KHÔNG AI
BIẾT HỌ LÀ NGƯỜI NGU NẾU HỌ BIẾT IM LẶNG
Kim Âu
Tấm
khăn đen bịt mắt tử tội
Hiệp
định Paris 27-1-1973
Những ngày cuối năm 2012,
trang web BBC đưa tin tập đoàn Bắc Bộ Phủ tiến hành lễ kỷ niệm 40 năm "Điện
Biên Phủ trên không" qua đó cũng nhắc đến Hiệp Định Paris 1973 Về Việt
Nam được ký kết hơn ba tuần sau khi chiến dịch Linebacker II chấm dứt.
Đọc những bài văn sặc mùi
tuyên truyền tổng hợp từ những bài viết tạp nham trên báo Việt Cộng ở miền Bắc
từ mấy chục năm trước và những bản tin trong nước đăng trên trang mạng, người
ta đều nhận thấy hiện trạng bế tắc, tiến thối lưỡng nan, thù bạn khó biết trong
chính trị, ngoại giao và quân sự của tập đoàn cộng sản Bắc Bộ Phủ hiện nay.
Những bài báo này kéo chúng
tôi trở lại với quá khứ, khoảng 40 năm về trước, khi chúng tôi còn đầu
xanh tuổi trẻ, ngồi đọc những bài báo nói về “trận Điện Biên Phủ trên không”
trên tờ Nhân Dân trong lúc đang “học tập trao đổi trao trả”, lòng đầy thù hận,
xăm soi từng dòng chữ để tìm cách suy diễn nhằm củng cố lý luận cho phù hợp với
thực tế rồi lại trăn trở chờ đợi tin đình chiến ở trại sơ tán Tân Lập, Vĩnh
Phú.
Thời gian tiếp theo, những
người tù binh VNCH và Mỹ ở Bắc Việt đã đón tin đình chiến vào ngày 27 tháng
giêng năm 1973, dĩ nhiên là với hy vọng tràn trề nhưng niềm vui bột phát rồi chững
lại vì những bất trắc khôn lường khi còn nằm trong đất giặc vẫn phải đối diện đủ
thứ mưu mô tráo trở, hèn hạ của bọn cộng sản…
Sau khi di chuyển từ trại
Tân Lập về trại Hà Tây, tình cờ hội ngộ với ông Nguyễn văn Đãi, Đại Biểu Hành
Chánh vùng I Chiến Thuật, anh Bảo Lộc Phó Tỉnh Trưởng Thừa Thiên vài ngày rổi
cùng chuyển vào trại Ba Sao được hơn tuần, bản thân tôi lập tức phải trả giá
cho những hành động chống đối ngấm ngầm lẫn công khai trong quá khứ mấy năm tù
tội.
Chiều 30 tết năm Nhâm Tý
(1972- 1973), sau khi hiệp định vừa ký gần tuần lễ, đoàn công tác của Bộ Nội Vụ
VC ra lệnh tách tôi khỏi nhóm tù tứ xứ mới tập hợp về trại Ba Sao, Kim Bảng,
Nam Hà đưa đi biệt giam. Nằm tại khu vực cấm cố biệt lập ngay trên ngọn đồi
nhìn xuống nhà kho trại Ba Sao. Tôi đọc đi, đọc lại toàn văn điều khoản (8a)
trong Hiệp Định Paris nói về trao trả; theo dõi việc thực hiện qua hình ảnh những
đợt phi công Mỹ được hồi hương ở Gia Lâm đăng trên báo Nhân Dân, Quân Đội Nhân
Dân của VC, rồi tự trấn an bằng cách cố gắng tưởng tượng ra một tương lai lạc
quan nhất cho bản thân. Nhưng chuyện đó đã không bao giờ xảy ra. Thay vì trở lại
cùng với những bạn tù, được trả về với chính thể VNCH; tôi được bọn VC đày lên
một vùng cao nguyên, cao nhất nước Việt Nam, cao hơn mực nước biển đến mấy
nghìn mét thuộc vùng Tây Côn Lĩnh, Hà Giang - trại Cổng Trời –.
Đây là một trường hợp trắng
trợn duy nhất, cộng sản tung ra một đòn chí tử phủ chụp tâm hồn, tư tưởng và thể
xác của người tù đơn độc ở miền Bắc.. nhằm đè bẹp ý chí phản kháng của những
người tù còn lại.
Đình chiến
mà không được trao trả thì những người tù binh chỉ còn chờ chết dần, chết mòn
trong vô vọng.Và sự thật chúng tôi đã chết theo mệnh nước, chết theo thể chế
VNCH ngày 30-4-1975. Nhưng trong sự đổ vỡ kinh hoàng, con người cũ đã tái sinh
để cùng chia sẻ một hành trình mới khổ nhục và đau đớn của một dân tộc bị phản
bội….
Cách đây mười năm, nhân dịp
30 năm Hiệp Định Paris về Việt Nam chúng tôi đã viết trong bài “Không Thề Nào
Quên” với đoạn kết như sau:
“Bao nhiêu gian khổ, nhục
hình đã qua từ ngày đó. Hiệp Ðịnh Paris về Việt Nam chẳng có chút hiệu lực nào
đến với anh em Gián Ðiệp Biệt Kích chúng tôi.
Và tất cả những nhận biết
của chúng tôi về bản Hiệp Ðịnh này đều thông qua những trích đoạn trong một số
bài đăng trên báo Nhân Dân và Quân Ðội Nhân Dân của bọn Cộng Sản nhằm vu khống
và bêu riếu chế độ Việt Nam Cộng Hòa....
Sau này, khi ra khỏi trại
giam rồi qua đến Hoa Kỳ. Nghiên cứu kỹ lưỡng nhiều tài liệu được giải mật và những
văn tự của Hiệp Ðịnh cùng với những biến động thực tế của lịch sử. Tôi nhận thấy
quả tình Hiệp Ðịnh này là một vết nhơ không thể bôi xóa và cũng là một cái nhục
cho các quốc gia đã ký vào bản Ðịnh Ước.
Trong bốn bên ký kết bản
Hiệp Ðịnh ngày 27 - 1 - 1973 ngày hôm nay chỉ còn hai.
Hiệp định Paris về Việt
Nam!
Ðó là kết thúc đáng buồn
cho những lời cam kết, hứa hẹn của Hoa Kỳ sau khi đã tìm đủ mọi cách, kể cả sát
hại Tổng Thống Ngô Ðình Diệm để nhằm mục đích đưa quân vào chiến đấu tại Việt
Nam.
Tiến sĩ Henry Kissinger,
như người ta thường ca tụng là một nhà ngoại giao lỗi lạc nhưng thật ra theo
tôi, hắn chỉ là một thứ thuyết khách mạt hạng nhất tự cổ chí kim.
Ngoại giao mà đi thương
thuyết để rồi xóa bỏ hết thành quả xương máu của hơn 58.000 quân nhân Hoa Kỳ đã
hy sinh để bảo vệ thành trì của thế giới tự do. Ðó là chưa kể đến tính mạng của
những quân nhân các nước Ðồng Minh khác và hàng triệu quân cán chính Việt Nam Cộng
Hòa.
Ðấu trí mà không hiểu rõ
đối phương đến nỗi hậu quả là cho tới ngày hôm nay còn chưa biết rõ tông tích
bao nhiêu người Mỹ bị giữ làm con tin không trao trả.
Thương thuyết để bức tử cả
một quốc gia đồng minh thừa quyết tâm chống Cộng như Việt Nam Cộng Hòa để chiều
theo ý đối phương như vậy nếu nói là tài năng xuất sắc thì ắt hẳn cần phải xem
xét lại....
Henry Kissinger cùng “ê
kíp “cầm quyền tại Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ và bọn phản chiến thuở ấy đã vay một
món nợ “Máu và Danh Dự” không biết bao giờ mới trả lại được cho dân tộc Việt
Nam chứ đừng nói rằng chúng ta phải thọ ơn họ.
Gần ba thập kỷ đổ xương
máu để chặn đứng làn sóng Ðỏ tại Ðông Nam Á là chiến công vĩ đại của dân tộc Việt
Nam. Chính sự sụp đổ của chúng ta đã trở thành bài học giúp cho các quốc gia
trên thế giới thấy rõ giá trị của Ý Thức Hệ Tự Do để kịp thời củng cố, tồn tại
và chiến thắng cộng sản.
Chính dân tộc Việt Nam đã
chịu nạn cho Thế Giới và cứu rỗi cho Nhân Loại...
Mặc dù cơn sóng dữ đã làm
vỡ đập nhưng sức của cơn lũ đã yếu không còn bao nhiêu tác hại.
Sau Nixon, tổng thống
Reagan có tạo nên nhiều biến đổi về chiến lược dẫn tới sự sụp đổ của khối Cộng
nhưng cho đến nay dân tộc Việt Nam vẫn còn chìm đắm trong kiếp sống mông muội
dưới sự cai trị hà khắc của Cộng Sản.
Hầu như Việt Nam ngày nay
đã trở thành một quá khứ, một món nợ không ai còn muốn nhắc tới..... nhưng Cuộc
Chiến Tranh Việt Nam đã đi vào lịch sử.... Món nợ lịch sử vẫn còn đó. Thất bại ở
Việt Nam là thất bại của Chủ Nghĩa Thực Dụng Phản Trắc của Hoa Kỳ mà dân tộc Việt
Nam chính là nạn nhân.
Hiệp Ðịnh Paris về Việt
Nam là một kết thúc Không Có Hòa Bình và cũng Chẳng Có Danh Dự như ai đã từng
cao rao.
Thế mà vẫn có kẻ kêu đòi
chúng ta phải“Tây Phương Hóa”.
Tây phương ư ! Xin nhìn kỹ
lại! Chẳng có chính nhân và cũng không có quân tử.
Chỉ có nền văn hóa của
DÂN TỘC chúng ta mới thực sự tạo ra những “kẻ sĩ “ biết trọng tín nghĩa, cương
thường./.”
Trong phạm vi một bài làm nền
mỗi tuần cho tờ tuần báo Chính Nghĩa chúng tôi chỉ ngắn gọn bởi có dài dòng chi
li, khúc chiết thêm bằng vô ích.
Sau một giai đoạn ồn ào rồi
lắng xuống vì những ý tưởng phi thực tế, thời gian gần đây một nhóm người lại rộ
lên việc đòi khôi phục Hiệp định Paris 27-1-1973. Những nhóm người này chắc chắn
mắc bệnh hoang tưởng, háo danh, hay định mưu đồ trục lợi khi họ luôn luôn tái
diễn sự ngu xuẩn cũ rích qua những hành xử phường tuồng, bày vẽ ra những trò ngớ
ngẩn vì những màn hề như vậy không thể đạt tới một kết quả nào.
Công luận đã có phản ứng..
Ông Nguyễn Quốc Khải với hai bài liên tiếp đã nói lên được, chứng minh được
tính chất bất khả thi, hoang tường của việc kêu gọi khôi phục Hiệp Định Paris
1973. Tiếp theo là bài của ông Lê Quế Lâm trích dẫn, tổng hợp tài liệu để dẫn
chứng trường giang đại hải với kết cuộc chỉ là một sự quy trách chủ quan.
Nếu không có bài viết của những
vị này, chúng tôi cũng phải lên tiếng trong tư cách một trong những người nằm
trong bóng tối lịch sử của chiến tranh Việt Nam, nạn nhân trực tiếp của sự phản
bội từ tất cả các phía, đặc biệt là sự ngu dốt của những người làm trách nhiệm
liên quan đến Hiệp Định Paris 1973 thuộc phía Việt Nam Cộng Hòa và Hoa Kỳ.
Đối với
chúng tôi bản Hiệp Định Paris về Việt Nam 27-1-1973 chỉ là một sản phẩm
rác rưởi của lịch sử, chúng tôi sẽ viết trong phần sau, trước tiên chúng tôi
xin đi vào xem xét việc thực hiện, thi hành một chương rất quan trọng của Hiệp
Định Paris 1973, đó là chương ba III trích dẫn dưới đây để mọi người tham chiếu.
TRÍCH:
Chương III: VIỆC TRAO TRẢ
NHÂN VIÊN QUÂN SỰ BỊ BẮT, THƯỜNG DÂN NƯỚC NGOÀI BỊ BẮT VÀ NHÂN VIÊN DÂN SỰ VIỆT
NAM BỊ BẮT VÀ GIAM GIỮ
Điều 8:
a) Việc
trao trả những nhân viên quân sự của các bên bị bắt và thường dân nước ngoài của
các bên bị bắt sẽ tiến hành song song và hoàn thành không chậm hơn ngày hoàn
thành việc rút quân nói trong Điều 5. Các bên sẽ trao đổi danh sách đầy đủ những
nhân viên quân sự và thường dân nước ngoài của các bên bị bắt nói trên vào ngày
ký kết Hiệp định này.
b) Các
bên sẽ giúp đỡ nhau tìm kiếm tin tức về những nhân viên quân sự của các bên và
thường dân nước ngoài của các bên bị mất tích trong chiến đấu, xác định vị trí
bảo quản mồ mả của những người bị chết, nhằm tạo điều kiện dễ dàng cho việc cất
bốc và hồi hương hài cốt và có những biện pháp khác cần thiết để tìm kiếm tin tức
những người còn coi là mất tích trong chiến đấu.
c) Vấn đề trao trả các nhân viên dân
sự Việt Nam bị bắt và giam giữ ở miền Nam Việt Nam sẽ do hai bên miền Nam Việt
Nam giải quyết trên cơ sở những nguyên tắc của Điều 21(b) của Hiệp định đình chỉ
chiến sự ở Việt Nam ngày hai mươi tháng bảy năm một nghìn chín trăm năm mươi
tư. Hai bên miền Nam Việt Nam sẽ làm điều đó trên tinh thần hòa giải và hòa hợp
dân tộc, nhằm chấm dứt thù hằn, giảm bớt đau khổ và đoàn tụ các gia đình. Hai
bên miền Nam Việt Nam sẽ gắng hết sức mình để giải quyết vấn đề này trong vòng
chín mươi ngày sau khi ngừng bắn có hiệu lực.
HẾT TRÍCH
Trong lĩnh vực chính trị ,
quân sự, ngoại giao xét theo thực tế của lịch sử nhân loại một Hiệp Định, Hiệp Ứơc,
Hòa Ứơc chỉ có giá trị khi cán cân lực lượng và ý chí của các phía tạm gọi
là thăng bằng. Nếu có những sự việc mới nảy sinh, chi phối khiến tình trạng
thăng bằng bị mất đi, đương nhiên hiệp định bị xé bỏ. Vì thế khi ký kết hiệp định
việc trước tiên là chấm dứt chiến sự, rút quân theo kết ước và giải quyết vấn đề
tù binh quân sự và nhân viên dân sự nhanh chóng do đây là VẤN ĐỀ VÔ CÙNG QUAN
TRỌNG THỂ HIỆN TINH THẦN ĐỒNG ĐỘI VÀ Ý CHÍ ĐOÀN KẾT TRONG MỘT QUỐC GIA nhưng
phía VNCH đã không làm được.
Đại tá Nguyễn
văn Thọ và nhóm sĩ quan tham mưu bị đưa ra họp báo
Căn cứ vào thực tế lịch sử,
thế chế Việt Nam Cộng Hòa từ
Tổng Thống và những người lãnh đạo Việt Nam Cộng Hòa, Bộ Tổng Tham Mưu, Bộ
Quốc Phòng QLVNCH, đã thiếu sót, đã vô trách nhiệm, bỏ rơi hoàn toàn những
tù binh quân sự, dân sự của Việt
Nam Cộng Hòa bị địch giam giữ ở Miền Bắc. Đối diện với kẻ thù xảo
quyệt Việt Cộng những người phụ trách bàn thảo trao trả, tiếp nhận của Việt Nam Cộng Hòa và Hoa Kỳ trong
Uỷ Ban Liên Hiệp Bốn Bên chỉ là những chú cừu non trước đàn cáo dữ.
Sáu mươi ngày điều 8a hiệp định
về trao đổi, trao trả đang có hiệu lực, thay vì phía Việt Nam Cộng Hòa phải cử người
có mặt đến Bắc Việt tìm hiểu, đòi hỏi điều tra các trại giam tù binh ở Bắc Việt,
phải sưu tra để có bản danh sách tối thiếu yêu cầu đối phương đáp ứng. Mỗi khi
có đợt trao trả các bên phải bàn vào chi tiết, giữ nguyên tắc công bằng như “một
đổi một” không giao người nhiều cho đối phương. Số dư giữ lại phòng hờ dành cho
việc khác hoặc phóng thích khi cần tuyên truyền cho mục đích nhân đạo. Nhưng thực
tế tuyệt nhiên không có chỉ thấy giao nhận rất chiếu lệ.
Phía Việt
Nam Cộng Hòa chỉ có một sự việc người thời đó cho là nổi nang, đắc ý nhất là
chuyện ba anh sĩ quan “cả ngố” Phạm Huấn, Đinh Công Chất, Dương Phục trong
Ủy Ban Liên Hiệp Bốn Bên ra tận Hà Nội tham dự bưổi trao trả tù binh Hoa
Kỳ, khi về đến Sài Gòn, Phạm Huấn chụp được một vài tấm hình đăng báo, viết
lách lăng nhăng vớ vẩn, chê bai thành phố Hà Nội, chuyện mà ai cũng biết từ
khuya, rồi khoe việc anh ta đã ủy lạo tinh thần bằng cách tán dương một tù binh
Phi Công Mỹ: (tôi đã nghiêm trang nói với họ : “Các anh
là những anh hùng của nước Mỹ, các anh đã hy sinh cho sự đứng vững của VNCH và
cả thế giới tự do nữa”. Người tù binh Mỹ đang xát xà bông đã đứng
nghiêm chào tôi theo quân cách, những giây phút này muôn vàn xúc động.) rồi
khi diễn kịch phỏng vấn về tù binh Việt Nam Cộng Hòa đọc nguyên văn câu hỏi
và câu trả lời của anh bồi bút Phạm Huấn thấy chua chát cho số phận những người
tù binh Việt Nam Cộng Hòa đang nằm trong nhà tù của Việt Cộng ở Bắc Việt : (-
Hồi nãy anh Phạm Huấn có nói về chuyến đi thăm anh em tù binh Mỹ ở Hỏa Lò tôi
thắc mắc là ở đó có anh em quân đội mình bị bắt giữ hay không ?
- Tôi
không thấy bóng dáng một chiến hữu nào của ta bị họ giam giữ ở đó cả.) (thật sự thời gian đó ở Hỏa Lò có
hai phi côngViệt Nam Cộng Hòa là Phan Thanh Vân và Nguyễn Quốc Đạt. Mấy
anh cả ngố Phạm Huấn, Đinh Công Chất, Dương Phục làm sao mà biết được).
Tất cả hoạt động của chính
thể Việt Nam Cộng Hòa trong
cuộc đấu tranh đòi hỏi trao trả những người của quân đội và dân sự Việt Nam Cộng Hòa bị phía Bắc Việt
giam cầm chỉ có thế nên xem như phía Việt Nam Cộng Hòa hoàn toàn thua
thiệt. Bộ phận làm công tác này ngu đẩn đến nỗi lần trao trả, trao đổi tù binh
nào phía Việt Nam Cộng Hòa nhận được rất ít người của mình trong khi thả tù
binh Việt Cộng về đông gấp hàng chục lần.
1200 tên Việt Cộng ác ôn đổi được có ba người của mình
khiêng về trên cáng
Thậm chí lần trao trả cuối
cùng vào ngày 21/3/1973 ở sông Thạch Hãn, bên Việt Nam Cộng Hòa thả 1200 tên Việt
Cộng ác ôn nhưng chỉ nhận được có ba người của mình khiêng về trên cáng.
Tổng kết việc thi hành Hiệp Định Ba Lê 1973 về trao trả nhân viên dân sự-quân sự
bị bắt và giam giữ (Chương 3, điều 8, khoản a,b và c), trong 4 đợt từ ngày 12
tháng 2 năm 1973 đến ngày 7 tháng 3 năm 1973, phía chính quyền miền Nam Việt Nam Cộng Hòa đã trao trả cho
phía Việt Cộng (gồm Cộng Sản Bắc Việt và bọn Cách Mạng Lâm Thời) 31.961 tên cả
nam lẫn nữ (gồm 26.880 cán binh và 5.081 tù chính trị).
Việt Cộng chỉ trao trả cho
chính quyền Việt Nam Cộng Hòa 5.428 viên chức-quân nhân. Chúng trắng trợn
không nhận giam giữ các tù binh Biệt Kích nhẩy toán ra Bắc, những người bị bắt
trong Tết Mậu Thân, tù binh Việt Nam Cộng Hòa trong chiến dịch Lam Sơn 719
Nam Lào và khắp các chiến trường quan trọng ở Miền Nam đưa ra miền Bắc.
Thực tế
cho thấy trừ một số hẩm hiu chết vì bệnh tật trong chế độ nhà tù tàn ác, mọi rợ
của Việt Cộng, tất cả những người tù binh bị bỏ rơi này đều trở về sau khi miền
Nam tiêu vong hàng chục năm và không có ai đầu phục cộng sản. Những người này
thực sự đã bị đồng đội và chính thể Việt Nam Cộng Hòa phản bội một cách tàn nhẫn
do thành phần lãnh đạo ngu xuẩn, bất tài, vô trí.
Đấu tranh trực diện với kẻ
thù qua một bản hiệp định văn ngữ minh bạch còn thua sát ván, chẳng hiểu ngày
hôm nay những anh luật sư không hành nghề còn mơ mộng khôi phục Hiệp Định Paris
27-1-1973 làm gì? Trong khi đối với chúng tôi Hiệp định Paris về Việt Nam chỉ
là bức tranh “hòa bình trong danh dự” giả tạo của Kissinger và Nixon vẽ ra để lừa
dối dân chúng Hoa Kỳ và nhân loại. Đối với đồng minh Việt Nam Cộng Hòa thực tế
cho thấy bản hiệp định này chỉ là miếng vải đen bịt mắt tử tội Việt Nam Cộng Hòa trước khi đưa
lên đoạn đầu đài.
Như chúng tôi đã nói ở phần
trên: Tất cả mọi hiệp ước, hòa ước, các cam kết, định ước chỉ tồn tại, có giá
trị khi cán cân lực lượng thăng bằng. Ngày nay Người Việt Hải Ngoại lấy đâu ra
thực lực để sắm vai đối trọng với VC vốn tôn sùng bạo lực khủng bố, chủ xướng
phát động đấu tranh giai cấp.
Hơn ai hết những người hiểu
biết về luật pháp chưa cần là "luật gia!!!" đều hiểu rằng một sự việc
muốn đạt tới thành công đòi hỏi rất nhiều điều kiện không phải chỉ riêng “TÍNH
HỢP PHÁP” mà còn phải đáp ứng được tối thiểu là TÍNH HỢP LÝ.
40 năm trước, bản Hiệp Định Paris Về
Việt Nam “CHỈ LÀ MỘT TRÒ LỪA ĐẢO” để đạt mục đích nhất
thời của Hoa Kỳ, giá trị của bản hiệp định đối với Hoa Kỳ không hơn mấy tờ giấy
vệ sinh; sau khi đã dùng xong (vứt vào bồn cầu, kéo nước). Đối với nền đệ nhị Việt Nam Cộng
Hòathì đó là bản án tử hình tiệm tiến. Vậy thử hỏi ngày hôm nay đám người kêu gọi
đòi khôi phục lại Hiệp Định Paris 27-1-1973 có phải là quá sức ngốc nghếch hay
không?
Tại sao chúng tôi dám nói Hiệp
Định Paris Về Việt Nam 27-1-1973 chỉ là một trò lừa đảo của Hoa Kỳ và Việt Cộng
vì ngay trong thời gian ngắn ngủi ở bên nhau tại Ba Sao, những người thuộc Việt
Nam Cộng Hòa bị Việt Cộng giam giữ đã nhìn thấy sự bất hợp lý và tính mong manh
của bản Hiệp Định.
Trong tác phẩm “Ánh Sáng và Bóng Tối” Nhà văn Hoàng
Liên, bút hiệu của cụ Nguyễn văn Đãi, Đại Biểu Hành Chánh vùng I Chiến Thuật bị
bắt vào Tết Mậu Thân và đưa ra Bắc đã ghi lại những ý kiến bàn bạc giữa những
người tù với nhau: Tôi thấy hiệp định này bất lợi cho Việt Nam Cộng
Hòa. Cứ duy trì quân đội giải phóng miền Nam, nghĩa là quân đội miền Bắc,
cho chúng đóng tại chỗ, thì chúng sẽ tiếp tục phá hoại….…. hiệp định này chỉ là
giải pháp tạm thời……tình hình sẽ trở nên phức tạp……ký kết hiệp định là một việc,
tôn trọng hiệp định là một việc khác….. Mình bắt của chúng nó khá nhiều người.
Chúng nó phải thả người của chúng ta về, chúng ta mới thả người của chúng nó……
Những ý kiến đấy cho thấy Hiệp
định Paris về Việt Nam là một bản hiệp định đáng phỉ nhổ mà phía Việt Nam Cộng
Hòa đã ký vào. Quá đủ rồi các vị lãnh đạo thối tha của Việt Nam Cộng Hòa còn sống sót và những
luật gia chuyên nghề nói phét. Nếu quý ngài chỉ cần nghĩ được như những người
tù Việt Nam Cộng Hòa ở Bắc Việt năm 1973. Chưa chắc 30 – 4- 1975
Việt Cộng đã vào được Sài Gòn.
Việc quốc gia đại sự, tranh
quyền cướp nước, quyết định sống chết, vinh nhục của hàng triệu gia đình, là sự
tồn vong của cả một đất nước, dân tộc mà hoàn toàn do ngoại bang quyết định cho
thấy Việt Nam Cộng Hòa là
một quốc gia mất tự chủ, lệ thuộc vào ngoại bang để tồn tại thì thành phần lãnh
đạo chỉ là một lũ tay sai.
Trong cuộc chiến ở Việt Nam
cả hai tập đoàn lãnh đạo ở Miền Bắc cũng như Miền Nam đều là những tập đoàn thừa
sai của các thế lực quốc tế. Hiển nhiên nếu không có vũ khí của Mỹ và Nga
Sô, Trung Cộng thì người Việt Nam chỉ có thể giết nhau bằng súng hỏa mai, thần
công "uống thuốc bắc", tầm vông vạt nhọn và mã tấu.
Đại tướng Cao Văn Viên đã
viết: “Chúng ta không có trách nhiệm về chiến tranh. Trách nhiệm về cuộc chiến ở
đây là của người Mỹ. Chính sách đó do họ đề ra, chúng ta chỉ làm theo họ mà
thôi!”.
Bởi lệ thuộc vào viện trợ của
Hoa Kỳ nhưng không chịu nghe lời Hoa Kỳ nên hai anh em Ngô Đình Diệm phải chịu
thảm tử. Khi bọn tướng phản loạn ngửa tay nhận tiền của Mỹ để làm binh biến là
cánh cửa hỏa ngục đã mở. Việt Nam nhanh chóng biến thành nơi tiêu thụ vũ khí,
bom đạn thặng dư từ đệ II Thế Chiến và thí nghiệm vũ khí mới. Hoa Kỳ hí hửng, hấp
tấp đến nỗi Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ tự động đổ bộ vào Đà Nẵng trước
khi Phan Huy Quát buộc phải sai Bùi Diễm viết văn bản hợp thức hóa.
Nguyễn Văn Ngân, nguyên
trợ lý đặc biệt của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu, đã nhận xét:
"Người Mỹ đã thay thế Pháp với chính sách thực dân mới. Vào thế kỷ 19, người
Pháp nhân danh khai hóa để khai thác tài nguyên thuộc địa, nay người Mỹ nhân
danh dân chủ để khai thác xương máu người Việt trong việc thiết lập một
"tiền đồn chống Cộng" tại Đông Nam Á. Người Mỹ đến Việt Nam không vì
quyền lợi người Việt Nam mà vì quyền lợi người Mỹ. Nền dân chủ mà người Mỹ tán
dương khi can thiệp vào Việt Nam là nền dân chủ được định nghĩa trong quyền lợi
của Mỹ, một thứ phó sản được dùng làm bình phong để thực hiện chính sách chia để
trị, thiết lập đạo quân thứ năm, khuyến khích tình trạng vô chính phủ, nội loạn…
để dễ bề khuynh loát và khi cần thiết để thực hiện các cuộc đảo chính và ám sát
lãnh tụ quốc gia bằng bàn tay của các tay sai bản xứ. Chính sách viện trợ hoàn
toàn có tính cách tiêu thụ đã được sử dụng như lưỡi gươm Damoclès... chỉ nhằm mục
đích làm tê liệt ý chí đề kháng và nô lệ hóa.
Nhìn lại diễn trình lịch sử
hai nền Cộng Hòa ở miền Nam, nhận xét trên hoàn toàn không có gì sai. Đó là
nguyên nhân tại sao thể chế của Nguyễn văn Thiệu trước đây đã nhắm mắt ký vào bản
án tử hình cho nền Đệ Nhị Cộng Hòa là bản hiệp định Paris về Việt Nam 27-1-1973.
Hoa Kỳ không ngu để bị lừa
khi thừa nhận Mặt Trận Ác Ôn Côn Đồ Giải Phóng Miền Nam Việt Nam vốn chỉ là phó
sản của VC dựng lên để thi hành kế hoạch chiếm nốt miền Nam. 80% lực lượng cộng
quân tham chiến ở miền Nam là quân đội Bắc Việt. Để nguyên cục bướu ung thư này
ở miền Nam, tốt hơn không nên ký hiệp định để khỏi phải thực thi hiệp định.
Cộng sản ký hiệp định với mục
đích đuổi người Mỹ ra khỏi Đông Dương. Hoa Kỳ ký hiệp định là “bỏ con săn sắt,
bắt con cá rô”.Vấn đề vũ khí thặng dư đã giải quyết xong. Cánh cửa thâm nhập
vào thị trường Hoa Lục đã mở. Tuy nhiên Hoa Kỳ phải tạo cho Việt Nam thống nhất
sớm để chuẩn bị cho thời kỳ cả nước Việt Nam đánh thuê cho Hoa Kỳ trong tương
lai.
Phải ngồi vào bàn hội nghị,
Việt Nam Cộng Hòa đã lép vế khi bị Hoa Kỳ ép phải thừa nhận bọn MTDTGPMNVN.
Suốt thời gian bàn thảo Việt
Nam Cộng Hòa ở trong thế một chống bốn đó là Hoa Kỳ,Việt Cộng, Mặt Trận DTGPMNVN và dư luận phản chiến thế
giới.
Ký hiệp định xong Việt Nam Cộng
Hòa ở trong thế một chống năm, do có thêm “hội đồng” được Hiệp định chỉ rõ
trong chương IV, điều 12, khoản a, là “Hội đồng quốc gia hòa giải và hòa
hợp dân tộc”.
trích dẫn
Điều 12:
a) Ngay sau khi ngừng bắn,
hai bên miền Nam Việt Nam sẽ hiệp thương trên tinh thần hòa giải và hòa hợp dân
tộc, tôn trọng lẫn nhau và không thôn tính nhau để thành lập Hội đồng
quốc gia hòa giải và hòa hợp dân tộc gồm ba thành phần ngang nhau. Hội
đồng sẽ làm việc theo nguyên tắc nhất trí. Sau khi Hội đồng quốc gia hòa giải
và hòa hợp dân tộc nhậm chức, hai bên miền Nam Việt Nam sẽ hiệp thương để thành
lập các hội đồng cấp dưới. Hai bên miền Nam Việt Nam sẽ ký một hiệp định
về các vấn đề nội bộ của miền Nam Việt Nam càng sớm càng tốt, và sẽ làm hết sức
mình để thực hiện việc này trong vòng chín mươi ngày sau khi ngừng bắn có hiệu
lực, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân miền Nam Việt Nam là hòa bình, độc lập
và dân chủ.
b) Hội đồng quốc gia
hòa giải và hòa hợp dân tộc có nhiệm vụ đôn đốc hai bên miền Nam Việt Nam thi
hành Hiệp định này, thực hiện hòa giải và hòa hợp dân tộc, bảo đảm tự do dân chủ.
Hội đồng quốc gia hòa giải và hòa hợp dân tộc sẽ tổ chức tổng tuyển cử tự do và
dân chủ như đã nói trong Điều 9(b) và quy định thủ tục và thể thức của cuộc tổng
tuyển cử này. Các cơ quan quyền lực mà cuộc tổng tuyển cử đó sẽ bầu ra
sẽ do hai bên miền Nam Việt Nam thông qua hiệp thuơng mà thỏa thuận. Hội đồng
quốc gia hòa giải và hòa hợp dân tộc cũng sẽ quy định thủ tục và thể thức tuyển
cử địa phuơng theo như hai bên miền Nam Việt Nam thỏa thuận.
hết trích
Suy cho cùng vận nước mạt đến
thế là vì hậu quả của sự mất tự chủ do ý thức nô lệ và tinh thần vong bản
vọng ngoại, phản chủ, phản quốc thâm căn. Sau hiệp định Geneve 1954, lực lượng
quốc gia Việt Nam trở thành một hài nhi bệnh tật sống nhờ vào nguồn sữa mẹ Hoa
Kỳ. Bà mẹ có cho bú thì em bé mới ngủ yên, thiếu sữa thì khóc thét lên giẫy giụa,
dứt luôn không cho bú nữa thì thở hơi cuối cùng.
Tính từ khi ký Hiệp định vào
ngày 27-1-1973 về sau, dù hòa hay chiến Việt Nam Cộng Hòa cũng không tồn tại.
Tuy nhiên chết theo kiểu không đánh mà chạy rồi kết thúc vào ngày 30- 4- 1975
quả là nhơ nhuốc.
Nhìn ra thế giới không phải
chỉ riêng trường hợp Việt Nam Cộng Hòa nằm trong cái nôi, núp dưới cái ô của Mỹ.
Đài Loan, Đại Hàn, Phillipines cũng nằm trong sự bảo trợ của Hoa Kỳ, quốc gia
nào cũng có sự qua phân Quốc Cộng nhưng để bị đánh bật gốc ra khỏi quê hương
không còn tấc đất cắm dùi chỉ có dân Việt Nam.
Một đất nước mà thành phần
lãnh đạo chỉ tranh ăn, phản chủ, giặc đến thì đào tẩu chạy theo ngoại bang, mà
thoi thóp đến 1975 cho thấy đã làm hao tổn tài nguyên đất nước qua việc hoang
phí biết bao xương máu, tính mạng của những người lính.
Ngày nay bọn này còn hoang
tưởng với giấc mơ khôi phục lại Hiệp Định Paris 27-1-1973.
Lịch sử không bao giờ đứng lại,
và thực tế dân tộc Việt Nam không bao giờ chấp nhận cộng sản, những
Người Việt Quốc Gia chân chính có thất cơ, lỡ bước lưu vong nhưng không lỗi đạo
với quốc gia dân tộc. Cuộc chiến Quốc Cộng chưa tàn, Lằn Ranh Quốc Cộng vẫn còn
đó. Tinh thần quốc gia dân tộc vẫn tiềm phục trong lòng người dân quốc nội chờ
đợi một ngày quật khởi, loại trừ chủ nghĩa Mác Lê, xóa bỏ chuyên chính vô sản,
khôi phục lại toàn vẹn đất nước.
Hiện trạng Việt Nam cho thấy chỉ có những cuộc nổi dậy
đồng bộ từ trong nước mới khả dĩ làm xoay chuyển tình thế, tạo ra một cuộc cách
mạng mới để phục hưng dân tộc và không có cuộc đảo chính nào từ các lực lượng
bên ngoài lật đổ được những nhà nước cộng sản, ngoại trừ những phân hóa và đối
đầu giữa các phe phái trong nội bộ của họ. Như thế rõ ràng “Tự Do, Dân Chủ và
Nhân Quyền cho Việt Nam” phải do chính dân tộc Viêt Nam tự quyết định lấy.
Chúng ta không nên nuôi huyễn tưởng rằng những cuộc đấu tranh cách một đại
dương này là mặt trận chính, quyết định được vận mệnh lịch sử của dân tộc Việt
Nam.
Lịch sử chúng ta có những cái tên từng nhờ ngoại bang
quyết định hộ vận mạng của dân tộc được lưu xú vạn niên như Trần Ích Tắc, Lê
Chiêu Thống. Thảm họa của dân tộc hiện nay không ngoài hậu quả của hành động
“rước voi về giày mả tổ” của Nguyễn Phúc Ánh đã tạo ra tư tưởng vong bản và nô
lệ vọng ngoại đến cùng cực. Hiện nay bọn cướp được nước thì muốn bán nước cho
Tàu, bọn bị mất nước chẳng có tấc đất cắm dùi lại muốn bán nước cho Mỹ. Khốn khổ
cho dân tộc Việt Nam, thời nào cũng bị bán đứng bởi những bọn nô lệ vọng ngoại.
Lịch sử đã
chứng minh không một đám ngoại nhân nào yêu thương đất nước, dân tộc của
chúng ta nếu chính chúng ta không biết yêu thương lấy đất nước và dân tộc của
mình. Dân tộc Việt Nam phải tự quyết định lấy vận mệnh của mình chứ không thể
van nài, cầu xin được trở thành quân cờ phục vụ cho lợi ích của ngoại bang và
những thế lực quốc tế./.
Kim
Âu
Không
Thể Nào Quên II
Jan
07/2013
* Hoa Kỳ đã chính thức có mặt ở Việt Nam từ ngày 16
tháng 7 năm 1944, nhóm OSS của Allison Thomas nhảy dù xuống an toàn khu Việt Cộng
ở khu vực lân cận làng Tân Trào (Kim Lũng) cùng hai thành viên người Mỹ trong đội
của anh là Prunnier, Zielski, hai người Pháp và một người Việt tên là Phác tiếp
theo là nhiều người nữa. Nhóm OSS này huấn luyện quân sự cho Việt Cộng nên xem
như cha đẻ của "Quân đội nhân dân" được khai sinh vào ngày
22-12-1944.
Thiếu tá Thomas trở thành bạn thân của Võ Nguyên Gíap
và Hồ Chí Minh đã cùng hành quân từ Tân Trào về Hà Nội ngày 16 tháng 8, Allison
Thomas và Võ Nguyên Giáp tấn công Thái Nguyên.Thomas đã nỗ lực giúp Võ Nguyên
Giáp buộc quân Nhật tại Thái Nguyên phải đầu hàng ngày 26 – 8 – 1944, khi Võ
Nguyên Giáp vào Hà Nội sớm từ ngày 21. Lúc đó Đại uý
Archimedes Patti cùng đội Mercy đáp xuống phi trường Gia Lâm vào Hà Nội trở
thành một trung tâm quyền lực của Đồng Minh. Archimedes Patti và Hồ Chí Minh
đã có một mối quan hệ thân thiết tại Côn Minh từ trước. Ngày 25-8-1945 Hồ
Chí Minh ghé thăm Thomas trước khi vào Hà Nội gặp Archimedes Patti ngày 26. Nhưng
sau hiệp định Geneve 20-7 1954, Hoa Kỳ mới chính thức can dự sâu vào Việt Nam
qua việc dựng lên lá bài Ngô Đình Diệm.
ĐỌC THÊM
----- Forwarded
Message -----
From: Christopher
To: "ChinhNghiaViet
Sent: Tuesday, August 22, 2017, 9:09:38 AM EDT
Subject: Re: [ChinhNghiaViet] SỰ TỒN TẠI CỦA VIỆT NAM
CỘNG HÒA
Chúng ta thử tưởng
tượng rằng văn bản Hiệp Định Geneve và Paris 1973 bị thiu, ối cần phải vứt bỏ.
Nhưng giấy mực lưu trữ trong tủ hồ sơ
làm sao thiu, ối, mục
rã ?
Ảo tưởng là sao vậy?
Ai, ảo tưởng đây?!
Không thuyết phục...
STOP PLEASE !
nguyenp
On Tuesday, August 22,
2017, 2:39:47 AM PDT, Gia Cat >
wrote:
TỘI NGHIỆP NHỮNG KẺ HOANG TƯỞNG. LỊCH SỬ KHÔNG BAO GIỜ ĐỨNG LẠI. MỘT CHẾ ĐỘ ĐÃ BỊ TIÊU VONG CHẮC CHẮN CHẲNG TỐT ĐẸP GÌ.
KHÔNG AI TIN BỌN "QUỐC
GIA LÂM NGUY CAO PHI
VIỄN TẨU"
TỔ QUỐC VIỆT NAM TƯƠNG LAI SẼ CÓ TỰ DO - DÂN CHỦ NHƯNG THỂ CHẾ ĐÓ KHÔNG BAO GIỜ LÀ VNCH HAY VIỆT CỘNG.
TỞ QUỐC VIỆT NAM LÀ CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM KHÔNG PHẢI LÀ CỦA VNCH HAY VIỆT CỘNG.
From: Dinh Mac
Sent: Monday, August 21, 2017, 11:46:08 PM EDT
Subject: [ChinhNghiaViet] Re: [PhungSuXaHoi] SỰ TỒN
TẠI CỦA VIỆT NAM CỘNG HÒA
|
On Monday, August 21,
2017, 6:42:25 PM PDT, Quang Nguyen >
wrote:
SỰ TỒN TẠI CỦA VIỆT NAM CỘNG HÒA
Tác giả: Thẩm phán Phạm Đình Hưng
Chánh thể và Quốc gia
Trong thời gian lưu vong ở hải ngoại, một số ít người Việt tị nạn cộng sản đã đơn giản nghĩ rằng Việt Nam Cộng Hòa đã chết sau ngày các sư đoàn của Bắc Việt cộng sản (nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa) đánh chiếm một quốc gia láng giềng là miền Nam Việt Nam, quốc hiệu Việt Nam Cộng Hòa. Họ muốn nói đến chánh thể Cộng Hòa (Republic) của miền Nam Việt Nam đã bị kẻ xâm lăng Bắc Việt, môt nước cộng sản ở trên vĩ tuyến 17, xóa bỏ và thay thế bằng một chế độ độc tài toàn trị do đảng Cộng Sản lãnh đạo từ 42 năm nay. Họ đã không phân biệt chánh
thể (political regime) với quốc gia (state).
Về mặt địa lý, Việt Nam Cộng Hòa là miền Nam Việt Nam có lãnh
thổ trải dài từ mũi Cà Mau đến vĩ tuyến 17 (sông Bến Hải). Về mặt chánh trị, Việt Nam Cộng Hòa là một quốc gia độc lậpđã được quốc tế công pháp minh thị công nhận: Hiệp định Genève ký kết ngày 20-7-1954 và Hiệp
định Paris ký kết ngày 27-1-1973 trước sự chứng kiến của Tổng Thơ Ký Liên Hiệp Quốc Kurt Josef Waldheim, môt nhà ngoại giao của nước Áo. Đến ngày nay, không có quốc gia nào đã ký kết hai hiệp định nầy, kể cả nước Việt Nam cộng sản, cáo bải (revoke) hiệp ước. Thời gian không làm mất hiệu lực của các hiệp ước, hiệp định và công ước quốc tế. Ngoài ra, Việt Nam Cộng Hòa còn là Quan sát viên thường trực Liên Hiệp Quốc, thành viên của một số Tổ chức Quốc tế và có quan hệ ngoại giao với trên 50 quốc gia trong Thế Giới Tự Do (Free World). Sự xâm lăng, chiếm đóng
và thôn tính miền Nam Việt Nam của quân đội nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Bắc Việt cộng sản) không thể tước bỏ quyền độc lập tự chủ của một nước láng giềng. Trong hoàn cảnh của một nước nhỏ bị xâm lăng và chiếm đóng
bằng bạo lực của súng đạn cộng sản, Việt Nam Cộng Hòa tức Nam Việt Nam sẽ tiếp tục mất độc lập và chủ quyền sau khi toàn bộ đất nước Việt Nam từ Bắc chí Nam, trên đất liền và ngoài Biển Đông (South China Sea), bị
sát nhập vào Trung Quốc năm 2020 căn cứ theo mật ước Thành Đô do hai đảng Cộng sản và Nhà nước Trung Quốc và Việt Nam lén lút ký kết năm 1990 để biến cải nước Việt Nam thành một phần lãnh thổ của nước Tàu. Hai cuộc Chiến Tranh Đông Dương do đảng Cộng Sản Việt Nam gây ra dưới sự chỉ đạo của Thiếu tá Tình báo Tàu Hồ Quang
đã có hậu quả hạ thấp cương vị của quốc gia Việt Nam từ một nước độc lập trở thành một tỉnh cũa Trung Quốc, một khu Tự trị như khu Tự Trị của dân tộc Choang trong tỉnh Quảng Tây hoặc môt quận trực thuộc tỉnh Quảng Đông
Mất độc lập và chủ quyển từ ngày 30-4-1975, Việt
Nam Cộng Hòa hiện nay vẫn là một thực thể chánh trị
(political entity) cỏn hiện hữu ở trong nước Việt Nam, tại Đông
Nam Á và trên thế giới mặc dầu đã bị một quốc gia
khác (Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa) xâm lăng, thôn tính và đô hộ. Nói tóm lại,
Việt Nam Cộng Hòa, nạn
nhân của một cuộc xâm
lăng do người đồng chủng chủ động theo chỉ thị của Nga-Hoa trong cuộc
Chiến Tranh Lạnh (1948-1989), chỉ mất độc lập và chủ quyền nhưng vẫn còn tồn tại trên
bình diện quốc tế công
pháp và trong thực tại ngày nay. Khi cần,
tôi sẽ đưa ra các dẫn chứng và chi tiết
để hậu thuẫn quan
niệm của tôi.
Thành lập thể chế Cộng Hòa
Tại miền Nam Việt Nam bao gồm Nam Phần (thủ đô Sài Gòn và 21 tỉnh) và
Trung Phần (các tỉnh duyên hải và trên cao nguyên), thể chế Cộng Hòa đã được thiết lập lần đầu tiên từ năm 1955 dưới thời cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, người khai sáng nền Đệ Nhứr Cộng Hòa xây dựng trên cơ sở Hiến pháp ngày 26-10-1956 do Quốc Hội Lập Hiến dân cử soạn thảo và biểu quyết. Trong khi quốc sách Ấp Chiến Lược và Khu Trù Mật đang
ngăn chận hữu hiệu sự xâm nhập ban đêm của cán binh cộng sản vào các thôn xóm hẽo
lánh, cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963 đã giựt
sập nền Đệ Nhứt Cộng Hòa và giết hại Tổng Thống Ngô Đình Diệm cùng bào đệ Ngô Đình Nhu, một chiến lược gia có kiến thức uyên bác. Sau gần 3 năm
xáo trộn chánh trị, nền Đệ Nhị Cộng Hòa đã được thành lập trên cơ sở Hiến pháp ngày 1-4-1967 do Quốc Hội Lập Hiến bầu cử ngày 11-9-1966 soạn thảo và chung quyết. Tôi đã được vinh dự tham gia công tác đúc kết
và thuyết trình trước Quốc hội khoáng đại để 117 Dân biểu thảo luận và biểu quyết trong tinh thần hoàn toàn tự do. Một hiến pháp tôn trọng nguyên tắc quân bình và kiểm soát hỗ tương giữa ba cơ quan Hành pháp, Lập pháp và Tư pháp đã được ban hành trong tình trạng
chiến tranh để đảm bảo nhân quyền và các quyền tự do dân chủ của nhân dân miền Nam Việt Nam. Ngoài ra, Hiến pháp còn thành lập Giám
Sát Viện, một định chế đặc biệt độc lập có thẩm quyền bài trừ tham nhũng, thẩm tra kế toán của tất cả các cơ quan công quyền và kiểm kê tài sản của tất cả viên chức, kể cả Tổng Thống.
Nhằm mục đích thuộc địa hóa miền Nam Việt Nam vô cùng trù phú, sự
xâm lược của Bắc Việt cộng sản đã có hậu quả cướp đoạt tài sản dồi dào của nhân dân miền Nam, đình chỉ thi
hành Hiến pháp Đệ Nhị Cộng Hòa, chấm dứt hoạt động của Nhà nước, Quân lực và các cơ chế hiến định, hủy bỏ tất cả các quyền tư do dân chủ, gián đoạn công vụ của toàn thể quân, cán, chánh Việt
Nam Cộng Hòa. Sự cưỡng chiếm miền Nam của 13 sư đoàn công sản Bắc Việt đã xóa bỏ thể chế Cộng Hòa của một quốc gia bị chiếm đóng. Từ ngày thất thủ do thiếu hụt phương tiện chiến tranh, miền Nam Việt Nam không còn là một quốc gia độc lập sau khi bị cưỡng bách sát nhập vào nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, hậu thân của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Bắc Việt cộng sản), dưới ngụy danh “thống nhứt” đất nước Việt Nam. Từ ngày 30-4-1975, dưới bạo lực của lưỡi lê và súng đạn, một chánh thể tự do dân chủ với tam quyền phân lập tại miền Nam Việt Nam đã bị thay thế bởi một chế độ độc tài công an trị tập trung mọi quyền bính vào trong tay của đảng Cộng sản Việt Nam, tay sai của Trung
Quốc và đệ tử của Liên Xô.
Việt Nam Cộng Hòa còn tồn tại hay không?
Bất chấp quốc tế công pháp, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Bắc Việt cộng sản) đã cố tình vi phạm hai Hiệp định Genève 1954 và Paris 1973 khi công khai xua quân vượt vĩ tuyến 17 đánh chiếm Việt Nam Cộng Hòa, một nước độc lập và có chủ quyền. Khinh thường dư luận quốc tế, Bắc Việt cộng sản năm 1975 đã gấp rút đặt cả thế giới trước chuyện đã rồi (fait accompli) khi vận dụng tất cả sư đoàn vượt khu phi quân sự (DMZ) đánh chiếm toàn
bộ miền Nam Việt Nam. Trong quan hệ quốc tế, Đảng và Nhà nước cộng sản Việt Nam không bao giờ tôn trọng các hiệp ước, hiệp định, hợp đồng đã ký kết và các định ước, công ước quốc tế đã gia nhập. Mới đây, ngày 23-7-2017, nước Việt Nam cộng sản lại dám sai mật vụ đến nước Đức bắt cóc tại Berlin cán bộ cộng sản Trịnh Xuân Thanh đang tại đào và xin tị nạn chánh trị tại nước nầy. Hành động phi pháp trắng trợn của mật vụ cộng sản Việt Nam tại nước Đức đã tố cáo quán tính
khinh thường luật pháp quốc tế của Đảng và Nhà nước cộng sản Việt Nam mặc dầu nước nầy đã tham gia Liên Hiệp
Quốc, các tổ chức quốc tế và công ước quốc tế.
42 năm đã trôi qua từ
ngày Bắc Việt cộng sản đánh chiếm miền Nam tự do. Mặc dầu đã tiếp thâu được nhiều thông tin chính xác từ
các mạng xã hội (social media), một số người tị nạn cộng sản tại hải ngoại vẫn phụ họa theo luận điệu tuyên truyền của Cộng sản Việt Nam: Việt Nam Cộng Hòa đã bị khai tử sau khi Quân lực miền Nam Việt Nam sụp đổ trước sự tấn công của quân xâm lăng cộng sản Bắc Việt. Họ còn nông cạn nghĩ rằng sự đầu hàng của Đại tướng Dương văn Minh, Tổng Thống bất hợp hiến do Quốc Hội hấp tấp đưa lên trong ba ngày cuối cùng (từ 28-4 đến 30-4-1975) đã chánh thức xóa bỏ Việt Nam Cộng Hòa, một quốc gia độc lập đã được Hiệp định Genève 1954 minh thị
công nhận và là một trong 12 nước đã ký kết Hiệp định Paris 1973 trước sự chứng kiến của Tổng Thơ Ký Liên Hiệp Quốc. Lập luận của họ hoàn toàn sai trái về cả hai mặt pháp lý và thực tại.
Trong phạm vi hạn hẹp của bài viết nầy, tôi muốn căn cứ vào lịch sử của một số nước ở Âu châu đã có hoàn cảnh giống như miền Nam Việt Nam để khẳng định Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn tồn tại và sẽ có nhiều triển vọng thâu hồi quyền độc lập tự chủ trong tương lai không xa.
Lịch sử của một số nước Âu châu đã bị xâm lăng và mất độc lập
1. Nước Ba Lan (Poland,
Pologne)
Thành lập trong thế kỷ 10 do Đại Công tước (Grand Duc) Mieszko, Ba Lan là một nước nhỏ ở Đông Âu đã bị 3 Vương quốc lớn bao quanh (Nga, Phổ và Áo) qua phân lãnh thổ
năm1795 và mất độc lập trong một thời gian dài trên một thế kỷ. Tuy
nhiên, nước Ba Lan không mất mà vẫn tồn tại nhờ dân tộc Ba Lan có lòng yêu nước mãnh liệt và tinh thần kiên trì hy sinh tranh đấu
để khôi phục độc lập của Ba Lan.
Sau Thế Chiến I, nước Ba Lan độc lập hồi sinh năm 1918.Nhưng đến năm 1939, hai cường quốc láng giềng (Đức và Liên Xô) lại xâm
lăng nước Ba Lan để phân chia lãnh thổ của nước nầy. Dân tộc Ba Lan đã dũng cảm tiếp tục tranh đấu chống ngoại xâm và đã phải hy sinh rất nhiều cho độc lập tự chủ của nước nhà.
Sau Thế Chìến II, nước Ba Lan thâu hồi độc lấp và tồn tại đến ngày nay. Ba Lan là một thành viên của Ủy Hội Kiểm Soát Đình Chiến tại Việt Nam từ năm 1954.
1. Nước Áo (Austria, Autriche)
Thành lập năm 996 từ lãnh địa Bavaria, một tiểu bang lớn của nước Cộng Hòa Liên Bang Đức ngày nay (có thủ phủ là thành phố Munich), nước Áo là một đế quốc hùng mạnh vào bực nhứt ở Âu châu đã giao chiến với Hoàng đế Pháp Napoléon Bonaparte. Đế
quốc Áo-Hung (Austro-Hungarian Empire)
đặt dưới quyền cai trị lâu dài của Hoàng tộc Habsbourg.
Sau Thế Chiên I, đế quốc Áo-Hung tan rã và trở thành một nước Cộng Hòa (Austrian Republic) từ 1918 đến 1933. Năm 1938, Quốc trưởng của nước Đức Adolf Hitler, một người sanh tại nước Áo, sát nhập nước của mình vào nước Đức.
Sau Thế Chiến II, nước Áo tranh thủ độc lập năm 1955 và thành lập
nền Đệ nhị Cộng Hòa.
Cả hai nước Đức và Áo đều nói tiếng Đức. Nhưng dân tộc Áo vẫn muốn có một nước nhỏ độc lập tự chủ tách rời khỏi nước Cộng Hòa Liên Bang Đức, một nước lớn hùng mạnh.
1. Estonia,
Latvia và Lithuania là ba nước rất nhỏ ở vùnh biển Baltic, giáp ranh với
nước khổng lồ Nga.
Sau Thế Chiến I, Estonia, Latvia và Lithuania được độc lập đối với hai nước lớn Nga và Đức. Nhưng năm 1940, thi hành hiệp ước Molotov-Ribbentrop ký kết
với nước Đức sau khi Thế Chiến II bùng nổ năm 1939, Liên Xô thôn tính ngay 3 nước láng giềng Estonia, Latvia và Lithuania. Mất độc lập, 3 nước nhỏ nầy bị sát nhập vào lãnh thổ Liên Xô từ năm 1940. Mãi đến năm 1991, sau sự sụp đổ của đế quốc cộng sản Liên Xô, 3 nước
Estonia, Latvia và Lithuania mới thâu
hồi độc lập, gia nhập Liên Âu (European Union) và Minh Ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) để được bảo vệ chống lại sự xâm lấn của nước Nga.
Kết luận
Các nước Ba Lan, Áo, Estonia, Latvia và
Lithuania là những nước nhỏ thâu hồi được độc lập tự chủ nhờ lòng yêu nước và tinh thần kiên trì tranh đấu của nhân dân các nước nầy cho độc lập của quê hương xứ sở
Nhân dân miền Nam Việt Nam cần phải noi theo gương sáng của nhân dân các nước nhỏ kể trên ở Âu châu để thâu hồi độc lập và tái lập chánh thể Cộng Hòa. Sau 42 năm thống trị bạo tàn và tham nhũng bóc lột
của đảng Cộng Sản, đại bộ phận quần chúng nhân dân Việt Nam từ Nam chí Bắc đã nhận thấy chánh thể Cộng Hòa có nhiều ưu điểm
hơn chế độ độc tài toàn trị của đảng Cộng Sản. Vì vậy, nhân dân Việt Nam cần phải quyết tâm giải thề chế cộng sản để tránh khỏi đại họa Bắc thuộc lần thứ 5. Muốn ngăn chận âm mưu sát nhập nước Việt Nam vào Trung Quốc năm 2020, cần phải
nhanh chóng thi hành Hiệp định
Paris 1973. Đó là một giải
pháp pháp lý khả thi trong hiện
tình đất nước Việt
Nam.
California, ngày 15-8-2017
Thẩm phán Phạm Đình Hưng
------------
Ý kiến độc giả :
Bài viết trên là một cái tát vào mặt Liên Thành, kẻ đã nông cạn xác định là "Việt Nam Cọng Hòa đã chết 42 năm rồi" và đã công khai ca ngợi chế độ VC tại Việt Nam là hùng cường rồi chê bai Luật Sư Lê Trọng Quát và những ai muốn đem Hiệp Định Paris năm 1973 ra tái xét và thực thi là "thiếu thực tế" và không đủ năng lực để đối sức với chính quyền VC.
Bài viết trên là một cái tát vào mặt Liên Thành, kẻ đã nông cạn xác định là "Việt Nam Cọng Hòa đã chết 42 năm rồi" và đã công khai ca ngợi chế độ VC tại Việt Nam là hùng cường rồi chê bai Luật Sư Lê Trọng Quát và những ai muốn đem Hiệp Định Paris năm 1973 ra tái xét và thực thi là "thiếu thực tế" và không đủ năng lực để đối sức với chính quyền VC.
Tuy là một thiếu tá của QLVNCH nhưng Liên Thành đã tự động xóa bỏ căn tính VNCH của mình, tương tự như lập luận rằng một khi thân phụ của ông là Nguyễn Phúc Tráng Cữ đã thất lộc thì mọi già trị của Cụ Tráng Cữ đều bị tiêu tán, ông Liên Thành không cần phải giữ lại họ "Nguyễn Phúc" nữa hoặc làm lễ giỗ gì cho thân phụ của mình vì… chết là hết. Ông cho rằng
VNCH không còn hiện hữu thì mọi người Việt của Miền Nam VN không còn mang tinh thần của VNCH nữa, không còn yêu và tranh đấu
cho sự độc lập tự do hạnh phúc và tinh hoa của VNCH nữa. Mưu đồ thâm hiểm muốn gạt bỏ VNCH của Liên Thành là để phục vụ cho ai đây ??
Chúng tôi mong đợi
Liên Thành công khai xin lỗi và
đính chính cho sự phát ngôn bừa bải khi phủ nhận giá trị của Hiệp Định Paris năm 1973 và cho rằng VNCH đã chết. Nếu ông ta từ khuớc xin lỗi thì từ đây ông ta sẽ bị loại trừ ra khỏi tập thể Người Việt Quốc Gia đang còn tôn trọng
thể chế VNCH và Hiệp Định Paris. Xem ra Liên Thành chỉ muốn tôn trọng bọn VC cướp nước đã và đang vi phạm luật pháp quốc tế này, vậy thì… Liên Thành cũng chỉ
là một môn đồ của bọn cướp mà thôi !!.
Xin mời quý độc giả đọc thêm bài "Đối thoại giữa Mỹ và Việt Nam: Lối thoát của Việt Nam " đã từng được đăng nhiều lần trước đây trên Ba Cây Trúc.
JB Trường Sơn
__._,_.___
Posted
by: Gia Cat <giacat54@yahoo.com>
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết