CẢM NGHĨ VỀ SỰ CÁO CHUNG
CỦA MỘT CHẾ ĐỘ ĐỘC TÀI
Tiểu Dân
(Trích Bán Nguyệt san BÁCH
KHOA [trang 1] số 165,
Ngày 15-11-1963 – Sài Gòn - Tiểu Dân là bút hiệu của một
Giáo sư Đại học Văn Khoa Sài Gòn)
Một chế độ lỗi
thời phản tiến hoá, vừa bị đào thải. Một chế độ mới, hướng về Tự do
thực sự, Dân chủ chân chính đang được xây dựng.
Những ngày
hăng say, phấn khởi đầu tiên trong không khí Cách mạng thắng lợi qua rồi. Âm
vang cuối cùng của một chế độ sụp nhào đã tắt lặng và tình cảm nhiệt nồng của
con người cũng đã lắng xuống theo nhịp sống trở lại bình thường.
Và như thế là
phải. Vì lịch sử từ bao giờ đến bây giờ vẫn không hẳn làm bằng cảm tính và nếu
nhiệt tình là một yếu tố có giá trị động lực của phong trào cách mạng thì lý
trí, nhận thức, mới là kim chỉ nam hướng dẫn cách mạng đi lên.
Quân dân miền Nam hân hoan
chào mừng Quân đội làm Cách mạng lật đổ nhà Ngô
Người dân Việt
còn nhiều việc phải làm, có thể nói, còn tất cả công việc phải làm. Một chế độ
mới bắt đầu cũng có nghĩa là chúng ta bắt đầu một công cuộc xây dựng từ khởi điểm
mới.
Đối với biến
cố lịch sử vừa rồi, lẽ tất nhiên người trí thức với các tầng lớp nhân dân cùng
chung một phản ứng: vui mừng và hy vọng một trật tự mới, tốt đẹp hơn.
Tuy nhiên nếu
đi sâu vào tâm tư của mỗi lớp người, ta có thể ghi nhận một vài sắc thái riêng
tư. Nhân dân chịu áp bức, bóc lột nhiều, căm
hờn sâu sắc những kẻ cầm đầu chế độ cũ và những phần tử đồng lõa có ý thức. Chế
độ độc tài đổ sụp, họ đòi những kẻ ấy thanh toán tội lỗi nợ nần.
Người trí thức
đau khổ nhất về mặt tinh thần. Họ đã tủi buồn, cay đắng nhìn những kẻ vô
tài, vô đức hoặc hữu tài vô đức, trắng trợn múa may quay cuồng trên sân khấu xã
hội, những thứ ngụy giá trị được chế độ độc tài khoác vào một lớp hào quang giả
trá, dối lừa.
Và bây
giờ, trong vận hội mới, người ta đòi một sự minh định giá trị.
Cho nên, nếu
nhân dân đòi hỏi một sự phục hồi Công Lý thì người trí thức lại có một
nguyện vọng riêng: họ đòi hỏi phục hồi Chân giá trị.
Nhưng Chân
giá trị nầy, chúng ta phải khách quan và thẳng thắng mà nhận rằng nó không phải
là một thực thể toàn thiện. Qua chín năm dài
sống dưới một chế độ độc tài phong kiến tàn ác sâu độc nhất trong quốc sử,
mấy ai có thể nói lớn lên không hổ thẹn rằng đôi tay mình trắng, lương tâm mình
nhẹ nhàng?
Không. Chân
giá trị đã bị chế độ cũ vùi lấp phũ phàng. Nhưng không phải vì thế mà khi
vùng dậy nó không tự thấy bị hoen ố ít nhiều vì bụi đất.
Để ý-thức sự
thật nầy mà dựa vào đó ấn định một phương châm tranh đấu xây dựng một nền Tự do
thật sự và Dân chủ chân chính, chúng ta nên suy gẫm ít nhiều về một chế độ độc
tài đã ngự trị trên đất nước chín năm, và về trách nhiệm của mỗi người đối với
chế độ ấy.
*
*
*
Đến đây người
viết nhớ đã dùng đến hai lần ngôn từ “Tự do thật sự” và “Dân chủ chân
chính”. Đáng lẽ chỉ cần nói: Dân chủ, Tự do. Cẩn thận như thế là vì chế
độ cũ đã có thủ đoạn biến hoá nhiệm mầu của một tay phù thủy hiểm ác: bao nhiêu giá trị thiêng liêng, tốt đẹp, bao nhiêu
danh từ cao qúi, đều bị tước đoạt thực chất, nội dung chân chính, để trở thành
những yếu tố dối gạt, bịp lừa.
Tự do chỉ là
tự do của những kẻ cầm đầu chế độ mặc tình thao túng, xem sinh mạng dân như
cây cỏ, xem tài sản dân và nước như của riêng; mặt khác, Tự do còn là tự
do xu-nịnh, tâng công, đàn áp, khủng bố những người không đồng quan niệm với
giai tầng thống trị.
Dân chủ - mà
báo chí Tây-phương gọi là Démocratie - chỉ là một chế độ quái dị, kết hợp tài
tình sự tàn bạo dã man của Phong-kiến Trung-cổ và sự ác độc “khoa học” của
Phát-xít.
Tình hình
xuyên tạc các giá trị và ý niệm, danh từ, đã đưa đến một trạng nghịch phản lạ
lùng trong sự việc nhận thức và đối chiếu giữa giá trị danh từ và sự thật.
Khi gia
đình thống trị nói trắng, ta phải hiểu là đen và ngược lại.
Khi họ nói Tổ-quốc, Quốc-gia, ta phải hiểu thêm: của kẻ cầm quyền.
Và chế độ
Nhân-vị chính là chế độ trong đó có nhân vị con người bị chà đạp đau thương hơn
đâu hết.
Tấn thảm kịch
ấy đã kéo dài. Và nói chung, phải chăng người trí thức ít nhiều trong sạch, đã
sống thu mình trong tình trạng “giải nhiệm tinh thần”, tuy không chấp nhận
nhưng cũng không phản ứng hoặc phản ứng bằng lối sống “tiết sạch, giá trong”?
Nếu sự thiết
lập một trật tự ngụy giá trị là một đặc điểm của chế độ cũ thì sự ngự trị bằng
đường lối khủng bố là một đặc điểm khác của chế độ ấy. Và đứng về chúng ta,
có lẽ điều đáng suy gẫm là kiểm điểm lại xem yếu tố nào nơi chúng ta đã bị những
kẻ cầm đầu chế độ cũ khai thác để trong suốt một thời gian dài một nền thống trị
xây dựng trên niềm sợ hãi đè nặng trên toàn thể nhân dân.
“Khi
gia đình thống trị nói trắng,
ta phải hiểu là đen và ngược lại. Khi họ nói Tổ-quốc, Quốc-gia, ta phải
hiểu thêm: của kẻ cầm quyền”
Hình
năm con chuột (nhà Ngô) đục khoét miền Nam trên bìa báo Tự Do, Xuân Canh Tý
(1960)
Năm 1958 –
cách đây năm năm – trong một bài nhan đề “Những kẻ phá hoại chê độ”,
đăng ở Bách Khoa số 43, ra ngày 15 tháng 10, ông Huỳnh-Văn-Lang, đã viết:
“ Xưa nay,
ở trong gia đình ta quen sợ cha, sợ mẹ, sợ ông, sợ bà, sợ ma, sợ quỉ; sợ đây
không có nghĩa là “kính” chút nào. Khi lớn lên ra ngoài đời sợ làng, sợ xã, sợ
lính, sợ tráng. Khi hoạt động cái gì lại sợ Tây, sợ tà, sợ quan, sợ tướng. Chao
ôi! Còn bao nhiêu thứ sợ nữa? Sợ mất lòng người – cái thứ sợ nầy nó gần có
nghĩa như nịnh - sợ liên lụy đến thân phận, đến chức tước, đến gia đình.
“Lúc làm tôi
thì mảng lo nghĩ về sợ, làm chủ thì làm cho sợ. Ở dưới thì sợ trên, ở trên thì
sợ trên nữa và như thế mãi. Rồi lại ở trên thì làm sợ dưới, ở dưới thì làm sợ
dưới nữa và cũng như thế mãi …”
Tiếng nói
phẫn uất ấy, cách đây năm năm, lẽ tất nhiên tắt
biến trong những lời ca ngợi, những tiếng hoan hô chế độ.
Chính vì sự sợ
hãi đã ngự trị ở mọi nơi, khắp chốn, cho nên ở các cấp, các ngành, cán bộ có một
tác phong vô trách nhiệm triển khai đến độ lạ lùng. Quyền hành, địa vị, còn có
thể có một thiểu số không thiết tha cho lắm nhưng trách nhiệm về công việc thì
ai cũng lo gạt sang người bên cạnh, đẩy lên trên hay đùn xuống dưới, để người
gánh chịu không phải là mình. Người ta trở thành quá dè dặt quá khôn ngoan,
luôn luôn ngờ vực, né tránh những gì có thể gây phiền phức cho mình, có thể làm
thương tổn mình về quyền hành, địa vị hay an ninh bản thân.
Tình trạng vô
trách nhiệm phổ biến nầy đưa đến sự khoán trắng quyền hành cho những kẻ cầm đầu
chế độ cũ. Một mặt chế độ độc tài bị suy yếu đi về sinh lực, mặt khác nó lại
độc tài hơn trong tính chất.
Tuy nhiên, tiếng
nói phẫn uất trên đây cũng có thể vọng vào tâm tư những người tự hiểu mình và
âm thầm chua xót vì sự hiểu nầy.
Người trí thức
hiểu nhưng không làm gì, hiểu mà đành thoái từ trách nhiệm. Không khí e dè,
ngờ vực cắt đứt nguồn thông cảm. Người ta chỉ yên tâm khi đối diện với
mình. Nhưng sự yên tâm ấy cũng rất là tương đối bởi vì cái Ta thật, thiết tha với
Chân Thiện Mỹ bỗng chập chờn như cánh bướm vô tâm và người ta chỉ gặp một cái
Ta giả định, dồi dào lý thuyết biện minh và ngôn từ phủ dụ.
Nhân dân đau
khổ nhìn lên, tìm người trí thức. Nhưng người trí thức còn phải đi tìm mình. Giữa
bên nầy và bên kia có sự xa cách của hai bờ đại dương; giữa người trí thức và
chính mình có sự dối lừa của một huyễn tượng. Chưa bao giờ có những nỗi niềm cô
đơn như thế!
*
*
*
Có thể nói những
người cầm đầu chế độ cũ là những phần tử có ý thức trách nhiệm vô cùng sâu xa: đối
với chính họ và gia đình thống trị.
Trong bài
toán đối tượng phục vụ, họ đã dứt khoát loại trừ các dữ kiện xứ sở và
nhân dân. Họ có trọng tội nhưng họ
đã chọn một con đường, và cứ tiến bước trên con đường ấy.
Điều đáng
quan tâm là chúng ta, với quyền lợi và nguyện vọng khác biệt về căn bản, cũng
đã bước theo con dường ấy.
Người ta nghe
quen thuộc đến chán chường điệp khúc hùng hồn “Gia-đình, Cơm-áo” và điệp khúc
khiêm tốn “mình làm gì được trong cái tệ chung?”
Thành thử có
hai cảnh tượng lạ lùng: một bên là chế độ bơ vơ, một bên canh bạc sinh tồn đầy
gian lận: ai cũng chăm chú giành phần được cho mình, nhưng cho kẻ khác phần
thua thiệt.
Nhà độc tài
không mong muốn gì hơn là được tự do uốn nắn chế độ nhằm phục vụ quyền lợi của
mình. Với tác phong vô trách nhiệm đối với chế độ, ta đã trao toàn quyền
cho họ. Thay vì cũng cố, khi còn có thể, và trên tinh thần trách nhiệm đối với
xứ sở, nhân dân, nghĩa là chống lại ý hướng độc tài sơ khởi, ta đã vô tình làm
suy yếu thêm một chế độ vốn đã bệnh hoạn. Bây giờ đây, khi ngọn gió Cách mạng
đã quét sạch nhà độc tài và chế độ độc tài, chúng ta bỗng thấy xao xuyến trong
lòng một nỗi niềm phức tạp: nửa vui hưởng nhờ thành qủa Cách mạng, nửa buồn tự
thấy cũng bị thua thiệt, về một mặt nào.
Chế độ độc
tài đã tạo nên một sự trạng oái oăm nữa: không chỉ lãnh tụ mà từ trên xuống
dưới , từ trong ra ngoài, người ta đều có tác phong độc tài. Tác phong này
phát triển theo tỷ lệ nghịch. Càng xa Trung ương, càng ở cấp nhỏ, người ta càng
thấy có những mặc cảm dị kỳ: sợ quyền uy của mình bị ngờ vực hay không được chấp
nhận đúng mức, sợ mình trở thành một bánh xe không ăn khớp, lạc lõng, phiêu
lưu.
Trong guồng
máy vận chuyển một cách nghiệt ngã nầy, người trí thức đã phản ứng như thế nào?
Có lẽ phải nhận rằng người trí thức chống độc tài ngay từ trong bản chất của
mình. Nhưng sự nhiễm độc không dành ngoại lệ. Nó vẫn diễn ra, tuy phức tạp,
tinh vi hơn. Nếu có thể làm cái việc cắt xén trí thức ra làm nhiều phần thì người
ta thấy rằng một phần bị nỗi niềm cô đơn da diết làm mòn góc cạnh, một phần tê
liệt vì sự suy luận độc lập đã bị huyễn tượng của một niềm tin thần thánh hoá dối
gạt loại trừ và phần cuối cùng – có nên nói chăng? – chìm sâu trong ý thức tự tồn.
Thản hoặc, có
những phút giây đau xót quá người ta vùng dậy, chửi đổng vào thực tại. Nhưng chế
độ độc tài vốn không chấp nhận tiếng xôn xao phản kháng, vốn bắt buộc phải có sự
lặng im chịu đựng hay đầu hàng. Bởi vậy trong vắng lặng hãi hùng, dư âm của lời
nguyền rủa hay tiếng chửi lại chỉ vọng vào tai mình, đầy mỉa mai.
*
*
*
Nghĩ đến những
người cầm đầu chế độ cũ, chúng tôi liên tưởng đến nhà độc tài Kassem đã ngự trị
ở quốc gia Irak một thời. Và đó không phải là đối tượng duy nhất để so sánh.
Chúng ta có
thể nhận thấy ở các nhà độc tài nhiều điểm tương đồng: cảnh cô đơn, sự khinh
rẻ của quần chúng, nhân dân, bệnh chủ quan hết sức trầm trọng và ngày chung cuộc
bi thảm.
Người ta bảo
rằng nhóm độc tài quá cố đã xây những cái hầm đặc biệt mà nóc trần dây hai thước,
tường vách dày một thước bốn mươi. Một sự kiện nhiều ý nghĩa vì nói lên được sự
cô đơn càng ngày càng sâu xa của bọn độc tài.
Họ ngờ vực tất
cả và chỉ tin ở chính họ.
Và họ sống càng
ngày càng thu mình lại trong những công trình phòng ngự vật chất; họ chỉ lo
bom đạn, không biết sợ dư luận búa rìu, chỉ bám vào một cái ghế, một dinh lũy, không biết sợ mất chân đứng trong lòng người và trong
thực tế khách quan.
Cho đến một
lúc nào họ bỗng trông thấy sự thật thì đây cũng là lúc họ chợt nhận ra rằng
không có công sự, sào huyệt nào kiên cố tuyệt đối cả và thực tại đã xuất hiện
trước mắt họ dưới hình thức lưỡi dao hay họng súng Cách mạng.
Ngày tàn của
kẻ độc tài phần nhiều bi thảm là vậy, dù họ
ở Đại-Hàn, I-Rắc, Việt-Nam hay bất cứ nơi nào.
Tên
“Ngô Đình Diệm” bị liệt kê trong Danh
sách 100 Bạo chúa trong Lịch sử nhân loại
“Tyrants,
Histrory’s 100 Most Evil Despots & Dictators”, Niguel Cawthorn, Arcturus
Publishing (September 23, 2004)
* * *
Gẫm cho cùng
không phải một con người cầm quyền nào hễ muốn độc tài là bỗng dưng có thể trở
nên kẻ độc tài dễ dàng.
Về chế đô độc
tài Staline, Djilas đã viết: “…Ở đây trong một phạm vi rộng hơn, chính thức
hơn, sự thần thánh hoá con người Staline lộ liễu hơn và trực tiếp hơn. Bây giờ,
tôi có thể nói rằng sự thần thánh hoá ít ra cũng là do những kẻ tả hữu của Staline
và bộ máy thư lại của Nga-Xô vốn cần một lãnh tụ như thế, đã góp sức xây dựng
nên. Trở nên một vị thánh thần, Staline đầy quyền uy đến nỗi dần dần ông ta
không còn lưu ý đến những đổi thay trong các nhu cầu và nguyện vọng của những
người đã ca ngợi ông. Khi con người nhỏ thấp, dị dợm ấy đi ngang qua các cung
điện huy hoàng, tráng lệ, người ta lui ra hai bên, người ta nhìn theo với những
đôi mắt kính phục và hớn hở và những kẻ cận thần thì lắng tai chờ đón những lời
lẽ nhỏ nhặt của ông …”
Chúng tôi thấy
rằng, do bản chất của họ, những người cầm đầu chế độ cũ đã tự “phong thần”
cho họ rồi. Nhưng chúng ta – hay một phần đáng kể trong chúng ta – đã thần
thánh hoá họ. Chính vì những người chung quanh đã thần thánh hoá kẻ độc tài đến
độ mà cuối cùng y cũng tưởng y là linh thiêng thật.
Hàng rào quần thần xu nịnh suy tôn y mỗi ngày mỗi cao hơn, trong khi
người dân mỗi ngày mỗi cúi đầu, khom lưng
xuống; mãi đến lúc người dân muốn ngóc đầu lên, đứng thẳng dậy thì đã không được
nữa rồi.
*
Vấn đề của
chúng ta không phải là triền miên ngắm nhìn những xác chết - của chế độ và con
người độc tài – mà là rút kinh nghiệm lịch sử để suy gẫm và hành động trong những
ngày mới.
Có lẽ ta nên
để mặc thần Phục Hận đeo đuổi vong hồn nhà độc tài quá cố, lặp lại câu hỏi của
lão Cain: “Mầy đã làm gì anh em của mầy?”
Mà ta
nên nghiền ngẫm chân lý nầy để đấu tranh xây dựng một chế độ chân chính Dân chủ
và thực sự Tự do: “Một dân tộc thế nào thì có một chính quyền thế ấy.”
Nói khác đi,
nếu chúng ta không muốn độc tài, không đớn hèn thụ động thoả hiệp, đầu hàng,
thì không bao giờ có được chế độ độc tài. Nếu có chế độ độc tài – như đã xảy
ra trong chín năm đau buồn – thì chính chúng ta bất cứ ai cũng đều có một
phần trách nhiệm không nhỏ.
TIỂU DÂN
(Trích Bán Nguyệt san BÁCH
KHOA [trang 1] số 165 Ngày 15-11-1963 – Sài Gòn)
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết