Người Việt hải ngoại 'càng vững mạnh'
Phạm Cao Dương
Gửi cho BBC từ
California
Cập nhật: 10:58
GMT - thứ tư, 17 tháng 9, 2014
Lễ khánh thành tượng Đức
Thánh Trần tại Little Saigon đầu tháng 9
Gần đây có quyết định
dựng tượng Đức Thánh Trần ở Little Saigon. Tôi không rõ trên giấy tờ liên lạc
với Toà Thị Chính Thành Phố Westminster ban tổ chức đã dùng danh xưng của tượng
là gì nhưng ở đây tôi vẫn dùng danh xưng là Tượng Đức Thánh Trần.
Khác với các nhân vật
lịch sử khác như Hùng Vương, Hai Bà Trưng, Triệu Quang Phục, Lý Thường Kiệt, Lê
Thái Tổ, Quang Trung …, tất cả đều có đền thờ và được dân chúng địa phương
quanh năm hương khói, đến ngày kỵ đều được các quan lại địa phương hàng năm
chính thức đến tế.
Chỉ riêng có Trần Hưng Đạo ngoài đền thờ, còn được coi là đã
hiển linh để phù hộ, giúp đỡ đồng bào của mình, che chở mọi người chống lại tà
ma, quỉ quái. Đức Thánh Trần với các con trai và các gia tướng của Ngài như Yết
Kiêu, Dã Tượng luôn luôn được truyền tụng là đã hiển linh trong các công tác
này.
Những chuyện như Phạm Nhan chuyên môn tìm ăn máu dơ của phụ nữ làm cho họ
mắc bệnh, mảnh chiếu lấy từ đền thờ của ngài là những chuyện phổ thông trước
đây ai cũng biết
Các bài liên
quan
- 25 năm
Little Saigon - BBC Vietnamese - Diễn đàn
- Cộng
đồng mình 'có tiếng nói rất mạnh'
- 'Không
muốn kết nghĩa với Nha Trang'
Chủ đề liên
quan
Sự kiện các dân di cư tị
nạn khi ra đi đã mang theo các thần của mình là một sự kiện đã xảy ra từ lâu
trong lịch sử nhân loại. Dân Hy Lạp trong các thế kỷ thứ bảy và thứ tám kéo dài
đến hết thế kỷ thứ năm trước Thiên Chúa, khi có những cuộc tranh chấp nội bộ ở
các đô thị-quốc gia, những city-states, những polis, của họ, điển hình là hai
đô thị Athens và Sparta, các phe bại trận bị loại trừ phải bỏ xứ mà đi.
Họ đã
tạo nên một đường viền Hy Lạp chung quanh Địa Trung Hải với những quốc gia-đô
thị, những polis mới ở nam Âu, ở Tây Á và luôn cả ở Phi Châu. Khi ra đi họ đã
mang theo văn minh Hy Lạp và đặc biệt là các thần linh Hy Lạp của họ.
Với những
yếu tố văn minh, văn hóa và đặc biệt là tín ngưỡng này, những đô thị-quốc gia
mới của họ, mặc dù vẫn giữ được những liên hệ lịch sử, văn minh và văn hoá, đã
trở thành hoàn toàn độc lập với các đô thị-quốc gia mẹ, đã tự mình đứng vững và
phát triển, không còn bị các quốc gia-đô thị mẹ chi phối về phương diện chính
trị và sinh hoạt hàng ngày nữa.
Người Tầu khi di cư ra
khỏi quê hương của họ cũng làm những việc tương tự. Bằng chứng là các “chùa
Tầu” đã hiện diện ở khắp thế giới và ở miền Nam Việt Nam rất nhiều, đặc biệt là
ở Saigon. Tất cả đã trở thành nhũng nơi thăm viếng mà du khách khi tới Saigon
đều phải biết và ít nhiều ghé qua. Chính người viết bài này hồi trước năm 1975,
khi dẫn sinh viên đi du khảo quanh vùng Thủ Đô Saigon, cũng đã ghé thăm những
nơi này. Điều đáng để ý là những nơi này luôn luôn có nhiều khách hành hương
tới viếng trong đó rất đông là người Việt. Nơi đây khói hương ngày đêm nghi
ngút, không bao giờ tàn lạnh.
Chiến tranh kết thúc,
nhiều người Việt bỏ nước ra đi
Cho tới nay, Cộng Đồng
người Việt ở Hải Ngoại đã được gần tròn 40 tuổi, đã trải qua giai đoạn sống
còn, đã mỗi ngày mỗi thêm vững mạnh về đủ mọi phương diện để trở thành thành
phần thứ hai độc lập với thành phần thứ nhất của dân tộc Việt Nam.
Cộng Đồng Hải Ngoại của
chúng ta trẻ trung hơn, năng động hơn,có tiềm năng hiểu biết cập nhật hơn, có
nhiều khả năng phát triển hơn nhờ đã hình thành và phát triển trong những quốc
gia tân tiến nhất trên thế giới, so với thành phần thứ nhất mỗi ngày già cỗi hơn,
mòn mỏi hơn, kiệt lực hơn, không còn đủ khả năng nhận thức và ngay cả sử dụng
những khả năng trí tuệ vẫn còn không ít của mình.
Tuổi trẻ Việt Nam ở Hải Ngoại
có thể vào và đã vào bất cứ một đại học danh tiếng nào nếu các em mong muốn và
được cha mẹ khuyến khích. Rất đông các em đã đạt được điều này. Cộng Đồng Việt
Nam Hải Ngoại đã tự mình hội đủ mọi điều kiện để tự đứng vững. Chúng ta đã có
đầy đủ nếu không nói là khá đông các chuyên viên trí thức thượng thặng từ các
khoa học gia, các giáo sư đại học, các học giả tốt nghiệp từ các học viện lớn
và hiện đang phục vụ trong các trung tâm, các viện nghiên cứu bậc nhất trên thế
giới để góp sự hiện diện của mình với các sắc tộc khác.
Chúng ta cũng đã có những
chỉ huy cao cao cấp trong quân đội, kể cả tướng lãnh. Chúng ta cũng có những
chỉ huy trưởng khu trục hạm tối tân nhất của Hải Quân Hoa Kỳ, những nữ đại tá
người nhỏ thó chỉ đứng đến nách những đồng sự hay thuộc cấp của mình nhưng vẫn
được họ chào kính một cách trịnh trọng. Họ cũng là con em của chúng ta đó.
Trong địa hạt chính trị,
người Việt nay cũng đã đi rất sâu và rất cao trong hệ thống chính quyền của
nhiều nước, ở đủ cả ba ngành, ngay cả ở cấp trung ương. Nhiều người trẻ cũng đã
xuất hiện và đã thành công xuất sắc. Họ thông thạo ngôn ngữ, được học, được
sống và hiểu biết về xã hội nơi họ đang cư ngụ. Họ bắt đầu thay thế cho thế hệ
cha anh đã đến tuổi xế chiều, nhưng vẫn hiểu biết về Việt Nam và thông thạo
tiếng Việt.
Người Việt nay có cộng
đồng lớn tại Mỹ
Sang một địa hạt khác
gần gũi với mọi người hơn là địa hạt giáo dục. Ở đây tôi chỉ nói vế các cấp
trung tiểu học và mẫu giáo, những cấp học cơ bản liên hệ trực tiếp tới các em
nhỏ của chúng ta trong cộng đồng. Con số những thày cô giáo người Việt hiện
diện trong các trường địa phương mỗi ngày một nhiều. Nghề làm thày cô giáo
không còn bị chê so với các nghề khác như trong những thập niên đầu. Nhiều người
tỏ ra đã yêu mến nghề dạy học ngay từ khi còn học ở bậc trung và luôn cả tiểu
học.
Họ đã đạt được ước vọng và sau nhiều năm hành nghề vẫn tỏ ra yêu nghề hơn
bao giờ hết.
Nhiều người đã chuyển sang cấp chỉ huy làm hiệu trưởng, phó hiệu
trưởng các trường khi chán phụ trách lớp. Nên nhớ là, ít ra là ở Mỹ, dạy ở cấp
nào cùng được coi là quý, là trọng, không nhất thiết là ở bậc đại học, nơi kiếm
được một chỗ làm rất khó vì rất hiếm, cạnh tranh giữa các sắc dân Á Châu rất
nhiều, bè cánh phe phái rất nhiều. Điều quan trọng là ở chính mình và hạnh phúc
của chính mình.
Cộng đồng của chúng ta
đã độc lập, đã tự đứng vững và phát triển trong suốt 39 năm qua không hề phải
nhờ và vào chính quốc. Trái lại, hàng chục tỷ đôla hàng năm đã được gửi về làm
giàu cho các cán bộ và các đại gia ở trong nước.
Có điều thay vì để yên cho
thành phần thứ hai của dân tộc này phát triển để hỗ trợ lẫn nhau, cùng nhau song
song phát triẻn, cùng hưởng thì các “đỉnh cao trí tuệ” ở trong nước đã coi nó
như một con gà đẻ trứng vàng, tìm cách ảnh hưởng tới nó, bắt nó đẻ nhiều hơn,
thậm chí bắt và giết nó. Riêng trong phạm vi dạy tiếng Việt có người còn cổ võ
đưa các thày ở trong nước ra dạy ở các trường hải ngoại.
Cổ võ nhưng vị này
không hề quan tâm đến tình trạng suy đồi thậm tệ của tiếng Việt ở ngay chính
trong nước mà rất nhiều bài thuyết trình, khảo cứu đã được phổ biến trong nhiều
cuộc hội thảo ở khắp nơi trên thế giới, ở Mỹ. ở Canada, ở Úc, ở Pháp, trên báo
chí, truyên truyền thanh, truyền hình, trong những năm qua.
"Chúng
ta đã có một Siêu Quốc gia Việt Nam không có lãnh thổ, không có chính quyền,
không có thủ đô nhưng tất cả đều nằm sâu thẳm trong lòng mọi người dân của nó."
Sự hình thành của Cộng
đồng Việt Nam Hải Ngoại coi như thành phần thứ hai của dân tộc là một cơ hội
ngàn năm một thuở chúng ta có được, sau khi người dân Việt Nam đã phải trải qua
nhiều chục năm dài đầy chiến tranh, đau thương, chết chóc và bất hạnh. Chúng ta
đã không có được một lãnh thổ duy nhất, một chính quyền chung nhưng chúng ta có
những con người, có chung một lịch sử, một nguồn gốc, đã ra đi trong cùng một
hoàn cảnh, một thời điểm.
Nói một cách khác, chúng ta đã có một Siêu Quốc gia
Việt Nam không có lãnh thổ, không có chính quyền, không có thủ đô nhưng tất cả
đều nằm sâu thẳm trong lòng mọi người dân của nó.
Một siêu quốc gia như vậy
thích hợp hơn với sinh hoạt quốc tế trong thời hiện tại, thời mà biên giới giữa
các nước đã mờ dần trước sự phát triển chung của cả nhân loại.
Cũng nói cách
khác, nếu trong thế kỷ 19, một học sinh người Anh được học rằng “Mặt trời không
bao giờ lặn trên Đế Quốc Anh” thì khác đi một chút, kể từ thế kỷ 20, một học
sinh Việt Nam phải được học rằng “Từ sau năm 1975, mặt trời không bao giờ lặn trên
những miền đất có người Việt Nam cư ngụ.”
Cộng Đồng của chúng ta
đã vững mạnh và luôn luôn được các nhà cầm quyền bản xứ che chở.
Chúng ta không
cần phải có sự giúp đỡ từ bên ngoài, nói trắng ra là từ những người này. Phạm
Nhan đã bị chém đầu từ bảy thế kỷ trước tuy vẫn còn lảng vảng khắp nơi để kiếm máu
dơ của phụ nữ nhưng y sẽ không làm gì được chúng ta vì chúng ta đã có Đức Thánh
Trần và Chúa Liễu Hạnh luôn luôn hiển linh và che chở cho chúng ta.
Chúng ta
hãy cùng nhau giữ cho tượng ngài quanh năm sạch sẽ và nếu có, hương khói lúc
nào cũng nghi ngút, để trở thành một thắng tích bất cứ ai ghé Little Saigon đều
phải ghé qua để tỏ lòng tôn kính ngài.
Chúng ta đã khơi lại
được mạch sống của bảy trăm năm trước. Chúng ta có sống lại được với sức sống
do tiền nhân truyền lại cho chúng ta hay không? Điều này tùy thuộc ở chính
chúng ta. Chúng ta sẽ coi quyền lực, danh lợi tiền bạc của cá nhân hay phe nhóm
là trọng hay sự tồn vong của cả dân tộc là trọng.
Đó là tùy thuộc chúng ta. Những
người đang sống trên đất mẹ của chúng ta xem ra khó mà làm được điều này vì dù
có muốn họ cũng không làm được và không được phép làm và cũng vì tất cả đều đã
quá mòn mỏi, khô cằn, nếu không nói là kiệt lực. Tất cả chỉ còn trông cậy ở
chúng ta và con cháu chúng ta.
Bài viết phản ánh quan
điểm và cách hành văn riêng của tác giả. Ông Phạm Cao Dương lấy bằng tiến sĩ sử
học ở Đại học Paris, và dạy ở nhiều đại học tại Sài Gòn trước 1975. Sau khi sang
Mỹ, ông dạy về lịch sử, ngôn ngữ Việt Nam ở một số trường tại Nam California trước
khi về hưu.
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết