---------- Forwarded message
----------
From: Thanh-Thanh [HuongGiang] <>
Date: 2017-10-06 10:06 GMT+11:00
Subject: [HuongGiang] (điểm sách) Cựu TT PHAN HUY QUÁT của LÊ XUÂN NHUẬN
To:
From: Thanh-Thanh [HuongGiang] <>
Date: 2017-10-06 10:06 GMT+11:00
Subject: [HuongGiang] (điểm sách) Cựu TT PHAN HUY QUÁT của LÊ XUÂN NHUẬN
To:
CỰU THỦ-TƯỚNG PHAN-HUY QUÁT
Trong
tác-phẩm PHẬT PHÁP (Tập V) của Hòa-Thượng Thích Chánh Lạc, do Nhà Xuất-Bản Phú-Lâu-Na ấn-hành vào năm Phật-Lịch 2560 (dl. 2016),
độc-giả đọc được, từ trang 177 đến trang 207, bài-viết nhan đề CÁI CHẾT TRONG TÙ CS CỦA CỰU THỦ-TƯỚNG
PHAN HUY QUÁT của Nguyễn Tú, trích trong tạp-chí Bất Khuất.
Tôi
kính-trọng cựu Thủ-Tướng Phan Huy Quát.
Tuy
nhiên, đọc xong bài-viết này của kí-giả Nguyễn
Tú, tôi có một số thắc-mắc, nên xin nêu lên đây, gọi là một chút
phản-hồi.
I
CỰU THỦ-TƯỚNG PHAN HUY QUÁT
TỪ-TRẦN NGÀY NÀO?
I.1/ Ở trang 178, có đoạn:
“Khi
biết ông [BS. Phan Huy Quát] không thể nào qua khỏi, chúng [VC] mới đem ông lên bệnh
xá [vào ngày 26-4-1979]. Ông chết ở đó vào ngày hôm sau, 27 Tháng Tư 1979.”
Nhưng
ở trang 186, lại có đoạn:
“Băng
ca được khiêng đi. Bệnh nhân vẫn nằm, mắt nhắm, không một phản ứng…. Lúc đó khoảng
10 giờ rưỡi….
“Trưa hôm sau, khi lấy cơm trở về, anh em thì thầm rỉ tai nhau: ‘Bác Sĩ Quát chết rồi!’ Cả
phòng nhao nhao: ‘Hồi nào? Hồi nào? Chết mau quá vậy?’ Một anh
đáp: ‘Nghe nói, [chết] hồi trưa hôm qua thì phải.’…”
BS Phan Huy Quát được đem lên bệnh-xá (vào ngày 26-4-1979).
Rồi
trưa hôm sau (27-4-1979), sau ngày ông được đem lên bệnh-xá (26-4-1979),
anh em thì thầm rỉ tai nhau…. “Nghe nói [BS. Quát chết] hồi trưa hôm qua thì phải.” Trưa hôm qua là ngày ông được khiêng lên bệnh xá, tức là ngày 26-4-1979, chứ không phải là ngày 27-4-1979.
Vậy
Bác-Sĩ Phan Huy Quát chết vào ngày nào? 26-4-1979
hay 27-4-1979?
I.2/ Tôi đối-chiếu lịch âm+dương (tham-chiếu) thì thấy ngày 27 Tháng Tư 1979 là ngày Thứ Sáu, mồng 2 Tháng Tư âm-lịch Kỷ Mùi.
Thế
mà ở trang 199, lại có đoạn:
“Cựu
Thủ Tướng Phan Huy Quát đã vĩnh viễn nằm xuống [chết] sau ba
năm, tám tháng đấu tranh không nhượng bộ trong gọng kìm Việt Cộng. Ngày 30 Tết, năm Mậu Ngọ (dương lịch: 1978)” (bài-viết trong sách in đậm dòng chữ
này.)
Độc-giả
không hiểu “ngày 30 Tết, năm Mậu-Ngọ” là ngày-cuối-năm của năm liền-trước ngày
Tết Mậu Ngọ (tức là ngày-cuối-năm của năm Đinh Tị), hay là ngày-cuối-năm của
chính năm Mậu Ngọ.
Nhưng
bài-viết đã có ghi rõ (chữ đậm) là năm dương-lịch 1978.
Lấy
năm dương-lịch 1978 làm chuẩn, tôi tra-cứu lịch năm 1978 thì thấy:
Ngày
1 Tháng 1 năm 1978 là ngày Chủ Nhật 22 Tháng 11 âm-lịch của năm Đinh Tị (trước
năm Mậu Ngọ); ngày 31 Tháng 12 năm 1978 là ngày Chủ Nhật mồng 2 Tháng Chạp âm-lịch
của năm Mậu Ngọ (sau năm Đinh Tị).
Vậy
“ngày 30 Tết (dương lịch
1978)” phải là ngày-cuối-năm của năm liền-trước ngày Tết Mậu Ngọ,
tức là ngày-cuối-năm của năm âm-lịch Đinh Tị (trước năm Mậu Ngọ, chứ không phải là năm
Mậu Ngọ). Vì
tháng 12 của năm Đinh Tị không có ngày 30, nên ngày-cuối-năm là ngày Thứ Hai 29 Tháng Chạp âm-lịch Đinh Tị, tức ngày 6 Tháng 2 năm 1978.
Nhưng
ở trang 178 trích trên, tác-giả đã viết là “Ông [Quát] chết ở đó vào ngày hôm sau, 27 Tháng Tư 1979”!
Lấy
năm dương-lịch 1979 làm chuẩn, tôi tra-cứu lịch năm 1979 thì thấy:
Ngày
27 Tháng Tư 1979 là ngày Thứ Sáu, mồng 2 Tháng Tư âm-lịch Kỷ Mùi (sau năm Mậu Ngọ, chứ không phải là năm Mậu
Ngọ).
Ngày
mồng 2 Tháng Tư, dù là của năm âm-lịch nào, thì cũng không thể là “ngày 30
Tết, năm (âm-lịch)”!
Nhưng
ở trang 199 trích trên, tác-giả đã ghi-chú và cho in chữ đậm là “Ngày 30 Tết, năm Mậu Ngọ (dương lịch: 1978)”!
Thế
thì cố Thủ-Tướng Phan Huy Quát thật-sự từ-trần vào ngày nào?
27-4-1979? hay 26-4-1979? hay 6-2-1978?
II
THỦ-TƯỚNG NGÔ ĐÌNH DIỆM
VỀ NƯỚC NGÀY NÀO?
Ở
trang 192, có đoạn:
“Ở Pháp, Quốc Trưởng Bảo Đại phong ông Ngô Đình Diệm làm thủ tướng. Ngày 7 Tháng Bảy 54, ông Diệm về nước…”
Tuy
ngày về nước của Thủ-Tướng Ngô Đình Diệm chưa được phối-kiểm chính-xác (tham-chiếu), nhưng sự thật là Thủ-Tướng Ngô Đình Diệm đã về nước vào cuối tháng 6-1954, ra Hà-Nội xem xét tình-hình, rồi trở vào Sài-Gòn thành-lập nội-các vào đầu tháng 7-1954.
Ngày
7 Tháng Bảy 54 không phải là ngày “ông Diệm về nước” như Ô. Nguyễn Tú viết, mà là ngày “Chánh-phủ Ngô-đình-Diệm tựu chức” (Đoàn
Thêm. 1965. HAI MƯƠI NĂM QUA – Việc từng ngày (1945-1964) trang 150. Los Alamitos, CA, USA: Xuân Thu).
Ngày 7-7-1954 cũng được gọi là “Ngày Song-Thất”.
III
CỰU THỦ-TƯỚNG PHAN HUY QUÁT
BỊ AI LỪA PHẢN?
III.1/ Ở trang 178, có đoạn:
“Ký giả
kỳ cựu Nguyễn Tú, bạn ông [Phan
Huy Quát], và cũng là bạn tù
(người đã sống bên cạnh Bác Sĩ Quát trong những ngày tháng và giờ phút cuối cùng tại khám Chí Hòa”.
Ở
trang 183, có đoạn:
“Tôi
[Nguyễn Tú] dồn dập bên tai Bác Sĩ Quát: ‘Ai đặt bày, lừa bắt anh? Ai phản
anh? Thằng Liên phải không? Nói
đi! Nói
đi!’ Đôi
môi bệnh nhân như mấp máy…. Một hơi thở khò khè, theo sau là vài tiếng khô khốc,
nặng nhọc như cố trút ra từ một chiếc bong bóng đã dẹp hơi đến chín phần mười: ‘Thôi! Anh Tú ạ.’…. Một hơi thở một chút gấp hơn, như
làn hơi hắt vội ra lần chót: ‘Thôi! Thôi! Bỏ đi!’ [chừng 30 phút trước khi BS. Quát được khiêng ra khỏi phòng rồi chết vào
trưa hôm ấy.]”
Đã
sống bên cạnh nhau trong nhiều ngày tháng, “nói với nhau nhiều chuyện”, “nói chuyện thẳng thắn, cởi mở, không nghi ngại” (trang 201), “Bác Sĩ Quát đã tóm lược cho tôi nghe cuộc ‘phiêu lưu’ của ông và gia đình [sau
ngày 30-4-1975]” (trang 199):
“Ông
[Quát] bằng lòng cho con trai út Phan Huy Anh đi thăm dò đường lối. Do một người bạn của Huy Anh giới thiệu, Bác Sĩ Quát thuận gặp một người tên Nguyễn Ngọc Liên. Liên tự xưng là một thành viên quan trọng của một
tổ chức chống Cộng nhận nhiệm vụ bắt liên lạc với Bác Sĩ Quát, mời ông gia nhập tổ chức [không biết là tổ-chức gì, ở đâu, do ai
lãnh-đạo!] và nơi tổ chức có thể giúp gia đình ông vượt biên. Bác Sĩ Quát đồng ý về đề nghị thứ hai của Liên…. Gia đình Bác Sĩ Quátgồm bà Quát, các con, cháu hơn mười người được dẫn đi trước xuống Cần Thơ, ở lại đó hai ngày. Hôm sau lên xe đi tiếp, dọc đường bị
chận lại, đưa về khám Cần Thơ. Cả nhà biết là đã bị mắc lừa. Một tuần sau bị giải về trại giam Chí Hòa, Saigon…” (trang 197)
Thế
rồi: “Về phần Bác Sĩ Quát và con trai út của ông là Huy Anh thì được tên Liên đưa đi tạm trú tại một căn nhà kín đáo ở Chợ Lớn. Hai ngày sau, theo kế hoạch, tên Liên đưa Bác Sĩ Quát và Huy Anh ra khỏi Saigon. Khi xe ô-tô tới một điểm hẹn vắng vẻ thuộc tỉnh Biên Hòa thì đã có một xe ô-tô khác đậu bên đường,
nắp ca pô mở sẵn theo mật hiệu đã quy định. Xe chở Bác Sĩ Quát và Huy Anh dừng lại. Một toán người đi tới, vây quanh
xe, rút súng hăm dọa. Bác Sĩ Quát [lại một lần nữa] biết mình bị lừa…” (trang 198)
III.2/ Bỏ qua cái chuyện vô-lí là đã bị (mắc lừa vì tên Liên) đưa vào khám Chí Hòa, rồi còn (ra khỏi khám Chí Hòa) đi theo tên Liên đến tỉnh Biên Hòa để lại bị bắt…, Ô. Nguyễn Tú kể tiếp: “[ở trong trại giam] Phòng nhận
thêm một tù nhân từ biệt giam qua. Người này, khi nhận thấy Bác Sĩ Quát thì tỏ vẻ lúng túng, ngượng ngập. Có chi lạ
đâu? Hắn là Nguyễn Ngọc Liên, người mời chèo Bác Sĩ Quát vào khu để rồi rơi vào bẫy sập ở Biên Hòa. Trong phòng ngoài Bác Sĩ Quát và tôi, không một ai khác biết mối liên hệ
giữa Bác Sĩ Quát và hắn. Bác Sĩ Quát cư xử rất tự nhiên, không tỏ vẻ gì khó chịu, bực tức, nóng nẩy…”
(trang 201-02).
Sự
việc rõ-ràng như thế. Nếu có
điều gì Ô. Tú chưa chắc, thì qua suốt nhiều ngày tháng sống cạnh BS. Quát, tại sao Ô. Tú không hỏi, mà đợi cho đến giây phút Bác Sĩ Quát không thể nào qua khỏi, kí giả Nguyễn Tú mới “hỏi dồn ông về tên Liên” (trang 203)!
Phải
chăng Ô. Tú không tin vào lời kể chuyện trước đó của
Bác Sĩ Quát về tên Liên?
Còn
nếu đã tin đó là sự thật, mà Ô. Tú, mặc dù đã thấy thái-độ “bỏ đi” của BS. Quát trong thời-gian qua đối với tên Liên, mà vẫn cứ “hỏi
dồn”, thì tức là có ác-í
muốn hành-hạ tinh-thần BS. Quát, không cho linh-hồn BS. Quát được thảnh-thơi an nghỉ, mà bắt người
nhân-từ phải ghi-tâm khắc-cốt để mang xuống tuyền-đài mối hận-thù ấy đối với
tên Liên?
IV
CỰU THỦ-TƯỚNG PHAN HUY QUÁT
LÀ NHÂN-VẬT THUỘC DIỆN NÀO?
IV.1/ Ở trang 197, có đoạn:
“Ông
(BS. Quát) nặng tình gia đình, không muốn gia-đình bị khổ trong vòng kìm kẹp
của Cộng Sản và muốn gia đình sống một nơi an toàn [vượt biên tị nạn]. Đồng thời ông cũng
không muốn làm ‘kẻ bỏ chạy’ vì ông cũng rất nặng tình quê hương, đất
nước…. Bác Sĩ Quát ý thức rất rõ hai mối tình song hành kia,
tình gia đình và tình quê hương, đất nước, khó mà dung được với nhau và chỉ có
thể chọn một. Và ông đã chọn [vượt biên].”
Ô. Nguyễn Tú cũng nhắc đến 2 lần BS. Quát quyết-định đi ra nước ngoài (do Trung-Hoa Dân-Quốc và Hoa-Kì giúp-đỡ, nhưng vì trục-trặc nên không đi
được) trước đó.
Tức
là Ô. Nguyễn Tú ghi tên của cựu Thủ-Tướng Phan Huy Quát (dù chết ở Việt-Nam) vào
chung danh-sách với các nhân-vật bỏ nước ra đi (mà vị bị lừa nên bị bắt giam), chứ không
phải là đã chọn “ở lại quê
hương” sống+chết với đồng-bào.
IV.2/ Ở trang 193-94, có đoạn:
“Nhưng
ngày kết liễu nền Đệ Nhị Cộng Hòa chưa phải là ngày chấm dứt hoạt động của Bác Sĩ Phan Huy Quát. Nó đưa hoạt động ấy sang một hướng khác,
hoàn toàn xa lạ với con người vốn dĩ trong bao năm qua đã quen và chỉ quen hoạt động chính trị theo lối ‘chính quy’, trong ‘đường lối chính quy’. Và con người thận trọng trong ông đã lao vào một trận địa mà
trước kia ông chưa từng một lần lưu tâm và nghiên cứu địa hình phức tạp, hết sức bất thường do vậy
cũng hết sức bất ngờ: địa hình của trận địa hoạt động bí mật, mà vì tính chất của riêng nó, đòi hỏi một
cách suy nghĩ khác, một thứ thông minh khác, một loại bén nhạy khác, thậm chí đến
cái can đảm trong hoạt động bí mật cũng phải là cái can đảm khác. Vị cựu thủ tướng,
tự thân, chưa được chuẩn bị kỹ càng cho hình thái hoạt
động bí mật nó có những điều luật, những nguyên tắc đặc thù của riêng nó. Điều này cũng dễ hiểu: ông chưa từng thấy có nhu cầu đó. Hoạt động chính trị của ông từ trước không cần đòi hỏi ông có những nhu cầu đó.
Vậy mà trước hoàn cảnh đất nước rối bời đang diễn tiến trước mắt, ông đã chọn dấn
thân vào con đường mới mẻ này. Một quyết định dũng cảm của một con người ngày ấy đã gần 70 tuổi, và chắc chắn
không phải là một quyết định dễ dàng.
“Sau
ngày Sai gon thất thủ 30 Tháng Tư 1975, Bác Sĩ Phan Huy Quát không đáp ‘lời mời’ ra trình diện của Việt
Cộng…. Bác Sĩ Quát đã dời tư thất ở đường Hiền Vương và bắt đầu
cuộc đời ‘du mục’ trong Saigon, quyết không để cho Việt Cộng bắt…”
Tôi
thấy Ô. Nguyễn Tú đã phân-tích (phân-loại, phân-diện) như thế
quả là chí-lí. Một thủ-tướng “chính quy” (công-khai) khác với một nhà hoạt-động bí-mật. Cựu thủ-tướng Phan Huy Quát chưa được chuẩn bị kỹ càng cho hình thái hoạt
động bí mật nó có những điều luật, những nguyên tắc đặc thù của riêng nó.
Tuy
nhiên, Ô. Nguyễn Tú đã sai khi viết là BS. Quát “quyết định dũng cảm” trong “hoạt động
bí mật”, mà hoạt-động
bí-mật đó chỉ là việc trốn-tránh “không để cho Việt Cộng bắt” và mục-đích chỉ
là tìm cách vượt biên. Hơn
nữa, Ô. Tú quên rằng BS. Quát làm thủ-tướng trong thời-chiến, cuộc chiến
chống Cộng, về cả chính-trị lẫn quân-sự, dân- sự, mà đa-số kẻ thù trong đa-số trường-hợp đều
đã hoạt-động bí-mật, trong hình-thái hoạt-động bí-mật. Thế
mà ông [BS. Quát] “chưa từng một lần lưu tâm và nghiên cứu… trận địa hoạt động bí
mật (trang 193), chưa từng thấy có nhu cầu đó. Hoạt động chính trị của ông từ trước không cần đòi hỏi ông có những nhu cầu
đó”! (trang 194)
Ô. Nguyễn Tú muốn biện-hộ cho BS. Quát, nhưng lại làm hiện lộ cái phần iếu-kém của nhà hoạt-động công-khai (chính- khách “xa-lông”) khi phải dấn thân vào hoạt-động bí-mật (chiến-sĩ trận-tiền). Một người “tham chính nhiều lần, từng
làm bộ trưởng giáo dục, nhất là tổng trưởng quốc phòng, cuối cùng giữ chức vụ
Thủ Tướng Việt Nam Cộng Hòa, cũng là Chủ tịch Liên Minh Á Châu Chống
Cộng, phân bộ Việt Nam, và là chủ nhiệm tuần báo Diễn Đàn”, lại là một lãnh-tụ của Đại-Việt Quốc-Dân-Đảng (ĐVQDĐ chiếm đến 5 ghế quan-trọng kể cả: Bộ-Trưởng
Ngoại-Giao, Bộ-Trưởng Giáo-Dục, Bộ-Trưởng Thanh-Niên, Tổng-Thư-Ký Chính-Phủ tức
Bộ-Trưởng tại Phủ Thủ-Tướng) mà không tìm được một ai là thân-tín để nhờ giúp-đỡ
mình, lại chui vào bẫy để phải bị lừa một cách dễ-dàng bởi một kẻ lạ mặt
hành-tung bất-minh mình mới gặp lần đầu!
Như
thế, Ô. Nguyễn Tú đã mặc-nhiên đánh giá cựu Thủ-Tướng Phan Huy Quát là một chính-trị-gia bất-toàn, một nhà hoạt-động
bất-tài.
Nghiên-cứu
lịch-sử, hoặc viết bài phê-bình, là một việc khác. Đằng nầy, chỉ viết “như một nén hương chiêu niệm chung” (trang 178), “gọi là một chút để ấm lòng người đã khuất” (trang 206), thì theo thiển-í, đoạn
phân-tích trên nên được để dành cho các dịp khác, không thực cần-thiết cho bài
hồi-kí này.
V
KẾ HOẠCH GIÁO DỤC PHAN HUY QUÁT
V.1/ Ở trang 191, có đoạn:
“Cuộc
đời chính trị của ông [Phan
Huy Quát] chỉ thực sự bắt đầu
sau khi cựu Hoàng Bảo Đại đã ký hiệp ước Vịnh Hạ Long với Cao ủy Bollaert của Pháp ngày 8 tháng Ba 1949. Trong
chính phủ đầu tiên của quốc gia Việt Nam do cựu Hoàng Bảo Đại lãnh đạo, Bác Sĩ Quát tham chính với tư cách Tổng ]sic] Trưởng Bộ Quốc Gia Giáo Dục. Sau đó
ông được bổ nhiệm vào chức vụ Tổng Trưởng Quốc Phòng…”
Chính
chính-phủ này, do Quốc-Trưởng Bảo Đại cầm đầu, đã gồm có 4 tổng-trưởng và 11 bộ-trưởng,
và vào ngày 19-9-1949 đã ra sắc-lệnh ấn-định chức-chưởng khác nhau của các Tổng-
và Bộ-Trưởng. Tức là Tổng-Trưởng cao hơn Bộ-Trưởng. (Đoàn Thêm. 1965. HAI MƯƠI NĂM QUA – Việc từng ngày (1945-1964) trang 59. Los Alamitos, CA, USA: Xuân Thu).
BS. Quát là Bộ-Trưởng Quốc-Gia Giáo-Duc, không nên tụ í nâng ông lên hàng Tổng-Trưởng.
V.2/ Ở trang 203-05, có đoạn:
“Tôi
thường nghĩ, trong suốt cuộc đời tham chính, thành tựu của Bác Sĩ Phan Huy Quát có ý nghĩa lớn lao nhất, có ích cho quốc
dân nhất, do đó quan trọng vào bậc nhất vì trực tiếp liên quan sâu sắc nhất đến
tiền đồ tổ quốc, là ông đã giành được chủ quyền cho ngành giáo dục Việt Nam, khi ông được Cựu Quốc Trưởng Bảo Đại phong ông làm Tổng [sic] Trưởng Bộ Giáo Dục trong chính phủ đầu tiên của Quốc Gia Việt Nam mới được Pháp thừa nhận nền độc lập…. Ông đã thuyết phục
được phía Pháp trao trả Việt Nam trọn quyền của ngành giáo dục. Ông đã đặt nền móng vững chắc cho việc dùng Việt
ngữ là ngôn ngữ chính trong mọi giáo trình, mở đầu kỷ nguyên cải cách giáo dục toàn diện từ tiểu học,
qua trung học, lên tới đại học và trên đại học mang tính chất hoàn toàn quốc
gia mà dấu ấn căn bản và nguyên tắc đó không một
ai, sau ông, có thể thay đổi được. Pháp ngữ đã lui xuống thứ hạng như bất cứ sinh
ngữ nào khác được giảng dạy trong mọi cấp học trình. Thành
quả tranh đấu gay go trong thầm lặng nhưng thật rực rỡ của ông với Phái đoàn Pháp và công cuộc tiến hành cải cách giáo dục của
ông đã được báo chí thời đó xưng tụng và mệnh danh một cách rất xứng đáng là ‘Kế hoạch giáo dục Phan Huy Quát.’ Tên tuổi
ông đã gắn liền với tương lai của biết bao thế hệ nam, nữ, thanh, thiếu niên
trong lãnh vực giáo dục nó là chìa khóa của tiến bộ văn minh và phát triển văn
hóa cho đất nước, cho dân tộc. Thành công nào có thể đẹp hơn, lâu bền hơn
thành công của ông trong sự nghiệp giáo dục đào tạo con người?”
Tôi
đồng-í là cựu Thủ-Tướng Phan Huy Quát đã cống-hiến cho nền giáo-dục Việt-Nam nhiều cải-tổ, cải-cách…. trong 6 tháng ông
làm Bộ-Trưởng Giáo-Dục.
Nhưng,
về việc đặt nền móng vững chắc cho việc dùng Việt
ngữ là ngôn ngữ chính trong mọi giáo trình thì, trước Ô. Phan Huy Quát, đã có Ô. Hoàng Xuân Hãn, Bộ-Trưởng Giáo-Dục & Mỹ-Thuật trong
chính-phủ Trần Trọng Kim, từ năm 1945 (4 năm trước đó) đã là người đầu tiên thiết lập và ban hành chương trình giáo dục bằng chữ Quốc ngữ ở các trường học, áp dụng việc học và thi Tú Tài bằng tiếng Việt, dùng tiếng Việt trong những công văn chính thức. (thí-dụ)
Công-lao
hầu như suốt đời của Ô. Hoàng Xuân Hãn đối với ngành giáo-dục, nhất là việc sử-dụng Việt-ngữ cả trong học-đường,
trong đời sống tinh-thần lẫn ngoài xã-hội, có bề dày đã được sử+sách ghi-nhận.
Trong
tác-phẩm nghiên-cứu mới đây (đầu năm 2017) của Giáo-Sư Phạm Cao Dương (“Trước Khi Bão Lụt Tràn Tới: Bảo Đại - Trần Trọng Kim và Đế Quốc Việt Nam [9-3-1945 – 30-8-1945]” người điểm sách Bùi Khiết đã lập một bản tổng-kết thành-tích sơ-khởi
của thời đó, trong đó có: Tổ Chức và Chuyển Ngữ Ngành Giáo Dục Việt
Nam. (tham-chiếu)
Trong
lúc Ô. Hoàng Xuân Hãn là một nhà bác-lãm về các lãnh-vực văn-hóa,
giáo-dục, ngôn-ngữ-học, sử-học, toán-học, kỹ-thuật, v.v… thì Ô. Phan Huy Quát là một nhà hàn-lâm Y-Khoa và là một
chính-trị-gia―và với tư-cách này ông đã tham-chính, cầm-nắm
ngành giáo-dục chỉ nửa năm, rồi lên làm Tổng-Trưởng Quốc-Phòng suốt 4 năm. Phải
chăng Ô. Quát giỏi ở địa-hạt quân-sự hơn là ở môi-trường
giáo-dục?
V.3/ Điều tôi muốn nói ở đây là Ô. Nguyễn Tú đã viết về mấy Nghị-Định của Ô. Phan Huy Quát (đúng ra là bổ-túc Chương Trình Giáo Dục của Ô. Hoàng Xuân Hãn) bằng câu kết-luận: “dấu ấn căn bản và nguyên tắc đó không một
ai, sau ông [Phan Huy Quát], có thể thay đổi được.” (trang 204)
Ca-tụng
thần-tượng của mình là quyền của mỗi/mọi người.
Nhưng
quyết-đoán rằng ông A, bà B (hay một nhân-vật nổi bật nào đó) trong một quá-khứ nào đó là nhân-vật “vô-tiền khoáng-hậu” ―không
ai có thể thay-thế được trong tương-lai― thì là một í-tưởng không-tưởng, một luận-lí phi-lí, một ngụ-í ác-í, một chiến-dịch truyền-dịch, có thể mở đường cho những hành-động phản-động.
Sau
chính-phủ của Cựu-Hoàng Bảo-Đại trong đó có Bộ-Trưởng Giáo-Dục Phan Huy Quát, sau Đệ-Nhất và Đệ-Nhị Việt-Nam Cộng-Hòa, và sau này nữa, khi Việt-Nam tiến-bộ hơn, văn-minh hơn, chiếm được chỗ
đứng trọng-iếu trong một thế-giới toàn-cầu-hóa, không lẽ sẽ không có những nhà
lãnh-đạo giáo-dục nào khác xuất-sắc hơn hay sao?
Tôi
kính-trọng cựu Thủ-Tướng Phan Huy Quát.
Nhưng
mỗi anh-hùng chỉ là anh-hùng trong một lãnh-thổ (không-gian) và một thời-kì (thời-gian) nhất-định mà thôi.
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết