From: VP.
PHAT-HOC TINH-QUANG
CANADA <cutranlacdao>
Date: 2013/9/29
Subject: [VP.PHTQ.CANADA]
Date: 2013/9/29
Subject: [VP.PHTQ.CANADA]
Chỉ cần thay đổi cách suy nghĩ, mọi người sẽ cảm
nhận "Ơn Đời Chứa Chan" _ Hạnh phúc là đây trong phút giây này
ƠN ĐỜI CHỨA CHAN
Tuổi già, buổi sáng thức dậy, nghe gân cốt đau
rêm mà mừng, vì biết mình còn sống. Đại ý có người viết như vậy, trong một cuốn
sách Mỹ mà ông Tư đọc được, làm ông thấm thía cái hạnh phúc lâng lâng của từng
sớm mai khi vừa tỉnh giấc. Bạn bè cùng trang lứa với ông, nhiều người đã về với
Diêm Vương khi còn trẻ măng, vì cuộc chiến tương tàn khốc liệt dài ngày trên
quê hương. Nhiều người khác gục ngã trong trại tù vì đói khát, bệnh tật, mồ
hoang vùi cạn. Một số khác nữa, vì khao khát tự do mà chôn thân dưới đáy biển,
hoặc chết khô giữa rừng sâu. Không ít người còn lại, tử thần cũng đã đón mời vì
bạo bệnh, khi tuổi năm sáu mươi. Phần ông vẫn còn dai dẳng sống sót cũng là ân
huệ trời ban, không vui hưởng tháng ngày, cũng uổng lắm sao!
Ý nghĩ đó làm ông mỉm cười sung sướng. Ông vẫn
trùm thân trong chăn ấm. Tội chi mà dậy sớm cho mệt. Mỗi khi nghe tiếng khởi
động máy xe từ hàng xóm vọng qua trong buổi tinh sương, ông càng vui sướng hơn,
vì không còn phải vùng dậy giữa đêm đen, lặn lội đi kiếm cơm hàng ngày như mấy
gã trẻ tuổi ở cạnh nhà. Về hưu rồi, mỗi tuần hưởng bảy ngày chủ nhật, bảy ngày
thảnh thơi. Hết áp lực của công việc hàng ngày, không phải lo lắng bị thất
nghiệp khi kinh tế khủng hoảng xuống dốc. Khoẻ re.
Cứ nằm trùm chăn ấm nghe nhạc mềm văng vẳng ru
đưa, phát ra từ cái radio nhỏ, có khi ông chợp thêm được một giấc ngủ ngắn ngon
lành. Ngủ chán thì dậy. Bước xuống giường, dù khớp xương sưng đau, đi khập
khễnh ông cũng thầm cám ơn cái chân chưa liệt, còn lê lết được. Chưa phải nằm
dán lưng vào giường như một số người bất hạnh khác. Những kẻ này mà nhích được
vài bước cà thọt như ông, thì chắc họ cũng sướng rân người. Ông thầm bảo, có
thêm được một ngày để sống, để vui, để yêu đời. Bệnh hoạn chút chút, thì phải
mừng, chứ đừng có nhăn nhó than vãn ỉ ôi.
Mỗi khi đánh răng rửa mặt, ông lầm thầm: “Mình
sướng như vua rồi, có nước máy tinh khiết để dùng. Giờ nầy, cả thế giới, có hơn
một tỉ người thiếu nước để nấu ăn, để tắm giặt và nhiều tỉ người khác không có
nước sạch, phải uống nước dơ bẩn”. Dù cái bàn chải đánh răng đang ngọ ngoạy
trong hàm, ông cũng ư ử hát ca. Khi áp cái khăn tẩm đầy nước lên mặt, ông cảm
được cái mát lạnh và niềm sung sướng chứa chan đang lan tỏa chạy khắp người.
Ông biết đang được ân sủng của trời đất ban cho trong tuổi già.
Ngồi lên cái bồn cầu êm ái, nhà cầu sạch sẽ,
trắng toát, thơm tho, không vướng một chút mùi hôi hám, đèn đóm lại sáng trưng,
có nhạc văng vẳng từ radio, ông cầm cuốn sách thưởng thức chữ nghĩa của “thánh
hiền”, tư tưởng của Đông Tây. Không bao giờ ông quên cùng giờ phút nầy, có hơn
ba tỉ nhân loại không có cầu tiêu để làm cái chuyện khoái lạc thứ tư. Có người
phải ra đồng lồng lộng gió, mà làm chuyện “nhất quận công, nhì ị đồng”. Phải
gấp gấp cho xong chuyện, không nhẩn nha được, vì hai tay phải múa lia lịa hất
ra đàng sau, để xua đuồi lũ ruồi đồng đang vo ve “oanh tạc”. Xong việc, may mắn
lắm thì có lá chuối khô mà lau chùi, còn không thì dùng đất cày, đá cục, nắm
cỏ, que nhánh cây tươi, khô. Ông cứ nhớ thời làm việc ở quận lỵ, chỉ có nhà
tiêu lộ thiên, hai tấm ván bắt ngang qua một hầm cầu lộ thiên, nắng xông hơi
phân người lên nóng hừng hực rát cả mặt, bên dưới giòi bọ lúc nhúc lổm nhổm làm
thành một tấm màn trắng-ngà chuyển động. Có con gà ở đáy hầm, nó đang thưởng
thức ngon lành món giòi bọ, thấy ông xuất hiện bất thần, sợ hãi hoảng hốt đập
cánh bay lên kêu quang quác và vung vãi ‘ám khí’ khắp trong không gian, làm ông
cũng khiếp viá, ôm đầu phóng chạy dài. Nghĩ đến chừng đó thôi là ông đủ cảm
được cái sung sướng đang có ngay bây giờ. Ngồi thật lâu, đọc cho xong mấy trang
sách, mới nhởn nhơ rời phòng.
Ông Tư tự đãi
một bình trà nóng, một ly cà phê thơm, rồi nấu nồi cháo gạo tẻ đặc rền ăn với
cá kho mặn. Dọn ra bàn, đèn vàng soi một khoảng ấm cúng. Ông thong thả vừa hớp
nhâm nhi, vừa ăn từng muỗng cháo, chất gạo béo tạo vị giác đi qua trong cổ
họng. Ông lầm thầm: “Ngon, cao lương mỹ vị cũng không bằng”. Ông thường ngâm
nga hai câu thơ: “Vợ cũ, chó già, tô cháo nóng. Ba nguồn thân thiết dạt dào
thương” . Mắt ông dán vào trang thơ đang cầm trên tay, gật gù thưởng thức ý lời
hoa gấm. Ông trầm mình vào những giòng thơ, tim xao xuyến xúc động mênh mang.
Thỉnh thoảng ông dừng lại, và nói nhỏ cho chính ông nghe: “Tiên trên trời cũng
chỉ sướng và thong dong như thế này là cùng”. Ông nhớ đến cái thời “tiến
nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên xã hội chủ nghĩa”, buổi sáng bụng đói meo,
vác cuốc đi làm lao động tay chân nặng nhọc, ráng uống một bát nước lã để cầm
hơi và đánh lừa cái bụng đang sôi sồn sột. Bây giờ được như thế nầy, phải biết
cám ơn ân sủng của trời ban cho. Biết bao nhiêu tỉ người trên thế giới này mơ
ước được có một buổi sáng thảnh thơi và no ấm như ông mà không được nhỉ?
Nhìn xuyên qua cửa phòng ngủ, ông thấy bà vợ nằm
ngủ giấc yên bình, lòng ông dạt dào niềm thương. Bà đã cùng ông mấy mươi năm
dắt dìu nhau trong phong ba bão táp của giòng đời nghiệt ngã. Đã chia sẻ ngọt
ngào cũng như đắng cay của một thời khói lửa điên đảo. Giờ này, may mắn vẫn còn
có nhau trong cuộc đời, thương yêu thắm thiết, nhường nhịn nâng đỡ chăm sóc
ngày đêm. Không như những cặp vợ chồng già khác, cứ lục đục gây gổ nhau, tranh
thắng thua từng li từng tí, làm mất hạnh phúc gia đình. Ông thương bà biết an
phận thủ thường, không đứng núi nầy trông qua núi nọ. Ông thấy bà hiền lành và
có trái tim đẹp như thánh nữ. Ông muốn vào phòng, hôn bà lên trán, nhưng ngại
làm vợ mất giấc ngủ ngon buổi sáng. Ông lại cám ơn trời đã đem bà buộc vào đời
ông. Ông cười và nhớ câu nói của một nhà văn nào đó: “Đời sống không dễ khi
thiếu đàn bà, nhưng sống được với một người đàn bà cũng không phải dễ”.
Ông Tư ra vườn, một mảnh đất nhỏ trồng vài cây
hoa, hương thơm thoang thoảng, có tiếng chim kêu đâu đó líu lo vọng lại. Mấy
đóa hoa sặc sỡ còn đọng sương đêm lóng lánh. Nắng mai ấm áp phả lên da thịt
ông, tạo thành một cảm giác dịu dàng, êm ái. Ông vươn vai, xoay người trong thế
thể dục chậm, xương sống được thư giãn kêu răng rắc, đã đời. Hít thở và phất
tay chừng mười lăm phút cho máu huyết lưu thông. Loại thể dục nầy đã giúp ông
bớt được những cảm mạo thông thường, ông tin vậy.
Ông Tư thay áo quần để đi ra đường. Cầm cái áo
lành lặn bằng vải tốt trên tay, ông thường nhớ đến thời đi tù, khâu bao cát làm
áo, rách tả tơi, không đủ che gió lạnh thấu xương của núi rừng. Thế mà cũng có
nhiều tù nhân khéo tay và nghịch ngợm, khâu bao cát thành bộ đồ lớn, đủ ba
mảnh, và làm luôn cả cái “cà vạt”, mang vào trông cũng sang trọng như đi ăn đám
cưới. Nhớ lại thời đó mà rùng mình. Còn sống sót, và đến được đất nước tự do
này, cũng là một điều mầu nhiệm lạ lùng. Ông Tư đi ra đường, xe cộ vùn vụt qua
lại liên miên. Lề đường rộng, phẳng phiu, sạch sẽ. Bên kia là giao điểm của hai
xa lộ, các nhánh cầu cao đan uốn éo chồng chất lên nhau, vòng vèo trên không,
như những nùi rối. Ông Tư thầm cám ơn tiền nhân đã đổ sức lực, mồ hôi, tài
nguyên khai phá và xây dựng nên những tiện nghi nầy cho ông nhảy xổm vào hưởng
dụng, mà không ai có một lời ganh ghét, tị hiềm. Ông, từ một trong những nước
lạc hậu nhất của hành tinh nầy, bị chính quyền của xứ ông bạc đãi, kỳ thị, kềm
cặp và lấy hết các tự do cơ bản. Đến đất nước này, ông được bình đẳng, có công
ăn việc làm hợp với khả năng, con cái ông được đến trường, học hành thành tài,
có nghề nghiệp vững chắc và sống với mức trung lưu. Ông cảm thấy còn nợ quê
hương mới nầy quá nhiều thứ, từ tinh thần đến vật chất, mà biết không bao giờ
trả lại được một phần nhỏ nào. Ông Tư vừa đi bộ vừa ca hát nho nhỏ.
Một người cảnh sát cao lớn dềnh dàng đi ngược
đường chào ông, ông chào lại bằng lời cám ơn đã giữ gìn an ninh cho dân chúng
sinh sống. Người cảnh sát cười và nói đó là bổn phận, vì lương bổng của ông ấy
được trả bằng thuế của dân chúng, trong đó có ông. Ông Tư thấy trong lòng bình
an, ông không làm điều gì phạm pháp, thì không sợ ai cả. Ông đọc trong báo,
thấy có những xứ, dù không làm gì sai quấy cả, cũng bị cảnh sát giao thông chận
lại đòi tiền, nếu không cho tiền, thì bị quy kết đủ thứ tội mà mình không có.
Nắng chiếu hoe vàng cả dãy phố của một ngày thu,
ông Tư bước đi mà lòng rộn rã. Gặp ai cũng chào, cười vui vẻ. Nghe ông chào hỏi
nồng nhiệt, mọi người đều vui theo. Thấy một ông cụ mặt mày đăm đăm rầu rĩ đi
ngược đường, ông Tư lớn tiếng:
“Chào cụ? Có mạnh khỏe không? Hôm nay trời nắng
đẹp quá!”. Ông cụ trả lời qua loa: “Tàm tạm, chưa chết! Chán cái mớ đời”. Ông
Tư nói to: “Việc chi mà chán đời cho mệt cụ ơi. Chưa chết là vui lắm rồi. Cụ có
biết là chúng ta đang sung sướng phước hạnh, tội chi phí phạm thời gian để buồn
nản?”. Ông cụ thở dài: “Ai cũng có nhiều việc âu lo! Đời đâu có giản dị! À,
nầy, mà hình như ông đau chân, bước đi không được bình thường? Thế thì vui nỗi
gì?. Ông Tư cười lớn: “Vâng, tôi đau chân, nhờ đau chân mà tôi thấy được niềm
vui hôm nay lớn hơn, vì còn đi được, bước được, chứ chưa phải nằm nhà. Cụ ơi,
nếu lo âu mà giải quyết được những khó khăn, thì nên lo. Nhưng nếu lo âu, mà
không giải quyết chi được, thì hãy vui lên, cho đỡ phí phạm ngày tháng trời
cho”. Ông cụ già lắc đầu bỏ đi.
Ông Tư xà vào ngồi trên ghế đá mát lạnh của công
viên dưới tàng cây có bóng nắng lung linh. Nhìn bọn trẻ con chơi đùa la hét lăn
lộn trên bãi cát, ông vui lây với cái hồn nhiên của chúng. Bên kia đồi cỏ, có
đôi nam nữ nằm dưới gốc cây, kê đầu lên tay nhau, tóc đổ dài óng ánh, thỉnh
thoảng vang tiếng cười rúc rích. Đất nước nầy ấm no và thanh bình quá, sao có
nhiều người còn kêu ca đời sống khó khăn? Phải chăng những kẻ này chưa biết an
phận, muốn được nhiều hơn điều đang có, đang đủ. Không thấy được phước hạnh là
lỗi tại họ. Ông dong tay bắt vài tấm lá rơi đang quay cuồng trong gió và lấy
bút ghi lên mặt lá mấy giòng thơ vừa thoáng qua trong trí để ca ngợi cuộc đời.
Thấy bãi cỏ êm mát, ông nằm dài, những vòng tròn sáng màu vàng rải rắc trên
mgười ông. Gió hiu hiu mát từ hồ nước vờn qua làm mơn trớn thịt da. Ông Tư rút
từ túi quần một cuốn sách nhỏ có nhan đề “10 ngàn điều làm nên hạnh phúc”. Tác
giả tập sách nhỏ nầy, thấy đâu đâu cũng là hạnh phúc tràn đầy. Vấn đề là cảm
nhận được cái sung sướng, cái hạnh phúc đang có. Từ việc đặt chân lên một tấm
thảm mềm êm ái, đến việc cắn một trái ngọt chín mọng trong miệng, đến mơ mộng
được hát trên bục một hộp đêm, nghe một lời nói dịu dàng yêu thương.
Hạnh phúc và sung sướng cảm nhận được từ những
điều rất nhỏ nhặt, đơn sơ, tầm thường nhất trong sinh hoạt hàng ngày. Không cần
phải là ôm chặt người yêu trong vòng tay, cũng chẳng phải vật nhau lăn lộn trên
giường, cũng không cần đến việc cầm trong tay cái vé số trúng độc đắc, hoặc làm
chủ được một tòa lâu đài sang trọng. Ông nghĩ, chắc sẽ có người cho tác giả tập
sách nầy là kẻ “lạc quan tếu”. Nhưng thà lạc quan tếu hơn là bi quan. Đời nầy,
có nhiều người đắm mình trong hạnh phúc, mà cứ tưởng đang ngụp lặn trong bể
khổ. Hoặc đang được phước hạnh mà không biết và xem thường, chỉ khi mất đi, hay
đã trôi qua, mới biết, thì đã quá muộn màng.
Nắng đã xông hơi nồng nóng, ông Tư đón chuyến xe
buýt ra về. Cái vé xe cho người già rẻ rề, chỉ bằng một phần ba vé bình thường.
Ông nói lời cám ơn tài xế, và thấy mang ơn những người cùng đi xe công cộng
nầy, vì xem như họ đã gián tiếp gánh một phần tiền vé cho ông.
Về nhà, bà Tư đã dọn sẵn cơm trưa, mời ông rửa
ráy cho sạch sẽ, rồi ra ăn. Thấy ly nước chanh muối, ông cầm uống, chất nước ngọt
ngào mằn mặn chua chua, ngon lành đi qua cổ họng. Ông nhìn vợ với ánh mắt
thương yêu và nói lời cám ơn cho bà vui. Chưa ăn, mà thấy bát canh bông bí nấu
tôm đã biết ngon. Những món ăn thanh đạm này, với ông, còn ngon hơn sơn hào hải
vị. Thực ra ông có biết sơn hào hải vị ra làm sao đâu. Nghe người ta nói, ông
nói theo. Thế thôi.
Ăn xong, còn chút cơm thừa, bà Tư bỏ vào chén,
cất vô tủ lạnh, không dám đổ đi, vì sợ phí phạm của trời. Bà nhắc câu nói của
ông: “Ngay giờ khắc nầy, trên thế giới có hơn năm trăm triệu người đang đói rã,
không có một miếng gì đề ăn, và có hơn vài tỉ người ăn chưa no bụng, và nhiều
tỉ người khác quần quật ngày đêm, cũng chỉ mong có đủ no mà thôi”. Đã từng đói,
nên ông bà không dám phí phạm thức ăn.
Ông Tư mừng vì ăn còn thấy ngon miệng, không như
một số người khác, ăn gì cũng như nhai đất sét, không muốn nuốt, vì nhạt miệng,
mất vị giác. Một số người khác còn tệ hại hơn nữa, họ không còn ăn bằng miệng
được, mà ăn bằng bụng, nhờ ống dẫn thức ăn nối với dạ dày, như đổ xăng cho xe
hơi.
Ông Tư ngồi vào bàn mở máy vi tính lướt mau tin
tức thế giới biến động. Đôi khi thấy giá thị trường chứng khoán tụt dốc xuống
thấp, làm nhiều nhà bình luận lo ngại. Nhưng ông Tư cười, ông chẳng thèm để ý,
không cần quan ngại chi cả. Chứng khoán lên hay xuống, cũng thế thôi. Ông có lo
ngại hay quan tâm cũng chẳng thay đổi được gì. Với số tiền hưu khiêm tốn, và
cách ăn tiêu trong khả năng tài chánh, ông bà Tư chưa bao giờ thấy thiếu thốn
cái gì. Có một ông bạn khoe rằng nay đã thành triệu phú. Bà Tư đùa và hỏi:
triệu phú thì khác người không là triệu phú cái gì? Ông bạn lúng túng ấp úng
không biết phải trả lời ra sao. Nhưng ông bà Tư chắc chắn rằng, họ ít tiền,
nhưng được sung sướng, đầy đủ hơn nhiều người giàu triệu phú khác, nhờ biết
cách sống và biết suy nghĩ lạc quan của họ.
Ông Tư rà mắt qua các tin tức và các biến cố mới
nhất. Thật là tuyệt diệu và thần kỳ. Chuyện vừa xảy trong giờ trước, đã được
tường thuật ngay. Dạo một vòng tin tức xong, ông quay qua mở vi-thư của bạn bè.
Có những người bạn xa cách hàng ngàn dặm, mấy chục năm nay chưa gặp lại nhau,
mà thư từ qua lại liên miên, tưởng như gần gũi trong gang tấc. Tha hồ hàn huyên
tâm sự. Tình cảm qua lại thân thiết chứa chan. Nhờ máy vi-tính, khi viết, tha
hồ bôi xóa tẩy sửa lung tung, mà không cần phải xé tờ nầy, viết lại tờ kia, vô
cùng tiện lợi. Thư viết xong, chỉ cần một cái nhấp con chuột, bạn ông nhận được
ngay tức thì. Không cần phải nhờ bưu điện chuyển đi có khi cả tuần mới đến.
Hàng chục lá thư của bạn bè khắp nơi trên thế giới chuyển đến ông đủ điều hay,
lạ, nhiều bài thuốc hiệu nghiệm, trăm bản nhạc du dương, ngàn hình ảnh tuyệt
vời của các thắng cảnh thiên nhiên, các đoạn phim ngắn đủ thể loại của nhiều
vấn đề khác nhau. Ông cám ơn khoa học kỹ thuật tiến bộ, đem thế giới mênh mông
lại gần gũi trong không gian và cả thời gian.
Mỗi khi nghe tin một người già bệnh hoạn qua đời,
ông Tư mừng cho họ thoát được thời gian đau yếu sống không chất lượng. Nhiều
người nằm liệt vài ba năm, không sống, không chết. Còn có những kẻ phải cưa tay
cưa chân. Ông vẫn thường mong sau này, nếu được chết, thì chết mau chóng, yên
lành, khỏi qua thời gian bệnh hoạn lâu ngày.
Có một bạn già mỉa mai, cho ông Tư là “kẻ tự
sướng”, ông chỉ cười và nói: “Thà tự sướng hơn là tự khổ”.
Ông Tư thường nghĩ rằng, ông đã và đang được quá
nhiều phước hạnh của trời ban, nhiều ân nghĩa của nhân loại, xã hội, nhiều tình
thương của gia đình, bạn bè, người quen và cả chưa quen. Ông thấy sung sướng
hạnh phúc. Ông tội nghiệp cho những người suốt đời than van, nắng không ưa, mưa
không chịu, và tự bôi đen ngày tháng đẹp đẽ của họ, và dìm đời vào bất mãn, khổ
đau ./.
TẬP-SAN TỪ-BI & TRÍ-TUỆ
do VP.PHTQ.CANADA chủ-trương & phát-hành
do VP.PHTQ.CANADA chủ-trương & phát-hành
Kính thưa quí vị và các bạn,
Hạnh phúc là đây trong giây phút này.
Chỉ cần thay đổi cách suy nghĩ, mọi người sẽ
cảm nhận "Ơn Đời Chứa Chan".
Hạnh phúc là gì, ở đâu, có thể tìm thấy chăng?
Khi bị đau mắt, không còn nhìn thấy rõ và sau
khi được chữa khỏi, con người mới nhận ra được hạnh phúc là thị giác còn
tốt.
Khi bị bệnh nghẹt mũi, không còn thở được dễ
dàng, phải thở bằng miệng và sau khi được chữa khỏi, con người mới nhận ra được
hạnh phúc là hít thở bình thường.
Khi bị bệnh liệt giường, đi đứng không được và
sau khi được chữa khỏi, con người mới nhận ra được hạnh phúc là đi đứng bình thường.
Đó là nói về vật chất, chuyện bên ngoài.
Về phương diện tinh thần hay tâm linh, chuyện
bên trong, con người chỉ cần chuyển hóa tâm bất an thành tâm an thì hạnh phúc là đây.
Làm sao chuyển hóa?
Tâm bất an là do con người thường ngày sống
trong thế giới nhị biên.
Thế giới nhị biên là sự suy nghĩ thị/phi,
đúng/sai, phải/quấy, tốt/xấu, khen/chê, thương/ghét, thích và không thích. Chỉ
cần vượt qua, chuyển hóa sự suy nghĩ như vậy, con người sẽ đạt được thế giới
bất nhị.
Hạnh phúc là đây, ngay giây phút này, chính là nghiã như vậy đó.Sách có câu:
Tâm buồn cảnh được vui sao.
Tâm an dù cảnh ngộ nào cũng an.
Quan trọng hơn cả, con người nên biết rằng:
Hạnh phúc (hay phước báo) mình đang hưởng không do trời ban, mà chính do mình
biết cách sống
vị tha không ích kỷ. Cách suy nghĩ luôn luôn vì người, không vì mình, mới đem
lại hạnh phúc chân thật. Phải biết làm phước (tạo phúc) mới hưởng phước. Ví như
phải biết làm việc kiếm tiền, mới có tiền để tiêu xài.
Hạnh phúc (hay phước báo) trên đời ví như tiền
tiết kiệm, tiêu xài sẽ có ngày cạn kiệt, nếu không biết tiếp tục làm phước
thêm. Ví như các vị công nương, các vị đế vương, các vị đại gia hưởng phước
sung sướng, giàu sang, sắc đẹp, sức khỏe, nhưng tiêu xài phung phí, đến khi hết
phước, thảm họa xảy đến không kịp cứu vãn.
Tóm lại, xin cám ơn quí vị và các bạn thường
xuyên liên lạc, tạo nên chuỗi hạnh phúc vô biên vô tận trong cuộc sống này.
Kính chúc quí vị và các bạn một ngày an vui như mọi ngày và mọi người.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mưu Ni Phật
Kính thư,
Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ
VP.PHTQ.CANADA <cutranlacdao@yahoo.com>
Kính mời quí vị tham khảo thêm các bài viết
liên quan:
Kính mời viếng thăm
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết