Người Việt đầu tiên đặt chân đến Hoa Kỳ.
Khi Bùi Viện (một vị quan sống dưới triều vua Tự Đức) đặt chân
đến Hoa Kỳ để đặt quan hệ ngoại giao vào đầu những năm 1870, lịch sử đã coi ông
là người Việt Nam đầu tiên đặt chân lên đất nước châu Mỹ này. Nhưng trong cuốn
sách "con đường thiên lý" (NXB Văn hóa - Thông tin), nhà nghiên cứu
Nguyễn Hiến Lê đã đưa ra những bằng chứng thuyết phục, chứng minh rằng trước
Bùi Viện 20 năm, có một người Việt đã thực hiện một chuyến phiêu lưu ở miền Tây
hoang dã của Hoa Kỳ như một cao bồi thực thụ.
Từ một người đi tìm vàng ở California, ông
đã trở thành ký giả người Việt đầu tiên trên đất Mỹ. Ông là Trần Trọng Khiêm
(người làng Xuân Lũng, phủ Lâm Thao, Phú Thọ).
Từ người Việt đầu tiên đến Hoa Kỳ và nhà báo Việt đầu tiên trên đất Mỹ Trần Trọng Khiêm sinh năm Tân Tỵ (1821), tức năm Minh Mạng thứ 2, là con của một gia đình thế gia vọng tộc ở phủ Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ nhưng trong người lúc nào cũng sẵn máu phiêu lưu. Năm ông 21 tuổi, vợ ông bị một viên chánh tổng âm mưu làm nhục rồi giết hại. Sau khi giết tên chánh tổng báo thù cho vợ, ông xuống Phố Hiến (Hưng Yên), xin làm việc trong một tàu buôn ngoại quốc và bắt đầu bôn ba khắp năm châu bốn bể.
Suốt từ năm 1842 đến 1854, Trần Trọng Khiêm đã đi qua nhiều
vùng đất, từ Hương Cảng đến Anh Cát Lợi, Hòa Lan, Pháp Lan Tây. Do trí tuệ
sắc sảo, đến đâu ông cũng học được ngoại ngữ của các nước đó. Năm 1849, ông
đặt chân đến thành phố New Orleans (Hoa Kỳ), bắt đầu chặng đường 4 năm phiêu
bạt ở Mỹ cho đến khi tìm đường về cố hương.
Sau khi đến Mỹ, ông cải trang thành một người Trung Hoa tên là Lê Kim rồi gia nhập đoàn người đi tìm vàng ở miền Tây Hoa Kỳ. Sau đó ông trở về thành phố Xanh - Phát - Lan - Xích - Cố ( phiên âm của San Francisco) và làm kí giả cho tờ Daily News 2 năm. Cuộc phiêu lưu của Trần Trọng Khiêm (tức Lê Kim) trên đất Mỹ đã được nhiều tài liệu ghi lại. Trong cuốn sách La Rueé Vers L'or của tác giả Rene Lefebre (NXB Dumas, Lyon, 1937) có kể về con đường tìm vàng của Lê Kim và những người đa quốc tịch Gia Nã Đại, Anh, Pháp, Hòa Lan, Mễ Tây Cơ… Họ gặp nhau ở thành phố New Orleans thuộc tiểu bang Lousiana vào giữa thế kỷ 19 rồi cùng hợp thành một đoàn đi sang miền Viễn Tây tìm vàng.
Thời đó, "Wild West" (miền Tây hoang dã) là cụm từ
người Mỹ dùng để chỉ bang California, nơi mà cuộc sống luôn bị rình rập bởi
thú dữ, núi lửa và động đất. Trong gần 2 năm, Lê Kim đã sống cuộc đời của một
cao bồi miền Tây thực thụ. Ông đã tham gia đoàn đào vàng do một người ưa mạo
hiểm người Canada tên là Mark lập nên.
Để tham gia đoàn người này, tất cả các thành viên phải góp
công của và tiền bạc. Lê Kim đã góp 200 Mỹ kim vào năm 1849 để mua lương thực
và chuẩn bị lên đường. Đoàn có 60 người, nhưng Lê Kim đặc biệt được thủ lĩnh
Mark yêu quý và tin tưởng.
Do biết rất nhiều ngoại ngữ, ông được ủy nhiệm làm
liên lạc viên cho thủ lĩnh Mark và thông ngôn các thứ tiếng trong đoàn, gồm
tiếng Hòa Lan, tiếng Trung, tiếng Pháp. Ông cũng thường xuyên nói với mọi
người rằng ông biết một thứ tiếng nữa là tiếng Việt Nam, nhưng không cần dùng
đến. Lê Kim nói ông không phải người Hoa, nhưng đất nước nằm ngay cạnh nước
Tàu.
Ông và những người tìm vàng đã vượt sông Nebraska, qua núi
Rocky, đi về Laramie, Salt Lake City, vừa đi vừa hát bài ca rất nổi tiếng
thời đó là "Oh! Suzannah" (Oh! My Suzannah! Đừng khóc nữa em! Anh
đi Cali đào vàng.
Đợi anh hai năm, anh sẽ trở về. Mình cùng nhau cất ngôi nhà
hạnh phúc). Họ thường xuyên đối mặt với hiểm họa đói khát và sự tấn công của
người da đỏ để đến California tìm vàng. Sốt rét và rắn độc đã cướp đi mất quá
nửa số thành viên trong đoàn.
Trong đoàn, Lê Kim nổi tiếng là người lịch thiệp, cư xử đàng hoàng, tử tế nên rất được kính trọng. Nhưng đó đúng là một chuyến đi mạo hiểm, khiến già nửa thành viên trong đoàn chết vì vất vả, đói khát và nguy hiểm dọc đường đi.
Sau khi tích trữ được một chút vàng làm vốn liếng, Lê Kim quay
trở lại San Francisco. Vào giữa thế kỷ 19, nơi đây còn là một thị trấn đầy
bụi bặm, trộm cướp. Là người học rộng, hiểu nhiều, lại thông thạo nhiều ngoại
ngữ, Lê Kim nhanh chóng xin được công việc chạy tin tự do cho nhiều tờ báo
như tờ Alta California, Morning Post rồi làm biên tập cho tờ nhật báo Daily
Evening.
Đề tài mà Lê Kim thường viết là về cuộc sống đầy hiểm họa và cay đắng của những người khai hoang ở bắc California và quanh khu vực San Francisco, trong đó ông hướng sự thương cảm sâu sắc đến những người da vàng mà thời đó vẫn là nạn nhân của sự phân biệt chủng tộc. Lê Kim cho rằng, các mỏ vàng đã khiến cuộc sống ở đây trở nên méo mó và sa đọa không gì cứu vãn được. Nhiều bài báo của ông đăng trên tờ Daily Evening hiện vẫn còn lưu giữ ở thư viện Đại học California.
Đặc biệt, trong số báo ra ngày
8/11/1853, có một bài báo đã kể chi tiết về cuộc gặp giữa Lê Kim và vị tướng
Mỹ John A. Sutter. Tướng Sutter vốn trước là người có công khai phá thị trấn
San Francisco. Khi Lê Kim mới đến đây, ông đã được tướng Sutter giúp đỡ rất
nhiều. Sau khi bị lật đổ, Sutter đã bị tâm thần và sống lang thang ở khắp các
bến tàu để xin ăn, bạn bè thân thiết đều không đoái hoài đến.
Khi tình cờ gặp lại, Lê Kim đã cho vị tướng bất hạnh 200 Mỹ kim. Ông đã chê trách thái độ hững hờ, ghẻ lạnh của người dân San Francisco và nước Mỹ với tướng Sutter, điều mà theo ông là đi ngược với đạo lý "uống nước nhớ nguồn" của dân tộc ông. Sang năm 1854, khi đã quá mệt mỏi với cuộc sống hỗn loạn và nhiễu nhương ở Mỹ, cộng thêm nỗi nhớ quê hương ngày đêm thúc giục, Lê Kim đã tìm đường trở lại Việt Nam. Nhưng ông cũng đã kịp để lại nước Mỹ dấu ấn của mình, trở thành người Việt Nam đầu tiên cưỡi ngựa, bắn súng như một cao bồi và cũng là người Việt đầu tiên làm ký giả cho báo chí Mỹ.
Người Minh Hương cầm quân chống Pháp
Năm 1854, Trần Trọng Khiêm trở về Việt Nam vẫn dưới cái tên Lê
Kim. Để tránh bị truy nã, ông không dám trở về quê nhà mà phải lấy thân phận
là người Minh Hương đi khai hoang ở tỉnh Định Tường. Ông là người có công
khai hoang, sáng lập ra làng Hòa An, phủ Tân Thành, tỉnh Định Tường. Tại đây,
ông tục huyền với một người phụ nữ họ Phan và sinh được hai người con trai,
đặt tên là Lê Xuân Lãm và Lê Xuân Lương. Trong di chúc để lại, ông dặn tất cả
con cháu đời sau đều phải lấy tên đệm là Xuân để tưởng nhớ quê cũ ở làng Xuân
Lũng.
Trong bức thư bằng chữ nôm gửi về cho người anh ruột Trần Mạnh
Trí ở làng Xuân Lũng vào năm 1860, Lê Kim đã kể tường tận hành trình hơn 10
năm phiêu dạt của mình từ một con tàu ngoại quốc ở Phố Hiến đến những ngày
tháng đầy khắc nghiệt ở Hoa Kỳ rồi trở về an cư lạc nghiệp ở Định Tường. Khi
người anh nhắn lại: "gia đình bình yên và lúc này người đi xa đừng vội
trở về", Lê Kim đã phải tiếp tục chôn giấu gốc gác của mình ở miền Tây Nam
Bộ.
Nhưng chưa đầy 10 năm sau, khi làng xóm bắt đầu trù phú thì thực dân Pháp xâm lược nước ta.
Lê Kim đã từ bỏ nhà cửa, ruộng đất, dùng toàn
bộ tài sản của mình cùng với Võ Duy Dương mộ được mấy ngàn nghĩa binh phất cờ
khởi nghĩa ở Đồng Tháp Mười.
Tài bắn súng học được trong những năm tháng ở
miền Tây Hoa Kỳ cùng với kinh nghiệm xây thành đắp lũy đã khiến ông trở thành
một vị tướng giỏi. Năng khiếu ngoại ngữ cũng giúp Lê Kim cảm hóa được một
nhóm lính Pháp và dùng chính nhóm lính này tấn công quân Pháp ở Cái Bè, Mỹ
Qưới, khiến cho quân giặc điêu đứng.
Năm 1866, trong một đợt truy quét của Pháp do tướng De
Lagrandìere chỉ huy, quân khởi nghĩa thất thủ, Lê Kim đã tuẫn tiết chứ nhất
quyết không chịu rơi vào tay giặc. Gia phả nhà họ Lê do hậu duệ của Lê Kim
gìn giữ có ghi lại lời trăn trối của ông: "Trước khi chết, cụ dặn cụ bà
lánh qua Rạch Giá gắng sức nuôi con, dặn chúng tôi giữ đạo trung hiếu, đừng
trục lợi cầu vinh, đừng ham vàng bỏ ngãi.
Nghĩa quân chôn cụ ngay dưới chân
Giồng Tháp. Năm đó cụ chưa tròn ngũ tuần". Trên mộ của Lê Kim ở Giồng
Tháp (tỉnh Đồng Tháp) có khắc đôi câu đối: "Lòng trời không tựa, tấm
gương tiết nghĩa vì nước quyên sinh/Chính khí nêu cao, tinh thần hùng nhị còn
truyền hậu thế".
Như vậy, không chỉ là người đầu tiên đặt chân lên đất Mỹ, Lê
Kim còn là một trong những nhà yêu nước can đảm đứng lên chống thực dân Pháp
xâm lược. Dù cuộc khởi nghĩa của ông cùng chung số phận với nhiều cuộc khởi
nghĩa khác ở Nam Kỳ đều bị thực dân Pháp và triều đình Nguyễn đánh tan, nhưng
Lê Kim vẫn được công nhận là một trong những danh nhân lớn ở Đồng Tháp thế kỷ
19
(Dựa trên tư liệu của học giả Nguyễn Hiến Lê) |
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết