----- Forwarded
Message -----
From: caoduong>
Kính gởi Gia Cát,
Đã đọc vài lời tỏ lộ nỗi lòng xúc cảm của Bạn trước sự ra đi âm thầm trong cô
đơn vào một ngày mùa đông lạnh lẽo, tuyết rơi, mây mù trên vòm trời Paris, tôi
rất cảm động! Anh Nguyễn Sơn Quân là một cựu quân nhân trong Quân Lực Việt Nam
Cộng Hoà:Nguyễn Sơn-Quân:
Cựu SQ Đại Đội 3 - Tiểu Đoàn 3/14 ( KBC 3051 ) - Trung Đoàn 14 Bộ Binh -
Sư Đoàn 9 Bộ Binh/QLVNCH. Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Thủ Đức.
Tin cuối cùng thì anh NSQ có gia đình bên Pháp và một người em ở bên Mỹ.
Kính nhờ Bạn thông báo giùm trên các diễn đàn.
Nguyễn Cao Đường
----- Gia Cat > a écrit :
>
>
>
>
>
>
Chuyện thật 100% của vợ chồng Minh Hòa -
Nguyễn Tiến Việt (k23 vb)một trong nhiều tấm gương"tao khang phu thê bất
khả hạ đường"
gó giáo dục, có đạo
đức, thủy chung, son sắt hay không cứ đọc bài
viết là
rõ.
Tôi đi thăm chồng ‘cải tạo’
Minh Hòa
Tác giả Minh Hòa chụp cùng chồng năm 1971 tại Đà Lạt. (Hình: Gia đình)
Vâng, chúng tôi nghiễm nhiên nhận
chồng chúng tôi là “các ông cải tạo” như
người miền Nam vẫn kêu với tấm tình trân quý, để phân biệt
với những người tù hình sự. Vâng, những người đàn ông ở miền Nam mà đang đi tù Cộng Sản
mới là những người xứng đáng với
đàn bà con gái miền
Nam ở
lứa tuổi tôi. Chị em chúng tôi gọi đó là “tấm bằng tù cải
tạo” của các ông để chọn gửi
cuộc đời, dù là trao gửi vào một
nơi bất định…
Tôi quen anh năm 17 tuổi, khi còn cắp sách đến
trường. Lúc ấy anh là sinh viên sĩ quan năm thứ ba, hai mươi tuổi đời, nhưng
dạo đó trong mắt tôi anh thật chững chạc, lại tài hoa, và cũng không thiếu… si mê.
Anh nhất định
đòi cưới
tôi ngay sau khi ra trường,
nói rằng
thầy mẹ anh sẽ
ưng ý, không
thể phản đối.
Tôi hình như
có hơi ngạc
nhiên và hơi… sợ sợ,
vì tuổi
18, 19 thời
đó còn nhỏ
lắm, chẳng biết gì, chỉ biết rằng
tôi hình như
cũng… yêu
anh nhiều
lắm. Tôi còn nhớ, tuy còn nhỏ và ngây thơ lắm, nhưng
những ngày giữa năm thứ tư của
anh, từng
đêm tôi đã thổn
thức một mình. Cảm
giác lúc ấy
là chỉ
sợ mất anh vào nơi gió
cát mịt mù mà biết
bao người
trai đã ra đi không hẹn
ngày về.
Và tôi nhất
quyết lấy anh, tuy anh làm phiền lòng ba má tôi không ít, khi anh dứt khoát từ chối mọi
công lao chạy
chọt của song thân tôi ngay từ truớc
ngày anh tốt
nghiệp.
Gia đình tôi ngần
ngại, nhưng tôi là con gái
út, được cưng nhất
nhà, vả
lại cả nhà ai cũng quý mến anh…
Thế là tôi rời
ghế nhà trường năm 19 tuổi, lên xe hoa mà tưởng như đang trong giấc mộng
tình yêu thời
con gái. Rồi
thì giã từ
quê huơng
Đà Lạt yêu dấu,
giã từ
những kỷ niệm yêu đương
trên từng con dốc,
từng vạt nắng xuyên cành trong hơi lạnh
thân quen, từng
hơi thở thì thầm trong ngàn thông thương mến, tôi theo anh về làm dâu gia đình chồng ở Sài Gòn. Tôi chưa hề
được chuẩn bị để
làm dâu, làm vợ,
đầy sợ hãi trong giang sơn nhà
chồng, còn chưa biết ứng xử
ra sao, nhưng
được
cha mẹ
và các em chồng
hết lòng thương mến.
Các chú em chồng nho nhã luôn luôn hoan hô những món ăn tôi nấu nướng.
Tuần trăng mật
thật vội vã nhưng
vô cùng hạnh
phúc, chỉ
vỏn vẹn trong thời
gian anh nghỉ
phép ra trường,
rồi trình diện đơn vị
mới. Mùng sáu Tết Tân Hợi 1971, Sư đoàn
Dù của anh đi mặt
trận Hạ Lào. Hôm ra đi anh vui tưng bừng
như con sáo sổ lồng,
trong khi tôi thẫn
thờ… Anh siết tôi thật chặt, không cho tôi khóc, nói rằng ra đi trong dòng nước mắt vợ
hiền là điều xui rủi.
Tôi vội vã gượng
cười, để rồi từng
đêm thổn
thức một mình trong căn phòng lạnh vắng,
run rẩy
lắng nghe từng tin chiến sự miền
xa… Thư
anh từ
mặt trận toàn những điều thương nhớ ngâp tràn, pha lẫn những lời như những tràng cười
say sưa
của người tráng sĩ đang tung mình trên lưng ngựa chiến. Mẹ chồng tôi chẳng
vui gì hơn
tôi. Hai mẹ con buôn bán xong thường đi lễ chùa, khấn nguyện. Bà cụ bảo tôi: “…phải khấn
cho nó bị
thương nhẹ để mà về,
chứ vô sự thì lại không được về, vẫn
còn bị
nguy hiểm”…
Tôi càng hoang mang, thảng
thốt, quỳ mãi trong khói hương với đầy nước
mắt, chẵng khấn được câu nào… Má tôi trên Đà Lạt cũng vội
lặn lội lên tận
cốc xa, thỉnh cho được tượng ảnh
Bồ Tát Quán thế Âm để chồng tôi về
sẽ đeo vào cổ.
Sau trận đầu
tiên ở
Hạ Lào anh trở về với
cánh tay trái treo trước
ngực. Tôi run run dội nước tắm
cho anh để
nước khỏi vào vết thương, mà không giấu
được nụ cười
đầy sung sướng, pha lẫn… đắc thắng, cảm ơn Trời
Phật linh thiêng…
Rồi anh lại
ra đi. Tây Ninh, Cam Bốt,
cùng những
địa danh trong các dòng tin chiến sự mà tôi thuộc nằm
lòng. Trảng
Bàng, Trảng
Lớn, Suông, Chúp, Krek, Đam Be… Anh
đi toàn những
trận ác liệt một mất
một còn với quân thù quái ác. Vừa lành vết thương là lại ra đi. Tôi thành người chinh phụ,
thao thức
từng đêm, vùi đầu vào gối khóc mùi trong lời khấn nguyện Phật Trời che chở cho sinh mạng chồng tôi. Còn anh, anh cứ đi đi về về trong tiếng
cười vui sang sảng, hệt như các bạn
chiến đấu trong cùng đơn vị,
mà nay tôi vẫn
còn nhớ
tên gần
đủ: các anh Tường, Hương, Trung, Dũng, Sinh, Chiêu, anh Sĩ, anh Tâm, anh Quyền….
Mỗi lần
trở về bình an là một lần
cả nhà mở hội, và mỗi
khi nhận
lệnh đi hành quân là một lần tôi thờ
thẫn u sầu trong lúc anh hăng hái huýt gió
vang vang khúc hát lên đường.
Con người
ấy không biết sợ hãi là gì, không cần sống
chết ra sao, và không hề muốn nghe lời
than vãn, chỉ
thích nụ
cười và những lời thương yêu chiều chuộng.. Anh nói không biết tại sao anh có niềm tin kỳ lạ
là không có việc
hiểm nguy nào hại đựơc thân
anh. Tôi
chỉ còn biết chiều theo ý chồng, không bao giờ dám hé môi làm anh buồn bực, vì thời
gian gần
nhau quá ngắn
ngủi, tôi chỉ lo cho anh những phút giây hạnh phúc hiếm hoi của người lính chiến, không muốn để anh bận
lòng vì những
nỗi lo âu. Lấy chồng hơn hai năm sau mà tôi vẫn
chưa có cháu,
vì anh cứ đi, đi mãi đi hoài, những ngày gần nhau không có mấy.
Rồi mùa Hè đỏ
lửa nổ ra. Anh nhảy vào An Lộc,
lăn lóc đánh dập
đánh vùi với
địch quân đông gấp bội trong gần
ba tháng trời,
mất cả liên lạc
bưu chính, ở nhà không hề nhận một
chữ một lời.
Người hạ sĩ quan hậu
cứ mỗi tháng ghé lại gia đình thăm hỏi đều
phải vẫy tay tươi
cười ngay từ đầu ngõ. Anh về được
đúng một
tuần, thì lại lên đường đi Quảng Trị… Rồi anh lại
bị thương ở
cửa ngõ Cổ Thành, trở về trong phòng hồi sinh Tổng
Y Viện
Cộng Hòa. Trên đường tới bệnh viện
cùng với
gia đình, tôi ngất
xỉu trên xe của người anh chồng…
Nhưng rồi
anh vẫn
đứng dậy, lại khoan khoái cất bước hành quân. Ôi, không biết tôi mang nợ anh từ
tận tiền kiếp xa xôi nào, mà tôi yêu thương cái con người chỉ biết miệt
mài say mê chiến
trận. Tôi chỉ biết ước
nguyện
của anh là trở thành một Tướng Patton của Việt
Nam, “Rồi
nước mình sẽ phải tự
chủ hơn lên, mấy
năm nữa
phải khác hẳn đi chứ. Nền nếp
quân đội
sẽ phải thay đổi.
Anh sẽ
làm tư
lệnh đại đơn vị,
để anh điều động liên quân chủng, cả
thiết giáp, máy bay, đánh giặc như Patton cho mà coi. Cam bốt, Hạ Lào Trung Thượng Lào ăn nhằm gì… Hà hà.” Tôi chỉ ậm ừ
vì chẳng
hiểu gì, khi anh thì thầm bên tai tôi vào một đêm tôi dần thiếp đi trong đôi cánh của hạnh phúc, một
lần anh về phép hành quân…
Sinh cháu gái đầu lòng năm 1973 ở Đà Lạt,
anh về
thăm mẹ
con tôi và trường
cũ, xong lại
bay đi trấn
thủ đường ranh giới
ngưng chiến ở vùng Tây Nam Huế…
‘Bé Dung’ với chồng và hai con, Tháng Tám, 2014 (Hình: Gia đình)
Tháng Tư năm
1975, đơn vị
anh đóng quân ở
Thủ Đức, chuẩn
bị tử chiến
với quân thù. Chú em chồng là sĩ quan chuyển vận tàu HQ505. Tàu ghé Sài Gòn để chuẩn
bị đi công tác Phú Quốc. Chồng tôi bảo cả gia đình, gồm thầy
mẹ, các chú và cả mẹ con tôi, xuống tàu đi Phú Quốc lánh nạn
chiến sự, rồi
khi yên sẽ
lại trở về. Tôi tưởng
anh cũng định
ra đi, nhưng
anh quắc
mắt nói tại sao anh lại phải bỏ đi lúc quân lính của anh vẫn
còn chưa
nao núng,
“bọn nó làm gì thắng nổi
khi cả
Sư Đoàn
Dù đầy đủ bung ra phản công, cho nó ăn một cái Mậu
Thân nữa
thì mới
hết chiến tranh, quân Dù đánh giặc một chấp
bốn là thường, còn trận cuối này là xong.” Anh hăng say như sắp xung trận,
nhưng rồi anh quay lưng lại, run giọng bảo tôi hãy bế con theo xe của ông anh ra bến tàu. Đến nước đó tôi không còn gì sợ hãi, ôm con nhảy xuống,
nhất định đòi ở
lại. Vợ chồng sống
chết có nhau…
Ba lần toan vượt
thoát từ
đầu đến giữa
Tháng Năm đều
thất bại não nề.
Anh lên đường
đi trại
tập trung vào Tháng Sáu, khi tôi
đang mang bầu
cháu thứ
nhì… Bé Dung ưỡn
người đòi theo bố. Anh quay lại, vẫy tay cười với mẹ
con tôi. Vẫn
nụ cười ấy,
anh vẫn
chẳng nệ âu lo sống chết là gì, nhưng còn mẹ con em, anh ơi???…
Gia đình nhà chồng tôi thiệt
có phước,
hầu hết đã theo tàu HQ505 đi Phú Quốc rồi
sang Mỹ,
kể từ hôm tôi ôm con ở lại
với chồng. Gia đình tôi từ Đà Lạt chạy về Sài Gòn, sống chen chúc quây quần đùm bọc
lẫn nhau. Hàng quán của gia đình chồng tôi bị tịch biên hết.
Tôi nhất
định giữ chặt ngôi nhà của cha mẹ
chồng để lại, đuổi
mấy cũng không đi. Chị ruột tôi bỏ
dần vốn ra mua được
ngôi nhà khác, vì ông chồng
ôm vợ
bé chạy
mất, nhà cửa xe cộ bị tịch
biên hết.
Tôi và các anh chị
em tôi chạy
vạy đủ điều
để lo sinh kế, nuôi con thơ cha già mẹ yếu.
Chồng tôi mịt mù tăm tích, chỉ có đôi ba lá thư viết về
từ trại Long Giao. Lên Long Giao cũng không gặp. Anh bị đưa ra Bắc.
Năm đó tôi tròn 25 tuổi, dung nhan tuy tiều tụy
nhưng vẫn khiến nhiều kẻ phải
suýt soa dòm ngó. Biết
bao người
mai mối
thì thầm
bên tai tôi, thôi hãy lo cuộc đời
mới, sĩ quan ngụy đi Bắc chẳng có ngày về… Bao nhiêu nỗi khổ đau dồn nén đột nhiên bùng nổ. Tôi vùng lên như một con cọp
cái: bác thử
nghĩ coi cả
bọn cả lũ tụi
nó đó có đáng xách dép cho chồng tôi không!!! Rồi ba mẹ
con tôi ôm nhau khóc vùi trong tủi hận.
Không, không, một ngàn vạn
lần không. Quanh tôi chỉ còn toàn rác rưởi. Vâng, những người đàn ông ở miền Nam mà đang đi tù Cộng Sản
mới là những người xứng đáng với
đàn bà con gái miền
Nam ở
lứa tuổi tôi. Chị em chúng tôi gọi đó là “tấm bằng tù cải
tạo” của các ông để chọn gửi
cuộc đời, dù là trao gửi vào một
nơi bất định…
Còn gì nữa
mà chọn
lựa! Thà vậy, đành thôi. Tôi đã là vợ anh, tôi vẫn tôn thờ anh trong tim óc, làm sao khỏi lợm giọng
trước bọn người
lường lọc, bướm ong, hèn hạ… Chị em tôi buôn bán từ thuốc lá đến bánh cuốn, bánh ướt, bánh mì, thuốc tây, thuốc nam, kiêm luôn cắt chải gội uốn
tóc, làm móng tay… nhưng
luôn tránh chỗ công quyền và nơi phồn hoa nhan nhản những con mắt hau háu của bọn ăn cướp
và bọn
trở cờ. Mấy
anh chị
em tôi đồng
lòng, đùm bọc
lẫn nhau, nên áo rách nhưng một tấm lòng son tôi vẫn vẹn
với câu thề…
Vượt qua được
thời gian khó khăn cực khổ nhất lúc ban đầu, sau ba mẹ con tôi được
gia đình chồng
từ Mỹ chu cấp,
tuy không dư
dả nhưng cũng
đủ
gửi quà ba tháng một lần, rồi
lại dành dụm cho môt chuyến thăm nuôi…
Anh từ miền
cực Bắc bị
đưa về Thanh Hóa chừng một
năm, thì tôi xin được
giấy phép đi thăm nuôi. Tôi và chị tôi chạy đôn chạy đáo mua đủ một trăm năm chục ký quà để
tôi đem ra Bắc
cho chồng.
Bà cụ
buôn bán quen ngoài chợ
lại nhờ đem thêm năm chục ký thăm dùm con trai, vì con
dâu cụ
đã vượt
biên. Cháu Dung đã lên 6, em Long nó 4 tuổi và chưa
lần nào thấy được mặt
cha. Tôi đem cả
hai con đi cho anh gặp
đứa con trai.
Xuống ga Thanh Hóa, cả đoàn quân khuân vác vây quanh gọi mời
giục giã. Tôi và mấy chị cùng thăm chồng chia nhau giữ chặt hàng hóa không cho ai khiêng vác, rồi tự mình kéo lê kéo lết đi thuê nhà trọ. Có người
đã đi về
kể rằng cứ
sơ ý là
bị vác hàng chạy mất. Chúng tôi cũng phải chia nhau ở lại
nhà trọ
coi chừng
hàng và đi chợ.
Tôi nhờ
một chị mua thêm được ký mỡ, về rang tóp mỡ ngoài sân nhà trọ. Nghe con khóc, tôi vội vã chạy
vô nhà. Chưa
kịp dỗ con thì nghe tiếng ồn
ào. Quay ra, hai kẻ
cắp đã bưng chảo tóp mỡ ù té chạy, chị bạn rượt
theo không kịp.
Tôi khóc thầm
tiếc hoài, cứ nghĩ những tóp mỡ kia đáng lẽ đã giúp chồng mình đỡ bao đói khát.
Xe đò đi Thanh Cẩm chật
ních những
bà thăm chồng.
Chúng tôi năm người
lớn và hai cháu xuống ngã ba Nam Phát để vô Trại 5. Tôi lê từng bao hàng rồi lại quay lui kéo lê bao khác, chừng hơn
nửa cây số mới đến
trạm xét giấy tờ vào trại,
hai cháu còn quá nhỏ
chẳng muốn chúng đụng tay. Cô Út thiệt giỏi, xong phần mình lại xông xáo giúp hết người nọ tới
người kia.
Xong giấy tờ,
chờ một lát thì một người
tù hình sự
đánh xe trâu đến.
Hàng hóa và hai con tôi được
lên xe trâu, tôi và chị
Phước, chị Điệp cùng hai mẹ con cô Út lẽo đẽo
theo sau. Đường
đi xuyên trại
xuyên rừng
dài tám cây số.
Chúng tôi chưa
biết lúc trở ra mới càng thê thảm.
Chân tay rã rời, tới
chiều tối mới
thấy cổng trại
5 Lam Sơn.
Đêm xuống bé Dung còn phải phụ tôi gom lá mía cho tôi vội nấu hết
gạo thành cơm, nắm lại từng
vắt, vì nghe nói công an không cho
tù chính trị
đem gạo
sống vô, sợ các anh âm mưu trốn trại. Đêm chờ sáng để thăm chồng, nhìn hai con thơ ngây ngủ
say sưa
vì mỏi mệt,
tôi rời
rã vô cùng nhưng
không sao ngủ được. Hằng
trăm hình ảnh
chồng tôi nhảy múa trong đầu… Chồng của tôi, người lính dù hăng hái húyt sáo mỗi khi nhận lệnh hành quân ấy, nay đã ra sao???
‘Cu Bi’ và cha mẹ, ngày cưới vợ, Tháng Tư, 2009. (Hình: Gia đình)
Sáng, đến lượt
ra nhà thăm nuôi ngong ngóng chờ chồng,
tôi không được
phép ra khỏi
cửa căn buồng nhỏ xíu, kê một bàn gỗ dài và hai ghế băng dọc hai bên. Đột nhiên một ông lạ hoắc đứng
lù lù ngay cửa.
Tôi ngỡ
ngàng chưa
biết điều gì. Cô nữ công an nhìn chòng chọc, hằn học, đợi
chờ như con gà
chọi sắp tung đòn. Tôi không thể hiểu
người con gái Bắc cỡ cùng tuổi
tôi kia thù hằn
tôi điều
gì. Tôi ngó lại,
lát sau cô ta coi sổ
xong, mới
nói đây là anh Đức
mà bà cụ
nhờ tôi đi thăm dùm. Mất nửa tiếng
giao quà và kể
chuyện
gia đình cho anh Đức
nghe, tôi được
biết chỉ còn một tiếng rưỡi gặp chồng.
Thế là tôi bắt đầu ôm mặt
khóc, càng lúc càng nức
nở vì tủi cực, không thể nào cầm
được. Trên thế giới này có ai phải lặn
lội hằng ngàn cây số để
chỉ được gặp
chồng có một giờ ba mưới phút không hả Trời?!!
Hai cô công an lớn tiếng
dọa dẫm, những
là phải
động viên học tập tốt,
không lau sạch
nước mắt thì không cho ra thăm… Nhưng kìa,
ai như
chồng tôi vừa bước ra khỏi
cổng trại. Tôi không còn nhớ quy định luật lệ gì nữa,
vùng đứng
dậy chạy nhào ra như một tia chớp.
Hai đứa
nhỏ vừa khóc vừa
chạy theo. Hai công an nữ bị bất
ngờ không cản kịp, đứng
nhìn.
Tôi chạy tới
ôm anh, và càng khóc dữ,
đôi chân khụyu
xuống, không còn sức lực. Trời
ơi, chồng tôi ốm yếu đến
nỗi tôi ôm không trọn một vòng tay. Người anh nhỏ
thó hẳn
lại, chỉ có đôi mắt sáng với tia nhìn ngay thẳng là vẫn hệt như
ngày nào, nhưng
nay đượm nét u buồn
khiên tôi đứt
ruột. Anh vẫn không nói được lời nào, chỉ
bặm môi nhìn tôi nhìn con thăm thẳm. Tôi biết anh đang cố trấn tĩnh, vì không muốn rơi
nước mắt trước
mặt công an. Anh dìu tôi và dắt con trở vào nhà thăm nuôi. Anh nắm chặt tay tôi, đưa vào chiếc
ghế băng. Cô công an lạnh lùng chỉ anh bước sang chiếc ghế đối diện,
rồi ngồi sừng sững
ở đầu bàn, cứ
chăm chăm nhìn vào sát tận
mặt tôi. Anh khuyên tôi ở nhà ráng nuôi dạy con cho giỏi. Rồi thật nghiêm trang, anh bảo tôi phải đưa con đi
vùng kinh tế mới, về
tỉnh Mỹ Tho chỗ bác Chánh với chú Cương và cô Huyền
đã tự
nguyện
đi khai hoang rồi,
đang chờ
vợ chồng mình lên lao động sản
xuất. Tôi hơi sững sờ,
rồi chợt hiểu, đang khóc lại suýt bật cười hân hoan, khi thấy nét khôi hài tinh anh của chồng
tôi vẫn
còn nguyên vẹn.
Bác Chánh là tên gọi
của thầy mẹ chúng tôi, chú Cương và
cô Huyền chính là chú Cường, chú em chồng đã đưa cả nhà xuống
tàu HQ 505 đi lánh nạn.
Cô công an có vẻ
rất đắc ý, nhắc
tôi:
– Chị phải
nói gì động
viên anh ý đi chứ.
Anh nhìn mắt tôi, cười
thành tiếng.
Tôi chợt
cười, nhưng lại chợt giận hờn.
Tôi cúi mặt giận
dỗi:
– Em không đi đâu hết, em chờ anh về đã rồi muốn đi đâu cũng được…
Tôi lại khóc, hai tay nắm chặt
tay anh, chỉ
sợ phải xa rời.
Cô công an cứ
quay nhìn hết
người nọ đến
người kia, lên tiếng:
– Chị này hay nhỉ! Phải
đi kinh tế
mới, lao đông tốt thì anh ấy mới chóng được
khoan hồng
chứ! Trại giáo dục anh ý tiến bộ thế
đấy, còn chị thì cứ… Chỉ được cái khóc là giỏi thôi!!
Anh không nhịn được,
lại cười khanh khách và nói:
– Đó em thấy chưa,
cán bộ ở
đây ai cũng tiến
bộ như vậy
hết, em phải nghe anh mới được… Em cứ
thấy anh bây giờ thì biết chính sách nhà nước ra sao, cũng đừng lo gì hết, ráng nuôi dạy con cho nên người đàng hoàng đừng học theo cái xấu, nghe…
Tôi dở khóc dở
cười, chỉ nắm chặt
tay anh mà tấm
tức, dỗi hờn. Anh gọi
hai con chạy
sang ngồi
hai bên lòng. Cô nữ
công an do dự,
rồi để yên, lại
tiếp tục nhìn sững
vào mặt
tôi. Anh ôm hôn hai cháu, nói chuyện với
hai cháu. Đôi mắt
chúng tôi chẳng
nỡ rời nhau. Mắt
tôi nhòa lệ
mà vẫn
đọc được trong mắt
anh những
lời buồn thương da diết. Tội nghiệp hai con tôi đâu biết chỉ được gần
cha trong giây lát nữa
thôi.
Tôi như một
cái máy, vừa
khóc vừa
lay lay bàn tay anh, nhắc
đi nhắc
lại, em sẽ đợi anh về,
anh đừng
lo nghĩ gì nghe, em sẽ
đợi anh về, em nhất định đợi
anh mà… anh về
rồi mình cùng đi kinh tế mới… anh ráng giữ gìn sức
khỏe cho em và con nghe… Em thề em sẽ đợi anh về….
Em không sao đâu… Anh đừng
lo nghĩ, cứ
yên tâm giữ
gìn sức
khỏe nghe, em thề mà, anh nghe…
Tôi chợt thấy
chồng tôi nhòa nước mắt. Cô công an lúng túng đứng dậy,
bỏ ra ngoài nhưng lại trở vào ngay, gõ bàn ra hiệu cho người ở ngoài. Người
nữ công an kia chẳng biết núp ở đâu, lập tức xuất
hiện, báo hết giờ thăm… Vợ chồng tôi lại
ôm chặt
nhau ở
đầu bàn bên kia ngay trước cửa phòng, bất
chấp tiếng gõ bàn thúc giục. Anh nắm chặt hai bàn tay tôi, chỉ nói được một câu:
-Anh sẽ về
đưa em và con đi, không thể quá lâu đâu, đừng lo nghe, cám ơn em… đã quyết
đợi anh về… Rồi anh nghẹn
ngào…
Tôi bị ngăn lại
ngay cửa
nhà thăm nuôi, cháu Dung chạy ù theo cha, cu Bi nhút nhát đứng ôm chân mẹ cùng khóc. Tôi ôm cây cột gỗ
nhìn dáng anh chậm
chạp buớc tới hai cánh cổng gỗ
to sầm,
mà không thể
nào ngưng
tiếng khóc.
Anh ngoái đầu nhìn lại
hoài, bước
chân lảo
đảo, chiếc xe cút kít một bánh mấy lần chao nghiêng vì hàng quá nặng…
Sáng hôm sau tôi như người
mất hồn. Các chị
bạn cũng chẳng hơn gì. Mấy
chị em và bà bác dắt díu nhau ra, mới biết không được về lối
cũ, mà phải
đi vòng bên ngoài trại
cả gần hai chục
cây số
nữa để trở
lại chỗ ngã ba Nam Phát.
Đường xuyên rừng,
rồi lại ra đồng
trống, nắng hanh chang chang như muốn quật
ngã ba mẹ
con tôi. Cu Bi mệt
lắm, có lúc ngồi bệt xuống,
áo quần
mồ hôi ướt nhẹp. Tôi phải đứng giữa
nắng đem thân mình che nắng cho hai con, dỗ dành chúng, rồi lại bế
cu Bi, lầm
lũi bước
thấp bước cao. Bà bác và hai chị cùng cô Út cứ phải
đi chậm
lại chờ mẹ con tôi. Bao nhiêu cơm gạo
đã giao cho chồng
hết, chúng tôi không còn gì ăn uống. Dọc dường mua được
mấy cây mía, tôi róc cho các con ăn
cho đỡ
đói. Hai đứa
không khóc lóc một
lời. Bé Dung thiệt ngoan, luôn miệng dỗ em cố gắng. Bụng
đói, chân mỏi
rã rời
trong lúc chiều
cứ xuống dần.
Đám người
lang thang trong những
cánh rừng
tre nứa
âm u, trên miền
đất không một chút tình thương. Ai cũng lo sợ, dớn dác nhìn trước ngó sau, tự nhiên túm tụm lại
mà đi, càng mệt
lại càng như muốn chạy.
Tôi bế
cu Bi, mỏi
tay quá lại
xoay ra cõng cháu, vừa
mệt vừa đói vừa
sợ, lếch thếch
vừa đi vừa chạy, không biết sẽ ngã gục
lúc nào. Cháu Bi nhìn thấy
mẹ mệt quá, đòi tuột xuống,
rồi lại hăng hái tiến bước.
May sao, đến
hơn 6 giờ chiều, trời gần tối
hẳn, thì trở lại được
ngã ba Nam Phát. Hai công an dắt xe ra đạp
về nhà, dặn chúng tôi ở đó đón xe đò ra Thanh Hóa.
Đám người ngồi
bệt xuống bên đường. Lâu lắm mới có một
xe chất
đầy người chạy qua, nhưng đều chạy thẳng, không ngừng. Đã hơn chín giờ đêm. Dáng cô Út cao mảnh rắn chắc đứng vẫy
xe in lên nền
trời đêm đầy sao như một pho tượng
thần Vệ Nữ.
Một xe lớn có hai bộ đội chở
đầy tre nứa, từ xa chiếu đèn pha sáng lòa trên dáng người con gái đảm đang ấy, từ từ dừng
lại. Chúng tôi xúm lại hứa trả
thật nhiều tiền, rồi bà bác cùng hai con tôi được lên ngồi ca bin, còn tôi với hai chị và cô Út đẩy kéo nhau leo lên ngồi nghiêng ngả trên tre nứa, tay bám, chân đạp chặt vô thành xe, qua năm tiếng đồng hồ trên con đường đất dằn xóc kinh hồn, nhiều
lần tưởng đã văng xuống đất.
Hai bộ
đội tử tế,
không lấy
tiền, chỉ ăn hai tô cháo lòng mà chúng tôi
mời mãi.. Ra đến Thanh Hóa là hai giờ sáng. Các chị đi thăm chồng xuống tàu đêm thật đông, thăm hỏi tíu tít, trả lời không kịp.
Khi ấy
sao mà chị
em chúng tôi thương
nhau quá
sức.
Vé về Nam không có, phải mua vé ra Hà Nội rồi
mới đi ngược trở về. Đêm hôm sau mới đến
ga Hàng Cỏ,
mấy bà con ra đường đang ngơ ngác thì
các chị đằng xa đã đôn đáo vẫy chào, kéo chúng tôi tới chỗ…
lề đường, đầy
những chiếu với tấm
ni lông, nơi
tạm trú mà các bà “vợ tù cải tạo” gọi
là… Hotel California.
Vâng, chúng tôi nghiễm nhiên nhận
chồng chúng tôi là “các ông cải tạo” như
người miền Nam vẫn kêu với tấm tình trân quý, để phân biệt
với những người tù hình sự. Cho nên danh từ thường đi theo với ý nghĩa nào mà người ta hiểu
với nhau, không còn giữ được nguyên cái nghĩa mà nó được đặt
cho vì mục
đích chính trị
sâu xa.
Ngủ lề
đường nhưng chẳng ai thấy khổ, vì gần nhau thấy ấm hẳn
tình người
đồng cảnh. Các chị em thì thầm trò chuyện suốt đêm, kẻ thì khóc rấm rứt, người
lại cười khúc khích. Tôi vừa ôm con ngủ gật
vừa quạt muỗi cho hai cháu, hình ảnh chồng tôi quay cuồng mãi trong đầu, khi anh nói, khi anh cười, lúc anh đầy nước mắt…
Sau những
nguồn cơn cực
nhọc và xúc động mạnh này, về nhà tôi bị thương hàn
nhập lý, rụng hết mái tóc dài, gần trọc cả đầu,
tôi đã trối
trăn cho bà chị
nuôi dạy
hai cháu, tưởng
không còn được
thấy mặt chồng
tôi lần
nữa…
…Chín năm sau, đúng ngày giỗ đầu Ba tôi, anh đột ngột
bước vô nhà. Tôi suýt té xỉu vì vui mừng, cứ ôm chặt anh mà.. khóc ngất. Anh cười sang sảng:
– Cái chị này chỉ
được cái khóc là giỏi thôi, phải động viên cho chồng đi sang Mỹ đi chứ…
Hà hà..
Các chị em tôi từ
Đà Lạt
tất bật xuống
thăm. Vừa
xong ngày đám giỗ
thì cả
nhà đã vui như
hội. Tất nhiên tôi là người mừng vui nhất….
Hạnh phúc đã trở về
trong vòng tay tôi. Tôi sẽ
ôm thật
chặt lấy nguồn
hạnh phúc này, không bao giờ để cho đi đâu xa mất nữa…
>
>
>
>
>
>
>
>
>
>
>
>
>
>
>
>
>
>
>
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết