--
Kính
Chuyển
MG
LÀM SAO QUÊN ĐƯỢC NGÀY 27-1-1973,
KISSINGER BÁN ĐỨNG VNCH CHO CS
QUỐC TẾ
MƯỜNG GIANG
Tuy chiến tranh đã kết thúc từ lâu và cọng sản Bắc Việt ngay từ ngày 1-5-1975
qua Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ, Phạm Hùng... đã công khai xác nhận XÂM LƯỢC MIỀN NAM,
còn Mặt Trận Giải Phóng chỉ là một phần Ðảng Bộ Trung Ương nối dài, một thứ
công cụ bịp để che mặt và đánh lừa bọn trí thức ngây thơ da vàng da trắng mà
thôi.
Thế nhưng đến nay vẩn còn nhiều người chưa chịu trả lại công lý cho người
VN mỗi khi đề cập hay nhắc tới cuộc chiến đó. Thật ra đây cũng chỉ là một cách
chạy tội của những người trước kia tay lở nhúng vào tội ác, hoặc cố ý hay vô
tình khi đứng về phía cọng sản, thân thiện, giúp đỡ chúng một cách mù quáng,
không cần biết tới lẽ phải và lương tâm. Do trên họ cứ tự mình tùy tiện áp đặt
cho cuộc chiến đó, nhiều cái tên nghe qua thật khôi hài, cũng may đến nay không
còn được mấy ai chấp nhận. Tóm lại, dù có gọi là cuộc chiến ủy nhiệm, nội chiến
hay là chiến tranh giải phóng dân tộc hoặc gì gì chăng nửa, thì đó cũng là một
cuộc chiến xâm lược, do cọng sản quốc tế chủ động, nhằm nhuộm đỏ Ðông Dường và
Ðông Nam Á. Cọng sản Hà Nội hay VC miền nam chỉ là kẻ thừa hành sứ mạng quốc tế
trên, đã khiến dân chúng VNCH trở thành nạn nhân, phải đem máu xương ra chống lại
để sống còn.
Từ đầu thế kỷ XX tới nay, Hoa Kỳ vẫn là một quốc gia vô địch. Chính Họ đã giúp
đồng minh thắng phe trục qua hai cuộc thế chiến. Trong chiến tranh lạnh giữa khối
tự do và cọng sản, Hoa Kỳ đã chiến thắng Liên Xô vẽ vang, giựt sập bức tường Bá
Linh, giải thề Xô Viết, giải phóng Ðông Âu và nhiều quốc gia cọng sản khác
trong đó có Ðông Ðức , Nga La Tư vĩnh viễn thoát khỏi gông cùm đỏ trong mấy thập
niên qua. Mới đây quân Mỹ như sấm sét, trong vòng không đầy một tháng, bình định
xong A Phú Hãn và Iraq là hai vùng đất chết được coi như bất khả xâm phạm của
thế giới Ả Rập.
Nhờ những chiến công trời biển này, ít ra hiện tại cũng còn làm Trung Cộng
vỡ mật khi muốn trở thành trùm thế giới, bá chủ Á Châu và vua biển Thái Bình
Dương. Nhưng tại VNCH thuở đó, Hoa Kỳ lại bị sa lầy dù thực tế tự chạy khi đã đạt
được ba mục đích chiến lược quốc sách : Tạo được sự mâu thuân chia rẽ giữa Liên
Xô-Trung Cộng, thành công trên chiến trường VN về sự thử thách vũ khí và quân đội
với khối cọng sản quốc tế qua bộ đôi Bắc việt và trên hết là ngăn chặn được
Trung Công không cho tràn xuống Ðông Nam Á ít nhất là lúc đó. Tóm lại người Mỹ
tới VN không phải để chiến đấu thật sự như họ đã làm tại hai cuộc thế chiến hay
mới đây ở A Phú Hãn và Iraq, mà đến để nướng quân dụ địch. Tất cả những cái được
gọi là Rules of Engagement hay là luật chiến đấu dành cho quân đội Hoa Kỳ tại
VN và Nam Hàn. Tài liệu này được giải mật một phần từ năm 1985 bởi
Congressional record, nhờ đó ta mới biết được lý do tại sao quân đội Hoa Kỳ, Ðồng
Minh và QLVNCH bị Hoa Thịnh Ðốn trói chặt tay khi đang chiến đấu. Bởi vậy cứ
không tập, đổ bom liên tục xuống núi, xuống biển nên Hà Nội, Hải Phòng đâu có hề
hấn gì củng như không thấy có bất cứ một cán bộ nào kể cả cán thấp tại xã huyện
bị thương vong.
Ðây là một trò chơi mèo bắt chuột mà rõ ràng nhất là đợt Mỹ oanh tạc Bắc
Việt lần cuối cùng, bằng B52 liên tiếp, khủng khiếp suốt 12 ngày đêm và chỉ cần
thêm MỘT NGÀY là toàn bộ chóp bu Hà Nội trốn dưới hầm thép ra đầu hàng, giúp
dân chúng VN ngày nay thoát được ách nô lệ cọng sản . Thế nhưng Hoa Kỳ đã ngưng
và Bắc Việt đã ngoan ngoãn hối hả ngồi vào bàn nghị sự. Rồi những ngày cuối
cùng của tháng tư đen 1975 miền nam sắp mất, trong lúc Hoa Kỳ với một lực lượng
hải quân hùng hậu có đầy máy bay và bom đạn, kể luôn kho bom nguyên tử tới mấy trăm
ngàn trái, nếu muốn dù có Trung Cộng và Liên Sô can thiệp, vẫn thừa sức đánh
tan bộ đội Bắc Việt trong chớp nhoáng để cứu QLVNCH. Mặt trận Xuân Lộc tháng
4-1975 là một thí dụ điển hình, chỉ cần thêm vài chục trái bom tiểu nguyên tử,
tình hình chiến sự đã thay đổi nhưng Mỹ cho bom mà không viện trợ ngòi nổ, ba
trái bỏ tại ngã ba Dầu Giây chỉ để mua thêm thời gian giúp người Mỹ chạy được
an toàn thế thôi.
Tóm lại, họ không bao giờ làm vậy và còn được lệnh di chuyển hết các mẫu hạm khỏi
bờ Ðông hải. Ðó là chiến thuật để thua vừa nuôi dưỡng chiến tranh sắp tới nên
không thể bắt Hà Nội tan rã. Thế giới ghét cái trò lừa bịp của Hoa Kỳ, nên mặc
dù đã nhìn rõ sự láo dóc tàn khốc của Việt cộng nhưng cứ giả vờ nhắm mắt hoan
hô cổ võ trò hề trên, làm hại cho một số người VN nhẹ dạ tưởng thiệt, lại cứ
theo giặc, tiếp tay hãm hại đồng bào mình trong lúc khốn cùng qua màn cổ võ ‘ nối
vòng tay lớn, hòa hợp hòa giải .. ’ ’
Cũng vì vậy nên dù chiến tranh đã chấm dứt từ xa lắc nhưng VC chứng nào tật ấy,
một mình một chợ, độc quyền thao túng lịch sử, dành làm chủ đất nước, bịa đặt
những huyền thoại vu vơ để làm dao động các thế hệ mới lớn, mục đích chạy trốn
tội ác thiên cổ đã gây ra trong mấy chục năm máu lệ hận trường. Riêng Hoa Kỳ
trong màn kịch giả bộ thua đau, đã không ngớt biện minh để tìm cách thoát ra
cái hội chứng Vietnam syndrom, trong đó chính họ là kẻ phản bội và thủ phạm tấn
tuồng trên là Nixon-Kissinger. Một điều tàn nhẫn khác của người Mỹ, đó là sự vu
cáo trắng trợn, đổ tội cho đồng minh hèn nhát không chịu chiến đấu nên phải mất
nước. Thật sự trong giờ 25, nếu không có sự chiến đấu can trường của QLVNCH
trên khắp các chiến địa, liệu một số người Mỹ , kể luôn ông Ðại sứ có còn mạng
thoát được Sài Gòn ? như vụ Ba Tư bắt con tin Mỹ năm 1983.
Ngày nay nhờ tài liệu mật từ văn khố của Liên Xô cũ cũng như tại thư viện chiến
tranh Hoa Kỳ ở Texas gọi tắt là ISAW, đã chấm dứt các huyền thoại dỏm của VC
trong mấy chục năm qua, tốn công dàn dựng bóp méo và đưa ra ánh sáng rằng những
xáo trộn chính trị tại VNCH, dù do ai cũng chỉ là cớ để Bắc Việt cưởng chiếm miền
nam.
Ý đồ trên, theo J.Race trong The lost revolution, đã manh nha từ năm 1958
khi Hà Nội ra lệnh khui lại các hầm vũ khí được chôn giấu tại miền nam trước
khi tập kết, để trang bị cho cán binh cơ sở nằm vùng. Cũng trong năm này, Lê Duẩn
theo lệnh Hồ đã lén lút vào Nam lượng giá tình hình và trở về bắc họp Trung
ương đảng lần thứ 15, nghị quyết lập đảng bộ miền nam, tức là VC hay mặt trận
giải phóng, tấn công VNCH bằng vũ trang. Chiến tranh được phát động chính thức
bằng hai cuộc nổi loạn gọi là đồng khởi nhưng đã bị dập tắt ngay tại Trà Bồng
(Quảng Ngãi) ngày 28-8-1959 và BếÔn Tre ngày 17-1-1960. Chính Thủ Tướng Nga
Nikita Khrushchev đã phất ngọn cờ tiến quân ngày 6-1-1961 để mở màn cuộc chiến
VN sau khi vở tuồng mặt trận trình diễn ra mắt tại một khu rừng già kế biên giới
Việt Miên trong liên ranh hai tỉnh Hậu Nghĩa-Tây Ninh cuối tháng 12-1960 với
nhân sự nòng cốt gồm hơn 25.000 cán binh từ bắc hồi kết. Tháng 5-1962, Bộ Trưởng
quốc phòng Hoa Kỳ thời Tông thống J.Kennedy là McNamara thăm viếng VNCH, cũng để
mở màn cái thảm kịch chiến tranh phải thua, khiến hơn 60.000 quân nhân các cấp
Hoa Kỳ, UỊc,Tân Tây Lan, Nam Hàn,Phi, Thái và mấy triệu người VN cả hai miền
nam bắc phải chết oan khiên trong bom đạn tàn bạo của một cuộc chiến bẩn thỉu
có một không hai trong dòng sử nhân loại.
Ngày 1-11-1963 Hoa Kỳ đạo diễn biến cố lật đổ nhà Ngô, một mặt tạo sự vô
chính phủ tại miền nam trong ba năm xáo trộn 1963-1967, vừa có cớ đem quân vào
giúp đánh VC ổn định chính trị nhưng trên hết là thực hiện cái chiến lược, hy
sinh con chốt VNCH để bắt nhốt con cọp ngủ Trung Cộng, rảnh tay tiêu diệt Liên
Xô nhưng thả Hà Nội để lại tiếp tục làm con chốt thí mạng với Tàu đỏ khi cần.
Chiến tranh cứ thế leo thang, tại miền nam Mỹ thêm quân, giội bom oanh tạc, thì
miền bắc càng nhận được thêm nhiều quân viện gạo vải từ khối cọng sản quốc tế,
cũng như sự hiện diện của mấy trăm ngàn đồng chí Trung Cộng, Bắc Hàn, Cu Ba,
Ðông Ðức.. do Hồ lãnh tụ mời tới tham chiến, đóng đầy từ vỹ tuyến 20 ở Thanh
Hóa cho tới biên giới Việt Hoa.
Ngày 4-9-1967 mở đầu nền đệ nhị cọng hòa cho tới ngày tàn cuộc 30-4-1975.
Cũng từ đó QLVNCH trên khắp chiến trường trong nước cũng như tại Kampuchia và Hạ
Lào, đã chứng tỏ cho thế giới là một đạo quân thiện chiến và có kỷ cương nhất
vùng Ðông Nam Á, qua các chiến thắng lừng lẫy trong Tết Mậu Thân 1968, vượt
biên đánh thẳng vào căn cứ địa của R tại Kampuchia năm 1970, Hạ Lào năm 1971,
mùa hè đỏ lửa 1972, Hoàng Sa tháng 1-1974.. tạo nên một niềm tin tất thắng
trong lòng quân nhân các cấp, nhất là những sĩ quan chỉ huy trẻ tuổi trung cấp
và tuyệt đai quân sĩ thanh niên nam nữ yêu nước dưới quyền.
Thế nhưng giữa lúc chiến thắng gần kề thì cũng là lúc Kissinger công khai
thái độ bán đứng đồng minh qua cái hiệp định quái đản ngày 27-1-1973. Thì ra tất
cả đều là xảo thuật, đóng kịch từ cuộc họp thượng đỉnh Midway ngày 8-6-1969 giữa
Nixon-Nguyễn văn Thiệu với cam kết bảo vệ và quân viện cho VNCH.. chỉ là lời hứa
cuội trên văn bản. Thật sự Kissinger đã đi đêm với cọng sản Hà Nội từ khuya, để
rút quân, lấy tù binh về nước.
Ðể đạt được trò bịp trên, Hoa Kỳ dùng thủ đoạn chèn ép chính phủ VNCH bằng cái
thòng lọng VIỆN TRỢ, chụp mũ làm mất chính nghĩa quốc gia của người miền nam,
qua truyền thông truyền hình và hăm dọa ám sát thủ tiêu lãnh đạo nếu không chịu
ký nhận cái hiệp định phi lý vô nhân đạo, mà VC đã đem liệng ngay vào thùng rác
sau đó.
Cái hài hước của lịch sử màợ ai cũng biết được, là mặt thật nhưng vẫn phải
cắn răng nuốt lệ thi hành. Và cũng kể từ đó, người Mỹ hân hoan rút hết về nước,
trước sự thắng cử vinh quang thêm một nhiệm kỳ của tổng thống Nixon. Bộ đội Bắc
Việt thế chân Hoa Kỳ, công khai ở lại lãnh thổ độc lập tự do của người miền Nam
theo tinh thần hiệp định hai nước, hai chính thể ký năm 1954. Cũng qua sự toa rập
ký kết từ trước, quốc hội Hoa Kỳ chấm dứt viện trợ quân sự và kinh tế cho VNCH,
đưa đến sự sụp đổ toàn diện của một quốc gia chỉ vì tin cậy vào sự giúp đỡ của
đồng minh.. vào lúc 12 giờ trưa ngày 30-4-1975.
Trong suốt bao chục năm qua, cọng sản đã ký bao nhiêu hiệp định ngày 6-3 và
14-9-1946, 20-7-1954 rồi 27-1-1973 nhưng chẳng bao giờ thực hiện. Bởi vậy đừng
tin những gì cọng sản nói mà hãy nhìn những gì chúng làm. Chí lý thay lời nhận
định của cố tổng thống Nguyễn văn Thiệu, vậy mà tới nay còn không ít người
không chịu tin vào sự thật.
1 - KISSINGER
VÀ HIỆP ƯỚC HÒA BÌNH GIẢ MẠO :
Cái khôi hài cười ra nước mắt của người Mỹ là ngay trong lúc một mặt đổ quân ào
ạt vào nam VN năm 1965, cũng đồng thời bí mật đi đêm với Bắc Việt gọi là. mưu
tìm một giải pháp hòa bình, chính Pháp và Tòa Thánh La Mã khởi động đầu tiên
dàn xếp để hai phiá ngồi vào bàn hội nghi nói chuyện ngưng bắn theo kế hoạch
Mayflower nhưng bất thành.
Ngày 17-6-1965 Anh và Liên Xô nhập cuộc, mở hội nghị 4 nước
Anh-Ghana-Nigeria-Tobago với sự ủng hộ công khai của hai nghị sĩ dân chủ là
Mike Mansfield và Fullbright, muốn Mỹ ngưng oanh tạc Hà Nội và ngược lại Bắc Việt
ngừng chuyển bộ đội vào nam nhưng bị cọng sản bác bỏ vì lập trường đối nghịch của
hai đàn anh Nga-Tàu. Tháng 7/1965 tổng thư ký LHQ là U Thant muốn mở lại hội
nghị Geneve 1954. Tháng 10/1965 ngoại trưởng Ý là Amintore Fanfani và Giáo
Hoàng Paul VI cũng nhập cuộc, bằng cách liên lạc thẳng với Hà Nội , Mặt Trận
GPMN và Tổng Thống Johnson nhưng cũng bất thành vì Hồ đòi công nhận Ma mặt trân
là một chánh phủ giống như VNCH.
Tóm lại những kế hoạch kể trên đều khởi động nhịp nhàng theo các phong trào phản
chiến tại nội địa Mỹ do Luther King, Hoffman,Larson xách động, biến các trường
đại học Mỹ thành căn cứ du kích Bắc Việt ngay trên lãnh thổ Hoa Kỳ. Chiến tranh
dữ dội khắp VNCH nhịp nhàng với các biến động chính trị tại Huế-Sài Gòn. Hoa Kỳ
tiếp tục oanh tạc miền bắc nhưng Hồ vẫn không nhượng bộ vì đang leo dây giữa
Nga-Tàu, nên chỉ biết ậm ờ trước các đề nghị hòa bình. Tại Mỹ, ngày 20-2-1966,
Robert F.Kennedy công khai đòi cho MT/GPMN tham gia chính phủ nhưng bị chống đối
kịch liệt.
U Thant và De Gaulle là hai nhân vật hung hăng nhất trong việc kêu gào phải
hòa bình tức khắc tại VN bằng cách ngưng oanh tạc miền bắc, Mỹ rút quân và để
MT/GPMN tham chính. Sở dĩ cả hai làm như vậy vì U Thant tuy là tổng thư ký LHQ
nhưng lại thân cộng ra mặt, còn De Gaulle với dụng tâm đạo đức giả, thù Mỹ đã
phỏng tay trên Ðông Dương, nên nhỏ mọn trả thù vặt. Rốt cục cả thế giới lẩn
Vatican đều trúng kế Hồ Chí Minh, càng lúc càng chia rẽ và phân hóa trầm trọng.
Năm 1967 phong trào phản chiến lên cao tại Hoa Kỳ làm phân hoá đảng dân
chủ vì là mùa bầu cử, nên tổng thống Johnson tuyên bố trong cuộc hội nghi với
TT Nguyễn văn Thiệu tại Guam, là sẽ thương thuyết thẳng với Bắc Việt .Tất cả chỉ
là màn hỏa mù ngoại giao vì Mỹ và Hà Nội đã đi đêm từ cuối năm 1966, do sự dàn
xếp của Thụy Ðiển nhưng phải đợi tới ngày 31/3/1968 khi Johnson tuyên bố không
tái tranh cử và bộ đội của Bắc Việt cũng như VC bị tan nát tại miền nam trong
trận Tết Mậu Thân, cọng sản mới chính thức ngồi lại với Mỹ . Rồi Nixon thắng cử
tống thống, Kissinger được giao trách nhiệm đi đêm với Lê Ðức Thọ, tự quyết định
số phận của VNCH, mà không cần đếm xỉa gì tới chủ quyền của miền nam lúc đó.
Theo giáo sư tiến sĩ Stephen Young, từng phục vụ nhiều năm trong bộ ngoại giao
Hoa Kỳ thì Kissinger, trưởng phái đoàn thương thuyết Mỹ đã bán đứng VNCH cho Bắc
Việt khi chấp thuận cho Hà Nội được lưu giữ đạo quân xâm lăng ở miên nam VN. Hậu
quả tạo ưu thế quân sự cho địch cưỡng chiếm VNCH khi Hoa Kỳ rút toàn bộ quân lực
về nước và cắt giảm quân viện năm 1973 rồi cắt đứt năm 1975. Tổng thống Nixon
ngay khi làm TT năm 1969 đã tuyên bố sẽ chấm dứt chiến tranh, đem hết quân Mỹ về
bằng một kế hoạch bí mật.
Vấn đề chính là Nam VN chẳng hề biết tới kế hoạch đó là gì và nói là VN hóa chiến
tranh nhưng QLVNCH tới đầu năm 1972 mới được cải tiến trang bị, trong lúc bộ đội
miền bắc đã sử dụng những vũ khí cá nhân và cộng đồng tối tân của khối cộng từ
khi Mỹ còn hiện diện.Năm 1972 Nixon đả đạt được những thỏa uớc lịch sử với Nga
lẫn Trung Cộng. Chính điểm này để Nixon thắng Mc.Govern làm TT nhiệm kỳ 2. Tuy
nhiên việc oanh kích Hà Nội trong 12 ngày liên tiếp và thả mìn phong tỏa Hải
Phòng, suýt làm Bắc Việt đầu hàng vô điều kiện, nếu không bị đảng dân chủ và
phe phản chiến chống đối dữ dội.
Giữa lúc TT Nixon trong tình thế khó xử, thì Kissinger đưa sáng kiến phản
bội VNCH để đổi lấy sự ủng hộ của quốc hội Mỹ, trong việc làm thăng bằng cán
cân chiến tranh lạnh, nói thẳng là giúp Do Thái đương đầu với khối Ả Rập. Do nhận
thức sai lầm trên, đã khiến Kissinger thành kẻ chủ bại, hèn nhát, bất nhân đẩy
VN vào định mệnh oan nghiệt. Thực tế còn gian ác hơn ta nghĩ, vì Kissinger chẳng
những muốn Hoa Kỳ rút khỏi VN mà còn làm cho dân chúng Mỹ không còn nhớ tới cuộc
chiến đó trong tiềm thức. Hậu quả lưu manh này khiến cho các quân nhân Hoa Kỳ
tham chiến tại VN trở về bị đối xử tàn tệ, tẻ nhạt cho tới mấy năm sau mới được
hồi phục lại danh dự.
Trong thâm tâm của Kissinger, đưa quân đội Mỹ về chưa đủ, mà phải làm sao thọc
gậy quốc hội cắt đứt mọi nguồn viện trợ cần thiết, thì mới chấm dứt được chế độ
miền nam. Do trên ông ta tự đẻ ra sáng kiến riêng, chủ đích làm hỏng chương
trình VN hoá của Nixon. Theo tài liệu của đại sứ Bunker, thì bí mật lớn nhất của
Kissiger là sự xuống thang chiến tranh. Ðây là sáng kiến tàn nhẫn nhất vì để đổi
một thắng lợi ngoại giao cho Mỹ và VNCH, Kissinger cho lại Bắc Việt MỘT CHIẾN
THẮNG QUÂN SỰ, tức là Y đã tiết lộ bí mật quốc phòng cho địch. Nhưng sự kiện
này không bao giờ Kissinger dám nhận và chính trong hồi ký của TT. Nixon đã viết
là chẳng bao giờ ông cho phép làm chuyện đó khi thương thuyết với Hà Nội.
Tóm lại để kết thúc chiến tranh VN theo ý mình, Kissinger không bao giờ
trình bày sự thật khi thương thuyết với Hà Nội cho TT.Nixon biết. Từ ngày
13-4-1971, Kissinger đã manh nha trò phản bội và lộng quyền, khi tự sử dụng đường
dây nóng đặc biệt không qua Bộ Ngoại Giao và Tổng Thống Mỹ, để ra lệnh cho Ðại
Sứ Bunker và Bắc Việt. Theo các tài liệu lịch sử đã giải mật, những lộ đồ đề
nghị hòa bình VN của các giới chức Mỹ từ tổng thống Nixon tới đại sứ Bunker
hoàn toàn trái ngược với ý riêng của Kissinger
Theo bản dự thảo chiến lược chính thống, thì sự ký kết hòa bình chỉ xảy
ra sau khi QLVNCH đạt được chiến thắng tại Hạ Lào qua cuộc hành quân Lam Sơn
719, phá vỡ toàn bộ các căn cứ hậu cần của Bắc Việt tại đây nhằm cắt đứt đường
tiếp vận cho bộ đội miền bắc qua đường mòn Hồ chí Minh. Về rút quân thì bắt đầu
năm 1971-1972, bộ binh về trước khi đã chứng thật rằng QLVNCH được VN hoá chiến
tranh, đủ mạnh để thay thế quân lực Hoa Kỳ đương đầu với Bắc Việt. Riêng Không
quân-Hải quân vẫn duy trì cho tới khi thấy Hà Nội thật sự tôn trọng hòa bình của
Nam VN. Một điều quan trọng nhất mà đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn là Bunker, mong
muốn Hoa Thịnh Ðốn phải chứng tỏ vai trò hợp hiên của CHÍNH PHỦ VNCH tại bàn hội
nghị và cái sự Hoa Kỳ ngồi nói chuyện với Hà Nội đã là một nhượng bộ, vì rõ
ràng lúc đó Bắc Việt đang thảm bại quân sự trên khắp các chiến trường , chiến dịch
ở miền nam. Một sự kiện khác cũng không kém phần quan trọng tại Hoa Kỳ, là mặc
dù bị đảng dân chủ đánh phá kịch liệt, đòi rút quân về tức khắc để đổi tù binh
nhưng TT Nixon lúc đó, vẫn cương quyết không tiết lộ lộ trình triệt thoái và giữ
nguyên ý định không giải kết với VNCH vì quyền lợi Mỹ.
2-KISSINGER BÁN
ĐỨNG VNCH CHO CS QUỐC TẾ :
Theo các sử gia, nếu Kissinger thật sự là một nhà thương thuyết giỏi và có
lương tâm, ông ta đã vượt qua được những sóng gío trùng trùng lúc đó, mang lại
vinh dự cho nước Mỹ và công lý cho VNCH. Lịch sử đã chúng nhận điều này chỉ mới
đây trong việc Tổng Thống G.W.Bush trước khi tiến quân đánh Iraq. Nhưng
Kissiger chỉ là một học giả chứ không phải là một nhà ngoại giao, một người Do
Thái thuần tuý nên không hề biết tới quyền lợi và danh dự của Hoa Kỳ. Trước
tiên, về việc cho phép BỘ ÐỘI BẮC VIỆT ở lại miền nam, Kampuchia, Lào được coi
như một hành động ngu xuẩn nhất của Kiss
Thế nhưng Kissinger nơi trang 1488, y đã tự sửa lại là : “ người VN và
các dân tộc khác ở Ðông Dương, sẽ tự thảo luận để tất cả quân đội ngoại nhập
rút ra khỏi Ðông Dương “.Như vậy muốn Hoa Kỳ ngưng oanh kích rút quân, mà không
có một đòi hỏi gì cho đối phương, thậm chí còn cho chúng ở lại để tiếp tục làm
giặc, thì thương thuyết để làm gì, cho nên sau này Hà Nội và thế giới khinh
khi, cười chê Hoa Kỳ là vậy. Ngoài ra chẳng bao giờ Kissinger coi VNCH là một
quốc gia độc lập có chủ quyền, nên hắn đã có cái nhìn coi Hà Nội mới là đại diện
để thương thuyết với Mỹ. Ðây là một sự phản bội trắng trợn của lời cam kết từ
các chính quyền Hoa Kỳ như TT.Kennedy, Johnson,Nixon.. luôn tuyên bố tôn trọng
nền độc lập của quốc gia đồng minh.
Tóm lại với luận điệu lừng khừng, chủ bại, đầu óc lắt léo tàng tàng, kissinger
đi phó hội trong một tư thế hèn yếu, rẻ mạt, nên chỉ còn bán đứng VNCH mới mong
lấy lại tù binh về. Ngày 25-5-1971, để tránh bị kiện tụng vào phút chót,
Kissinger đã điện thoại gạt Bunker là chương trình nghị sự sẽ theo đúng bản dự
thảo của TT.Nixon và tòa đại sứ Mỹ-Sài Gòn.
Cũng do lòng tin tưởng trên, nên ngày 3-6-1971, Ðại sứ Bunker đã tường trình với
Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu có Kissiger hiện diện, kết quả thương thuyết theo bản
dự thảo của TT.Nixon và Toà đại sứ. Trong khi trình bày, Bunker xác quyết là BỘ
ÐỘI BẮC VIỆT cùng rút về Bắc khi quân đội Ðồng Minh và Hoa Kỳ triệt thoái. Việc
tréo cẳng ngổng này cho thấy, TT Thiệu và Chính phủ VNCH hoàn toàn không được
Hoa Kỳ cũng như Kissiger hỏi han hay cho biết một chút gì về vận mệnh tương lai
của xứ sở mình. Trước sự kiện trên, Kissimger chẵng những không đính chính mà
còn lợi dụng sự không biết gì, để ép TT Thiệu không được tiếp tục đòi hỏi hắn,
khi việc BỘ ÐỘI MIỀN BẮC đã được giải quyết.
Tháng 10/1972 giai đoạn cuối cùng trong bàn hội nghị, Kissinger thay vì cố
gắng đạt được những ưu thế cho Hoa Kỳ và đồng minh Nam VN, Kissinger lại tấn
công tới tấp TT Nguyễn văn Thiệu và gọi đó là lý do chính trở ngại cho cuộc hoà
đàm. Ngày nay dựa vào những tài liệu mật và ngay chính hồi ký của Kissiger,
chúng ta mới thấu hiểu sự dối trá và bất lương của y đối với VNCH. Ðó là sự hiểu
biết quá kém cỏi về lịch sử VN dù hắn ta luôn tự hào về cái trường đại học luật
khoa danh tiếng Havard nay chỉ còn là cái mốt thời thượng. Hèn nhát trước phong
trào phản chiến do cọng sản quốc tế dàn dựng, Kissinger đã đánh mất sự thông
minh của một nhà ngoại giao, qua mặt dân chúng và chính quyền Hoa Kỳ, phản bội
đồng minh đang chiến đấu dũng liệt trước làn sóng đỏ.
Ngày 1-8-1972, trong cuộc họp mật, Hà Nội bảo với Kissinger là ngoài việc
BỘ ÐỘi Ở LẠI, TT Thiệu phải từ chức để thay thế bằng chính phủ liên hiệp. Từ
tháng 8-1972, sự chống đối Mỹ từ chính phủ VNCh đã lên tới cao điểm như không cần
đếm xỉa tới thời hạn mà Kissinger ấn định, TT Thiệu không tiếp chuyện với
TT.Nixon gọi từ Honolulu cũng như tuyên bố là sẽ không bao giờ từ chức, Chính
phủ liên hiệp không bao giờ có.
.20-9-1972 sau chuyến thanh sát tại Quảng Trị điêu tàn đổ nát, vừa được QLVNCH
chiếm lại, TT Thiệu về Sài Gòn tuyên bố “ vận mệnh của DÂN TỘC VN phải do đồng
bào VN quyết định “ và ông đả tố cáo Kissinger chỉ biết tự mình quyết định tất
cả mà không coi VNCH ra gì.
Ngày 19-10-1972, Kissinger, Bunker họp với TT Thiệu, Phó Tổng Thống Hương và Hội
Ðồng An Ninh Quốc Gia. Theo các tài liệu ghi nhận, cuộc họp đầy căng thẳng và
thái độ cuả TT.Thiệu khinh bỉ Kissinger tại cuộc họp mà ai cũng thấy rõ khi
tuyên bố hắn ta chỉ là một người trung gian không hơn không kém, quyền quyết định
hòa hay chiến là của Sài Gòn-Hà Nội, chứ không phải Hoa Kỳ . Phiên họp chấm dứt
nhưng phút chót TT.Thiệu không biết vì một lý do nào đó lại ký nhận vào bản hiệp
định..
Ngày 26-11-1972, Bunker chuyển một lá thơ của Nixon, cho biết nếu VNCH cưỡng
lại Hoa Kỳ thì VIỆN TRỢ sẽ bị cúp ngay và tánh mạng tổng thống Thiệu nếu muốn
giữ, phải KÝ KẾT.Ðể tấn tuồng kết thúc trọn vẹn, bất ngờ ngày 18-12-1972, Nixon
ra lệnh oanh tạc THẬT Hà Nội-Hải Phòng và các căn cứ quân sự tại Bắc Việt một
cách sấm sét dã man, bất chấp Dân Chủ và phản chiến kêu gào la ó. Ðến lúc này,
thì TT Thiệu không tin cũng phải tin là Hoa Kỳ qua lời hứa của Nixon trong mấy
chục bức thơ riêng, sẽ dội B52 và can thiệp ngay bằng quân sự nếu Hà Nội phản
thùng, tấn công VNCH. Ngày 30-4-1975, Miền nam bị bức tử vì Kissinger, một tên
trí thức xuẩn động ngây thơ, có đầu óc thực dân kiêu căng thời Trung cổ. Hắn vì
muốn thoả mãn nhu cầu cho bọn siêu quyền lực mà phần lớn gốc Do Thái đang thao
túng nước Mỹ và thế giới, cho lũ phản chiến đa số bị bệnh tâm thần vì đồng tình
luyến ái, hút sách, ảo vọng , nên đã hại không biết bao nhiêu người đã chết,
tan nhà, mất nước trong suốt 34 năm qua, tới nay càng thêm đau khổ tận tuyệt
trong cảnh nước mất nhà tan, dân tộc bị Hán hoá tuyệt chũng .
Theo các sử gia cận đại, thì cái hệ lụy bi thảm mà Hoa Kỳ hứng chịu hôm nay khi
phải đối đầu với Hồi giáo cực đoan, Iraq, Iran, Trung Cộng, Bắc Hàn.. cũng như
sự phản bội trắng trợn của các đồng minh trung thành lâu đời như Pháp, Ðức,
Arab Saudi, Thổ nhỉ Kỳ, Nam Hàn, Phi luật Tân, Nam Dương.. phần lớn đều do
chính sách sai lầm có chủ ý của Kissinger khi nắm quyền, hoàn toàn chỉ nghĩ tới
Do Thái và bọn siêu quyền lực tư bản, thời nào cũng nắm quyền sinh sát nhân loại.
Trong cuộc chiến Ðông Dương lần thứ hai 1955-1975, cộng sản quốc tế Hà Nội đã
thu được nhiều thắng lợi qua hai hiệp định Genève 1954 và Ba Lê 1973. Cả hai đều
giả mạo do ngoại bang dàn dựng trước cái gọi là tố chức Liên Hiệp Quốc, bất xứng
vô thực. Ðây mới chính là một trong những yếu tố then chốt, đã dẫn tới thảm kịch
VN mà theo các sử gia đều quy cho Kissinger, tội bán đứng VNCH cho cọng sản Bắc
Việt bằng đủ mọi cách dàn dựng lên một hiệp định hòa bình giả mạo, được ký ngày
27-1-1973 tại Ba Lê. Tất cả vở hài kịch trên từ đầu tới cuối chỉ do Hoa Thịnh Ðốn
và Hà Nội tự soạn tự diễn mà không hề đếm xỉa tới dân tộc VN.
Sau năm 1975, tất cả âm mưu đen tối trên lần lượt bị lột trần ra ánh
sáng, qua các tác phẩm do chính những nhân vật có liên quan kể lại trong ” Bí mật
Dinh Ðộc Lập của tiến sĩ Nguyễn tiến Hưng”, “ Những lá thư của Tổng Thống Nixon
gởi Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu”, “ Tài liệu của Giáo Sư Stephen Young, chuyên
gia tại Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ”, “ Hồ sơ mật của Hoàng Ðức Nhã, cựu Tổng trưởng Dân
Vận Chiêu Hồi kiêm Bí Thư của TT.Thiệu” và mới nhất là tác phẩm “ No peace no
honor của Sử gia Larry Berman “.Tất cả đều đồng thanh gay gắt lên án và luận tội
Nixon-Kissinger, đã lường gạt cũng như phản bội dân chúng Hoa Kỳ và VNCH.
Tuy nhiên xác thực hơn hết cũng vẫn là những lời tuyên bố huênh hoang sau
năm 1975 của Lê Ðức Thọ, Nguyễn thị Bình, Lưu văn Lợi, Nguyễn Anh Vũ.. và chính
miệng Kissinger qua những hồi ký đã xuất bản như Năm tháng ở Bạch Cung (1979),
Niên đại sóng gió (1982) thế nhưng mai mỉa nhất vẫn là Bí Lục Kissinger (The
Kissinger Transcripts), trong đó ngoài Ðông Dương bị bán đứng, cả Liên Xô cũng
là nạn nhân bi thảm trong canh bạc thời chiến tranh lạnh giữa Mỹ-Trung-Nga.
Ngày nay qua sự sụp đổ của chủ nghĩa cọng sản, mặt thật của Bắc Việt đang
đô hộ VN và cái liêm sỉ của đống núi sách vở trong và ngoài nước viết về cuộc
chiến VN, phần lớn nhắm mắt theo tài liệu tuyên truyền của Việt Cộng có sẵn khắp
các thư viện quốc tế. Bao nhiêu đó cũng đủ cho ta thẩm định về tính chất phiến
diện thiếu công bằng của một số trí thức có bằng cấp cao nhưng cạn kiệt hồn nước
và tình người.
Cũng từ đó để chúng ta, những người dân đen đến lúc phải tỉnh mộng, chấm dứt việc
giao phó trách nhiệm đối với non nước và sinh mệnh mình cho bất cứ ai không xứng
đáng và tín nhiệm, dù họ đang nhân danh bất cứ một thứ gì. Càng nhớ càng thêm
thê thảm tủi nhục cho chính bản thân mình, một dân tộc nhược tiểu, luôn bị bán
đứng và dầy vò trong suốt thế kỷ, qua hai cái vỏ quốc gia rồi cọng sản. Bao
chuc năm rồi nhưng không bao giờ quên được lời tuyên bố chát chua máu lệ của
ông Trần Kim Phượng, đại sứ VNCH tại Hoa Thịnh Ðốn ngay lúc xe tăng Bắc Việt tiến
vào Dinh Ðộc Lập trưa 30-4-1975 :” Làm đồng minh với Mỹ chỉ có chết, tốt hơn
nên làm bạn với cọng sản , ít ra còn được che chở và giúp đỡ “.Ðây là lời cảnh
tỉnh tha thiết nhất cho những ai còn muốn nhờ ngoại bang để quang phục đất nước.
Cuộc chiến Ðông Dương lần thứ hai 1955-1975 kết thúc là thế đó, hơn 60.000 quân
nhân Mỹ và Ðồng Minh bỏ mạng, nhiều người khác bị thương, một trăm năm mươi tỷ
mỹ kim tiền thuế của dân chúng Mỹ , đổi lấy sự sụp đổ của VNCH bằng một hiệp định
chẳng danh dự, do chính Kissinger đạt được. -/-
TÀI LIỆU THAM KHẢO :
-văn kiện của UB Liên lạc phục hồi thể chế VNCH
-Bí mật Dinh Ðộc Lập của TS.Nguyễn Tiến Hưng
-Kissinger đã bán đứng VNCH cho Hà Nội của TS
Stephen Young
-Không hòa bình, chẳng danh dự của Larry Berman,
Nguyễn Mạnh Hùng dịch
Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng 1-2016
Mường Giang
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết