu họ đồng ý bắt tay vào chặng đường cải cách bởi vì họ thấy rằng đất nước
đang chẳng đi đến đâu. Nhưng từ đó đến giờ họ vẫn chưa thể hiện được quyết tâm
thật sự trong việc đại tu hệ thống, điều mà người ta đã chứng kiến ở Trung
Quốc. Các nhà lãnh đạo lão thành cách mạng này [Old Guard leaders] đang khiến
Việt Nam trì trệ. Chỉ khi họ qua đời thì đất nước này mới có thể tạo ra đột phá
trong các nỗ lực hiện đại hóa của mình.
Kinh nghiệm trực
tiếp mà tôi có được trong một các chuyến thăm gần đây minh họa cho kiểu trở
ngại mà Việt Nam đang đối mặt. Tôi đang dự một cuộc họp với nhiều lãnh đạo dân
sự và quân sự cấp cao và tôi kể lại với họ những vấn đề mà một công ty
Singapore gặp phải khi đang triển khai một dự án khách sạn ở Hồ Tây ở Hà Nội. Khi
công ty này bắt đầu việc đóng cọc móng, hàng ngàn người dân đổ đến đòi bồi
thường cho ô nhiễm tiếng ồn. Để tránh phát sinh thêm chi phí, công ty quyết
định thay đổi phương pháp đổ móng sang biện pháp vít bu-lông neo, cách này đỡ
ồn ào hơn nhiều so với ép cọc. Lần này, chính quan chức đã phê duyệt dự án đến
gặp công ty.
Ông ta nói : “Tôi chưa bao giờ cho phép các anh làm như vậy.” Rõ
ràng là vị quan chức này thông đồng với những người dân bực bội kia. Tôi giải
thích với các lãnh đạo Việt Nam có trong buổi gặp với tôi rằng điều này là phản
năng suất. Tôi thúc giục họ rằng, nếu các anh muốn mở cửa, hãy nghiêm túc về
điều đó. Họ trả lời ậm ừ và điều đó cho thấy rõ ràng họ chỉ nửa vời với cải
cách. Họ không hiểu rằng một nhà đầu tư hài lòng sẽ kéo theo nhiều nhà đầu tư
khác. Ý tưởng của họ là khi đã phục kích được một nhà đầu tư vào một góc phòng
rồi thì đó là cơ hội để vắt của anh ta càng nhiều càng tốt.
Các bậc lão thành cách mạng này đã được
lên sọc [tức chức vị và quân hàm - ND] trong hệ thống thứ bậc của đảng trong
suốt chiến tranh và bây giờ nắm giữ nhiều vị trí quyền lực. Rủi thay, họ tiến
lên các chức vụ đó không phải bởi vì đã quản lý tốt nền kinh tế hay đã thể hiện
được tài năng quản trị. Họ làm được như vậy bởi vì đã đào hầm từ miền bắc cho
tới miền nam trong hơn 30 năm. Điểm chung của họ với kinh nghiệm mở cửa của
Trung Quốc chính là các quan chức trở nên tham nhũng. Những cán bộ tin rằng họ
sẽ được chế độ chăm sóc bỗng nhiên thấy người ngoài đảng trở nên giàu có nhanh
chóng. Họ bị vỡ mộng và trở nên tham lam, ví dụ như với các quan chức hải quan
cấp cao nhập khẩu xe hơi trái phép, để có thể giành phần trong sự giàu có ấy.
Điều mà họ không có điểm chung với Trung Quốc là một nhân vật kiểu Đặng Tiểu
Bình vừa có vị trí không thể tranh cãi trong các cán bộ, vừa có niềm tin không
lung lay rằng cải cách toàn diện là lối thoát duy nhất. Lý do họ thiếu vắng một
nhân vật như vậy là do Chiến tranh Việt Nam. Khi các nhà cộng sản Trung Quốc
đang tích tụ hàng thập niên kinh nghiệm quản trị ở thời bình, thu lượm những
gợi ý thực tiễn xem điều gì hiệu quả và điều gì không, và cập nhật niềm tin và
ý thức hệ trong quá trình đó, thì các nhà cộng sản Việt Nam bị kẹt trong một
cuộc chiến tranh du kích tàn bạo với người Mỹ, chẳng học được gì về cách điều
hành đất nước. Hơn nữa, hầu hết doanh nhân thành công trong số người Việt ở
miền Nam – những người quen thuộc với cách làm của chủ nghĩa tư bản – đã rời bỏ
Việt Nam trong những năm 1970.
Người Việt Nam là
một trong những dân tộc nghị lực và có khả năng nhất Đông Nam Á. Sinh viên của
họ đến Singapore theo diện học bổng ASEAN rất nghiêm túc với việc học hành và
thường có điểm số cao nhất. Với những người dân thông minh như vậy, thật tiếc
là họ không phát huy được tiềm năng của mình. Hy vọng rằng khi thế hệ chiến
tranh nhạt đi và một nhóm trẻ hơn lên thay thế, họ sẽ xem Thái Lan phát triển
tốt như thế nào và trở nên tin tưởng vào tầm quan trọng của thị trường tự do.
Hỏi: Việt Nam có những vấn đề lớn với
Trung Quốc về lãnh thổ ở Biển Đông. Và tại một Hội nghị Bộ trưởng ASEAN năm 2012,
khi ASEAN lần đầu tiên sau 45 năm không đạt được một bản thông cáo
chung, Việt Nam là một trong những nước tham gia nhiều vào tranh cãi ở đó.
Đáp: Họ không thể lấy sự
đồng thuận của ASEAN để ủng hộ quan điểm của họ vì người ta tin rằng Trung Quốc
đã làm việc riêng rẽ với Brunei và Malaysia về các tranh chấp, vốn là những
tranh chấp nhỏ hơn. Nhưng tranh chấp chính – cũng là tranh chấp còn rắc rối –
là của Việt Nam.
Hỏi: Đây có phải là bằng chứng cho thấy Trung Quốc đã có
thể chia rẽ ASEAN trong vấn đề này?
Đáp: Nó cho thấy người
Trung Quốc khéo léo như thế nào. Họ đã ứng xử với các nước bên ngoài, hay những
man tộc ngoại bang, cả hàng ngàn năm và họ biết cách xử lần lượt từng bên một
và ngăn cản họ hợp lại để không phải đối mặt với một nhóm. Họ mua chuộc từng
bên một.
Hỏi: Việt Nam đang tìm cách mở rộng quan hệ với Hoa Kỳ để
có thể đương đầu tốt hơn với Trung Quốc.
Đáp: Đúng vậy. Leon
Panetta, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, đã thăm vịnh Cam Ranh năm 2012. Điều đó hàm ý
là nó có thể đón cả người Mỹ. Có thể sẽ có ích khi có người Mỹ tại đó nếu có
xung đột quanh quần đảo Hoàng Sa (nguyên văn), nhưng tôi không nghĩ người Mỹ sẽ
trực tiếp đối đầu với người Trung Quốc. Điều tốt nhất mà người Việt Nam có thể
hy vọng là áp dụng Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển cho tranh chấp này.
Hỏi: Cũng đã có tin về việc người Việt Nam có thể mua vũ
khí của Mỹ.
Đáp: Tôi sẽ không ngạc
nhiên. Người Mỹ hiện đang gần gũi với họ hơn so với người Trung Quốc. Và người
Mỹ có những vũ khí tinh vi hơn vũ khí của người Trung Quốc.
Hỏi: Ông có nghĩ rằng ASEAN có lẽ nên tránh tranh chấp
Biển Đông trong các cuộc họp thượng đỉnh trong tương lai?
Đáp: Họ đã bất hòa rồi.
Lẽ ra đã phải có một bộ quy tắc ứng xử nhưng nó cũng đã bị dập tơi bời.
Lý Quang Diệu
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết