On Wednesday, 30 October 2013 1:44 PM, Thang Nguyen <>
wrote:
Nhân ngày ban hành Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hoà 26-10-1956 nghĩ về:
SỰ HÌNH THÀNH NỀN CỘNG HOÀ VÀ CHẾ ĐỘ VIỆT NAM CỘNG HOÀ TẠI
VIỆT NAM
Thiện Ý
· Thấm thoát mà đã 57 năm(1956-2013), nền cộng hoà được thiết lập tại
Việt Nam với bản Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hoà ban hành ngày 26-10-1956 tại Miền
Nam Việt Nam, đối kháng với chế độ độc tài toàn trị cộng sản Bắc Việt mang bảng
hiệu giả mạo “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà”, bảng hiệu mà Ông Hồ Chí Minh và đảng
CSVN đã dựng lên sau cái gọi là Cách Mạng Tháng 8 năm 1945 cướp được chính
quyền bằng xảo thuật chính trị.
· Giả mạo về một nền dân chủ cộng hoà, vì trước sau đều chỉ nhằm mục
đích lừa bịp công luận thế giới để tìm hậu thuẫn quốc tế, ru ngủ nhân dân,
trong khi thực chất vẫn là độc tài cộng sản phản dân chủ.
· Và vì vậy, có thể nói nền cộng hoà thực sự đã chỉ được thiết lập và
thực hiện tại Việt Nam kể khi Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hoà được ban hành
ngày 26-10-1956. Vì nền cộng hoà ấy đã là nền tảng cho một chế độ chính trị chủ
quyền quốc gia thuộc về toàn dân, một chế độ dân chủ cả hình thức lẫn nội dung,
dù phôi thai còn nhiều khuyết tật, song đã phản ánh đúng ý nghĩa của từ ngữ Cộng
Hòa và ý nguyện của toàn dân Việt Nam.
Hôm
nay, nhân ngày 26-10- 2013, nghĩ về Hiến pháp Việt Nam Cộng Hoà ban hành ngày
26-10-1956, chúng tôi muốn gửi bài viết này đến quý độc giả người Việt Nam
không cộng sản trong cũng như ngoài nước, đề cùng tự hào với quá khứ rằng chúng
ta đã chọn đúng nền tảng một chế độ chính trị phù hợp với ý nguyện của toàn dân
và tin tưởng mãnh liệt ở tương lại, rằng nhất định chúng ta sẽ thiết lập được
một chế độ dân chủ trên nền tảng cộng hoà đã được xác lập 57 năm trước đây tại
Việt Nam.Nội dung bài viết lần lượt trình bầy:
1.- Bối cảnh hình thành Nền Cộng
Hòa tại Việt Nam.
2.- Nền Cộng Hòa và Cố Tổng Thống
Ngô Đình Diệm
3.- Nền Cộng Hòa và các bản Hiến
Pháp Việt Nam Cộng Hòa.
4.- Nền Cộng Hòa và các chế độ Việt
Nam Cộng Hòa (Đệ nhất và Đệ Nhị VNCH)
I/- BỐI CẢNH HÌNH THÀNH NỀN CỘNG HÒA TẠI VIỆT
NAM.
Như
quý độc giả đã biết, sau Thế Chiến Hai, chủ nghĩa thực dân cũ đã buớc vào thời
kỳ suy tàn,xu thế giải thực đã buộc các đế quốc từng có nhiều thuộc địa như
Pháp, Anh, Tây Ban Nha, Bố Đào Nha, Hà Lan ….. đã phải lần lược trao trả độc
lập cho các nước bị trị. Điển hình là một số nước trong vùng như Ấn Độ và Hồi
Quốc được Đế Quốc Anh trao trả độc lập năm 1947; Indonesia được Hà Lan trao trả
độc lập năm 1949; Triều Tiên được Nhật trao trả độc lập năm 1945; Lào và Cao
Miên Pháp trao trả độc lập năm 1953. . . Do đó, theo nhận định của nhiều sử gia
và học giả nghiên cứu chính trị và lịch sử, thì chẳng cần cuộc kháng chiến gian
khổ 9 năm do đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN) phát động và chủ đạo tiến hành
(1945- 1954) làm hao tổn nhiều xương máu nhân dân, tàn phá tài nguyên đất nước
vô ích, để có được cái gọi là “Chiến thắng Điện Biên lịch sử”(7-5-1954),
thì thực dân Pháp sớm muộn cũng phải trao trả độc lập cho Việt Nam cũng như nhiều
thuộc địa khác. Chẳng qua Hồ Chí Minh và
Cộng đảng Việt Nam tiến hành cuộc chiến tranh này, chỉ là lợi dụng lòng yêu
nước của nhân dân, dùng chiêu bài độc lập dân tộc để chiếm quyền thống trị đất
nước, để áp đặt chế độ độc tài đảng trị CS, theo chủ trương bành trướng lãnh
thổ, nhuộm đỏ tòan cầu của cộng sản quốc tế, đứng đầu là hai tân đế quốc Đỏ Nga
– Tầu
Thật vậy, trên thực tế, trước áp lực của xu thế giải thực, thực dân Pháp đã
phải lùi từng bước, trao trả độc lập từng phần cho Việt Nam, qua các Hiệp Định
Vịnh Hạ Long ngày 5 tháng 6 năm 1948, “đề cử” hòang đế Bảo Đại làm Quốc Trưởng,
và Pháp thừa nhận Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Quốc Trưởng Bảo Đại như là một
quốc gia độc lập nằm trong Liên Hiệp Pháp. Ngày 8 tháng 3 năm 1949 Tổng Thống
Pháp Vicent Auriol và Quốc Trưởng Bảo Đại đã ký “Thỏa Ước Elysée”. Theo đó,
Pháp hứa sẽ xây dựng cho Việt Nam một quân đội quốc gia chống cộng. Đây là khởi
điểm của sự thành lập Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, gốm có các binh lính và sĩ
quan “Khố Xanh Khố Đỏ” của Pháp chuyển qua. Chính những sĩ quan có xuất thân
này, đã nắm vận mệnh quốc gia sau khi đảo chánh lật đổ Tổng Thống Diệm, cho đến
ngày Miền Nam mất vào tay cộng sản (30-4-1975).
Thề rồi, cuối cùng thực dân Pháp cũng đã phải
trao trả độc lập hòan tòan cho Việt Nam. NhưngViệt Nam có số phận không may đã
rơi vào thế gọng kìm của một chiến lược quốc tế mới, với cuộc chiến tranh ý
thức hệ (cộng sản chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa), nên đất nước bị qua phân theo Hiệp Định Genève
ngày 20-7-1954, do sự áp đặt của các cường quốc, trái với nguyện vọng quốc dân
Việt Nam.
Hệ
quả là một nửa nước Miền Bắc rơi vào tay đảng Cộng sản Việt Nam, thiết lập “Nền Chuyên Chính Vô Sản” , trên đó xây dựng chế độ độc tài tòan trị cộng
sản, với quyền thống trị độc tôn, độc quyền của đảng CSVN, một công cụ chiến
lược của hai tân đế quốc đỏ Nga-Tầu . Nửa nước Miền Nam Việt
Nam được trao trả cho chính quyền chính thống
quốc gia Việt Nam, thiết lập nền Cộng Hòa trên đó xây dựng chế độ tự do dân
chủ, tức Việt Nam Cộng Hòa, với sự hổ trợ của Hoa Kỳ và các đồng minh Thế Giới
Tự Do trên nguyên tắc, song trên thực tế đã bị Hoa Kỳ biến thành công cụ chiến
lược của mình, một công cụ ngay tình khác với công cụ tri tình cho Nga- Tầu của Cộng đảng VN và chế độ
Cộng sản Bắc Việt. Vì đảng Cộng sản Việt Nam vốn là một công cụ bành trướng của
cộng sản quốc tế, đứng đầu là Nga Tầu lúc đó, nên đã phát động và tiến hành
cuộc chiến tranh cốt nhục tương tàn để thôn tính Miền Nam Việt Nam.
Chính quyền chính thống
quốc gia và nhân dân Miền Nam,trong thế chẳng đặng đừng đã phải làm tiền đồn
chống cộng cho Hoa Kỳ và Thế giới tự do, buộc lòng phải thực hiện cuộc chiến
tranh tự vệ để ngăn chặn, đẩy lùi cuộc chiến tranh xâm lược đó của Cộng sản Bắc
Việt, để bảo vệ phần đất tự do Miền Nam, trong ý hướng giữ vững độc lập quốc
gia, chủ quyền dân tộc, để vừa chiến đấu chống cuộc xâm lăng của CSBV, vừa nỗ
lực xây dựng thành công chế độ dân chủ pháp trị Việt Nam Cộng Hòa, tiến tới
thống nhất đất nước, không phải bằng bạo lực quân sự, mà bằng sự ưu thắng của chế độ dân chủ Việt Nam Cộng
Hòa và nền kinh tế phát triển phồn vinh ở Miền Nam, trên chế độ độc tài tòan trị CS và nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu ở
Miền Bắc . Nghĩa là chúng ta,
muốn tiến tới tình trạng như Nam Bắc Hàn hiện nay, mà sự thống nhất Hàn Quốc
một cách hòa bình, với sự ưu thắng của Nam Hàn dân chủ phồn vinh trên Bắc Hàn
độc tài cộng sản nghèo đói và lạc hậu, chỉ còn là vấn đề thời gian.
Chính vì mục tiêu và lý tưởng vừa nêu, Nền Cộng Hòa đã được xác lập tại Việt
Nam, trên đó xây dựng chế độ dân chủ Việt Nam Cộng Hòa thay thế cho chế độ quân
chủ chuyên chế tồn tại nhiều thế kỷ trước đó tại Việt Nam.
II/- NỀN CỘNG HÒA VÀ CỐ TỔNG THỐNG NGÔ ĐÌNH DIỆM:
Theo tự điển Hán Việt của học giả Đào Duy Anh, Cộng Hòa (Republic:Cộng đồng,
dân chúng)có ý nghĩa như là nền tảng cho một chế độ dân chủ, “Chế độ
Cộng Hòa” (Repubican Regime)với “Chủ quyền quốc gia thuộc về tòan
dân”. Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm được coi là người khai sáng Nền Cộng Hòa
như thế tại Việt Nam.
Sử
liệu cận đại Việt Nam ghi nhận các sự kiện có ý nghĩa sau đây: ngày 7 tháng 7 năm 1954, chí sĩ Ngô Đình Diệm đang sống lưu vong ở
hải ngọai đã về nước chấp chánh theo sự ủy thác của Vua Bảo Đại trong ngôi vị Thủ
Tướng Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam, để chống cộng và nếu cần chống cả thực dân
và phong kiến để bảo vệ tổ quốc (Như hồi ký của cựu hòang Bảo Đại đã viết).
Vì xu thế thời đại, Thủ Tướng Diệm không thể duy trì thể chế quân chủ chuyên
chế, nên với sự hậu thuẫn của 18 đòan thể chính trị (Hội Đồng Cách Mạng Quốc
gia), họp tại Dinh Độc Lập đã quyết định thiết lập chế độ Cộng Hòa, theo xu
thế thời đại, đáp ứng ý nguyện của quốc dân, qua cuộc trưng cầu dân ý ngày 23-10-1955
truất phế vua Bảo Đại, vị vua cuối cùng của nền quân chủ chuyên chế Việt Nam
thiết lập nhiều thế kỷ trước đó, tôn vinh Thủ Tướng Ngô Đình Diệm là Tổng Thống
đầu tiên chế độ Việt Nam Cộng Hòa.
Để có
căn bản pháp lý, ngày 26-10-1955 Thủ Tướng Ngô Đình Diệm đã ban hành Hiến Ước
Tạm Thời Số 1, và ngày 23 tháng 1 năm 1956 đã ký ban hành Dụ Số 8 thiết lập
Quốc Hội Lập Hiến định hướng cho chế độ Cộng Hòa sẽ được xác lập. Trên căn bản
các văn kiện pháp lý hành chánh này, nhân dân Miền Nam lần đầu tiên được cầm lá
phiếu với tư cách là người dân một nước độc lập, bầu người đại diện vào Quốc
Hội Lập Hiến để thay mặt mình sọan thảo ra một bản hiến pháp dân chủ trên nền
tảng Cộng Hòa đầu tiên. Trong vòng 9 tháng sau, Quốc hội do dân bầu này đã hòan
thành bản Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa và ngày 26 tháng 10 năm 1956,Thủ Tướng
Ngô Đình Diệm đã ký ban hành bản hiến pháp đầu tiên làm căn bản thíêt lập các
định chế quốc gia, với tam quyền phân lập và cơ cấu của một chính quyền cộng
hòa với chủ quyền quốc gia thuộc về tòan dân. .
III/- NỀN CỘNG HÒA VÀ CÁC BẢN HIẾN PHÁP VIỆT NAM
CỘNG HÒA.
Như
trên đã trình bầy Nền Cộng Hòa là nền tảng của một chế độ chính trị với chủ
quyền quốc gia thuộc về tòan dân, theo học thuyết chính trị dân chủ Phương Tây,
tương tự quan niệm dân chủ Phương Đông “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân
vi khinh”, đều lấy “Dân làm gốc”. Tiếc rằng, quan niệm dân chủ
này chỉ có trong sách vở ở xã hội quân chủ chuyên chế, thực tế Vua vẫn là tối
thượng, chủ quyền quốc gia thuộc về Vua, chứ không phải của tòan dân. Cũng như
trong “nền chuyên chính vô sản” chủ quyền quốc gia thuộc về đảng cộng
sản, quyền “Làm chủ của nhân dân” chỉ là chiêu bài lừa mị.
Vì vậy muốn chủ quyền quốc gia thuộc về tòan dân, cần xây dựng một chế độ dân
chủ trên nền tảng Cộng Hòa. Để thiết định chế độ Dân Chủ Cộng Hòa này, cẩn có
một bản Hiến Pháp, một văn kiện pháp lý căn bản qui định rõ quyền lợi nghĩa vụ
người dân trong tương quan với các cơ quan công quyền. Theo đó, các viên chức
được người dân ủy quyền qua lá phiếu trong các cuộc bầu cử tự do, cử người đại
diện cho dân, làm nhiệm vụ công bộc ăn lương của nhân dân, điều hành guồng máy
công quyền quốc gia, từ thượng tầng kiến trúc đến hạ tầng cơ sở, theo ý nguyện
của người dân, sao cho xã hội ổn định, phát triển, quốc gia phú cường, mọi tầng
lớp nhân dân có điều kiện phát triển đồng đều, “cộng đồng đồng tiến”, có
đời sống tư do, ấm no, có điều kiện thuận lợi mưu cầu hạnh phúc riêng (cá
nhân) cũng như chung (tập thể).
Nhận định
khách quan, bản Hiến pháp dầu tiên “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” năm 1946 xét về
hình thức cũng như nội dung quả có thể hiện ý hướng trên nên có thể coi nền
cộng hòa đã được xác lập tại Việt Nam từ năm 1946. Thế nhưng trên thực tế,bản
Hiến pháp này đã không được thực thi. Vì sau khi Nhật trao trả độc lập cho Việt
Nam không được bao lâu, thực dân Pháp đã quay trở lại. Chính phủ liên hiệp
Quốc-Cộng với lãnh tụ cộng sản Hồ Chí Minh làm Chủ tịch chỉ còn cái vỏ (sau
khi Việt Minh tìm cách tiêu diệt hết thành phần quốc gia) để Ông Hồ và đảng
CSVN làm chiêu bài thực hiện cuộc kháng chiến chống Pháp 9 năm như là cuộc kháng
chiến quốc gia,của toàn dân để giành độc lập cho đất nước (thực thế cũng như
thực chất là giành thuộc địa kiểu mới cho các tân dế quốc đỏ Nga-Tầu).
Sau Hiệp Định Geneve
chia đôi đất nước (Tháng 7-1954) Miền Bắc cộng sản,Ông Hồ và đảng CSVN (trá
hình là đảng Lao Động Việt Nam) tiếp tục giữ bảng hiệu chế độ “Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hòa” trong Hiến pháp 1959, song nội dung là chế độ độc tài toàn trị
“xã hội chủ nghĩa” theo kiểu Liên Xô. Như vậy trước sau đảng CSVN xử dụng bảng hiệu chế độ “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” đều chỉ nhằm mục đích lừa bịp công luận thế giới
để tìm hậu thuẫn quốc tế, ru ngủ nhân dân, trong khi thực chất vẫn là độc tài
cộng sản phản dân chủ.
Trong khi đó Miền Nam
chính quyền chính thống quốc gia sau khi giành được độc lập một nửa đất nước đã
tổ chức trưng cầu dân ý (23-10-1955), chấm dứt chế độ quân chủ chuyên chế,
thiết lập nền Cộng Hòa với sự ra đời của bản Hiến pháp ban hành ngày 26-10-1956
làm nền tảng cho chế độ dân chủ pháp trị Việt Nam Cộng Hòa (Đệ nhất VNCH);
tiếp nối là bản Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa ban hành ngày 1-4-1967 (Đệ nhị
VNCH).Cả hai bản Hiến pháp này về hình thức cũng như nội dung đều thể hiện
đúng ý nghĩa từ ngữ “Cộng Hòa” (chủ quyền quốc gia thuộc về toàn dân)
theo đúng ý nguyện của nhân dân Việt Nam, nhất là trên thực tế đã được thực thi
đầy đủ, dù trong hoàn cảnh phải đương đầu với cuộc chiến tranh thôn tính Miền
Nam của cộng sản Bắc việt.
1.- Bản Hiến Pháp Việt Nam Cộng
Hòa 26-10-1956 được sọan thảo dựa trên hai nền tảng triết lý và chính trị. Nền tảng triết lý là triết học duy tâm, lấy con
nguời là trung tâm, là chủ thể xã hội và là đối tuợng phục vụ của xã hội.Nền
tảng chính trị là chủ nghĩa nhân vị, trên đó thiệt lập chế độ cộng hòa với chủ
quyền quốc gia thuộc về toàn dân,các quyền dân chủ, dân sinh và nhân quyền được
tôn trọng và bảo vệ .
Chủ đích của các nhà lập hiến khi chọn chủ nghĩa
Nhân Vị làm nề tảng cho chế độ Cộng Hòa để soạn thảo ra Hiến Pháp hữu
thần Việt Nam Cộng Hòa là
để đối kháng với triết học
duy vật và chủ nghĩa Cộng Sản vô thần, là nền tảng hiến pháp của chế độ
vô thần Cộng sản Bắc Việt, vốn coi con nguời là sản phẩm, là công cụ của xã
hội, cá nhân phải phục vụ xã hội và quyền lợi cá nhân phải hy sinh cho quyền
lợi tập thể (thực chất là hy sinh
cho quyền lợi của một tập đòan thống trị CS), trong một xã hội mà những nguời cộng sản muốn
thiết lập, đó là xã hội “Xã hội chủ nghĩa”, giai đọan đầu của xã hội cộng sản,
một “thiên đường CS trong viễn tưởng !?!
Tham vọng của các nhà lập hiến Việt Nam khi chọn chủ nghĩa Nhân Vị làm
nền tảng cho chế độ Cộng Hòa đối kháng với chủ nghĩa cộng sản Bắc Việt với chế
độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (giả hiệu) như là một võ khí lý luận để
đánh bại đối phương về mặt ý thức hệ, song song với nỗ lực quân sự đập tan
cuồng vọng xâm lăng Miền Nam của Cộng sản Bắc Việt lúc bấy giờ. Với võ khí lý
luận là chủ nghĩa Nhân Vị và chế độ Cộng Hòa, các nhà lập hiến Việt Nam Cộng
Hòa tin rằng, nguời dân sẽ thấy đuợc hai con đuờng “Nhân vị chủ nghĩa” và “Cộng sản chủ nghia” dẫn đến mục tiếu tối hậu hòan tòan trái nguợc: Chủ nghia nhân vị “Xây dựng
một xã hội vì con nguời,tôn trọng phẩm giá con nguời và xã hội
phải phục vụ lợi ích tối thuợng của con nguời”. Trong khi chủ nghĩa cộng
sản “xây dựng một xã hội Vì
đảng cộng sản, nô dịch và xã hội hóa con nguời, biến con nguời thành
công cụ phục vụ xã hội(thực chất là phụng vụ giai cấp thống trị), nhân vị bị hạ thấp ngang tầm lòai vật”(theo lý luận và thực hành Duy vật biện
chứng của CS).
Đồng thời, chủ nghĩa Nhân Vị sẽ là nền tảng cho chế độ chính trị Cộng Hòa, để
bảo đảm được nhân vị và các nhân quyền căn bản của người dân. Trong bối cảnh
cuộc chiến tranh chống cộng bảo vệ nền Cộng Hòa và chế độ dân chủ VNCH, chủ
nghĩa Nhân Vị giúp nguời dân phân biệt đuợc mục tiêu và lý tuởng tranh đấu tối
hậu của nguời Việt Quốc gia là thiết lập cho kỳ đuợc một chế độ dân chủ cộng
hòa là vì nhân vị và phẩm giá con người, vì hạnh phúc của nhân dân, quyền dân
chủ dân sinh và nhân quyền được bảo đảm với tam quyền phân lập, trái nguợc với
chế độ độc tài tòan trị cộng sản, độc tôn và độc quyền thống trị của đảng CSVN,
vì quyền lợi của giai cấp thống trị là các cán bộ đảng viên CS.
Chính vì vậy mà chủ thuyết nhân vị đuợc xác tín qua phần “Mở Đầu” của Hiến Pháp
Việt Nam Cộng Hòa ngày 26-10-1956 như sau:
“ Tin tuởng ở sự truờng tồn của nền văn minh
Việt Nam, cần có trên nền tảng duy linh mà tòan dân đều có nhiệm vụ phát huy;
“ Tin tuởng ở giá trị siêu việt của
con nguời mà sự phát triển tự do. Điều hòa và đầy đủ trong cương vị cá nhân
cũng như trong đời sống tập thể phải là mục đích của mọi họat động quốc gia. . .”.
Như
vậy, chính trên nền tảng chủ nghĩa Nhân Vị, Quốc hội Lập Hiến đầu tiên của Quốc
Gia Việt Nam đã sọan ra bản Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa đầu tiên,(hòan tòan
khác với cái gọi là Hiến pháp Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa của Cộng sản Bắc
việt “ngụy cộng hòa”), và đã đuợc Thủ Tướng Ngô Đinh Diệm, sau trở thành
vị Tổng Thống đầu tiên chế độ Việt Nam Cộng Hòa, đã ký ban hành ngày
26-10-1956.
Nội
dung Bản Hiến Pháp này,ngòai phần “Mở Đầu”, gồm 10 Thiên và 98 Điều thể hiện rõ
Nguyên tắc phân quyền: Thiên thứ nhất quy định những “Điều khỏan căn bản”;
Thiên Thứ Hai: “Quyền lợi và Nhiệm vụ nguời dân”; Thiên thứ ba:“Tổng Thống”;
Thiên thứ tư: “Quốc Hội”; Thiên thứ năm “Thẩm Phán”; Thiên Thứ sáu “Đặc biệt
Pháp Viện”; Thiên Thứ Bẩy “Hội Đồng Kinh Tế Quốc gia”; Thiên thứ tám “Viện Bảo
Hiến”; Thiên Thứ Chín “Sửa Đổi Hiến Pháp” và Thiên Thứ muời “Các Điều Khỏan
Chung”.
Cuộc đảo chánh quân sự ngày 1-11-1963, với chủ đích và sự trợ giúp của ngọai
bang đã đưa đến cái chết thảm thương cho Cố Tổng Thống Ngô Đinh Diệm, nguời có
công khai sáng nền Cộng Hòa Việt Nam. Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa ngày
26-10-1956 bị hủy bỏ cùng với sự cáo chung nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa.
2.- Hiến pháp Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa
ngày1-4-1967.
Sau những
năm bất ổn chính trị, xã hội xáo trộn do các phe phái chính trị quân sự tranh
giành quyền lực (1963-1967) Bản
Hiến Pháp Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa đã được Quốc Hội Lập Hiến thông quan ngày 18-3-1967 và đã được
Tướng Nguyễn Văn Thiệu trong tư cách Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc gia ban hành
ngày 1-4-1967. Cuộc bầu cử ngày 3-9-1967 đã đưa Tướng Nguyễn Văn Thiệu lên ngôi
vị Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa, là vị Tổng Thống thứ hai của nền Cộng Hòa Việt
Nam.
Ngày 5-4-1975,truớc áp lực của ngọai bang và biến chuyển của tình thế, Tổng
Thống Thiệu đã phải từ chức và trao quyền cho Phó Thổng Thống Trần Văn Hương
theo qui định của Hiến Pháp. Chưa đầy một tháng sau, ngày 28-4-1975, Tổng Thống
Trần Văn Huong, vị Tổng Thống thứ ba và cũng là vị Tổng Thống cuối cùng của
Việt Nam Cộng Hòa , do áp lực của tình thế, đã lại phải từ chức để trao quyền
ngoài dự liệu của Hiến Pháp cho Tướng Dương Văn Minh làm nhiệm vụ khai tử chế
độ đệ nhị Việt Nam Cộng Hòa theo sự đạo diễn, sắp xếp của ngọai bang, như ông
ta đã từng theo lệnh ngọai bang cầm đầu nhóm đảo chánh phá đổ chế độ Đệ nhất
Việt Nam Cộng Hòa, sát hại Tổng Thống Diệm, người khai sáng nền Cộng Hòa Việt
Nam 12 năm trước đó (1963-1975)
Nếu so sánh tổng quát hai bản Hiến Pháp chế đô đệ
nhất và đệ nhị Việt Nam Cộng Hòa, cả hai có nền tảng chung là Cộng Hòa, cùng
vận dụng nguyên tắc phân quyền theo học thuyết chính trị dân chủ Phương Tây,
trong việc thiết lập và điều hành các định chế quốc gia và guống máy công
quyền, nhằm thể hiện “Quyền lực quốc gia thuộc về tòan dân” và bảo đảm các nhân
quyền và dân quyền cơ bản của công dân được tôn trọng, bảo vệ và hành xử.
Nhưng khác là Hiến pháp 26-10-1956 dựa trên hai nền tảng chủ nghĩa nhân vị và
học thuyết dân chủ Phương Tây để thiết lập chế độ Cộng Hòa, với nguyên
tắc phân quyền. Trong khi bản Hiến Pháp 1-4-1967, chỉ dựa trên nền tảng chủ
thuyết chính trị dân chủ Phương Tây để thiết lập chế độ Cộng Hòa. Nếu so sánh
nội dung thì Hiến pháp VNCH ngày 1-4-1967 hòan chỉnh hơn Hiến Pháp 26-10-1956,
với các định chế quốc gia và cơ cấu tổ chức chính quyền có nhiều điểm giống
Hiến Pháp Hoa Kỳ nên có tính dân chủ cao hơn. Chẳng hạn, Hiến Pháp ngày
1-4-1967 phân định rõ Tổng Thống nắm quyền hành pháp, Quốc Hội lưỡng viện (Thượng
viện và Hạ viện)lập pháp và Tối cao Pháp Viện nắm quyền tư pháp, thể hiện
rõ quyền lực quân bình của nguyên tắc tam quyền phân lập. Trong khi, Hiến pháp
26-10-1956, chỉ có quyền hành pháp mạnh (Tổng Thống) và lập pháp yếu(Quốc
Hội) là thể hiện qua cơ chế, còn tư pháp chỉ quy định như một đòan thể (Thẩm
phán đoàn) không có tính cơ cấu mạnh. Thế nhưng, việc vận dụng Hiến Pháp
vào thực tế thì có lẽ, Hiến Pháp VNCH 26-10-1956 có thể là phù hợp hơn trong
bối cảnh đất nước đang có chíến tranh lúc bấy giờ(cần một hành pháp mạnh),
với trình độ ý thức dân chủ người dân chưa cao và đối phương CS có thể lợi dụng
quyền dân chủ rộng rãi để lũng đọan chính quyền, quân đội và các lực lương an ninh
của VNCH, như thực tế cho thấy.
IV/- NỀN CỘNG HÒA VÀ CÁC CHẾ ĐỘ VIỆT NAM CỘNG
HÒA.
Như vậy nền cộng hòa thể hiện rõ mục tiêu chống cộng bấy lâu nay của người Việt
Quốc gia hay là người Việt Nam không cộng sản là để nhằm thành đạt mục tiêu tối
hậu là xây dựng một chế độ dân chủ đích thực với chủ quyền quốc gia thuộc về
toàn dân (Cộng hòa).Chế độ “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” ở Miền Bắc chỉ là sự giả mạo về một nền dân chủ cộng hoà.
Một bảng hiệu mà Ông Hồ Chí Minh và đảng CSVN đã dựng lên sau cái gọi là Cách
Mạng Tháng 8 năm 1945 cướp được chính quyền bằng xảo thuật chính trị. Vì trước
sau đều chỉ nhằm mục đích lừa bịp công luận thế giới để tìm hậu thuẫn quốc tế,
ru ngủ nhân dân, trong khi thực chất vẫn là độc tài toàn trị cộng sản phản dân
chủ.
Thực tế cũng như thực
chất,chỉ có chế độ Việt Nam Cộng Hòa đã được xác lập tại Miền Nam Việt Nam mới
là chế độ cộng hòa theo đúng ý nghĩa từ ngữ “Cộng hòa” (với chủ quyền quốc
gia thuộc về dân chúng). Đó là chế độ đệ nhất Việt Nam Cộng Hòa xây dựng
trên nền tảng Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa ban hành ngày 26-10-1956 và Đệ Nhị
Việt Nam Cộng Hòa xây dựng trên nền tảng Hiến Pháp ban hành ngày 1-4-1967.
Ngày 30-4-1975, cộng sản Bắc Việt đã cưỡng chiếm Miền Nam, vi phạm trắng trợn
Hiệp Định Paris ngày 27-1-1973 , tức vi phạm luật pháp quốc tế, trước sự đồng
lõa, phủi tay của đồng minh Hoa kỳ, và sự làm ngơ của quốc tế, cụ thể là các
cường quốc đế quốc đóng vai trò trung tâm quyền lực thế giới bảo đảm việc thực
thi Hiệp Định Paris, thông qua tổ chức Liên Hiệp Quốc, vốn là công cụ của họ,
do họ dựng lên và vì quyền lợi ưu tiên của họ, nhân danh nền hòa bình thế giới
áp chế các dân tộc nhược tiểu.
Như thế là Chế độ Việt Nam Cộng Hòa
đã bị cưỡng tử về mặt thực tế, song chúng tôi cho rằng vẫn tồn tại về mặt pháp lý, căn cứ theo Điều 15
và nhiều điều khỏan khác trong Hiệp Định Paris về chấm dứt chiến tranh lập lại
hòa bình cho Việt Nam. Chế độ Việt Nam Công Hòa chỉ không tồn tại trên đất nước
Việt Nam trong tư thế một quốc gia với đầy đủ ba yếu tố cấu thành: lãnh thổ,
chính quyền và dân chúng, song vẫn tồn tại về mặt pháp lý. Thế nhưng, trong thực tế, với hầu hết bộ phận
đầu não chính quyền, và một số khá đông (nay ước chừng 3-4 triệu) các
thế hệ quân, dân, cán chính của chế độ Việt Nam Cộng Hòa đã kịp di tản ra nước
ngòai trước ngày 30-4-1975, hay chậy trốn chế độ CS sau này. Trong thân phận
một chính quyền và một thành phần đông đảo dân chúng lưu vong, vẫn không bỏ
cuộc, đã quy tụ lại tại hải ngọai tiếp tục cuộc chiến đấu chống cộng, với cùng
mục tiêu đánh đổ chế độ độc tài cộng sản, thành đạt mục tiêu tối hậu là tái lập
chế độ Dân Chủ trên nền nền Cộng Hòa đã được xác lập tại Việt Nam từ năm 1956.
Nền tảng Cộng Hòa ấy hiện vẫn tồn tại trên đất nước Việt Nam, trong lòng hơn 90
triệu nhân dân Việt Nam với khát vọng giành lại quyền làm chủ,các quyền tự do,
dân chủ, dân sinh, nhân quyền đã và đang bị “nền chuyên chính vô sản” với chế độ “Độc tài tòan trị cộng sản” cướp đọat và chà đạp. Khát vọng này đã và đang được nhân dân trong
nước thể hiện ngày một lan rộng và mạnh mẽ qua các cuộc đấu tranh đòi dân chủ,
dân sinh, nhân quyền, tức đòi tái lập nền Cộng
Hòa đã được xác lập trước đây,bởi chính quyền Quốc gia chính danh,kế thừa lịch
sử dựng nước và giữ nước của tiền nhân; đối kháng với chính quyền cộng sản ngụy danh, kế thừa lịch sử bành trướng
quyền thống trị thế giới của cộng sản quốc tế, phản dân , phản dân tộc. Thức tế cũng như thực chất này mọi người đều
biết qua việc làm của họ, kề từ khi những môn đồ đầu tiên, đứng đầu là lãnh tụ
cộng sản Hồ Chí Minh tình nguyện làm môn đồ của cộng sản quốc tế, du nhập chủ
nghĩa cộng sản vào Việt Nam, tụ đảng từ ngày 3-2-1930 làm công cụ thực hiện nghĩa vụ quốc tế cộng sản để mở mang bờ cõi cho
các tân đế quốc đỏ Nga-Tầu, phá họai tòan diện đất nước, để lại hậu quả nghiêm
trọng nhiều mặt, lâu dài cho dân tộc Việt Nam, mà mai hậu sẽ mất nhiều thời
gian và công sức dọn dẹp, tái tạo.
• KẾT LUẬN:
Tóm lại, như vậy là cuộc chiến đấu anh dũng của quân
dân Miền Nam bảo vệ chế độ dân chủ Việt Nam Cộng Hòa đã thất bại, song chỉ là
thất bại tạm thời, có tính giai đọan. Vì sau đó và cho đến nay, cuộc chiến đấu
chống cộng sản độc tài để tái lập chế độ cộng hòa trên cả nuớc vẫn đang tiếp
diễn. Đây là giai đọan chống cộng cuối cùng vì dân chủ, cho nền cộng hòa Việt
Nam của nguời Việt Quốc gia hay là nguời Việt Nam không cộng sản trong cũng như
ngòai nuớc. Thực tế đã và đang ngày một khẳng định chính nghĩa “Cộng Hòa”(Chủ quyền quốc gia thuộc về toàn dân) tất thắng ngụy nghĩa “Cộng sản” (Chủ quyền quốc gia thuộc về đảng CSVN)
Nhân dân Việt Nam nhất định sẽ thiết lập đuợc nền “Đệ Tam Cộng Hòa” trên tòan cõi Việt Nam trong một tương lai
không xa, với một Bản Hiến Pháp Cộng Hòa “thể hiện
đuợc nguyện vọng của nhân dân (Việt Nam), từ Mũi Cà Mâu đến
Ải Nam Quan”,
như từng đuợc khẳng định
trong lời “Mở Đầu” của bản Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa tiên khởi ngày 26-10-
1956.
Năm mươi bẩy năm qua, mục tiêu chống cộng để thực hiện lý tướng thiết lập cho
kỳ được môt chế độ dân chủ cộng hòa trên quê hương đất nước Việt Nam thân yêu của
chúng ta vẫn kiên định. Chúng ta tạm thời thất bại trong giai đọan chiến đấu
bảo vệ chế độ Việt Nam Cộng Hòa trong cuộc chiến tranh Quốc-Công vừa qua
(1954-1975), song không chỉ có niềm tin mãnh liệt mà cả thực tế đã và đang ngày
một khẳng định: Chân lý tất thắng,
chính nghĩa quốc gia tất thắng ngụy nghĩa cộng sản. Nền cộng hòa nhất định sẽ
thay thế nền độc tài chuyên chính cộng sản hiện nay tạiViệt Nam trong tương lai
không xa.
Thiện Ý
Houston, ngày 26 tháng 10 năm 2013.
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết